Mục Lục Quyển Chung.
Phần Thứ Nhất.
Phần Thứ Hai.
Phần thứ Ba.

 
.
NHỮNG ĐOÁ HOA THIỀN
Dịch gỉa: Dương Đình Hỷ
Phước Quế Publications, Arlington, USA 2003
Mục Lục.
Quyển Thượng.
Quyển Trung.
Quyển Hạ.
Quyển Chung.
NHỮNG ĐOÁ HOA THIỀN
禪 之 花
QUYỂN CHUNG 

1750.- Thấy  núi  xanh  đi.

Đạo Nguyên thượng đường nói :
-Khi thấy núi xanh thường đi, ai biết trong đêm đá trắng sanh con.
Nói rồi xuống tòa giảng.
(Đạo Nguyên Ngữ Lục)

Nguyên câu nói này là của Phù Dung Đạo Giai trong Phổ Đăng Lục : Núi Xanh thường đi, ban đêm thạch nữ sanh con. Trong tắc này Đạo Nguyên đổi thành đá trắng. Trong thế giới tuyệt đối , núi xanh và chúng ta là một, siêu việt hết tất cả tư lượng.

1751.- Ca  Diếp  đạp  bùn.

Sư thượng đường kể :
-Xưa, khi ngài Ca Diếp đạp bùn để xây tường, một sa di hỏi :
-Tôn giả, sao lại làm việc này ?
-Nếu tôi không làm thì ai làm cho tôi ?
Đạo Nguyên thêm :
-Tâm như cái quạt trong tháng 12, thân như đám mây trong hang lạnh. Nếu hiểu được ý “tôi làm” trong câu nói của tôn giả thì không có nhị kiến ta người. Hành vi của tôn giả như bức tường sắt, sừng sững khiến người khó thấy.
(Đạo Nguyên Ngữ Lục)

Do công án này có thể thấy Thiền tông rất đề cao lao động. Bách Trượng cũng có nói : “Một ngày không làm, một ngày không ăn”.

1752.- Phật  tánh.

Sư thượng đường nói :
-Tôi nhớ có một ông tăng hỏi Triệu Châu như sau :
-Thế giới chưa có, tánh này đã có. Thế giới diệt rồi, tánh này không diệt. Tánh bất hoại này là gì ?
Triệu Châu đáp :
-Tứ đại, ngũ uẩn.
-Vẫn bị hoại, cái gì không hoại ?
-Tứ đại, ngũ uẩn.
Đạo Nguyên nói :
-Triệu Châu cổ Phật chỉ biết nghiêm khắc, nhưng chẳng khoan dung, còn Vĩnh Bình tôi sẽ nói : “Nước sâu thuyền cao, bùn nhiều Phật lớn”.
(Đạo Nguyên Ngữ Lục)

Tuy hình thể vô thường, theo thời gian mà tiêu diệt, nhưng Phật tánh trong chúng ta thì bất diệt.

1753.- Ngày  giỗ  Như  Tĩnh.

Ngày giỗ Như Tĩnh, Đạo Nguyên thượng đường nói :
-Tôi đến Trung Quốc vào đời Tống, theo Như Tĩnh học Phật pháp như người tới Hàm Đan học đi đứng, chỉ học được mắt ngang, mũi dọc. Chớ nói Như Tĩnh dấu người học mà là Vĩnh Bình tôi lừa Như Tĩnh.
(Đạo Nguyên Ngữ Lục)

Ở đây Đạo Nguyên đề cập đến chuyện trong Thu Thủy Thiên (một thiên trong Nam Hoa Kinh của Trang Tử) kể rằng người ở Hàm Đan (kinh đô nước Triệu đời chiến quốc, nay thuộc tỉnh Hà Bắc) đi đứng rất tao nhã, lịch sự. Người ở các nơi đến học tập, kết quả là chưa học được cách đi đứng mới mà đã quên cả cách đi đứng cũ, phải bò mà về xứ. Đạo Nguyên đưa ra tỷ dụ này để chỉ rằng ông theo Như Tĩnh, Phật pháp chưa học được tốt mà những gì tu học lúc trước đều đã quên cả.

1754.- Rửa  bát  quét  nhà.

Một ông tăng mới vào thiền viện hỏi Triệu Châu :
-Con mới vào thiền viện, xin thầy đặc biệt chỉ thị.
-Ông đã ăn sáng chưa ?
-Dạ ! Đã ăn rồi .
-Vậy sao ? Hãy đi rửa bát đi.
-Đã rửa sạch sẽ rồi.
-Vậy đi quét nhà đi.
Ông tăng lộ vẻ bất mãn :
-Chẳng lẽ ngoài rửa bát quét nhà ra thầy không còn thiền pháp nào sao ?
-Ngoài rửa bát quét nhà ra, tôi chẳng còn biết thiền pháp nào nữa.
(Tinh Vân Thiền Thoại)

Thiền không lìa sinh hoạt. Mặc áo, ăn cơm là thiền, bổ củi, xách nước là thiền. Một người không lo sinh hoạt cho tốt : bát không rửa, nhà không quét thì làm sao giải quyết được vấn đề sanh tử giải thoát ? (Xem thêm công án 1073)

1755.- Cá  nhỏ  nuốt  cá  lớn.

Đạo Nguyên thượng đường nêu công án một ông tăng hỏi Nham Đầu :
-Buồm cũ chưa treo thì thế nào ?
-Cá nhỏ nuốt cá lớn.
Nếu các ông muốn biết ý nghĩa của công án này thì hãy nghe bài kệ của Vĩnh Bình tôi :
小 魚 吞 大 魚
Tiểu ngư thôn đại ngư
和 尚 讀 儒 書
Hòa thượng độc nho thư
透 出 佛 魔 網
Thấu xuất Phật ma cương
法 塵 也 掃 除
Pháp trần dã tảo trừ.

Cá nhỏ nuốt cá lớn
Hòa thượng đọc sách Nho
Ra khỏi lưới ma, Phật
Là sạch hết bụi nhơ.
(Đạo Nguyên Ngữ Lục)

Đạo Nguyên nêu công án này để thuyết minh chân lý vượt lên, Nho, Phật, ngay cả Phật cũng không chấp.

1756.- Chưa  đủ.

Đạo Nguyên thượng đường nói :
-Ngày nay trong chư vân thủy huynh đệ có ai ngộ không ?
-Có ông tăng bước ra lạy.
-Có loại người này nhưng vẫn chưa đủ.
-Chưa đủ ở chỗ nào ?
-Ông không biết sao ? Là không tin đạo. Một người chân chính ngộ đạo, tâm không phụ người, mặt không sắc thẹn.
(Đạo Nguyên Ngữ Lục)

Tin đạo và thấy đạo đồng nghĩa. Không tin đạo thì không thấy được đạo lý.

1757.- Đông  Ấn  quốc  vương.

Đạo Nguyên thượng đường nói :
-Đông Ấn quốc vương mời tôn giả Bát Nhã Đa La thọ trai. Vương hỏi :
-Mọi người đều tụng kinh, thầy vì sao không tụng ?
-Bần đạo thở ra không theo chúng duyên, hít vào không ở ấm giới, thường chuyển trăm ngàn vạn ức quyển kinh.
Ai có thể nói ra đạo lý ảo diệu của tôn giả ?
(Đạo Nguyên Ngữ Lục)

Đạo Nguyên nêu công án này để thuyết minh tụng kinh chân chính là lãnh hội đạo lý tự nhiên của trời đất.

1758.- Phật  Pháp.

Đạo Nguyên thượng đường nói :
-Bỗng nghe 2 tiếng Phật pháp làm bẩn cả tai tôi, các ông chưa tới Pháp đường đã bị ăn 30 gậy rồi. Tuy là vậy, sư núi này, hôm nay cũng vì các ông mà tận tâm nói pháp.
Nói rồi Đạo nguyên hét lên một tiếng, xuống tòa giảng.
(Đạo Nguyên Ngữ Lục)

Phật pháp là chân lý tối thượng, nếu lấy đó làm đối tượng chấp trước thì chân lý không còn là chân lý nữa.

1759.- Không  từ  ngoài  tới.

Đạo Nguyên thượng đường nói :
-Không từ ngoài tới, không từ trong ra, đối mặt chỉ vẫy tay một cái mọi việc đều được giải quyết, đâu cần nhọc công truy vấn. Đó chính là trí tuệ Bát Nhã vậy.
(Đạo Nguyên Ngữ Lục)

Đây là Đạo Nguyên giảng về Phật tánh.

1760.- 500  vị  A  La  Hán.

500 vị A La Hán cùng tu với Đức Phật. Các vị này đều chứng ngũ thông, chỉ còn Lậu Tận Thông là chưa chứng thôi. Các vị này dùng trí thần thông mà quán sát chính mình thì thấy trong quá khứ hoặc giết cha, giết mẹ, giết A La Hán, phá hòa hợp tăng v . v . toàn là những đại tội. Dùng Túc Mạng thông, họ thấy kiếp này phạm tội gì, kiếp kia phạm tội gì, tội nghiệp vô lượng, vô biên. Lòng đầy mặc cảm tội lỗi, họ rất sợ hãi, cùng rủ nhau đến bạch Phật :
-Thế Tôn ! Ngài giảng rất nhiều pháp, nhưng chúng con vẫn chưa đạt được cứu cánh. Tại sao chúng con tự mình quán sát những nhân duyên trong quá khứ, nội tâm không siêu việt được mà còn phát sinh ra những cảm giác tội lỗi, sợ hãi ?
Lúc đó Văn Thù Sư Lợi đang ngồi bên Phật bèn đứng dậy, dùng kiếm  trí tuệ đến bên Phật uy hiếp. Thế Tôn nói :
-Được rồi ! hãy ngưng lại. Diễn đến đây là được rồi ! Các ông vừa thấy Văn Thù định giết ta, cũng như các ông trong quá khứ đã giết cha, hại mẹ. tất cả đều đã là quá khứ rồi. Dù là trăm ngàn năm hay vài giây thôi, quá khứ vẫn là quá khứ. Khi tâm niệm khởi, tâm này có thật không ? Có thể nắm giữ không ? Không. Tâm này là hư ảo, không thật, không nắm được, có gì mà phải sợ ?
(Công Án Thiền Cơ)

Những ai tu đến Đệ tứ thiền đều có Ngũ thần  thông, nhưng muốn đạt tới Lậu Tận thông thì phải tu được Ngã không và Pháp không. Lúc đó tất cả mọi phiền não do nội tâm, ngoại cảnh đều không làm lay động được tâm như như bất động này. Tuy những gì ta tưởng, ta thấy đều là hư ảo nhưng những tập khí khiến chúng ta vẫn cứ phiền não, cứ theo nghiệp duyên mà lưu chuyển. cho nên lý giải là một chuyện, tu chứng lại là một chuyện khác.

1761.- Bài  kệ  của Vân  Cái  Trí  Bản :

一 年 春 盡 一 年 春
Nhất niên xuân tận nhất niên xuân
野 草 山 花 幾 度 新
Dã thảo sơn hoa cơ độ tân
天 曉 不 因 鐘 鼓 動
Thiên hiểu bất nhân chung cổ động
月 明 非 爲 夜 行 人
Nguyệt minh phi vi dạ hành nhân.

Một năm xuân hết một năm xuân
Cỏ hoang, hoa núi nở mấy lần
Trời sáng chẳng do chuông, trống đánh
Trăng tỏ đâu vì dạ hành nhân.
(Thiền Thị Kiếm Nhẫn Đích Sự)

Trời sáng là trời sáng không do chuông, trống đánh mà tối sớm hay muộn, trăng soi vằng vặc chẳng liên quan gì đến người đi đêm. Nhưng vì chúng sanh điên đảo, nhận rằng thời gian và không gian vì mình mà chuyển động, cứ lo thủ, xả cả đời. Đó chính là căn nguyên của phiền não.

1762.- Bài  kệ  của  Tuyết  Đậu  Trùng  Hiển :

牛 頭 峰 頂 鎖 重 雲
Ngưu đầu phong đỉnh tỏa trùng vân
獨 坐 寥 寥 寄 此 身
Độc tọa liêu liêu ký thử thân
百 鳥 不 來 春 又 去
Bách điểu bất lai xuân hựu khứ
不 知 誰 是 到 庵 人
Bất tri thùy thị đáo am nhân

Mây phủ Ngưu Đầu đỉnh
Vắng ngắt một mình ngồi
Chim bay rồi, xuân tận
Người nào tới am chơi ?
(Thiền Môn Khai Ngộ Thi)

Tuyết Đậu nhắc tới công án Tứ tổ tới thăm Pháp Dung. 
(Xem công án 1082)

1763.- Bài  kệ  của  Phật  Tâm  Bổn  Tài :

草 鞋 頭 戴 與 誰 論
Thảo hài đầu đới dữ thùy luận
四 海 無 風 浪 自 平
Tứ hải vô phong lãng tự bình
解 道 曲 終 人 不 知
Giải đạo khúc chung nhân bất tri
江 頭 贏 得 數 峰 青
Giang đầu doanh đắc sổ phong thanh.
 

Dép cỏ đội đầu cùng ai luận ?
Bốn biển không gió sóng bình an.
Hết câu, hiểu đạo người chẳng biết.
Đầu sông xem thấy vài non xanh.
(Thiền Môn Khai Ngộ Thi)

Phật Tâm Bổn Tài nhắc đến công án Nam Tuyền chém mèo. (Xem công án 563)

1764.- Bài  kệ  của Hoàng  Long  Huệ  Nam :
 

盧 陵 米 价 逐 年 新
Lô Lăng mễ giá trục niên tân
道 聽 虛 傳 未 必 真
Đạo thính hư truyền vị tất chân
大 意 不 須 歧 路 問
Đại ý bất tu kỳ lộ vấn
高 低 宜 見 本 來 人
Cao đê nghi kiến bản lai nhân.

Giá gạo Lô lăng mỗi năm thay.
Lý đạo được nghe chửa chắc ngay
Đại ý chẳng nên cặn kẽ hỏi
Thấp cao căn cứ mặt xưa nay.
(Thiền Môn Khai Ngộ Thi)

Hoàng Long nhắc lại công án “Giá gạo ở Lô Lăng.”
(Xem công án 772)

1765.- Vô  minh  và  Phật  tánh.

Hòa thượng Thần Hội nói :
-Vô minh và Phật tánh đều là tự nhiên mà sanh. Vô minh dựa vào Phật tánh; Phật tánh dựa vào Vô minh; cả 2 dựa vào nhau, có thì cùng có. Giác rồi là Phật tánh, không giác là vô minh.
(Thiền Ngộ Dữ Thực Hiện)

Lý tánh và dục vọng, chúng ta gọi chung là Phật tánh và phiền não. Nếu chúng ta không tỉnh giác thì không thể tự do tự tại làm chủ được chính mình. Chúng ta sẽ trở thành con ngựa lỏng cương, túng dục vô độ bị vô minh trói buộc, không thể tự chế.

1766.- Phàm  phu và đạo nhân.

Thiền sư Hoàng Bá nói :
-Phàm phu giữ cảnh, đạo nhân giữ tâm.
(Thiền Ngộ Dữ Thực Hiện)

Nếu con người không tự chủ được chính mình thỉ dễ bị hoàn cảnh chi phối.

1767.- Tâm  bình  thường.

Đời Đường, một đệ tử hỏi Cảnh Sầm :
-Tâm bình thường là sao ?
-Muốn ngủ thì ngủ, muốn ngồi thì ngồi.
-Con không hiểu.
-Nóng tìm chỗ mát, lạnh thì gần lửa.
(Thiền Ngộ Dữ Thực Hiện)

Cảnh Sầm đã giảng rất rõ đói ăn mệt ngủ, nhưng người thường ăn chẳng lo ăn, mệt chẳng lo ngủ, chỉ nghĩ chuyện đâu đâu.

1768.- Phật  Đại Thông Trí Thắng.

Một ông tăng hỏi Sùng Huệ :
-Phật Đại Thông Trí Thắng là sao ?
-Từ vô lượng kiếp không bị ngưng trệ, chẳng phải là Phật Đại Thông Trí Thắng thì là ai ?
(Thiền Ngộ Dữ Thực Hiện)

Phật Đại Thông Trí Thắng là người giác ngộ, có thể khế hợp với tất cả, nhưng không nắm giữ gì cả.
(Xem công án 193)

1769.- Tiếc  thay  một  chén  trà.

Một ông tăng sau khi xem công án đạp đổ tịnh bình (Xem công án 210) khi bưng trà cho sư phụ không biết cố ý hay lỡ tay làm rơi vỡ chén trà. Sư phụ bảo :
-Tiếc thay một chén trà ! (Xem công án  324)
(Nhất Chuyển Ngữ Thiền)

Ý của thiền sư là ông vừa đánh vỡ một chén trà, thật là đáng tiếc. Nếu ông là người có năng lực thì như trong tay áo có nắm một cái chùy, không cần phải lộ cái chùy ra ngoài cho người khác thấy. Làm việc chỉ cần tận lực mà làm, cũng là vô tâm mà làm không cần đả động đến tâm người khác. Hơn nữa, thiền trọng sự sáng tạo chứ không thích mô phỏng.

1770.- Nghe  lời  chỉ  trích  nên  hoan  hỉ.

Có một ông tăng bảo thiền sư Linh Mặc :
-Trong đám đệ tử của thầy có một ông tăng thường nói xấu thầy và loan truyền những lời không tốt, thầy nên khai trừ hắn.
-Dù ông ta có phao ngôn khắp nơi về tôi thì sao chứ ? Huống hồ ông ta là đệ tử của tôi. Cứ để ông ta nói chán thì thôi. Ông ta chỉ trích chỉ là muốn tôi thành một vị thầy tốt.
(Nhất Chuyển Ngữ Thiền)

1771.- Thương  Na  Hòa  Tu.

Thương Na Hòa Tu là tổ thứ 3 của Thiền tông Ấn Độ. Ông hỏi A Nan :
-Tự tánh là cái gì mà có thể sanh ra vạn pháp ?
A Nan chỉ vào cà sa của ông. Ông không hiểu, lập lại câu hỏi. A Nan nắm lấy chéo áo của ông giật mạnh một cái. Thương Na Hòa Tu hoát nhiên đại ngộ.
(Zen Light)

Thương Na Hòa Tu hỏi A Nan về tự tánh, cái bất sinh bất diệt, cái tuyệt đối –mặt trăng. Ông muốn A Nan chỉ cho ông cái bí mật của vũ trụ, cái chất keo dính mọi vật lại. Ông thử thách A Nan xem A Nan có thể chỉ cho ông cái không thể chỉ ? hoặc thực tình ông mong mỏi cái mà mọi người mọi lứa tuổi, mọi thời đại muốn biết, những câu nói cuối của kịch bản Ghost của Henrik Ibsen :
-Mẹ ơi  ! Hãy cho con mặt trời. 
Sau khi nói xong lời này đứa con trở nên điên luôn, không thể chữa được nữa. Cũng như con thiêu thân bay vòng quanh ngọn lửa,  chỉ có một cách được nó là mất nó vĩnh viễn.
Thi nhân Lý Bạch đời Đường chết đuối vì cố ôm bóng trăng được phản chiếu trên mặt hồ. Hãy cho tôi ngọn lửa, cho tôi sự bí mật của vô sanh, cho tôi mặt trời, cho tôi mặt trăng.
A Nan không điên. Ông biết dục vọng của con thiêu thân sẽ khiến nó lao vào lửa và chết. Ông biết muốn với tới mặt trăng chỉ đưa tới rồ dại. Do đó ông dùng ngón tay trỏ mặt trăng. Ngón tay là ngón tay, mặt trăng là mặt trăng, đừng lầm ngón tay với mặt trăng. Hạt bụi nhỏ trên áo cà sa Thương Na Hòa Tu là mặt trăng, là tự tánh. Thương Na Hòa Tu phải tự mình thấy. Ông không thấy do đó A Nan kéo áo ông để nhắc nhở. Cuối cùng thì Thương Na Hòa Tu đã ngộ.

1772.- Cưu  Ma  Đa  La.

Cưu Ma Đa La là tổ thứ 19 của Thiền tông Ấn Độ. Có một lần Già Gia Xá Đa (tổ thứ 18) bảo ông :
-Lúc trước Thế Tôn có phó chúc rằng : “Sau khi tôi diệt độ một ngàn năm, một đại sĩ xuất hiện ở nước Nguyệt Thị sẽ đảm đương chánh giáo mà quảng độ quần sanh.’ Nay ông gặp tôi thật là may mắn.
Nghe lời này Cưu Ma Đa La liền đắc túc mạng minh (rõ được các kiếp trước).
Keizan có bài kệ :
Trong quá khứ ông ta đã bỏ hết xác này đến xác khác
Giờ đây, ông ta lại gập lại người bạn cũ.
(Zen Light)

Công án này đề cập đến ánh sáng. Người bạn cũ trong bài kệ của Keizan là ánh sáng. Cái ánh sáng này chiếu khắp mọi vật, mọi thời. Sau này Bàn Khuê gọi nó là Tâm bất sinh. Phật trong tiếng Phạn có nghĩa là người tỉnh thức, là người giác ngộ. Phật là người sống trong ánh sáng nội tâm ấy. Tỉnh thức là hiện diện trong ánh sáng nội tâm, không để những khái niệm, tư tưởng, hình ảnh, hoặc sự chồng chất các sự kiện làm mờ đi cái ánh sáng ấy.

1773.- Leo  núi.

Thiền sư Động Sơn trách Vân Cư :
-Ông không ở thiền đường mà dụng công, lại chạy đi đâu ?
-Con đi leo núi.
-Leo núi nào ?
-Chẳng có ngọn nào để con leo.
-Ý ông là đã leo hết mọi núi rồi ?
-Cũng không phải như vậy.
-Vậy là ông đã tìm được đường ra.
-Không có đường ra.
-Nếu không có đường ra sao ông có thể gập tôi ở đây ?
-Nếu có đường ra vậy thầy và con đã cách nhau một ngọn núi !
Không lâu, Động Sơn lại hỏi ;
-Ông đi đâu ?
-Con đi leo núi.
-Có leo tới đỉnh không ?
-Có.
-Trên đỉnh có người không ?
-Không có.
-Có thể thấy ông vốn không leo tới đỉnh.
-Nếu không leo tới đỉnh sao con biết đỉnh núi không có người ?
-Vì sao ông không ở lại ?
-Không phải là con không muốn ở, nhưng người ở đó không cho.
Động Sơn cười ha hả :
-Tôi đã sớm biết ông leo qua núi đó rồi.
(Thiền Vị)

Tu đạo giống như leo núi, quá trình gian khổ chỉ tự mình biết. Người đã leo tới đỉnh cảm nhận cảnh trí ở đó như thế nào, chỉ người ấy biết thôi.

1774.- Cháo  và  trà.

Thiền sư Triệu Châu rất chú trọng đến sinh hoạt, ông biểu lộ thiền phong trong mọi sinh hoạt.
Có ông tăng đến hỏi :
-Con mới vào nghiệp lâm, xin thầy khai thị.
-Ông ăn cháo chưa ?
-Dạ ! đã ăn rồi.
-Vậy đi rửa bát đi.
Ông tăng này do đó khai ngộ.
Một ông tăng khác hỏi :
-Con mới vào nghiệp lâm, xin thầy khai thị.
-Ông đến đây lâu chưa ?
-Dạ ! vừa mới đến sáng nay.
-Đã uống trà chưa ?
-Dạ, đã uống rồi.
-Ông hãy đến khách đường báo danh.
(Thiền Vị)

Cái gọi là Phật pháp, thiền tâm đều không lìa sinh hoạt. Ăn cho hợp vị là thiền, ngủ cho no giấc là thiền. Nếu lìa sinh hoạt, Phật  pháp còn có ích lợi gì ?

1775.- Phất  trần  nói  pháp.

 Động Sơn Lương Giới khi còn tham học với Quy Sơn Linh Hựu, có lần hỏi Quy Sơn :
-Lão sư ! Con không hiểu công án “Vô tình thuyết pháp” của Nam Dương Huệ Trung. Hữu tình thuyết pháp có thể hiểu được, còn vô tình làm sao thuyết pháp, chẳng hạn cái bàn, cái ghế  thuyết pháp làm sao ? Xin thầy phương tiện chỉ thị.
Quy Sơn giơ phất trần lên, hỏi :
-Cái này, ông hiểu không?
-Dạ, không hiểu. Xin thầy từ bi chỉ thị.
-Miệng cha mẹ tôi sanh ra không phải để bảo cái bí mật này cho ông.
Động Sơn không cho là phải :
-Phật pháp cũng có bí mật sao ?
Quy Sơn lại giơ phất trần lên :
-Cái này là bí mật.
-Nếu thầy không muốn bảo cho con biết cái bí mật ấy, con có thể hỏi bạn đồng tham của thầy không ?
-Ở Lễ Lăng (huyện Du) có một động đá trong đó có một vị Vân Nham đạo nhân, nếu ông tìm gập được thì nhất định ông ta sẽ bảo cho ông biết.
-Không biết ông ta là người thế nào ?
-Ông ta từng tham với tôi.
-Ông ta học được gì ở thầy ?
-Ông ta hỏi tôi làm sao để chặt đứt phiền não ?
-Thầy trả lời sao ?
-Tôi bảo ông cứ làm theo ý tôi là được.
-Ông ta có làm theo ý thầy không ?
-Ông ta rất theo ý tôi.Ông ta hiểu vô tình làm sao thuyết pháp. Ông coi. Phất trần đang thuyết pháp đấy thôi.
Động sơn cuối cùng đại ngộ.
(Thiền Vị)

Chỉ cần lắng nghe, Phật pháp ở khắp mọi nơi, không đâu không có.

1776.- Buông  đao  đồ  tể.

Mộng ước của Ương Quật Ma La là trở thành quốc vương. Một tà sư ngoại đạo bảo ông chỉ cần có một ngàn ngón tay cái đủ để làm một sâu chuỗi thì ước muốn sẽ thành sự thật. Do đó ông đi khắp nơi để thu thập, cuối cùng đã được 999 ngón. Ông định giết luôn cả mẹ để hoàn thành ước nguyện. Đức Phật đang ở núi Linh sơn quán chiếu thấy vậy, muốn độ ông. Ngài bèn hóa thành một vị sa di xuất hiện trước mặt Ương Quật Ma La. Ma La vội đuổi theo để giết. Vị tỳ kheo cứ chậm chậm mà đi nhưng Ma La cố hết sức đuổi theo mà vẫn không kịp. Ông hét lên :
-Ngừng lại !
Phật tổ bảo ông :
-Tôi ngừng đã từ lâu rồi, sao ông còn chưa chịu ngừng ?
Ương Quật Ma La đột nhiên giác ngộ, vội bỏ đao xuống, xin quy y Phật.
(Nhất Nhật Nhất Thiền)

Làm sao để tâm phiền não ngừng lại ? Chúng ta phải có thời gian tư khảo, tham ngộ để tâm được an định.

1777.- Đối  người  thân  thiết,  đối  mình  nghiêm  khắc.

Câu này thường gập trong các bộ ngữ lục, có ý là đối với người mình phải đem hết lòng dâng hiến còn đối với mình phải thật nghiêm khắc, nỗ lực bài trừ ngã chấp. Sơn Bản Huyền Phong, năm 19 tuổi mắt bị bệnh cơ hồ gần mù. Ông lưu lạc tứ xứ. Một hôm vừa bệnh, vừa đói ngã gục trước Tuyết Hề Tự, được trụ trì là Sơn Bản Thái Huyền cứu sống. trụ trì hỏi ông :
-Sau này ông định làm gì ?
-Con muốn làm hòa thượng.
-Thật vậy sao ?
-Dạ ! Nhưng con là một gã mù dở, không đọc kinh được, có thể làm hòa thượng được không ?
-Tuy ông không thành một ông tăng phổ thông, nhưng nếu quyết tâm có thể thành một hòa thượng chân chính.
(Nhất Chuyển Ngữ Thiền)

Quả nhiên về sau Huyền Phong trở thành một vị thiền sư trứ danh cận đại.

1778.- Bước  bước  là  đạo  trường.

Hòa thượng Từ Hải ở Kim Các Tự, trên đường gập một vị giáo sư. Hai người nói chuyện rất hợp ý. Khi chia tay hòa thượng mời giáo sư có rảnh thì đến vãn cảnh chùa. Giáo sư rất vui, nghĩ bụng hòa thượng đã mời chắc phải có gì đặc biệt cho mình coi. Được một ngày nghỉ, giáo sư bèn đến chùa. Tới nơi không lâu thì đến bữa ngọ. Giáo sư nghĩ chắc phải có bữa cơm chay đặc biệt, nào ngờ khi đem ra cũng chỉ có đậu phụ và tương. Sau bữa cơm, giáo sư ngỏ ý muốn bàn luận về thiền. Hòa thượng bảo :
-Ông muốn tôi nói về thiền sự là không được. Tôi chỉ là người được chùa giao cho việc quét dọn. Quét dọn là việc tôi rành nhất. Được để tôi kể ông nghe.
Nói rồi, hòa thượng dẫn giáo sư đi khắp nơi từ nhà kho, nhà bếp, nhà tắm, nhà vệ sinh, sân chùa, v . v .  Tới mỗi nơi đều cắt nghĩa phải làm gì, dùng chổi như thế nào. Giáo sư rất kinh ngạc :
-Cám ơn thầy đã tận tình tiếp đãi.
Nói rồi chuồn mất.
(Nhất Chuyển Ngữ Thiền)

Quét nhà chỉ là một việc, còn nhiều việc khác nữa chúng ta cho là vô ý nghĩa. Nếu chúng ta nhất tâm, nhất ý làm thì đó là một cách ma luyện chính mình, khảo nghiệm thực lực của mình. Nếu bị sai làm một việc mà ta cảm thấy phiền não thì ta phải lấy câu “Bước bước là đạo trường” mà cảnh giác.

1779.- Giữ  giới.-

Trào Minh, thiền sư Phổ Minh có làm Mục Ngưu Đề Tụng (Tụng Tranh chăn trâu) trong đó bài Vị mục (Chưa chăn) như sau :

生 獰 頭 角 趑 咆 哮
Sanh nanh đầu giác tư bào hao
奔 走 溪 山 路 轉 遙
Bôn tẩu khê sơn lộ chuyển dao
一 片 黑 雲 橫 谷 口
Nhất phiến hắc vân hoành cốc khẩu
誰 知 步 步 犯 佳 苗
Thùy tri bộ bộ phạm giai miêu.

Vênh váo đầu sừng miệng hậm hự
Chạy theo khe núi mỗi lúc xa
Một dải mây đen ngang cửa động
Ai hay từng bước dẫm mạ a !

Dã tánh và trí tuệ cùng tồn tại, cũng giống như vàng lẫn trong khoáng chất. Dã tánh là phiền não, trí tuệ là Phật tánh. Muốn lấy vàng thì phải dùng lửa để tinh luyện. Chất khoáng sẽ bị đốt thành than và vàng sẽ được tinh luyện. Phiền não là tối ám dùng sáng để phá tối chứ không thể dùng tối để phá sáng. Muốn dùng sáng để phá tối thì theo Phổ Minh đầu tiên là phải dùng giới luật nên ông làm bài Sơ Điều (Mới chăn) như sau :

我 有 芒 繩 驀 鼻 穿
Ngã hữu mang thằng mạch tỵ xuyên
一 迴 奔 競 痛 加 鞭
Nhất hồi bôn cạnh thống gia tiên
從 來 劣 性 難 調 制
Tòng lai liệt tánh nan điều chế
猶 得 山 童 盡 力 牽
Do đắc sơn đồng tận lực khiên.

Ta có giây thừng xỏ mũi ngươi
Kéo về chẳng được liền dùng roi
Từ đây nếu vẫn còn khó dậy
Mục đồng đành phải tận sức lôi.
(Thiền Ngộ Dữ Thực Hiện)

Dây thừng và roi là chỉ giới luật. Không giữ giới thì không thể chế ngự được phiền não của nội tại, dễ dàng đánh mất chính mình.
 

1780.- Đột  phá  giới  luật.

Thời Nam, Bắc triều, Trúc đạo Sinh là một vị cao tăng mẫn tiệp. Một lần tống Văn Đế thiết trai cúng dường chư tăng, nhưng vì sửa soạn quá lâu khi dọn bữa ra thì đã quá ngọ. Chư tăng không dám đụng đũa. Tống văn đế bảo ;
-Chẳng quan hệ, bây giờ mới là chính ngọ.
Chư tăng vẫn không dám dùng bữa. Lúc đó Trúc Đạo Sinh đứng dậy lớn tiếng nói :
-Thanh thiên bạch nhật, thiên tử nói chính ngọ thì là chính ngọ, còn ngờ gì nữa ?
Nói rồi cầm bình bát lên ăn, chúng tăng cũng làm theo.
(Nhất Nhật Nhất Thiền)

Giới luật nhất định phải theo. Nhưng giới luật không phải là cố định mà tùy theo hoàn cảnh, thời gian mà thay đổi, như vậy mới bắt kịp sự tiến triển của xã hội.

1781.- Không  tại  nơi  khác.

Một hôm Động Sơn Lương Giới hỏi Vân Nham :
-Lão sư ! nếu như thầy trăm năm rồi, có người hỏi con phong tư diện mạo thầy, con phải trả lời sao ?
-Tôi không ở chỗ khác.
Động Sơn trầm ngâm, Vân Nham bảo :
-Giới thượng tọa ! Đối với sự tình này ông phải để ý, xử lý thận trọng.
Động Sơn lòng đầy hoài nghi chẳng lẽ hỏi vấn đề này là phạm úy kỵ gì ? Về sau Động Sơn qua cầu, nhìn thấy bóng mình dưới sông đột nhiên tỉnh ngộ, bèn làm bài kệ (Xem công án 1083) Động Sơn về gập Vân Nham vui vẻ thưa :
-Lão sư ! Bất kể lúc nào dù trải qua ngàn vạn kiếp, phong tư diện mạo của thầy con đã biết rồi.
Vân Nham nghiêm trang bảo :
-Lúc đó tôi không ở đó.
Động Sơn lập tức lãnh ngộ, vội nói :
-Không tại lúc đó, không tại chỗ khác.
(Thiền Vị)
Tín ngưỡng chân chính được xây dựng trên nền đá tảng, không bị những lớp sóng thời gian lay chuyển.

1782.- Không  thể  bắt chước.

Thiền sư Lâm Tế sắp viên tịch, chiêu tập đệ tử lại bảo :
-Tôi nhập diệt rồi, các ông không thể để chánh pháp nhãn tạng của tôi bị tiêu diệt.
Đại đệ tử Tam Thánh lập tức biểu lộ quyết tâm :
-Đệ tử chúng con đâu dám để chánh pháp nhãn tạng của thầy bị hủy diệt.
Lâm Tế gật gù :
-Vậy sao ? Giả như về sau có người hỏi Phật pháp của tôi thế nào, các ông trả lời làm sao ?
Tam Thánh bắt chước Lâm Tế hét lớn. Lâm Tế lắc đầu :
-Ai ngờ đâu chánh pháp nhãn tạng của tôi bị hủy diệt bởi con lừa mù này. Thật là đau lòng !
Nói rồi, Lâm Tế đoan tọa tại pháp đường mà  tịch.
Thấy Lâm Tế lìa đời, Tam Thánh rất thương tâm, bảo đại chúng :
-Bình thường lão sư đối với người đến tham học đều hét lên một tiếng, tại sao chúng ta cũng hét mà lại không được ?
Đột nhiên Lâm Tế mở mắt ra nói :
-Tôi ăn các ông không thể no, tôi chết các ông cũng không thế được.
 Chúng đệ tử đều quỳ lạy, Tam Thánh thưa :
-Xin lão sư tha thứ chúng con đã không hiểu rõ giáo huấn của thầy. Xin thầy đừng vội đi, xin hãy chỉ điểm thêm cho chúng con.
Lâm Tế hét lên một tiếng lớn rồi bảo :
-Tôi không để cho các ông bắt chước.
Nói rồi, lần này đi luôn.
(Thiền Vị)

Trí tuệ chân chánh không thể mô phỏng được.

1783.- Đơn  Hà  đốt  Phật.

Một hôm Đơn Hà Thiên Nhiên quải đơn ở một ngôi chùa nhỏ. Lúc đó trời rất lạnh, tuyết rơi bời bời. Đơn Hà lấy pho tượng Phật bằng gỗ đem đốt để sưởi ấm. Củ sát sư của chùa trông thấy, tức giận hét lớn :
-Thật đáng chết ! Sao ông dám đem tượng Phật ra đốt ?
-Tôi đốt để tìm xá lợi.
-Nói bậy không à ! Phật gỗ làm sao có xá lợi ?
-Đúng rồi ! Phật gỗ đương nhiên không có xá lợi, vậy chắc ông không ngại cho tôi xin một pho nữa đốt để sưởi ấm chứ ?
(Thiền Vị)

Tượng Phật là Phật giả, nội tâm mới là Phật thật.

1784.- Ý  nghĩa  bài  kệ  Vô  Môn. 

Trong công án “Tâm bình thường là đạo”, thiền sư Vô Môn có làm bài tụng  sau : (bản chữ Hán xin xem công án 982)
Xuân có trăm hoa, Thu có nguyệt
Hạ có gió mát, Đông tuyết rơi
Nếu không chuyện gì làm bận óc
Thì chính nhân gian buổi đẹp trời.
(Thiền Ngộ Dữ Thực Hiện)

Mọi người dĩ nhiên hiểu và thưởng thức được cái đẹp của hoa Xuân và trăng Thu, nhưng cũng không quên những luồng gió mát của mùa Hè và cảnh đẹp của mùa Đông bao phủ dưới làn tuyết trắng. Nếu chúng ta quá coi trọng thắng bại, được mất thì sẽ đánh mất đi cái lạc thú của đời sống. Nếu chúng ta có thể dùng tâm bình thường mà sinh hoạt thì cuộc sống sẽ tự do tự tại và đầy vui vẻ. Thiền dạy chúng ta khẳng định sinh hoạt, tâm trí sẽ tĩnh lặng và tỉnh giác. Khẳng định sinh hoạt tức là dùng tâm bình thường vậy.

1785.- Có  oán  thù  gì ?

Có một vị thiền tăng tình nguyện chung thân giữ mộ tổ sư Đạt Ma. Đời Đường Đại Tông, tháp này được gọi là Viên Giác Đại Sư Không Quán tháp. Người ta gọi vị thiền tăng đó là tháp chủ. Tương truyền các thiền sinh, trong đời nhất định phải có một lần đến thăm tháp này. Một hôm, thiền sư Lâm Tế cùng mọi người đến thăm tháp. Vì Lâm Tế là truyền nhân  đời thứ 11, tháp chủ trông thấy bèn hỏi :
-Xin hỏi trưởng lão lễ Phật trước hay bái tổ trước ?
-Tôi tới đây không phải để lễ Phật hay bái Tổ.
Tháp chủ bất mãn hỏi :
-Phật và Tổ có oán thù gì với trưởng lão ?
-Vậy Phật và Tổ có ân tình gì với ông ?
Tháp chủ không trả lời được, một lát sau hỏi :
-Vậy phải làm sao ?
-Diệt hết oán thù và ân tình, thể hội Phật pháp bình đẳng thì có thể thấy khuôn mặt xưa nay của Tồ sư.
-Thế nào là Phật pháp bình đẳng ?
Lâm Tế trả lời bằng câu của Tam Tổ Tăng Xán :
-Đạo lớn không khó, chỉ vì chọn lựa thôi.
(Thiền Vị)

Trong tự tánh không có phân biệt.

1786.- Hãy  bỏ  tâm  sân  đi  đã.

Có một vị tướng quân từng lăn lộn nhiều năm ngoài chiến trường. Một hôm ông đến thăm thiền sư Đại Huệ và yêu cầu xuất gia.
-Thiền sư, con nay đã chán hồng trần, xin thầy từ bi xuống tóc cho con, nhận con làm đệ tử.
Đại Huệ từ chối :
-Ông có gia đình, có nhiều tập khí xã hội, chưa thể xuất gia ngay được, hãy từ từ.
Tướng quân vội đáp :
-Thiền sư, hiện giờ cái gì con cũng bỏ xuống được, vợ con, gia đình đều không thành vấn đề. Xin thầy cho con xuất gia.
Đại Huệ lập lại :
-Hãy từ từ.
Tướng quân chưa chịu thôi, một hôm đến chùa thật sớm. Đại Huệ hỏi :
-Sao mới sáng sớm mà ông đã tới lễ Phật vậy ?
Tướng quân bèn ngâm hai câu thơ :
Để dập tắt ngọn lửa
Dậy sớm lễ tôn sư.
Đại Huệ cười :
Sao ông dậy sớm thế ?
Chẳng sợ vợ bỏ ư ?
Tướng quân nổi giận :
-Lão quái này sao dám mạ lỵ người.
Đại Huệ cười ha hả, đọc cho một bài kệ :

輕 輕 一 撥 扇
Khinh khinh nhất bát phiến
性 火 又 燃 燒
Tánh hỏa hựu nhiên thiêu
如 此 暴 躁 氣
Như thử bạo táo khí
怎 算 放 得 下
Chẩm toán phóng đắc hạ.

Nhè nhẹ quạt một cái
Ngọn lửa lại cháy bùng
Tánh tình thô bạo thế
Bỏ xuống được hay chăng ?
(Thiền Vị)

1787.- Phật  Đà  Nan  Đề.

Phật Đà Nan Đề là tổ thứ 8 của Thiền tông Ấn Độ. Khi ông gập tổ thứ 7 là Di Dá Ca, ông nói :
-Tôi đến luận nghĩa với sư.
-Này hiền giả, nếu luận thì chẳng phải là chân lý, chân lý chẳng cần phải luận.
Nghe rồi Phật Đà Nan Đề liễu ngộ cái lý vô sanh.
(Zen Light)

Có một câu chuyện nổi tiếng về một người đến hỏi Phật :
-Bạch Thế Tôn, có linh hồn không ? Linh hồn có vĩnh viễn không ? Khi chết rồi linh hồn sẽ ra sao ? v . v .
Trong một thoại bản Đức Phật im lặng không trả lời.Trong một thoại bản khác Đức Phật kể một câu chuyện : Có một người bị tên độc bắn. Chúng ta nên rút mũi tên ra và lo chữa trị cho người đó hay là hỏi ai bắn ? Vì lý do gì mà bị bắn v . v . Trả lời những câu hỏi này cần nhiều thì giờ, nhưng chúng ta không có thì giờ. Chúng ta đang sống trong tình trạng cấp cứu vì chúng ta đang bị bắn bởi những mũi tên buồn khổ, bệnh tật, chết chóc. Chúng ta phải hành động để giải quyết những vấn đề này ở đây và ngay bây giờ. Những giải thích siêu hình thì lý thú thật nhưng xa vời với thực tại chúng ta đang sống. Thiền là ở đây, ngay bây giờ, ở trong việc rửa bát, quét nhà, cãi lộn giữa vợ chồng, con cái, bạn bè.

1788.- Xà  Dạ  Đa.

Xà Dạ Đa là tổ thứ 20 của Thiền tông Ấn Độ. Một lần tổ thứ 19 là Cưu Ma Đa La bảo ông :
-Mặc dầu ông tin vào ba nghiệp, nhưng ông chưa rõ nghiệp ấy là do vọng mà sanh, vọng lại do thức mà có. Thức lại do bất giác sanh, mà bất giác lại ở nơi tâm. Tâm vốn thanh tịnh, không sanh diệt, không tạo tác, không báo ứng, không hơn kém, êm đềm sáng suốt. Nếu ông tin nhận pháp môn này thì ông cũng giống như chư Phật không khác. Tốt, xấu, hữu vi, vô vi, đều là chiêm bao, mộng ảo.
Nghe được lời này Xà Dạ Đa hiểu được thâm ý và nẩy sanh trí huệ ông đã có từ muôn kiếp.
(Zen Light)

Công án này nêu lên vấn đề nghiệp và công lý. Tại sao có những người hiền lành làm nhiều việc tốt mà vẫn chịu khổ sở, trong khi những kẻ xấu xa, tội lỗi lại được hưởng đời sống vinh hoa, phú quý ? Thực ra nghiệp rất phức tạp. Có những nhân gieo trong đời này có kết quả ngay, nhưng cũng có khi đến các đời sau quả mới hiện thành. Tâm có thể phân làm phàm tâm và chân tâm. Cưu Ma Đa La chỉ cho chúng ta biết chân tâm vắng lặng không có tốt xấu, hữu vi, vô vi, tất cả là mộng ảo. Nghiệp không tồn tại trong chân tâm. Trái lại, phàm tâm có phân biệt tốt xấu, hơn kém, chủ thể, đối tượng. Phàm tâm thấy kẻ xấu sống sung sướng trong khi người tốt lại chịu nhiều đau khổ. Chính cái phàm tâm này tạo nên nghiệp báo ba đời. Phải bỏ xuống hết. Đạo Nguyên nghe Như Tĩnh bảo phải thoát lạc thân tâm liền giác ngộ. Chúng ta phải bỏ xuống mọi khát khao, thực hiện công lý, cũng bỏ xuống sự chán ghét mọi bất công. Bỏ của cải, bỏ tư tưởng, bỏ chấp trước. Bỏ xuống những gì ta nghĩ ta không cần. Những gì ta nghĩ ta cần là vọng, những gì ta nghĩ ta không cần cũng là vọng nốt.

1789.- Ưu   Ba  Cúc  Đa.

Ưu Ba Cúc Đa là tổ thứ 4 của Thiền tông Ấn Độ. Ông theo học Thương Na Hòa Tu ba năm rồi xin xuống tóc. Một lần Thương Na Hòa Tu hỏi ông :
-Ông xuất gia là thân ông xuất gia hay tâm ông  xuất gia ?
-Là thân con xuất gia.
-Diệu pháp của chư Phật có liên quan gì đến thân hay tâm ?
Nghe lời này Ưu Ba Cúc Đa hoát nhiên đại ngộ.
(Zen Light)

Thế đạo luôn phân biệt, chia cách, đa thù và vọng tưởng. Chúng ta đang sống trong thế giới ảo vọng.
Phật đạo từ vạn pháp trở về một, là con đường chữa lành vết thương của thân và tâm. Phật đạo chỉ rằng thân và tâm không phải chỉ là thân hoặc tâm mà là thân tâm. Khi chúng ta giác ngộ (trở về với cái một) và thực hành hạnh bố thí thì tặng phẩm của chúng ta cho người khác là tặng phẩm của cái một. Đó là lý do tại sao Đức Phật nói : “Khi bố thí chân chính thì không có người cho, kẻ nhận chỉ có sự bố thí.”

1790.- Một  hạt  chủng  tử.

Quế Khâm đến tham phỏng Huyền Sa. Huyền sa biết ông nghiên cứu Duy Thức rất thâm, cố ý trỏ một cái ghế, hỏi :
-Ba giới duy tâm, vạn pháp duy thức, cái này ông lý giải ra sao ?
-Nếu nói đến duy thức, duy tâm thì dùng cái nhìn của duy thức, duy tâm mà lý giải là được rồi.
Huyền Sa không cho là phải :
-Đứng trên lập trường đạo lý mà nói thì như vậy nhưng cũng có lúc không có cách chi nhận thức được vũ trụ vạn hữu.
Quế Khâm chỉ một cái bàn hỏi :
-Xin hỏi thầy gọi cái này là cái gì ?
-Cái bàn.
Quế Khâm lắc đầu :
-Thầy không hiểu ba giới duy tâm, vạn pháp duy thức, cái này không chỉ cái bàn. Cái bàn là giả danh, giả tướng.
-Không sai, “cái này” không phải là cái bàn, chân tướng của cái này là gỗ. Gỗ đóng thành bàn gọi là cái bàn, đóng thành ghế gọi là cái ghế. Khuôn mặt xưa nay của cái bàn, cái ghế là gỗ.
Quế Khâm gật đầu. Nhưng Huyền Sa chỉ cái bàn :
-Cái này không phải là cái bàn, không phải là gỗ, là cây lớn trong rừng.
Huyền sa thấy Quế Khâm định mở miệng liền ngăn lại, nói tiếp :
-Cái này cũng không phải là một cây lớn mà là một chủng tử quy tụ các duyên ánh sáng, đất, nước, không khí mà thành cây, thành gỗ, thành bàn, thành ghế. Nói tóm lại là vũ trụ, vạn hữu do nhân duyên tạo thành.
-Vũ trụ vạn hữu là duy thức, duy tâm.
-Ông đã tới đây tham học sao không nói vũ trụ vạn hữu là thiền tâm.
(Thiền Vị)

Trong tâm mỗi người đều có chủng tử thiền tâm, sao không để nó lớn lên và trở thành cây lớn.

1791.- Bất  Như  Mật  Đa.

Bất Như Mật Đa là tổ thứ 26 của Thiền tông Ấn Độ. Khi còn là thái tử, tổ 25 hỏi ông :
-Khi ông xuất gia, ông định làm gì ?
-Khi con xuất gia con chẳng làm gì đặc biệt.
-Ông không làm những việc gì ?
-Con không làm những việc thế tục.
-Vậy ông tính làm gì ?
-Con làm việc Phật.
-Thái tử thiệt là thiên tư mẫn tuệ, ông phải là một vị thánh ứng thế.
Nói rồi cho phép ông xuất gia.
(Zen Light)
 

Có thể làm sáng bản tâm là làm việc Phật. Bản tâm chứa trong mọi vật. Mọi vật đều có bản tâm. Do đó, không có sự khác biệt giữa tu sĩ, cư sĩ, đàn ông đàn bà, cảnh sát, kẻ tù tội , v . v . Bất cứ ta sống duới dạng thức nào cũng là Đạo. Chúng ta có thể tu ở bất cứ đâu. Bất cứ cái gì chúng ta làm cũng là biểu hiện của Đạo. Không cần phải đi đâu, tìm học một cuốn kinh sách gì, chúng ta đang ở trong Đạo, điều phải làm là thực hành.

1792.- Không  thấy  mình.

Có một học tăng đến tham học với Trí Thường. Lúc gập Trí Thường đang cuốc đất, một con rắn trong đám cỏ bỗng bò ra. Trí Thường giơ cuốc bổ xuống.
Học tăng kinh ngạc :
-Từ lâu vẫn mộ danh nơi đây đạo phong từ bi, tới nơi chỉ thấy một gã tục nhân thô lỗ.
-Như ông nói thì ông thô hay tôi thô ?
Học nhân không vui hỏi :
-Thế nào là thô ?
Trí Thường ném cuốc xuống ;
-Thế nào là tế ?
Trí Thường giơ cuốc lên làm bộ chém rắn.
Học tăng không hiểu ý Trí Thường hỏi :
-Thiền sư nói thô tế khiến người ta chẳng hiểu gì cả.
Trí Thường hỏi ngược lại :
-Không nói thô, tế nữa; xin hỏi ông thấy tôi chém rắn ở đâu ?
Học tăng không khách khí đáp :
-Ngay đây.
Trí Thường giáo huấn ông :
-Ngay đây ông không thấy mình, lo xem người khác chén rắn làm gì ?
Học tăng do đó tỉnh ngộ.
(Thiền Vị)

Người ta thường chỉ chăm phê bình người khác mà không lo xét mình.

1793.- Hạc  Lặc  Na.

Hạc Lặc Na là tổ thứ 23 của Thiền tông Ấn Độ. Một lần kia tổ 22 là Ma Na La bảo ông :
-Tôi có pháp bảo quý báu ông phải lắng nghe, tiếp nhận rồi tương lai sẽ giáo hóa cho chúng sanh.
Nghe lời này Hạc Lặc Na tỉnh ngộ.
(Zen Light)

Công án này là nói về pháp bảo. Đức Phật nói:
-Tôi giáo hóa 49 năm mà chưa hề mở mồm nói một điều gì.
Thế là thế nào? Phật đã chẳng dạy Tứ diệu đế, 12 nhân duyên và Bát chánh đạo đó sao ?
Trong cuộc trò truyện  với học trò, Socrates bảo họ mọi thứ đều là tiến trình nhớ lại những gì họ đã có trong họ.
Đức Phật nói :
-Hãy nội quán và các ông sẽ thấy các ông là Phật.
Trong một lần đi thuyết pháp, Đức Phật qua một làng nọ, người làng thưa :
-Có nhiều vị thầy đến làng chúng tôi. Một vị nói thế này, thế này là chân lý. Một vị khác nói ngược lại vị trên,  như vậy, như vậy mới là chân lý. Một vị khác nữa nói khác hẳn hai vị kia và quả quyết chân lý phải như thế này cơ. Lời giảng của vị nào là đúng và làm sao nhận ra thế nào là pháp bảo ?
Và Phật trả lời :
-Hãy nhìn vào trong ông. Ông thấy điều nào tốt cho mình và không hại cho người thì làm. Điều nào không tốt cho mình và cho người thì không làm. Đừng trông vào ai, chỉ nương tựa vào chính mình.
 

1794.- Bát  Nhã  Đa  La.

Bát Nhã Đa La là tổ thứ 27 của Thiền tông Ấn Độ. Một lần tổ 26 là Bất Như Mật Đa hỏi ông :
-Ông còn nhớ chuyện quá khứ không ?
-Con nhớ nhiều kiếp trước đã ở chung với thầy. Thầy có giảng kinh Ma ha Bát Nhã, còn con thì giảng kinh Thậm Thâm Tu Đa La. Việc gặp gỡ ngày nay là do túc duyên lúc trước.
(Zen Light)

Công án này đề cập đến thời gian. Keizan có nói :
-Hôm nay thấy là thấy từ vĩnh cửu, nếu ông nhìn lại vĩnh cửu thì thấy hôm nay. Khi chúng ta đạt đến cảnh giới này thì không có quá khứ, hiện tại, tương lai. Pháp vượt thời gian. Hiện tại chứa cả 3 thời.

1795.- Chân,  giả.

Có lần Đạo Quang hỏi Đại Châu Huệ Hải :
-Thiền sư bình thường dụng công là dùng tâm nào để tu ?
-Lão tăng không có tâm nào để dùng, đạo nào để tu.
-Vậy sao hàng ngày thiền sư tụ chúng, khuyên người tham thiền tu đạo ?
-Lão tăng trên không có mái ngói, dưới không có tấc đất cắm dùi làm gì có chỗ để tụ chúng ?
-Sự thực thì thiền sư mỗi ngày đều tụ chúng luận đạo, chẳng lẽ không phải là thuyết pháp độ chúng ?
-Ông đừng đổ oan cho tôi, ngay lời nói tôi cũng không biết nói, làm sao luận đạo, một người tôi cũng không gặp làm sao độ chúng ?
-Thiền sư đã vọng ngữ rồi !
-Lão tăng ngay lưỡi cũng không có, làm sao vọng ngữ ?
-Chẳng lẽ khí thế gian, hữu tình thế gian, sự tồn tại của thiền sư và con, còn có tham thiền thuyết pháp đều là giả sao ?
-Đều là thật.
-Nếu là thật sao thiền sư lại phủ định ?
-Giả cũng phủ định, thật cũng phủ định.
Đại Quang cuối cùng đại ngộ.
(Thiền Vị)

Không tâm để dùng, không đạo để tu, đó chính là cảnh giới đắc đạo.

1796.- Nghe  không  hiểu.

Vương cư sĩ là một tín đồ rất cung kính Phật pháp. Hễ có thời gian rảnh rỗi là ông chạy tới chùa hoặc giúp viên đầu trồng rau, tưới nước, hoặc giúp điển tọa bổ củi, nấu cơm, nói tóm lại là luôn luôn bận rộn. Nếu gặp thiền sư Vô Danh thuyết pháp cho đại chúng thì cũng hết sức lắng nghe. Có một lần Vương cư sĩ ở ngoài thiền đường nhìn các học tăng mắt nhìn mũi, mũi quán tâm, không nén được thở dài, gập lúc thiền sư Vô Danh đi qua nghe được.Thiền sư bèn hỏi :
-Vương cư sĩ, sao ông lại thở dài ?
Vương cư sĩ lại thở một hơi dài nữa. Vô Danh không hiểu lại hỏi :
-Bình thường ông rất cung kính Phật pháp, lại hết lòng giúp đỡ làm các việc trong chùa, gập buổi thuyết pháp thì chăm chú lắng nghe. Có thể nói thân, khẩu, ý đều phiếm du trong bể pháp. Vì sao lại thở dài ?
-Thiền sư, phiền não của con là nghe Phật pháp mà không hiểu. Thiền sư giảng cho các học tăng nào là “Ý của tổ sư từ Tây sang”, “Con chó có Phật tánh không”, “Tức tâm, tức Phật”, “Thế nào là bản lai diện mục” v . v . Con đều nghe mà chẳng hiểu gì cả, giống như xem hoa trong sương mù. Vì sao con hết lòng nghe mà chẳng hiểu ?
-Lúc trước, khi một học tăng đến nhập môn, Đức Sơn liền đánh, Lâm Tế thì hét, Tuyết Phong thì hỏi là cái gì ? Lịch đại tổ sư, đại đức cả đời chỉ tham một công án mà cũng chưa khai ngộ, cho thấy học thiền phải dụng công mà tham, không chỉ nghe không mà được.
Vương cư sĩ vẫn không hiểu hỏi :
-Làm sao để tham ?
-Trước hết ông hãy tham “Nghe mà chẳng hiểu”.
(Thiền Vị)

Chẳng kể hiểu hoặc không hiểu, nên lắng nghe tiếng nói của nội tâm.

1797.- Thấy  và  không  thấy.

Khi Hà Dịch Thần Hội mới đến tham học lục tổ Huệ Năng, tổ hỏi :
-Ông từ xa tới đây, đường xá diệu vợi gian khổ, có đem tự tánh thiền tâm theo không ? Có thể thấy bản thể của pháp tánh là cái gì không ?
-Bẩm sư phụ, “ngã” có đến đi, còn “tự tánh” không có đến đi, bản thể pháp tánh ở khắp pháp giới làm sao nói thấy hoặc không thấy ?
-Ông thật mẫn tiệp.
Nói rồi dùng gậy đánh, Thần Hội không tránh hỏi ngược lại :
-Lúc sư phụ tọa thiền là thấy hay không thấy ?
Lục tổ không đáp ngay, dùng gậy đánh Thần Hội 3 gậy, hỏi :
-Tôi đánh ông đau hay không đau ?
-Cũng đau, cũng không đau.
Tổ cũng theo ngữ khí của Thần Hội mà đáp :
-Tôi tọa thiền cũng thấy, cũng chẳng thấy.
Thần Hội không bỏ lỡ cơ hội, hỏi tiếp :
-Vì sao sư phụ cũng thấy, cũng chẳng thấy ?
-Tôi thấy là thường thấy những lỗi lầm của mình, không thấy là không thấy thị phi, thiện ác của người khác. Cho nên nói cũng thấy, cũng chẳng thấy. Còn như ông nói không đau thì ông giống như sỏi đá, không có tri giác, còn nói đau thì giống như tục nhân có tâm oán hận. Tôi bảo cho ông biết thấy và không thấy là chấp vào lưỡng biên, đau và không đau là hiện tượng sanh diệt. Ông ngay tự tánh chưa rõ, còn nói không tới, không đi ?
Về sau khi Huệ Năng sắp viên tịch, chúng đệ tử đều buông tiếng khóc lớn, chỉ có Thần Hội là yên lặng không khóc. Tổ bảo :
-Tại sao các ông lại khóc ? Tôi đã biết rõ sẽ đi về đâu. Nếu tôi không biết làm sao có thể nói trước cho các ông biết ? Chỉ có Thần Hội vượt qua được quan niệm thiện ác đạt tới cảnh giới hoại không động, buồn vui không sanh. Đại chúng nên ghi nhớ pháp tánh vốn không sanh diệt, đến đi.
(Thiền Vị)

Con mắt thường đánh lừa chúng ta.

1798.- Bà  Xá  Tư  Đa.

Bà Xá Tư Đa là tổ thứ 25 của Thiền tông Ấn Độ. Tổ 24 là Sư Tử Tôn Giả bảo ông :
-Nay tôi truyền chánh pháp nhãn tạng của Như Lai cho ông, ông phải hết lòng hộ trì và quảng thí cho tất cả quần sanh trong tương lai.
Bà Xá Tư Đa nghe rồi rõ được nguyên nhân của nghiệp báo và được truyền tâm ấn.
(Zen Light)

Công án này nói về cái một. Chúng ta theo một cách nào đó đều liên quan đến cái một. Lòng từ bi là một chứng cớ. Chúng ta có thể cảm nhận nỗi đau đớn hay nỗi hân hoan của người khác mặc dù thân thể ta không đau đớn hoặc đó không phải là chuyện vui của ta. Công án này chỉ cho chúng ta thấy cái một vượt lên trên sanh tử, những gì đã có trong quá khứ thì sẽ có trong tương lai. Cái một vượt lên trên không gian và thời gian.

1799.- Ba  Tu  Bàn  Đầu.

Ba Tu Bàn Đầu là tổ thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ. Có lần tổ 20 là Xà Dạ Đa nói :
-Tôi không cầu đạo, cũng không điên đảo; tôi không lễ Phật cũng không khinh dể Phật, tôi không ngồi lâu cũng không lười biếng. Tôi không độ ngọ cũng chẳng ăn tạp. Tôi không biết đủ cũng không tham lam. Tâm không cần gì. Đó gọi là Đạo.
Ba Tu Bàn Đầu nghe lời này bỗng phát sinh trí vô lậu.
(Zen Light)

Công án này đề cập đến sự cố gắng tu tập. Đạo Nguyên nói :
-Ngồi thiền, tự nó là con đường giác ngộ.
Chúng ta thường ngồi thiền với mục đích đạt được một cái gì, chẳng hạn chúng ta muốn trở thành thiền sinh, thiền sư, hay được tâm an bình. Công án này bảo cho chúng ta thấy có một mục đích để đạt thì không phải là Đạo, có mục đích là chúng ta đã đánh mất Đạo. Tại sao không có gì để đạt tới ? Vì chúng ta đã có nó rồi. Ở đâu ? Ngay trong chúng ta. Chúng ta ngồi là ngồi, không phải để trở thành Phật, để được giác ngộ, để giải một công án. Vậy thì học công án thế nào ? Chúng ta hãy để cho công án thấm qua các lỗ chân lông và trở thành một với công án.
 
 

1800.- Thiền  là  thế  đó.

Có một vị y sĩ, y thuật rất giỏi, mỗi ngày đều nhìn thấy nhiều bệnh nhân qua đời, do đó ông bị ám ảnh bởi cái chết, sinh ra lo sợ. Ông nghe nói học thiền thì có thể khắc phục trạng thái tâm lý này. Ông đến gập thiền sư Nam Ẩn xin được khai thị. Nam Ẩn bảo ông :
-Học thiền không khó, ông vốn là một y sĩ ông hãy đối đãi tử tế với bệnh nhân của ông. Đó là Thiền.
Y sĩ dường như hiểu, dường như không. Ông trở lại vài lần, lần nào thiền sư cũng bảo :
-Là một y sĩ ông đừng phí thời gian ở chùa, hãy về săn sóc bệnh nhân.
Y sĩ không hiểu loại khai thị này làm sao trừ được nỗi sợ chết chóc ? Do đó lần tham phỏng thứ tư, ông trách :
-Có một vị vân thủy tăng bảo cho con biết, học Thiền thì sẽ không còn sợ chết nữa, nhưng mỗi lần con đến thầy đều bảo con lo săn sóc bệnh nhân. Điều này thì con đã rõ, nhưng đó gọi là Thiền thì về sau con không dám đến làm phiền thầy nữa.
Nam Ẩn mỉm cười :
-Tôi quá nghiêm khắc với ông, hãy thử cho ông một công án xem sao.
Nói rồi bảo y sĩ về tham thoại đầu chữ “Vô” của Triệu Châu.
Y sĩ khổ công tham thoại đầu này nhiều năm, cuối cùng tự giác tâm mình trong sáng tĩnh lặng, Vô đã trở thành chân lý. Y sĩ chăm sóc tốt cho các bệnh nhân của mình, nhưng không coi đó là thiện hạnh. Ông đã thoát được sự lo lắng về cái chết. Khi y sĩ đến trình sự tu tập của mình cho Nam Ẩn. Thiền sư mỉm cười bảo ông :
-Từ vong ngã đến vô ngã, đó là sự biểu hiện của thiền tâm.
(Thiền Vị)

Vong ngã là để hết tâm chí vào một việc gì, vô ngã là trí huệ thấy mọi pháp đều là không.

1801.- Phú  Na  Dạ  Xa.

Phú Na Dạ Xa là tổ thứ 11 của Thiền tông Ấn Độ. Ông đứng chấp tay trước mặt tổ thứ 10. Tổ thứ 10 là Hiếp Tôn Giả, hỏi ông :
-Ông từ đâu đến ?
-Tâm con không đến, không đi.
-Ông trụ ở đâu ?
-Tâm con không chuyển, không trụ.
-Vậy ông chẳng nhất định sao ?
-Chư Phật cũng vậy.
-Ông không phải là chư Phật và chư Phật cũng chẳng phải.
Nghe lời này Phú Na Dạ Xa nhập định 21 ngày đắc vô sanh pháp nhẫn và đưa ra câu trả lời :
-Chư Phật chẳng phải và chư Phật cũng chẳng phải là thầy.
Hiếp Tôn Giả gật đầu và truyền tâm ấn cho ông.
(Zen Light)

Công án này nói về trụ xứ. Chúng ta trụ ở đâu ? Ở Nữu Ước ? Ở nhà ? Ở rừng ? Ở thân ? Ở tâm ? Ở Phật ? Không ! Không ở những chỗ này. Vậy thì ở đâu ? (Vô sanh pháp nhẫn : cảnh giới không làm các hành vi tạo nên nghiệp)

1802.- Sư  Tử  Tôn  Giả.

Sư Tử Tôn Giả là tổ thứ 24 của Thiền tông Ấn Độ. Ông hỏi tổ 23 là Hạc Lặc Na :
-Con muốn cầu Đạo, vậy phải dụng tâm thế nào ?
-Muốn cầu đạo thì không phải dụng tâm.
-Nếu không dụng tâm thì ai làm việc Phật ?
-Nếu ông dụng tâm thì không có công đức. Nếu ông không làm gì cả thì đó là làm việc Phật. Kinh nói : Công đức tôi làm không phải là của tôi.
Nghe lời này Sư Tử Tôn Giả phát sanh Phật huệ.
(Zen Light)

Công án này chỉ rằng Phật đạo không phải là con đường ta có thể tạo nên để đi trên đó. Sư Tử Tôn Giả hỏi :
-Con phải làm gì để đi trên đường Đạo ?
-Không làm gì cả hãy ra khỏi đường là ở trên đường.
Cố gắng đạt Đạo giống như muốn tạo thêm một cái đầu mới. Chúng ta đã có một cái đầu đầy đủ tai, mắt, mũi, miệng và chúng ta có thể nghe, nhìn, ngửi, nếm. Chúng ta đâu cần có thêm một cái đầu nữa để làm gì ?

1803.- Lý  Vạn  Quyển.

Trong kinh Duy Ma Cật phẩm Bất Khả Tư Nghị trong đó có các câu : “Hạt cải đựng núi Tu Di” và “Nước của bốn biển chứa trong một lỗ chân lông”.
Đời Đường, Lý Bột là một người nổi tiếng xem nhiều sách. Vì số sách ông đọc nhiều hơn vạn cuốn nên người ta gọi ông là Lý Vạn Quyển. Một hôm, Lý Bột đến thăm Trí Thường, ông hỏi :
-Trong kinh điển nhà Phật có câu “Hạt cải đựng núi Tu Di”, làm sao giải thích đây ?
-Người ta gọi ông là Lý Vạn Quyển, không biết vạn quyển đó làm sao chứa trong đầu ông hả ?
Lý Bột hoát nhiên đại ngộ.
(Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ)

Tất cả mọi pháp, có khi từ sự mà nói, có khi từ lý mà giải. Nên biết vũ trụ thế gian trong sự có lý, trong lý có sự. Tu Di đựng hạt cải là sự, hạt cải đựng Tu Di là lý. Nếu rõ lý sự vô ngại thì chư pháp sẽ viên dung vậy.                                             (Tinh Vân)
(Xem thêm công án 985)

1804.- Đứng  trên  đỉnh  núi  cao,  đi  dưới  đáy  bể  sâu.

Đời Đường, Lý Cao khi nhậm chức Đỉnh Châu Châu Mục, ông đến bái phỏng hòa thượng Dược Sơn (751-834), hỏi :
-Xin hỏi thầy : thế nào là Giới, Định, Tuệ ? (giữ giới, thiền định và trí tuệ, thường được gọi là tam học, là cơ bản tu học trong Phật giáo)
-Ở đây bần đạo không có chuyện bá láp này. (nói cách khác là ở đây tôi không có loại công cụ vô dụng này)
-Thật là lời huyền chỉ khó lường. (Lời thầy khó hiểu quá, con chẳng hiểu gì cả)
-Thí chủ à ! Loại chuyện này (Phật pháp đại sự), nếu muốn gánh vác trên vai thì ông phải đứng trên ngọn núi cao và đi dưới đáy bể sâu. Nếu ông bỏ xuống được những chuyện trong khuê phòng thì tất cả phiền não sẽ được giải trừ.
(Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ)

Trong bài dân dao (ca dao) đầy ý vị thiền Sơn Mụ (bà già trong núi) có câu : Đỉnh cao của pháp tánh lộ rõ lòng mong cầu bồ đề, vô minh của hang sâu chỉ ra sự giáo hóa chúng sanh.
Câu nói này chúng ta phải suy ngẫm cho kỹ.

1805.- Một  người  đứng  trên  đỉnh  núi  cao  không  có  đường  ra,  Một  người  đứng  ở  ngã  tư  đường không  biết  xoay  lưng  vào  hướng  nào ?
(Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ)

Đây là câu nói của hòa thượng Lâm Tế. Nói cách khác, khi đạt tới tâm cảnh tuyệt đối bình đẳng nhưng thân vẫn ở trong trần cảnh bất bình đẳng, cũng là nói muốn viên dung bình đẳng và bất bình đẳng của pháp giới sự sự vô ngại (tư tưởng tối cao của kinh Hoa Nghiêm. Sự giao tham vô ngại giữa hai cá thể của cảnh giới tự tha bất nhị.)
Còn nữa, một người đứng ở ngã tư đường là sống ở thế giới tương đối, bất bình đẳng nhưng chẳng cầu tiến, lui. Tuy ở thế giới bất bình đẳng nhưng không bị trói buộc bởi bất bình đẳng mà sống trong cảnh giới bình đẳng. Trên đỉnh núi cao là cầu Bồ Đề, ngã tư đường là giáo hóa chúng sanh.

1806.- Phật  mặt  trời,  Phật  mặt  trăng.

Mã Tổ ngã bệnh, nằm trên giường, tình trạng nguy kịch chỉ trong sớm tối. Viện chủ tới thăm bệnh, hỏi :
-Lão sư, gần đây thân thể thế nào ?
-Phật mặt trời, Phật mặt trăng.
(Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ)

Phật mặt trời,Phật mặt trăng dẫn xuất từ kinh Tam Thiên Phật Danh. Phật mặt trời thọ mạng là 1800 năm; Phật mặt trăng thọ mạng chỉ có 1 ngày 1 đêm. Mã Tổ đại sư định nói gì ? Quản Nguyên Thời Bảo lão sư nhận rằng nói Phật mặt trời, Phật mặt trăng là nói không muốn chết ! Không muốn chết ! Nghe nói Ẩn lão sư khi bị giải phẫu kêu lớn :
-Đau quá, đau quá đi ! Ai nói không đau là nói bậy !
Khi cảm thấy trời đất là một phiến đau, nỗi đau mới chân chánh tồn tại. Đau đớn tột cùng đó là tâm cảnh nơi đây Huệ Huyền không có sanh tử. Cổ nhân còn nói thêm như vạn tên xuyên ngực. (Xem thêm công án 986)

1807.- Bách  Trượng  ngồi  một  mình  trên  núi  Đại  Hùng.

Có ông tăng hỏi Bách Trượng :
-Thế nào là sự kỳ đặc ?
-Bách Trượng ngồi một mình trên núi Đại Hùng.
Ông tăng này hướng Bách Trượng lạy, Bách Trượng bèn đánh ông.
(Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ)

Đối với một thiền giả chuyện kỳ đặc là chuyện ngộ đạo. Đó là tự giác thánh trí của kinh Lăng Nghiêm. Thánh trí là trí tuệ Bát Nhã là loại trí tuệ mà chủ quan và khách quan hợp nhất. Do đó, nếu có người nào hỏi tôi thế nào là ngộ ? tôi chỉ có thể bảo tôi đang ngồi đây, hoặc tôi đang dùng bút viết văn. Đây chỉ là cảnh giới của bút giả. Bách Trượng ngồi một mình trên núi Đại Hùng là nói tôi đang ngồi trên núi Bách Trượng đây. Ông tăng hiểu ý này nên lạy. Bách Trượng nhận rằng “Gã tiểu tử này có thể nói chuyện được đây nên thưởng cho ông một gậy. (Xem thêm công án 119)

1808.- Giã  gạo  quên  nhấc  chân.

Hòa thượng Thiện Đạo (lai lịch không rõ) nhân sự kiện Hội Xương đời Đường Võ Tông (bức hại Phật giáo) bị bắt hoàn tục. Về sau khi pháp nạn chấm dứt ông không quay trở lại, sống cuộc đời nửa tăng nửa tục. Người đương thời đều gọi ông là Thạch Thất hành giả. Có một lần đang giã gạo ông tụ tinh, hội thần tiến vào cảnh giới vô tâm, vô ngã. Ông giơ chân lên mà quên không bỏ chân xuống, đầu óc là một phiến hư vô. Có người đem chuyện này hỏi Lâm Tế. Lâm Tế bảo :
-Ông ta đã chìm sâu trong suối nước.
(Nhất Nhật Nhất Thiền)

Vô tâm cố nhiên là tốt, nhưng nếu là một loại thiền người chết thì không có cách gì lý giải chân lý. Cái gọi là chân thiền thì phải có định tuệ (định tuệ bình đẳng), phải trong không sản sanh ra tự giác, tức là phải từ tác dụng của tam muội. Khi tọa thiền nhìn những người qua lại Ngũ điều kiều (tên cây cầu ở kinh đô) như những cây cối trong rừng sâu. Nhưng như vậy vẫn chưa đúng. Khi tọa thiền phải nhìn những người qua lại ở Ngũ điều kiều như chính họ, thì mới được.

1809.- Chẳng  có  công  đức  gì  cả.

Lương Võ Đế hỏi tổ Đạt Ma :
-Từ khi trẫm quy y Phật, xây nhiều chùa chiền, chép nhiều kinh Phật, cung dưỡng tăng chúng. Những chuyện này thuộc loại công đức nào ?
-Chẳng có công đức gì cả.
(Xem thêm công án 1025) 

(Danh Thiền Bách Giảng)

Lương Võ Đế xây chùa, chép nhiều kinh, lại tự đăng đàn giảng kinh, cho là mình có công đức vô lượng. Đối với xã hội có nhiều cống hiến, ông sinh lòng vui vẻ chứ không phải là do người khác tán dương. Đạt Ma nói không có công đức gì cả là để giáo huấn ông chớ có kiêu ngạo, tự mãn và khuyên ông phải vượt lên công đức có không, vì dân chúng tạo nhiều phúc lợi.

1810.- Phật  là  thế  nào ?

1.- Có một phụ nữ hỏi Bàn Khuê :
-Nghe nói người nữ tội nghiệp thâm trọng, không thể thành Phật có thật không ?
-Người nam có Phật của người nam, người nữ có Phật của người nữ. Tuy nam và nữ khác nhau, nhưng đều có thể thành Phật.
2.- Một bà cụ hỏi Triệu Châu :
-Con mang thân ngũ chướng, làm sao để trừ ngũ chướng ?
-Nguyện chúng sanh đều sanh cực lạc, nguyện lão bà sanh địa ngục.
(Danh Thiền Bách Giảng)

Đứng trên lập trường Phật giáo. Phật không có phân biệt nam nữ, ai cũng có thể thành Phật.

1811.- Ngộ  và  không  ngộ.

Một ông tăng cung kính hỏi Huệ Lâm Từ Ái :
-Một người ngộ đạo có thể nói ra sự cảm thọ và ngộ cảnh không ?
-Nếu đã ngộ, không thể nói ra.
-Khi không nói ra được thì cảnh tượng thế nào ?
-Giống như người câm ăn mật.
-Một người chưa ngộ nhưng có biện tài, những gì ông ta nói có thể coi là thiền ngộ không ?
-Nếu chưa ngộ, những gì nói ra sao có thể coi là thiền ngộ được ?
-Không ngộ coi là ngộ thì giống gì ?
-Giống như vẹt học nói tiếng người.
-Người câm ăn mật là biết và vẹt học nói tiếng người là không biết, như trẻ con học nói nhưng không hiểu nghĩa.
-Người chưa ngộ làm sao thuyết pháp độ sinh ?
-Mình biết nói cho người khác biết, mình không biết không nói cho người khác biết.
-Hiện lão sư biết hay không biết ?
-Tôi như người câm ăn hoàng liên bị đắng nói không ra. Cũng như vẹt học nói rất giống. Ông nói tôi biết hay không biết ?
Ông tăng ngay đó giác ngộ.
(Xem thêm công án 1002)
(Tinh Vân Thiền Thoại)

Cảnh giới giác ngộ của thiền như thế nào ? Điều này không thể nói ra. Lịch đại tồ sư dùng đánh, hét nhưng không nói ra. Đức Phật cũng nói : “Những gì tôi nói không phải là Phật pháp.”
Đây không phải là chuyện cười bởi vì không dùng lời nói để thuyết Phật pháp, đó chính là Phật pháp. Thiền tâm là cảnh giới tự chứng, từ bình đẳng tính trí vô phân biệt mà biết. Đó không phải là hoàng liên (thằng cuội trong hạt sen, vị đắng) mà là mật ngọt. Không phải là vẹt mà là Bồ Tát.

1812.- Nghèo.

Một hôm Hương Nghiêm ( ? - 898) khi giẫy cỏ, cuốc làm văng một hòn đá chạm vào thân trúc phát ra một tiếng. Ông hoát nhiên đại ngộ. Sau ông trở về bái phỏng ân sư là Quy Sơn cầu ấn chứng. Quy Sơn rất cao hứng bảo Ngưỡng Sơn đứng hầu bên cạnh :
-Hương Nghiêm đã triệt ngộ rồi.
Nhưng Ngưỡng Sơn còn trẻ người non dạ khó lòng ngay đó chấp nhận sư đệ Hương Nghiêm đã ngộ do đó hỏi khó :
-Nếu ông đã thực ngộ hãy thử nói chuyện khác coi sao ?
Do đó Hương Nghiêm lại hướng Quy Sơn trình bài kệ mà 2 câu cuối như sau :
Năm ngoái nghèo còn có dùi cắm đất
Năm nay nghèo ngay cả dùi cắm đất cũng không.
(Xem thêm công án 1023 và 1048)
(Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ)

Trong quá khứ nghèo không phải là chân chính không, hiện tại nghèo mới là không chân chính. Năm ngoái nghèo hãy còn có dùi cắm đất. Hiện tại ngay dùi cũng không có. Ý là không chân chính (không một vật) là ngay ý tưởng về không cũng không tồn tại.

1813.- Thấy  bằng  thầy  thì  cái  đức  của  thầy  bị  giảm  đi  một  nửa.

Một hôm hòa thượng Bách Trượng bảo đại chúng :
-Phật pháp không phải là chuyện nhỏ. Lúc trước, tôi bị Mã đại sư hét một tiếng, tai tôi bị ù mất ba ngày.
Đệ tử Hoàng Bá nghe rồi bèn thè lưỡi ra.
Bách Trượng hỏi Hoàng Bá :
-Từ hôm nay trở đi ông sẽ kế thừa pháp thống của Mã Tổ.
-Không, không thể được. Hôm nay nghe lời thầy nói con mới biết được sự vĩ đại của Mã Tổ. Con chưa từng gập Mã đại sư, nếu dám xưng là pháp tử của đại sư thì tương lai sẽ mất sạch pháp tử, pháp tôn.
-Ông nói đúng lắm ! Nếu kiến địa của đệ tử giống sư phụ thì sẽ làm giảm cái Đức của sư phụ đi một nửa. Nếu kiến địa hơn sư phụ thì mới được gọi là chân chính truyền thọ. Trí tuệ ông hiện đã hơn tôi rồi.
(Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ)

1814.- Lâm  Tế  hét,  Đức  Sơn  đánh.

Chúng ta thường thấy một bộ ba bức tranh thiền treo ở thiền viện. Bức vẽ tổ sư Đạt Ma treo ở giữa, một bên treo Lâm Tế mở miệng hét, một bên là Đức Sơn cầm gậy. Bộ tranh này được gọi là Ma Đức Lâm. Cây gậy và tiếng hét đã được coi như tiêu biểu cơ dụng của Thiền Môn. Hai người đó được coi như những bực anh hùng. Nhưng thiền cơ không chỉ nhờ vào hét, đánh, như Triệu Châu dùng ba tấc lưỡi cũng đã làm mọi người tin phục.
Có một ông tăng hỏi Thủ Sơn :
-Lâm Tế hét, Đức Sơn đánh cứu cánh là ý nghĩa gì ?
-Ông thử nói coi.
Ông tăng hét lên một tiếng.
-Đồ mù.
Ông tăng lại hét lên một tiếng nữa.
-Đồ mù hỗn, chỉ hét bậy, còn ra thể thống gì !
Ông tăng vái lậy lui ra. Thiền sư lại nện cho ông một gậy.
(Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ)

Chúng ta có thể thấy hét cũng tốt, đánh cũng tốt, nhưng chỉ những thiền sư chân chính mới có thể dùng làm thiền cơ linh hoạt.

1815.- Siêu  Phật, vượt  tổ.

Một ông tăng hỏi Vân Môn :
-Thế nào là siêu Phật, vượt tổ ?
Nghe khẩu khí này của ông tăng thì ngay cả Phật ông cũng không coi vào đâu, nhưng nói như vậy mà thực sự ông vẫn bị Phật trói buộc, do đó Vân Môn đáp :
-Bánh Hồ.
Bích Nham Lục chép như vậy, nhưng trong Vân Môn Lục thì lại chép câu đáp là :
-Ma Hoàng Bồ Châu, Phụ Tử Ích Châu. (tên hai vị thuốc Bắc).
Hòa thượng Viên Ngộ cũng nói :
-Nếu là tôi thì tôi sẽ nói :”Nước đái con lừa, cứt con ngựa”. 
Đó là nói vất bỏ mọi Phật kiến và pháp kiến đạt tới cảnh giới tối cao, thoát khỏi mọi hình thức.
Hòa thượng Thiên Quế (1648-1735) trong kỳ Thiền Thất cũng nêu lên công án siêu độ u linh. Một ông tăng lập tức làm bộ trừ u linh. Thiên Quế cười bảo :
-Ông cứ làm thế đi.
(Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ)

Nếu cứ làm như thế thì cả ngay siêu độ u linh cũng không làm được nói gì đến siêu độ cho chính mình. (Xem thêm công án 43)

1816.- Ngồi  lâu  sanh  mệt.

Một ông tăng hỏi Hương Lâm :
-Ý tổ sư từ Tây sang là sao ?
-Ngồi lâu sanh mệt.
 (Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ)

Tinh hoa của Thiền sao lại là ngồi lâu sanh mệt ? Đừng đề cập đến chuyện Bồ Đề Đạt Ma quay mặt vào vách tọa thiền 9 năm ở Thiếu Lâm Tự, cũng đừng đề cập đến chuyện các sử gia khảo chứng rằng Bồ Đề Đạt Ma chưa từng đến chùa Thiếu Lâm. Đạt Ma Thiền chỉ đến đời thứ 7 mới truyền đến chùa Thiếu Lâm. Cho nên ngồi lâu sanh mệt là chỉ liên tục tu hành đạt tới cảnh giới tối cao của thiền giả. Hòa thượng Triệu Châu cũng nói :
-Đã năm năm rồi, tôi cũng không nói được gì.
Cũng nên đem câu này ra mà tham khảo. Đó là phương thức không mô phỏng, không đóng kịch mà cần chân chính ngồi lâu sanh mệt, lúc đó có thể nhẩy nhót trước mặt tổ sư. (Xem thêm công án 83) 

1817.- Gà  lạnh  lên  cây,  vịt  lạnh  xuống  nước.

Thiền là Phật pháp chánh truyền. Nói như thế Như Lai thiền và Tổ sư thiền là hoàn toàn tương đồng. Nhưng thiền không phải là một sản phẩm của Ấn Độ mà là của Trung Hoa. Theo quan điểm này thì Tổ sư thiền và Như Lai thiền là hoàn toàn bất đồng.
Có ông tăng nọ hỏi Ba Lăng :
-Tổ ý và giáo ý  là đồng hay dị ?
-Gà lạnh lên cây, vịt lạnh xuống nước.
Lại có ông tăng khác hỏi :
-Con đối với tam thừa, 12 phần giáo không có chút nghi ngờ gì, nhưng còn việc trong tông môn (tổ ý) thì sao ?
-Đây không phải là chuyện của nạp tăng.
-Thầy nói vậy là sao ?
-Tham nhìn sóng bạc, mất chèo trong tay.
(Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ)

Gà vịt dùng phương cách khác nhau, nhưng cùng có một mục đích để trốn lạnh. Nếu như chỉ tìm chi tiết trên ngôn ngữ văn tự để tìm giải đáp thì sẽ đánh mất đi trọng điểm của Phật ý.
(Xem lại công án 73)

1818.- Trấn  hải  minh  châu.

Lãng Châu Đông Ấp Hoài Chính hòa thượng (đời thứ 3 dòng Mã Tổ) Khi Ngưỡng Sơn đến tham học, thiền sư hỏi :
-Ông là người ở đâu ?
-Con người Quảng Nam.
-Tôi nghe nói Quảng Nam có viên Trấn hải minh châu không biết có thật không?
-Dạ thật !
-Hình dáng nó thế nào ?
-Khi trăng sáng nó sẽ hiển hiện.
-Ông có mang theo không ?
-Dạ có mang theo.
-Sao ông không mang ra cho lão tăng coi ?
-Khi trước con tham lão sư Quy Sơn, lão sư cũng bảo con mang ra. Con không trả lời, cũng chẳng tìm thấy có pháp lý nào có thể trình ra.
-Ông thật là sư tử con, tiếng hét rất lớn.
(Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ)

Trong công án nếu các ông bị hỏi :
-Sao không đưa ra cho lão tăng coi ?
Các ông trả lời ra sao ? Nếu có vấn đề có thể tham khảo câu trả lời của Đầu Tử trong công án “ Đem quạt tê ngưu ra đây”.

1819.- Trấn  Châu  sản  xuất  củ  cải  to.

Có ông tăng hỏi hòa thượng Triệu Châu :
-Nghe nói mới đầu thiền sư theo hầu sau đó kế thừa y bát của Nam Tuyền. Chuyện này có thật không ?
Triệu Châu là pháp tử của Nam Tuyền, chuyện này là sự thật thiên hạ đều hay sao ông tăng này lại đem ra hỏi ? Nếu là Lâm Tế thì thảm rồi ! Ông tăng này sẽ như Định thượng tọa bị Lâm Tế tóm ngực, tát cho một cái và đuổi ra khỏi cửa. Nhưng thiền phong của Triệu Châu thì không như vậy, miệng ông như phóng quang. Ông nói :
-Trấn Châu sản xuất củ cải to.
(Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ)

Trấn Châu là tỉnh Hà Bắc ngày nay. Triệu Châu sống ở thành Triệu Châu cũng thuộc Trấn Châu. Ý muốn nói lão tăng sống ở nơi đây chính là môn hạ của đại nhân vật Nam Tuyền, chính là lão Triệu Châu đã mài nhẵn “Nhàn cổ chùy” đạt tới cảnh giới viên mãn vô ngại.    (Xem thêm công án 126)

1820.- Coi  chừng  chó .

Tử Hồ hòa thượng (800-880) có dựng một bảng ở trước cửa phòng đề :
-Tử Hồ có một con chó, trên có thể cắn đầu, giữa cắn bụng, dưới cắn chân. Có muốn hỏi chuyện gì, thân mạng khó giữ được.
Mỗi khi có ông tăng mới đến, thiền sư đều hét :
-Coi chừng chó !
Ông tăng ngoảnh đầu lại nhìn, thiền sư bèn trở về phòng phương trượng.
(Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ)

Là một thiền giả cũng nên bị con chó ở Tử Hồ cắn một miếng mất mạng rồi sẽ tái sanh. Lúc trước Bách Trượng bị Hoàng Bá đánh cho một chưởng rồi bảo đại chúng :
-Dưới núi Đại Hùng có một con hổ, các ông phải cẩn thận, lão tăng hôm nay đã bị nó cắn một miếng đấy.

1821.- Ca  Tỳ  Ma  La.

Ca Tỳ Ma La là tổ thứ 13 của Thiền tông Ấn Độ. Một lần tổ 12 là Mã Minh nói về biển tánh :
-Núi sông, đại địa đều nương vào biển tánh mà kiến lập. Các pháp tam muội, lục thông đều do biển tánh mà phát hiện.
Ông nghe rồi đại ngộ.
(Zen Light)

Công án này nói về tự tánh. Bàn Khuê gọi là tâm bất sinh. Còn nhiều tên khác như : vô sanh, chân tâm, bản lai diện mục, Đạo, nội quang v . v .  Tất cả đều lầm. Những gì chúng ta có thể nói về nó đều không phải là nó. Nói ra là sai rồi. Nó là nó, không hơn, không kém. Trong chuyện Ương Quật Ma La dù cố gắng cách nào, chạy nhanh thế nào cũng không bắt kịp Phật. Dù chúng ta cố gắng và khéo léo thế nào, chúng ta cũng không thể mô tả được Phật tánh.

1822.- Bài  kệ  của  Giám  Chân   Sư  Nãi.

清 風 樓 上 赴 官 齋
Thanh phong lâu thượng phó quan trai
此 日 平 生 眼 豁 開
Thử nhật bình sinh nhãn hoát khai
方 信 普 通 年 事 遠
Phương tín phổ thông niên sự viễn
不 從 蔥 岭 帶 將 來
Bất tòng thông lĩnh đới tương lai

(Thiền Môn Khai Ngộ Thi)

Lên lầu Thanh Phong dùng bữa ngọ
Mắt huệ bỗng nhiên mở bừng ra
Mới hay chuyện cũ Phổ Thông ấy
Chẳng từ đường Thông Lĩnh đem qua.

Sư được Mân Vương mời lên lầu Thanh Phong độ ngọ. Sư ngồi đợi bị ánh nắng làm chói mắt, hốt nhiên ngộ bèn làm bài kệ trên.
Phổ Thông nguyên niên là năm Bồ Đề Đạt Ma tới Trung Hoa ngang qua ngọn Thông Lĩnh.

1823.- Tiếc  thay  một  chén  trà.

Trung Quốc thời ngũ đại, Khể Sơn Chương thiền sư khi còn tham học với Đầu Tử, giữ chức Sài Đầu (lo việc củi nước). Một hôm, sau khi làm việc Đầu Tử ủy lạo ông một chén trà :
-Sâm la vạn tượng đều ở trong đây. Nói vậy thì chén trà này không phải là tầm thường, nếu cứ tùy tiện uống, ai biết hậu quả nghiêm trọng thế nào ?
Chương thiền sư cậy mình không thiếu tu dưỡng, không đợi thiền sư nói hết, cầm lấy chén trà hắt đi :
-Sâm la vạn tượng giờ ở đâu ?
Ông tỏ rằng mình có thiền cơ linh mẫn. Đầu Tử bình tĩnh bảo :
-Tiếc thay một chén trà !
(Nhất Nhật Nhất Thiền)

Ý nói thật là phí một chén trà, tỏ rằng Chương thiền sư chưa lãnh ngộ thiền ý chân chính “trong đây”.
Một chén trà có thể nói nội dung không đơn giản. Trước hết phải trồng trà, tưới bón, ánh sáng v . v . Có thể nói cây trà là tập hợp lực lượng của vũ trụ vạn hữu mới mọc thành. Đó không phải sâm la vạn tượng đều trong chén trà sao ? Chương thiền sư tuy có kiến giải nhưng không khẳng định, chỉ có Đầu Tử là biết trọn vũ trụ là một chén trà, một chén trà là tâm vũ trụ.
(Tinh Vân)
(Xem thêm các công án 324, 1769)

1824.- Đến  rồi  hóa  vẫn  không  gì  khác
Khói  ngút  non  Lô,  sóng  Chiết  Giang.
(Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ)

Đây là hai câu kết trong một bài thơ của Tô Đông Pha mà hai câu trước là :
Khói ngút non Lô, sóng Chiết Giang
Khi chưa đến đó luống mơ màng.
Ý là nếu không thấy được cảnh kỳ quan của Lô Sơn thì không thể nào trừ được nỗi ân hận. Cũng như thế, đem hết tâm tư hết sức cố gắng để triệt ngộ, nhưng khi ngộ rồi thì thấy sự việc vẫn y như cũ chẳng có gì sai biệt.
Đến rồi hóa vẫn không gì khác
Khói ngút non Lô, sóng Chiết Giang.
Trong Luận Hàn của Vương Sung cũng nói tương tự :
-Thái Bình Thụy Ứng (bực vương giả thi hành chính sách nhân đạo làm trời đất cảm động, giáng xuống nhiều điềm tốt). Mười ngày có một cơn gió, năm ngày một trận mưa, gió không mạnh, mưa không bạo. Đó là cảnh tượng vô sự, là quý nhân. Trong đám đệ tử của Bạch Ẩn có một ông tăng đã khai ngộ, nhưng tiếc rằng cái ngộ của ông chưa tới chỗ, là ngộ lầm. Ông không lễ Phật, không dâng hương, thậm chí còn xé Đại Bát Nhã kinh làm giấy đi cầu. Ông nói :
-Tôi đã là Phật, kinh văn chỉ là ghi lại những gì Phật nói. Đã có Phật ở đây thì mớ giấy lộn này còn có công dụng gì, dùng làm giấy vệ sinh chẳng là tốt ư ?
Bạch Ẩn bảo ông :
-Nghe nói ông đã thành Phật. Chuyện này thật đáng vui, đáng chúc mừng, nhưng mà đít Phật cũng đáng tôn quý, ông nên dùng giấy trắng thì hơn.
Lời nói của Bạch Ẩn ôn hòa, êm nhẹ như không nhưng bên trong ngầm chứa kiếm sắc đã đâm trúng tâm gã thiền cuồng. Ông ta sám hối với Bạch Ẩn và chân thành tham cứu cuối cùng đã chứng nghiệm thế nào là bản lai diện mục.

1825.- Mưa  xuống  rêu  xanh  tươi.

Thi sĩ Ba Tiêu từ lâu nay vẫn theo tham học với hòa thượng Phật Đảnh trụ trì Lộc Đảo Căn Bản Tự. Sau một cơn mưa, hòa thượng đến thăm Ba Tiêu ở Ba Tiêu Am, ở Thâm Xuyên, Giang Hộ. Ba Tiêu mừng rỡ ra cửa đón vào. Khi hai người trò chuyện, hòa thượng cảm thấy Ba Tiêu hình như trừ bỏ được một cái gì, bèn hỏi :
-Gần đây có chuyện gì vậy ?
-Mưa xuống rêu xanh tươi.
Khi tâm nhãn mở ra thì có thể thấy chân như tướng (những gì mắt nhìn thấy đều là thật). Nói cách khác, mưa xuống rêu xanh tươi, cái cảm giác mới mẻ này là của con mắt đã giác ngộ. Hòa thượng không bỏ qua, truy vấn :
-Thế nào là Phật pháp lúc rêu chưa xanh ? (thế giới hỗn độn khi chưa có sinh vật).
Đây cũng là ý của câu “Ngọn Côn Lôn đen ngòm đi trong đêm” là đồng công, dị khúc. Nhưng Ba Tiêu không bị rơi vào hang tối (vô sai biệt của cảnh giới ác bình đẳng) nên ngâm bài cú trứ danh sau để trả lời :
Hồ cũ lặng yên
Một con ếch nhẩy vào
Bõm.
Trong khoảnh khắc tâm nhãn của Ba Tiêu đã mở ra. Thi phong của ông đã tiến vào cảnh xuất thần nhập hóa.

1826.-     Bị  đá  đè  măng  mọc  nghiêng
              Bên  bờ  vách  hoa  nở  ngược.
(Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ)

Câu này ý nói là đợi đối phương hành động ra sao, chúng ta sẽ tìm phương cách thích hợp nhất để đối phó. Đó là tâm của thiền giả. Khi hòa thượng Già Sơn (1825-1895) ở Bát Phan Viên Phúc Tự nhậm chức Quản trưởng ở Từ Dã Đại Đức Tự (quản lý một tông phái), ông dùng thuyền từ Giang Châu Ngạn Cách tới Đại Tân đi qua hồ Tỳ Bà. Đi cùng thuyền còn có một người về sau là trụ trì Nga Sơn Thiên Long Tự, lúc đó còn tu ở Mỹ Nùng Chánh Pháp Tự. Ông phụng mệnh sư phụ đến tiệm may pháp y ở kinh đô. Nga Sơn đối với vị lão tăng mặc áo rách, đầu đội nón giống như một nông phu, chỉ nhìn bằng nửa con mắt. Với vóc dáng khôi ngô, ông có vẻ như một vị tổ sư, ông vào ngồi giữa thuyền. Không lâu, ông thấy vị tăng già bắt đầu tụng kinh, ông nghĩ thầm :
-Ông già này đã đi nửa đường rồi mà bây giờ mới học tụng kinh.
Do đó ông thuyết pháp cho Già Sơn nghe thiền học khó khăn như thế nào, phải ra sức làm sao  v . v . Già Sơn chỉ im lặng. Đến bờ rồi hai người cùng đi trên đường Đại Tân, gần tối mới tới tiệm may pháp y. Lúc đó Nga Sơn mới biết ông già là Già Sơn Quản Trưởng thì rất kinh sợ. Về sau Nga Sơn trở thành đệ tử của Già Sơn.

1827.- Tôi  ở  nơi  Đam  Nguyên  được  thể,  ở  nơi  Quy  Sơn  được  dụng.

Ngưỡng Sơn mới đầu theo Thạch Sương Tánh Không. Có một lần một ông tăng hỏi Thạch Sương :
-Thế nào là ý tổ sư từ Tây sang ?
-Nếu như có một người rơi xuống giếng sâu ngàn thước, ông có thể cứu người ấy ra mà không dùng một tấc giây thừng nào thì tôi sẽ bảo cho ông biết.
Ngưỡng Sơn đứng một bên nghe được đoạn đối thoại này bèn lấy đó làm công án, tham cứu nhiều năm mà vẫn không ngộ. Về sau Ngưỡng Sơn theo học Đam Nguyên, bèn đem chuyện này ra hỏi :
-Làm sao cứu được người ở trong giếng ra ?
Đam Nguyên mắng :
-Con trùng hồ đồ này! Ai ở trong giếng hả ?
Ngưỡng Sơn kinh ngạc, có chỗ sở ngộ. Về sau khi đến tham học Quy Sơn lại đem vấn đề trên ra hỏi . Quy Sơn lên tiếng gọi :
-Huệ Tịch !
-Dạ !
-Đã ra rồi !
(Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ)

Động tác trả lời là Dụng. Ai lên tiếng dạ ? chả là đã ra khỏi giếng rồi sao ? Ngay từ đầu vốn chẳng có ai ở trong giếng. Đến vãn niên Ngưỡng Sơn có nói qua :
-Tôi ở Đam Nguyên được Thể, ở Quy Sơn được Dụng.
Thiền vốn siêu việt thường thức. Nếu chỉ căn cứ trên sự tướng mà giải thích thế này, thế kia thì chỉ là dùng tri kiến của vọng tâm, không phải là sự thể ngộ của thiền tâm.               (Tinh Vân)
(Xem thêm công án 1014)

1828.- Bài  kệ  của  Hoa  Đình  Nhị  Ẩn  Mật  Thiền  Sư.

Năm Khang Hi Giáp Thân, sư biết thế duyên đã tận hỏi thị giả :
-Tới ngọ chưa ?
-Thưa đã quá ngọ.
Hôm sau sư lại hỏi :
-Tới ngọ chưa ?
-Dạ, đúng ngọ.
Sư bèn đọc bài kệ từ biệt :

昨 日 歸 家 時 未 至
Tạc nhật quy gia thời vị chí
今 日 歸 家 正 午 時
Kim nhật quy gia chính ngọ thời
夢 幻 空 花 留 不 住
Mộng ảo không hoa lưu bất trú
此 心 能 有 幾 人 知
Thử tâm năng hữu cơ nhân tri.
(Thiền Lâm Châu Cơ)

Hôm qua về nhà chưa tới lúc
Hôm nay về nhà tới lúc rồi
Mộng ảo không hoa đâu giữ được
Tâm này biết có mấy người hay ?

1829.- Bồ  Đề  Đạt  Ma.

Bồ Đề Đạt Ma là tổ thứ 28 của Thiền tông Ấn Độ. Tổ 27 là Bồ Đề Đa La hỏi :
-Ông có biết trong mọi vật, vật nào là vô tướng ?
-Ở trong mọi vật, không khởi một niệm là vô tướng.
-Ở trong mọi vật, vật nào là lớn nhất ?
-Ở trong mọi vật, pháp tánh là lớn nhất.
(Zen Light)

Tâm điểm của công án này là thực tại. Bát Nhã Đa La trắc nghiệm sự hiểu biết của Bồ Đề Đạt Ma bằng hai câu hỏi về thực tại, và Bồ Đề Đạt Ma trả lời là không khởi niệm và pháp tánh. Kết hợp hai ý này là có thực tại. Kinh Hoa Nghiêm cho chúng ta biết cả vũ trụ nằm trên đầu một sợi lông. Thực tại là bây giờ, là làn gió, là lá bay, là tiếng chim hót, là dòng suối chẩy. Chúng ta biết thực tại trong xương tủy chúng ta.

1830.- Phục  Đà  Mật  Đa.

Phục Đà Mật Đa là tổ thứ 9 của Thiền tông Ấn Độ. Ông nghe tổ thứ 8 là Phật Đà Nan Đề nói bài kệ :
Lời ông là một với tâm ông
Ngay cha mẹ ông cũng không gần hơn
Hành động của ông cùng đạo là một
Cái tâm ấy là Phật.
Nếu ông tìm bên ngoài một vị Phật có hình tướng
Thì vị Phật ấy chẳng giống ông.
Nếu ông muốn biết bản tâm ông
Thì tâm ấy chẳng lìa chẳng hợp.
Nghe được bài kệ này ông liền giác ngộ.
(Zen Light)

Có hai chuyện có thể giải thích công án này.
Chuyện thứ nhất.-  Một ông tăng hỏi Lâm Tế :
-Nếu gập Phật ở trên đường thì phải làm sao ?
-Giết liền !
Chuyện thứ hai.- Ương Quật Ma La cố đuổi theo Phật để giết nhưng dù cố gắng cách nào cũng không đuổi kịp.
Trong câu chuyện thứ hai, Đức Phật có hiện hữu không ? hay Ngài là ma ? Ngài ở đâu ?
Phật Đà Mật Đa biết điều này, ông nói :
-Cha mẹ chẳng gần tôi
Ai là người thân nhất với tôi ?
Phật chẳng phải là đường của tôi 
Con đường nào thân nhất với tôi ?

1831.- Bãi  cứt  trâu.

Tô Đông Pha cùng ngồi thiền với Phật Ấn, ông cảm thấy thân tâm thông sướng, bèn hỏi Phật Ấn :
-Thầy thấy tôi ngồi thiền như thế nào ?
-Rất trang nghiêm, giống như một vị Phật.
-Còn học sĩ thấy tôi ngồi thiền như thế nào ?
-Giống một bãi cứt trâu.
Phật Ấn nghe rồi rất cao hứng. Tô Đông Pha nghĩ mình chiếm được thượng phong, lấy làm khoái chí đi khoe cùng khắp. Chuyện tới tai người em gái là Tô tiểu muội, cô bảo anh :
-Ca ca sai rồi ! Trong óc thiền sư như Phật nên thấy anh là Phật. Trong óc anh như cứt trâu nên thấy thiền sư là bãi cứt trâu.
Đông Pha á khẩu, mới biết thiền công của mình còn kém Phật Ấn xa.
(Tinh Vân Thiền Thoại)

Thiền không phải là tri thức mà là ngộ tánh. Thiền không phải là ăn nói cho giỏi mà là linh tuệ. Thiền sư cơ phong linh lợi, sắc bén, không nói nhưng pháp âm có thể làm điếc cả tai.

1832.- Trộm  trăng.

Một lần thiền sư Lương Khoan đi vắng, một tên trộm lẻn vào am cỏ của ông nhưng chẳng tìm thấy món đồ nào có giá trị để lấy. Đúng lúc đó Lương Khoan trở về. Ông không nỡ để tên trộm về tay không bèn cởi áo ra cho. Tên trộm vội vơ lấy áo mang đi. Lương Khoan mình trần nhìn trăng sáng cảm khái :
-Tiếc thay tôi không thể cho hắn vầng trăng sáng này.
(Thiền Vị)

Vầng trăng tượng trưng cho tự tánh của chúng ta. Tự tánh trong chúng ta có vô hạn bảo tàng, nếu có thể nhận biết bảo tàng của mình thì đâu cần đi ăn trộm của người.
(Xem công án 351)

1833.- Đông  Tây  đều  là  giặc.

Thiền sư Tự Tân từng theo học với Đạo Ưng, về sau quy ẩn ở Chung Lăng Quảng Đức Sơn. Văn Mục Vương dẫn quân đi chinh phục Chung Lăng, khi quân tới chùa, đại chúng đều chạy trốn cả, chỉ có một mình Tự Tân ngồi thiền như bình thường. Văn Mục Vương ngạc nhiên hỏi :
-Mọi người đều chạy trốn, sao thầy không chạy ?
-Đông Tây đều là giặc, lão tăng chạy đi đâu ?
Văn Mục Vương nghe lời chỉ trích ngay thẳng, cảm phục, hạ lệnh rút quân.
Về sau Vương xây Đoan Ứng Viện cho thiền sư và tặng hiệu Quảng Hiện đại sư.
(Thiền Vị)

Thất bại có thể dẫn đến thắng lợi, tử vong có thể dẫn tới vĩnh sanh.

1834.- Đồ  chồn  hoang  này.

Nhân chuyện Kim Ngưu hòa thượng (Xem công án 156) Trường Khánh phê bình :
-Có gì đâu, giống như tụng kinh trước khi thọ trai vậy.
Một ông tăng không hiểu hỏi Đại Quang câu này có ý nghĩa gì. Đại Quang bèn nhẩy múa để trả lời. Ông tăng lạy. Đại Quang hỏi :
-Ông thấy gì mà lạy ?
Ông tăng bèn nhẩy múa. Đại Quang mắng :
-Đồ chồn hoang này !
(Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ)

Tuy nói thiền là không dính mắc gì, nhưng không thể không phân rõ ràng mà ha hả cười lớn hoặc nhẩy múa, thậm chí còn nhẩy múa trần truồng trước mặt người nữ. Đó là giả thiền của bọn chồn hoang. Nghe nói Tuyết Đậu cũng thích câu nói này nên chép vào Bích Nham Lục.

1835.- Hiếp  Tôn  Giả.

Hiếp Tôn Giả là tổ thứ 10 của Thiền tông Ấn Độ. Ông theo tổ thứ 9 là Phục Đà Mật Đa, ba năm liên tục không nằm xuống ngủ. Một hôm, Phục Đà Mật Đa đọc một cuốn kinh và giảng lý vô sanh của tự tánh. Nghe lời này ông đại ngộ.
(Zen Light)

Ngày xưa kinh được chép trên những tấm lụa, cuốn vào một trục. Khi đọc kinh người ta mở tấm lụa ra, phần nào đã đọc xong người ta cuốn vào một trục khác. Vì tấm lụa chép kinh được mở ra bởi một trục và cuốn lại bởi một trục khác nên người ta còn gọi đọc kinh là chuyển kinh (chuyển pháp luân). Ở Tây Tạng thì người ta khắc kinh trên những cối đá xoay có tay cầm để xoay. Hãy khiến những lời kinh trở thành lời của chính các ông. Hãy chuyển, chuyển cho tới khi sự chuyển kinh trở thành các ông.

1836.- Mã  Minh.

Mã Minh là tổ thứ 12 của Thiền tông Ấn Độ. Ông hỏi tổ thứ 11 là Phú Na Dạ Xa :
-Con muốn biết Phật, Phật là thế nào ?
-Ông muốn biết Phật, thì chỗ không biết ấy là Phật.
-Đã chẳng biết Phật, sao biết đó là Phật.
-Ông đã không biết Phật, sao biết đó không phải là Phật.
-Giống như là cưa.
-Giống như là gỗ. Tôi hỏi ông cưa nghĩa là sao ?
-Con và thầy bình phân như răng cưa trên lưỡi cưa, còn gỗ nghĩa là gì ?
-Ông cưa tôi ra.
Nghe rồi Mã Minh đại ngộ.
(Zen Light)

Không biết ở đây không có nghĩa là ngu si chẳng biết gì cả, mà là không có một quan điểm đặc biệt nào, là cởi mở với bất cứ cái gì xẩy ra, không có ước lượng, không đánh giá, chỉ nhìn sự vật như chính nó không thêm thắt gì. Chúng ta thường có khuynh hướng thêm thắt. Hãy làm một thử nghiệm. Chúng ta hãy kể một chuyện gì đó cho một nhóm 5 người, rồi sau đó bảo họ kể lại. Chắc chắn là năm chuyện kể lại không giống như những gì ta kể cho họ. mỗi người trong nhóm đều có thêm thắt một cái gì. Nghe không đơn giản chỉ là nghe. Nó là một tiến trình gồm kinh nghiệm, ý kiến, tiên kiến, những cái chúng ta yêu ghét, tín ngưỡng v .v . Vì vậy khi kể lại những yếu tố này đã ảnh hưởng đến câu chuyện. Khi Phú Na Dạ Xa trả lời Mã Minh :
-Chỗ không biết ấy là Phật.
Không phải ông bảo “không biết” là Phật mà là chính Mã Minh ông “Không biết” đã là Phật rồi.

1837.- Cưỡi  trâu  tìm  trâu.

Có ông tăng hỏi Bách Trượng :
-Con muốn thành Phật, xin thầy từ bi chỉ thị phải làm sao cho tốt ?
-Giống như cưỡi trâu tìm trâu.
-Nếu tìm được trâu rồi thì sao ?
-Cưỡi trâu về nhà.
-Làm sao giữ cho trâu khỏi chạy rông ?
-Phải coi cho kỹ đừng để cho nó ăn lúa ruộng người.
(Thiền Vị)

Tự tánh ai cũng có.
(Xem  thêm công án 448)

1838.- Thiếu  gì ?

Trần Tôn Túc hỏi một lão thiền sư :
-Nếu có một đồng hành huynh đệ đến, thiền sư sẽ nói gì ?
-Đợi họ đến sẽ nói.
-Sao bây giờ không nói ?
-Ông có thiếu gì ?
-Tốt ! Tốt ! Đừng nói những lời vô bổ .
(Tứ  Lý Thiền)

Đây là đối thoại của 2 vị cao thủ. Trần Tôn Túc trước công sau thủ, lão thiền sư trước thủ sau công. Hai người ngang tay.

1839.- Một  câu  nói  hết.

Một ông tăng hỏi Trần Tôn Túc :
-Làm sao là một câu nói hết ?
-Câu nói của ông vốn có khuyết điểm, không thể đứng vững.
(Tứ Lý Thiền)

Câu hỏi của ông tăng vốn đã có mâu thuẫn. Nếu đã là một câu nói hết thì tại sao lại còn thêm làm sao ?

1840.- Buổi  tham  chiều  của Mục  Châu.

Mục Châu Trần Tôn Túc là học trò của Hoàng Bá Hi Vận, là sư huynh của Lâm Tế Nghĩa Huyền. Một hôm nhân buổi tham vấn bảo :
-Các ông đã thấy đường vào cửa thiền chưa ? Nếu chưa thì hãy cố gắng tìm. Khi tìm được rồi đừng hạnh phụ lão tăng.
Lúc đó một ông tăng đứng ra thưa :
-Về sau con không dám hạnh phụ hòa thượng.
-Ông nói vậy là đã hạnh phụ lão tăng rồi, còn nói gì về sau nữa ?
(Tứ  Lý  Thiền)

Cảnh giới thiền là không linh, không vết tích. Ông tăng này đem “Không dám hạnh phụ” ném vào tâm, tuy có lòng thành nhưng cũng đã lìa xa thiền một vạn tám ngàn dậm rồi.

1841.- Tăng  Già  Nan  Đề.

Tăng Già Nan Đề là tổ thứ 17 của Thiền tông Ấn Độ. Một lần tổ thứ 16 đọc cho ông nghe một bài kệ :
Tôi vốn không ngã
Ông nên thấy ngã
Vì ông nhận tôi là thầy
Ông sẽ hiểu tôi không phải là ngã.
Ông nghe bài kệ này, tâm huệ mở ra, cầu tổ độ thoát.
(Zen  Light)

Một trong những giáo lý của Như Lai là vô thường. Điểm này không có gì là khó hiểu. Chúng ta thấy với chính mắt chúng ta mọi vật luôn thay đổi. Ngã không cố định, nó luôn biến đổi. Chúng ta không thể chỉ vào nó và nói đây là ngã. Cái mà ta chỉ không phải là nó nữa rồi, nó đã đổi khác. Từ đó chúng ta sẽ cảm nhận về giáo lý của tánh không. Chúng ta có thể nói ngã là không. Thân ta, con chó, con mèo, sông, núi, hoa lá v . v . chúng đều có một điểm chung : chúng đang chuyển động, thay đổi, không bao giờ cố định. Lời nói là sai lầm. Chúng ta cố dùng lời để xác định một sự vật, nhưng chúng ta quên rằng mọi vật luôn thay đổi. Khi chúng ta gập một người sau nhiều năm thì người đó không phải là người mà chúng ta quen lúc trước nữa. Vấn đề là ở chỗ chúng ta cứ bám víu vào một cái gì đó mà chúng ta tin là ngã. Khảo sát tế bào bằng những kính hiển vi điện tử chúng ta thấy rằng những khoảng trống giữa các tế bào rất lớn. Càng nhìn gần chúng ta thấy khoảng cách càng lớn. Ngã là không. Trong tánh không chúng ta hoàn toàn cởi mở với người khác.

1842.- Chỉ  là  cái  đó.

Thiền sư Ngũ Tiết Linh Mặc mới đầu tham học nơi Mã Tổ, sau lại đến bái phỏng Thạch Đầu Hi Vận. Khi gặp mặt Thạch Đầu, ông hỏi :
-Nếu thầy nói một câu khế hợp con sẽ ở lại theo thầy, nếu nói không khế hợp con sẽ đi nơi khác.
Thạch Đầu ngồi im trên thiền sàng, không thèm để ý đến ông. Linh Mặc quay đầu đi ra. Thạch Đầu bỗng gọi :
-Xà lê !
Linh Mặc bất giác quay đầu lại. Thạch Đầu bảo :
-Ông hãy chú ý ! Một người từ sanh đến tử đều y cứ vào cái đó, đầu ông quay đi, quay lại suy nghĩ lung tung có ích gì ?
Thạch Đầu vừa nói xong, Linh Mặc liền triệt ngộ, bẻ gậy ở lại bái Thạch Đầu làm thầy.
(Tứ  Lý  Thiền)

Công án này rất tinh xảo. Descartes có nói : “Tôi suy nghĩ, vậy tôi hiện hữu.” Nhưng cái tôi này là gì ? Trăm năm, ba vạn sáu ngàn ngày, cái tôi này ngày ngày theo ta như  thế nào, e rằng ít người biết rõ. Không biết có gương báu nào có thể soi thấy cái tôi bản lai diện mục này ? Người nào có hứng thú có thể dùng tiếng gọi của Thạch Đầu quay đầu lại tự phản tỉnh chính mình.

1843.- Đống  củi.

Thạch Đầu hỏi một ông tăng mới tới :
-Ông từ đâu đến ?
-Con từ Giang Tây lại.
-Ông có đến tham vấn Mã đại sư không ?
-Dạ có !
Thạch Đầu chỉ đống củi ở sân thiền viện :
-Ông thấy Mã đại sư có giống đống củi này không ?
Ông tăng không trả lời được, trở về Giang Tây thuật lại cho Mã Tổ nghe. Mã Tổ hỏi :
-Ông thấy đống củi ấy nặng hay nhẹ ?
-Con không cân nên không biết.
-Ông thật có sức mạnh, vác một đống củi từ Hồ Nam về đến Giang Tây.
(Tứ  Lý  Thiền)

Thiền luôn luôn chỉ đến chỗ tận cùng của chân lý (tự tánh). Các thiền sư khảo nghiệm, ấn chứng là xem các thiền sinh thể nghiệm tự tánh này như thế nào. Cái tự tánh này ở trong vạn vật nhưng lại độc lập, người thường dùng lý luận chia chẻ nên không nhận ra. Ông tăng trong công án này không biết cái gì là Mã Tổ, cái gì là đống củi.          (Xem thêm công án 888)

1844.- Phật,  pháp  đều  là  bụi.

Thiền sư Hương Nghiêm Nghĩa Đoan là học trò Nam Tuyền Phổ Nguyện có lần bảo đại chúng :
-Huynh đệ, các ông trong khi tu hành nên biết Phật là bụi, pháp cũng là bụi, đều là đối tượng của tư duy, không phải là Phật thật, pháp thật. Do đó các ông cả ngày đi tìm chỉ là tốn công, phí sức làm sao có thể chân chánh an tĩnh thành Phật, chân chánh hiểu pháp ? Tôi bảo cho các ông biết phương pháp khi làm bất cứ một sự việc gì không giữ thiện cũng không bỏ ác. Các ông chớ nên bị hiện tượng này làm mê muội. Đó là chỗ các ông phải tu.
(Tứ  Lý  Thiền)

Công án này chỉ rõ phương pháp của Thiền tông, chỉ rằng đừng mê tín Phật, pháp, điều quan trọng là làm sao tự mình đạt tới cảnh giới Phật. Nhưng con người ta vì chấp vào chuyện giữ thiện, bỏ ác quá nặng nên khó thoát khỏi cái vòng tư duy tương đối này.

1845.- Núi  xanh  chẳng  động.

Có ông tăng hỏi Linh Vân Chí Cần :
-Tu hành làm sao để đạt tới cảnh giới không bị thọ khổ bởi những hiện tượng vô thường : sinh, lão, bệnh, tử ?
-Ông có thấy ngọn núi xanh sừng sững trước mặt không ? Nó đứng đây từ ngàn vạn năm không hề chuyển động mặc mây sớm mưa chiều, mưa móc tới rồi đi.
(Tứ  Lý  Thiền)

Sinh lão bệnh tử là bốn sự việc vô thường tối thống khổ. Cái ngã chịu sự chi phối bởi sinh lão bệnh tử khác với chân ngã bất động như ngọn núi xanh không hề hấn gì bởi mây sớm mưa chiều. Hiểu rõ cái chân ngã ấy rồi thì ta sẽ hưởng dụng được thường, lạc, ngã, tịnh.

1846.- Ông  chính  là  Phật.

Thiền sư Phù Dung Linh Huấn tham học với Quy Tông Trí Thường, ông hỏi :
-Làm sao mới thành Phật ?
-Nếu tôi nói rõ cho ông, ông có tin không ?
-Lão thiền sư thành tâm, thành ý bảo sao con dám không theo ?
-Ông chính là Phật.
Linh Huấn tâm lãnh, thần hội, lại hỏi :
-Làm sao bảo nhậm ?
-Một hạt bụi rơi vào mắt, không hoa rơi loạn.
(Tứ  Lý  Thiền)
Một hạt bụi trong mắt, không hoa rơi loạn, một mạch không thông, toàn thân chẳng an, một lỗ kiến nhỏ di hại vạn dậm đê. Cẩn thận.

1847.- Con  chó  không  có  Phật  tánh.

Một ông tăng hỏi Triệu Châu :
-Con chó có Phật tánh không ?
-Không !
(Tứ  Lý  Thiền)

Phật tánh không thể dùng lý luận mà biết được, mà phải thực chứng.
(Xem thêm công án 1020) 

1848.- Con  chó  có  Phật  tánh.

Một ông tăng khác lại hỏi Triệu Châu :
-Con chó có Phật tánh không ?
-Có  !
-Tại sao phải làm thú ?
-Biết mà cứ làm.
(Tứ  Lý  Thiền)

Ông tăng đã biết Phật tánh là bình đẳng, sao còn phân biệt người với chó ?

1849.- Huệ  Năng  nghe  kinh.

Lục tổ Huệ Năng lúc còn nhỏ, bố mất sớm, sống với mẹ. Về sau mẹ rời về Nam Hải Quần ( nay là Quảng Châu). Ngày ngày ông phải đi đốn củi, rồi gánh ra chợ bán để sống. Một hôm ở chợ, ông nghe một người khách đọc kinh. Huệ Năng nghe rồi tâm liền khai ngộ.
(Tứ  Lý  Thiền)

Trong thế giới này mọi người đều bình đẳng, bình đẳng trong sinh hoạt, bình đẳng trong chân lý; chẳng vì giàu nghèo mà có sai biệt. Vấn đề là tâm để ở đâu thôi.

1850.- Vua  làm  ruộng.

Một ông tăng hỏi Trường Sa Cảnh Sầm :
-Bản lai nhân (tự tánh) có cần thành Phật không ?
-Ông có thấy Hoàng đế Đại Đường xuống ruộng cầy, cấy không ?
(Tứ  Lý  Thiền)

Nhìn là công việc của mắt, nghe là công việc của tai, tiêu hóa là công việc của dạ dày và ruột. Những việc này đều do đại não cai quản, nhưng đại não không làm những việc này. Thiền tông nhận định rằng thành Phật là một quá trình tu hành, và quá trình này chỉ là sự trở về của Phật tánh. Tôi bỏ nhà ra đi, nay trở về nhà tôi vẫn có.

1851.- Tâm  bình  thường.

Một ông tăng hỏi Trường Sa Cảnh Sầm :
-Thiền tông nói tâm bình thường là đạo, xin hỏi tâm bình thường là cái gì ?
-Muốn ngủ thì ngủ, muốn ngồi thiền thì ngồi. Đó là tâm bình thường.
-Con vẫn chưa hiểu.
-Nóng thì tìm bóng mát, lạnh thì lại gần đống lửa. Đó là tâm bình thường.
(Tứ Lý Thiền)

Tâm bình thường là tâm chúng ta dùng hàng ngày có thể sản xuất thiện ác, xấu đẹp, có thể phát minh, sáng tạo. Nó bình thường không có đặc điểm gì. Nếu có đặc điểm gì thì là do nó tạo ra không phải là bản thân nó.

1852.- Dạy  ông  suy  nghĩ.

Một ông tăng hỏi Trường Sa Cảnh Sầm :
-Sư phụ của thầy là Nam Tuyền chết rồi đi đâu ?
-Hòa thượng Thạch Đầu lúc còn trẻ là sa di có đến tham phỏng Lục tổ.
-Con không hỏi chuyện hòa thượng Thạch Đầu đến tham Lục tổ, con hỏi là hỏi Nam Tuyền chết rồi đi đâu ?
-Tôi dạy ông suy nghĩ .
(Tứ  Lý  Thiền)

Một người chết rồi đi đâu ? Có thật là có linh hồn không ? Thiền tông phản đối chuyện này. Cứ theo Thiền tông thì sau khi chết con người có tồn tại hay không, không cần biết, điều ta cần biết là ngay lúc này ta tồn tại hay không tồn tại ?

1853.- Ông  lão  80.

Bạch Cư Dị thỉnh giáo điểu sào thiền sư :
-Đại ý Phật pháp là gì ?
-Không làm mọi điều ác, làm tất cả mọi điều lành.
-Trẻ ranh 3 tuổi cũng biết điều này.
-Trẻ 3 tuổi biết, nhưng lão 80 chưa chắc đã làm được !
(Tứ  Lý  Thiền)

Biết là một chuyện, làm được hay không lại là một chuyện khác. Ai cũng muốn được Chân, Thiện, Mỹ nhưng đạt được thì có mấy người ?
(Xem thêm công án 75)

1854.- Hư  không  rơi  xuống  đất.

Một ông tăng hỏi Triệu Châu :
-Cây bách khi nào thành Phật ?
-Khi hư không rơi xuống đất.
-Khi nào hư không rơi xuống đất.
-Khi cây bách thành Phật.
(Tứ  Lý  Thiền)

Câu trả lời của Triệu Châu không có khởi điểm, cũng không có kết cục. Ở đây thời, không không phải là cốt yếu mà là hiện tại. Ông việc gì phải phí tâm lực lo lúc nào cây bách thành Phật, mà không nghĩ lúc nào mình thành Phật ?

1855.- Tâm  động.

Lục tổ sau khi giác ngộ, ẩn cư 15 năm trong dân gian, sau đó tới Pháp Tánh Tự. Lúc đó gió thổi, cờ bay. Có 2 ông tăng tranh luận. Một ông nói gió động, một ông nói cờ động. Lục tổ bảo :
-Không phải gió động, không phải cờ động mà là tâm các ông động.
(Xem công án 95)
(Tứ  Lý  Thiền)

Đây là một chuyện triết lý thú vị. 3 đáp án, câu nào trúng ? Dĩ nhiên là câu của Lục tổ, và như vậy Lục tổ đã đội mũ duy tâm chủ nghĩa. Nhưng Thiền không phải là triết học mà là sự tu dưỡng của tâm và thân. Trong kinh Phật có câu đếm của báu của người dù có đếm bao nhiêu cũng vô dụng. Trong Thiền học chúng ta phải bắt tay vào chính của báu của mình là thân và tâm chứ ngưng lại ở nhận thức do đọc sách hay nghe giảng thì có lợi ích gì ?

1856.- Quán  Âm  vào  cửa.

Có một lần Bách Trượng dẫn chúng tăng làm ruộng trên núi. Đúng ngọ, tiếng trống chùa vang lên báo giờ cơm đã đến. Vì Bách Trượng chưa ra lệnh nghỉ nên chư tăng vẫn làm việc. Có một ông tăng nghe tiếng trống bèn vác cuốc lên vai, cười ha hả đi về chùa. Bách Trượng trông thấy, khen ngợi :
-Hay quá ! đúng là Quán Âm vào cửa.
Khi về tới chùa Bách Trượng kêu ông tăng đó lại hỏi :
-Hôm nay ông thấy đạo lý gì mà có cử chỉ ấy ?
-Chẳng có đạo lý gì cả. Buổi sáng nay con chưa ăn cơm, cảm thấy đói bụng, nghe tiếng trống báo giờ ăn nên chạy về chùa ăn.
Bách Trượng nghe xong ha hả cười lớn.
(Tứ  Lý  Thiền)

Đừng coi chân lý là những lý lẽ huyền diệu của bờ bên kia. Trong sinh hoạt hàng ngày đi, đứng, nằm, ngồi đều thấm nhuần chân lý. Đừng đem chân lý ném vào đầu não, mà để đầu não trở về với sinh hoạt hiện thực, như thế không phải đi tìm, chân lý luôn theo bên ông.

1857.- Bài  kệ  của  Thảo  Đường.

七 百 僧 中 選 一 个
Thất bách tăng trung tuyển nhất cá
本 來 無 物 便 相 親
Bản lai vô vật tiện tương thân
夜 傳 衣 缽 曹 溪 去
Dạ truyền y bát Tào Khê khứ
銕 樹 開 花 二 月 春
Thiết thụ khai hoa nhị nguyệt xuân.

(Thiền  Môn Khai  Ngộ  Thi)

Trong bẩy trăm tăng chọn lấy một
Vốn không một vật lại là thân
Lục tổ đêm ấy nhận y bát
Dường như cây sắt nở hoa xuân

Thảo Đường nhắc lại chuyện ngũ tổ truyền y bát cho Lục tổ Huệ Năng.

1858.- Thể  của  Bát  Nhã.

Đời Mạt Đường, Triệu Châu Tòng Thẩm khi du phương có đến Hàn Châu Đại Từ Sơn. Triệu Châu hỏi Đại Từ Hoàn Trung :
-Bát Nhã lấy gì làm thể ?
Đại Từ lập lại :
-Bát Nhã lấy gì làm thể ?
Triệu Châu cười lớn đi ra, ông đã gập được tri âm. Ngày hôm sau, Triệu Châu đang quét sân, Đại Từ đến bên hỏi :
-Bát Nhã lấy gì làm thể ?
Triệu Châu bỏ chổi xuống, vỗ tay cười lớn. Đại Từ không hỏi nữa, trở về phòng phương trượng. Ông biết ông đã cắn phải hột hồ tiêu rất cay.
(Tứ  Lý  Thiền)

Bát Nhã là trí tuệ đáo bỉ ngạn, ở khắp nơi. Nếu nói đến nó là giới hạn nó. Do đó các thiền sư khi gập phải vấn đề này, nếu không chỉ Đông nói Tây thì tránh né không nói, về sau thì dùng tiếng hét hay dùng gậy đánh.

1859.- Không  một  vật.

Nghiêm Dương đến tham học với Triệu Châu, ông hỏi :
-Khi tu hành đạt tới cảnh giới không một vật, trừ hết tạp niệm, mọi tư duy thì sao ?
-Ông hãy bỏ niệm đầu không một vật xuống đi.
-Nếu đã không một vật thì còn gì để bỏ xuống nữa ?
-Nếu không bỏ xuống được, thì ông hãy mang nó đi.
Nghiêm Dương cuối cùng đã ngộ.
(Tứ  Lý  Thiền)

Thiền nhấn mạnh đến không nhưng nhiều người lại chấp vào không coi đó như một giáo điều thành ra “không” không còn là không nữa.

1860.- Nô  bộc  của  thời  gian.

Một ông tăng hỏi Triệu Châu :
-Trong 12 thời làm sao dụng tâm ?
-Ông bị 12 thời chuyển, còn lão tăng chuyển 12 thời.
(Tứ  Lý  Thiền)

Nên làm chủ thời gian hay làm nô lệ cho nó ? Làm sao để từ nô lệ biến thành chủ nhân ông ?

1861.- Kiếp  hỏa.

Một ông tăng hỏi Đại Tùy :
-Khi kiếp hỏa đến, đại thiên thế giới đều bị hủy diệt, không biết cái đó (tự tánh) có bị hủy không ?
-Bị hủy.
-Nói như vậy là không thể tránh khỏi bị hủy diệt ?
-Đương nhiên là như vậy.
Ông tăng này không cho câu đáp của Đại Tùy là đúng, đem hỏi Đầu Tử, Đầu tử bảo :
-Tứ Xuyên có Phật ra đời.
(Tứ  Lý  Thiền)

Biến và bất biến không thể tách rời ra được, không thể ở trong biến mà đẩy bất biến về bờ bên kia được.

1862.- Ý  chỉ  Hoàng  Mai.

Có ông tăng hỏi Lục tổ :
-Ngũ tổ Hoàng Mai truyền Đạt Ma đốn giáo tông chỉ, người nào nhận được ?
-Dĩ nhiên là người hiểu Phật pháp nhận được.
-Hòa thượng có nhận được không ?
-Tôi không nhận được vì tôi không hiểu Phật pháp.
(Tứ  Lý  Thiền)

Có nhiều chuyện người hiểu lại chẳng hiểu gì cả, còn người không hiểu lại hiểu.

1863.- Thế  nào  là  Đạo ?

Trần Tôn Túc hỏi một lão tú tài :
-Tiền bối đọc kinh gì vậy ?
-Lão chuyên nghiên cứu kinh Dịch.
-Trong kinh Dịch có câu “Lão bá tánh dùng hàng ngày mà không biết”, xin hỏi tiền bối : Lão bá  tánh không biết cái gì ?
-Lão bá tánh không biết sự vận hành của Đạo.
-Vậy Đạo là gì ?
Lão tú tài không trả lời được.
(Tứ  Lý  Thiền)
Sinh hoạt hàng ngày vốn là Đạo, bỏ sinh hoạt hàng ngày để đi tìm Đạo thì không thể nào tìm được.

1864.- Tôi  ngộ  rồi.

Ngũ Đài Sơn Trí Thông mới đầu đến tham học với Quy Tông Trí Thường. Một đêm bỗng ở tăng đường hét lớn :
-Tôi ngộ rồi !
Làm tăng chúng đang ngủ hoảng sợ tưởng ông phát khùng. Ngày hôm sau Quy Tông bảo :
-Hôm qua ông tăng nào kêu đại ngộ hãy đứng ra coi.
Trí Thông bước ra, Quy Tông hỏi :
-Hôm qua ông ngộ được đạo lý gì hãy nói tôi nghe thử.
-Nguyên lai ni cô là người nữ.
Quy Tông kinh dị câu đáp của Trí Thông thật chẳng giống ai.
(Tứ  Lý  Thiền)

Thiền tông không có gì là thần bí, cũng không có gì là cao thâm, chỉ bình thường nhưng người thường không thấy được ý thú này vì tự tánh đã bị che mờ.

1865.- Vì  ông  nói  pháp.

Phù Dung Linh Huấn theo học nhiều năm với Quy Tông Trí Thường, một hôm hướng Quy Tông cáo biệt. Quy Tông bảo :
-Ông ở đây đã nhiều năm, thu xếp hành trang xong hãy đến đây, tôi sẽ vì ông giảng pháp.
Linh Huấn nghe lời thu xếp hành trang xong thành tâm, thành ý đến trước mặt Quy Tông. Quy Tông bảo ông :
-Bây giờ trời đang lạnh, ông đi đường phải cẩn thận.
Linh Huấn nghe rồi bỏ xuống sở học, những nhận thức về cảnh giới giác ngộ v . v . bỏ tất cả xuống, tất cả chỉ là không.
(Tứ  Lý  Thiền)

Người ta tưởng Quy Tông sẽ nói Phật pháp gì hóa ra chỉ là những lời thông thường. Không nên để tri thức là cái bao, cũng không nên để cảnh giới thiền là cái bao để bọc mình. Đó mới là chân chính thiền.
 

1866.- Nuôi  ngỗng  trong  bình.

Lục Hằng hỏi Nam Tuyền :
-Người xưa nuôi ngỗng trong bình. Ngỗng dần dần lớn lên không ra khỏi bình được. Xin hỏi trưởng lão phải làm sao để mang ngỗng ra mà không phá bình, cũng không làm ngỗng bị thương ?
Nam Tuyền cười cười gọi :
-Thích sử đại nhân !
-Dạ !
-Con ngỗng đó đã chẳng ra rồi sao ?
Lục Hằng do đó lãnh ngộ diệu thú của thiền.
(Tứ  Lý  Thiền)

Thường thường tư duy dễ dàng lọt bẫy của chính tư duy. Trong sinh hoạt hàng ngày nếu chúng ta có thể vượt lên được chủ quan thì chúng ta sẽ không bị công việc làm cho phiền não. Tư duy là một chìa khóa vạn năng có thể mở bất cứ cửa mê nào, nhưng chúng ta đừng để nó lại ở bất cứ ổ khóa nào.
(Xem thêm công án 993)

1867.- Vô  minh.

Một thiền sư nói :
-Thiền có thể trừ bỏ vô minh, phiền não của con người.
Lúc đó có một người bước ra thưa :
-Con thật không biết cái gì là phiền não của con. Xin hỏi thiền sư : Vô minh là gì ? Từ đâu mà ra ?
-Chuyện đơn giản, ngu xuẩn thế mà ông cũng hỏi được !
Người đó tức giận hỏi lại :
-Thiền sư không trả lời cũng được, nhưng tại sao lại khinh người như thế ?
Thiền sư cười :
-Đó là vô minh, vô minh được sanh ra như thế.
(Thiền  Tư)
Vô minh được sanh ra từ ngu muội.

1868.- Mật  truyền  tâm.

Có một người đọc kinh gập đoạn không hiểu chạy hỏi thiền sư Huyền Ngộ :
-Thế nào là mật truyền tâm ?
Huyền Ngô im lặng bất động. Người đó không biết thiền cơ, tức giận hỏi thiền sư :
-Thầy làm gì vậy ? Con đang vểnh tai chờ nghe thầy chỉ thị đây !
Huyền Ngộ mặc kệ ông, bảo thị giả :
-Đi đun nước đi !
(Thiền  Tư)

Mật truyền tâm là lấy chân tâm truyền chân tâm, im lặng mà truyền tâm, không rơi vào hình tích. Thiền sư im lặng không nói hồi lâu là chỉ cho người đó thế nào là mật truyền tâm. Nói pháp cho người không có tuệ căn giống như đàn cầm mà gẩy tai trâu vậy.

1869.- Sợ  ông  rơi  vào  phàm,  thánh.

Mạt Đường, Thúy Nham là một vị thiền sư có tu chứng. Một hôm, một ông tăng đến thiền đường thi lễ rồi hỏi :
-Một hạt hoàn đơn điểm sắt thành vàng, một lời chí lý chuyển phàm thành thánh. Học nhân nay không cầu gì khác, chỉ xin thầy điểm.
-Tôi không điểm.
-Tại sao thầy không điểm ?
-Tôi sợ ông rơi vào phàm, thánh.
Ông tăng vẫn năn nỉ :
-Xin thầy cho con một lời chí lý.
Thiền sư lớn tiếng gọi :
-Thị giả ! Mang trà ra.
(Thiền  Tư)

Phật tâm chỉ bình thường, nếu có tâm phân biệt phàm thánh thì đã lìa xa Phật pháp rồi.

1870.- Kiến  tánh  thành  Phật.

Nam Tháp Quang Dõng đến bái kiến Ngưỡng Sơn Huệ Tịch. Ngưỡng Sơn hỏi :
-Ông đến làm gì ?
-Đến bái kiến thiền sư.
-Có thấy lão tăng không ?
-Có thấy.
-Thấy lão tăng có giống con lừa không ?
-Con thấy thầy cũng không giống Phật.
-Nếu không giống Phật thì giống gì ?
-Nếu nói giống gì thì có khác gì là giống lừa ?
Ngưỡng Sơn khen :
-Tôi dùng câu hỏi này 20 năm nay chưa có người nào triệt ngộ. Nay câu trả lời của ông phàm thánh đều quên, tình tận, thể lộ. Khó có người ưu tú như ông. Ông hãy bảo trọng.
(Nhất  Thiền  Nhất  Thế  Giới)

Kinh Kim Cương có nói : Phàm có tướng đều là hư vọng, nếu thấy không tướng là thấy Như Lai. Ngưỡng Sơn và Quang Dõng nghị luận Ngưỡng Sơn không giống lừa, không giống Phật, vậy cứu cánh là giống gì ? Giống chính mình. Chỉ có thấy tự tánh của mình mới có thể phàm thánh đều quên, thể dụng là một. Đó mới là thấy chân đế vô tướng. Chỉ khi nào ông quên chính mình thì đó mới thật là thiền.                 (Xem thêm công án 33)

1871.- Tâm  nhẫn  nhục.

Thiền sư Đạo Nguyên người Nhật Bản khi du học ở Trung Quốc về, có người hỏi ông tu đến cảnh giới nào ? Ông trả lời :
-Cũng chẳng có gì lạ, chỉ được một tâm nhẫn nhục.
(Thiền  Tư)

Tâm chúng ta có một tính cách rất cương ngạnh, đó là ngã mạn (tự cao, tự đại). Khi tiếp xúc với ngoại giới nhất định bạo phát tựa hồ như nó là vĩ đại lắm. Trong thiền học không tu tâm nhẫn nhục thì không đạt được chính đạo.

1872.- Bản  Tịch.

Sáng lập ra tông Tào Động là Động Sơn Lương Giới và Tào Sơn Bản Tịch. Khi Tào Sơn đã tham học với Động Sơn được ít lâu, Động Sơn thấy thời cơ đã chín mùi bèn lấy tên của Tào Sơn là Bản Tịch để khảo nghiệm.
Động Sơn hỏi Tào Sơn :
-Ông có vẻ là người có đức hạnh, ông tên gì ?
-Con tên Bản Tịch.
-Bản Tịch hả ? Tên Bản Tịch có thể nói thêm gì nữa không ?
-Không gì để nói.
-Tại sao ?
-Nếu có gì để nói thì không phải là Bản Tịch nữa !
Động Sơn do đó coi trọng Tào Sơn. Tào Sơn về sau trở thành một vị đại tông sư một thời.
(Thiền  Tư)

Thiền giả nhận rằng bản tính con người là không hư, tịch tĩnh, không rơi vào ngôn ngữ, văn tự cho nên gọi là Bản Tịch. Bản Tịch tự nhiên là không thể dùng lời nói.
(Xem thêm công án 1693)

1873.- Người  cởi  chính  là  người  buộc.

Lúc trước có một người luôn đau khổ, phiền não. Ông ta nghe bạn bè nói Phật có thể giải trừ mọi phiền não, bèn đi tìm Phật hỏi. Đức Phật bảo ông :
-Người có thể giải thoát phiền não của ông là chính ông .
-Nhưng chính con trong tâm bị phiền não đau khổ mà ?
-Ông thử nghĩ coi phiền não, đau khổ trong tâm ông là do ai đem vào ?
Ông ta im lặng suy nghĩ. Phật từ bi khai thị :
-Người nào đem vào thì người đó đem ra !
Người đau khổ sau cùng đã hiểu.
(Thiền  Tư)

Khổ não chỉ là một loại chấp trước, muốn giải thoát chỉ nhờ vào chính mình.

1874.- Tâm  giao.

Một ông tăng hỏi Đức Sơn :
-Người đạt đạo gặp một người đạt đạo khác trên đường nếu không dùng ngôn ngữ văn tự, họ dùng cách nào để giao lưu ?
-Giống như tôi vậy.
Đức Sơn nói rồi đứng im lặng hồi lâu. Ông tăng đợi lâu không thấy Đức Sơn nói, liền ho lên một tiếng. Đức Sơn hỏi :
-Ông còn muốn hỏi gì ?
Ông tăng quả nhiên mở miệng định hỏi, Đức Sơn không khách khí đuổi ông ra khỏi phòng.
(Thiền  Tư)
Đã đạt đạo thì cần gì nói, chỉ im lặng lấy tâm ấn tâm.

1875.- Con  cóc  và  quả  cà.

Đời Tống, thiền sư Thanh Viễn Pháp Nhãn có kể cho đại chúng nghe câu chuyện sau :
Có một ông tăng tu giới. Ông giữ giới rất nghiêm, chưa từng phạm giới. Một đêm có việc phải ra ngoài. Đêm đó trời rất tối, ông ta đi vội, đột nhiên ông cảm thấy mình đạp phải một vật gì dưới chân, hình như một con vật gì phát ra tiếng kêu khổ não. Ông tăng tự nhủ :
-Hỏng rồi ! Là con cóc chăng ? Đúng là con cóc rồi ! Trời ơi tôi đã sát sanh rồi ! Nhỡ nó là cóc mẹ, trong bụng còn nhiều con nữa . . .
Ông tăng đó vừa sợ vừa hối. Đêm đó trằn trọc mãi không ngủ được. Sau một lúc mệt quá ngủ thiếp đi thấy cả trăm con cóc đến đòi mạng, ông sợ quá hét lên, giật mình tỉnh dậy thì ra chỉ là một cơn ác mộng. Ngày hôm sau ông vội chạy tới hiện trường, chẳng thấy xác con cóc đâu cả, chỉ thấy một quả cà dập nát nằm ở giữa đường. Ông tăng thở phào nhẹ nhõm.
Kể xong chuyện này Thanh Viễn tiếp :
-Người tu hành phải lìa tình niệm, nếu không sẽ khổ. Giờ tôi hỏi các ông : Ông tăng đó đạp trúng con cóc hay quả cà ? Nếu là con cóc thì khi trời sáng sao lại nhìn ra là quả cà ? Nếu là quả cà thì sao trong mộng lại có cóc đến đòi mạng ? Ai có thể giải thích ?
(Thiền  Tư)
Người nghi ngờ quá nhiều thân không thể an.

1876.- Có  và  không.

Đại Điên khi chưa khai ngộ đến tham Thạch Đầu, hỏi :
-Người xưa bảo : nói có nói không đều là bài báng Phật pháp, xin thầy giải thích.
-Có và không là một thể hai mặt, có là không, không là có, có gì để giải thích ? Không cần giải thích.
(Thiền  Tư)
Trong khoảng có, không chứa nhiều huyền cơ.

1877.- Nghe  không  hiểu.

Có một ông tăng, tham thiền không lâu hỏi Quy Tông Trí Thường :
-Thầy có phương pháp nào để chúng con vào cửa Thiền nhanh chóng ?
-Có, pháp Quán Âm diệu trí lực có thể cứu khổ thế gian.
Ông tăng vội hỏi :
-Thế nào là Quán Âm diệu trí lực ? làm sao mới tu thành ?
Trí Thường thuận tay gõ vào đỉnh ba cái : đinh, đinh, đinh và hỏi :
-Ông có nghe không ?
-Có nghe.
-Sao tôi lại không nghe ?
Ông tăng mê hoặc, nghĩ cả nửa ngày không ra, rõ ràng là có tiếng sao sư phụ lại không nghe được ?
(Thiền  Tư)

Người tu hành chân chánh nhìn không thấy, nghe chẳng được. Tâm không tìm kiếm gì khác mới có thể chuyên tâm trì trí.

1878.- Muối  đắt,  gạo  rẻ.

Có ông tăng hỏi Triệu Châu :
-Hòa thượng năm nay bao nhiêu tuổi ?
-Một chuỗi hạt, đếm vô tận.
-Hòa thượng kế thừa ai ?
-Thiền sư Tòng Thẩm.
-Nếu có người hỏi Triệu Châu nói pháp gì, không biết hòa thượng trả lời sao ?
-Muối đắt, gạo rẻ.
(Thiền  Tư)

Những bậc tu hành lớn đều không lìa chi tiết sinh hoạt hàng ngày.

1879.- Không  thể  sờ  vào  kiếm.

Một ông tăng hỏi Tứ Xuyên Bố Thủy :
-Bảo kiếm mới đúc xong còn chưa mài thì thế nào ?
-Vô dụng.
-Chưa mài thì vô dụng, còn mài rồi thì thế nào ?
-Không sờ vào được.
(Thiền  Tư)

Mỗi người đều có tự tánh thanh tịnh nhưng vì tập khí chưa trừ được thì không khởi tác dụng gì, giống như bảo kiếm chưa mài không thể dùng. Bảo kiếm mài rồi sẽ sắc bén, đụng vào sẽ đứt tay. Người tu hành đắc Pháp thân rồi sẽ có thần thông diệu dụng, hành động phải thận trọng nếu không sẽ làm thương tổn đến người khác và tự hại chính mình. Chưa ngộ đạo thì phải cố gắng, ngộ rồi thì phải cố giữ gìn.

1880.- Hòa  thượng  và  công  sai.

Có vị hòa thượng phạm tội, bị công sai đến bắt đưa vào ngục. Trên đường đi, lúc nghỉ ngơi, hòa thượng mời công sai uống rượu, uống đến say mèm. Hòa thượng bèn cạo đầu công sai trọc lóc, sau đó trốn đi. Khi công sai tỉnh rượu, đi tìm hòa thượng khắp nơi mà không thấy đâu, vô ý thức gãi đầu thấy đầu trọc lóc, bèn tự hỏi :
-A ! Thì ra hòa thượng ở đây, còn ta ở đâu ?
(Thiền  Tư)

Đã có mấy người tìm ra ”ngã”.

1881.- Lớn  và  nhỏ.

Một ông tăng hỏi Đại Châu :
-Thế nào mới được coi là lớn ?
-Lớn.
-Lớn chừng nào ?
-Không giới hạn.
-Thế nào mới được coi là nhỏ ?
-Nhỏ.
-Nhỏ thế nào ?
-Nhìn không thấy.
-Lớn vô biên, nhỏ không thấy, chúng ở nơi nào vậy ?
-Ông nói coi nơi nào không có lớn, nhỏ ?
(Thiền  Tư)

Có lớn nhỏ vì có so sánh, không so sánh thì không có lớn nhỏ.

1882.- Khác  với  người.

Một ông tăng hỏi một thiền sư :
-Vân Môn, Triệu Châu đều không nói thế, thiền sư vì sao nói thế ?
Thiền sư không coi đó là ngỗ nghịch, bình tĩnh bảo :
-Mỗi nhà đều có bật lửa riêng.
(Thiền  Tư)

Mỗi  người đều  có đường riêng, tại sao phải  mô phỏng người khác ? Mô phỏng người khác sẽ đánh mất chính mình.

1883.- Quét  hết  bụi  trần.

Có ông tăng hỏi thiền sư Lạc Phổ Sơn Nguyên An :
-Người tu hành làm sao để về nhà ? Về nhà rồi thì sao ?
-Nhà bị phá rồi, ông còn muốn về đâu ?
Ông tăng kinh ngạc, tỉnh ngộ :
-Nếu đã không có chỗ về, vậy không về nữa ?
-Tuyết đọng ngoài sân sẽ bị mặt trời làm tan, nhưng bụi trong phòng ai quét ?
(Thiền  Tư)

Người ngộ đạo trước mắt sẽ là cảnh giới mới, không còn là cảnh cũ nữa.

1884.- Thuận  theo  tự  nhiên.

Phúc Châu La Sơn Đạo Nhàn tham bái Thạch Sương hỏi :
-Linh giác của tâm đã hiện, nhưng bị một khối niệm đầu bao bọc, trong lúc đó con phải dụng công thế nào ?
-Tốt nhất là đối diện với nó, vất bỏ tất cả mọi niệm đầu.
Ông tăng không vừa ý với câu trả lời này lại đi hỏi Toàn Hoát. Toàn Hoát nói :
-Tâm cuồng vọng nên ngừng thì ngừng, cứ thuận theo tự nhiên, để ý đến nó làm gì ?
(Thiền  Tư)

Tâm người phức tạp, khởi phục bất định, cứ để mặc tự nhiên.

1885.- Trên  đường  gập  hổ.

Một ông tăng hỏi Vân Cư Sơn Thiệu Hóa :
-Trên đường bỗng gặp một con hổ dữ thì phải làm sao ?
-Biết bao người khác không gặp hổ dữ, đủ biết tâm ông không thanh tịnh.
(Thiền  Tư)

Một người tâm hay thay đổi, làm sao làm việc được thành công?

1886.- Đạo.

Triệu Châu hỏi Nam Tuyền :
-Đạo không ở ngoài vật, ở ngoài vật không là Đạo, có Đạo ở ngoài vật không ?
Nam Tuyền bèn giơ gậy đánh. Triệu Châu nắm lấy gậy :
-Về sau thầy đừng đánh lầm người.
-Rồng rắn dễ phân, nạp tăng khó dối.
(Tứ  Lý  Thiền)

Người không ăn sẽ chết. Có người nào không ăn mà không chết không ? Đạo lý này thật rõ ràng nhưng điều tối kỵ là vẽ rắn thêm chân. Tây triết có câu chân lý nếu bước thêm một bước nữa sẽ thành sai lầm. Nhưng con người thích bước xa hơn chân lý. Đối với hạng người này lại không đáng đánh hay sao ?

1887.- Một  trở  về  đâu ?

Một ông tăng hỏi Triệu Châu :
-Vạn pháp trở về một, còn một trở về đâu ?
-Tôi ở Thanh Châu may một cái áo bông nặng 7 cân.
(Tứ  Lý  Thiền)

Triệu Châu dùng lời khôi hài để diễn tả chân lý : vạn pháp đều sanh từ “ngã” lại trở về “ngã”. Tôi may một cái áo bông rồi lại tự mặc trên người đó, thấy không ? (Xem thêm công án 1040)

1888.- Tâm  mình  là  Phật.

Đường Huyền Tông Khai Nguyên nguyên niên, Lục tổ Huệ Năng ở Quảng Đông Tân Châu, Quốc Ân Tự dùng xong bữa ngọ, đột nhiên hướng đại chúng tuyên bố :
-Các ông hãy ngồi yên, tôi sẽ cùng các ông vĩnh biệt.
Chúng đệ tử kinh sợ, có người bật khóc. Lúc đó đệ tử Pháp Hải bước ra chắp tay lạy, nén bi thương thưa :
-Sư phụ lưu lại di huấn gì để chúng sanh đời sau có thể tu thành Phật quả ?
-Các ông hãy nghe cho kỹ ! Nếu liễu ngộ tự tánh thì tất cả chúng sanh đều là Phật, nếu Phật tánh mê chấp thì Phật là chúng sanh. Nếu bản tâm không thiện hoặc bất chánh thì là Phật ở trong chúng sanh. Một niệm chân giác, bình đẳng vô sai biệt thì chúng sanh là Phật. Tâm các ông vốn là Phật, tự tâm Phật mới chính là Phật. Nếu các ông không có Phật tâm thì đi đâu mà tìm Phật thật ? Tâm các ông là Phật, đừng ngờ gì cả. Tôi đi đây !
(Nhất  Nhật  Nhất  Thiền)

Từ xưa đến nay những người biết trước tử kỳ đều ung dung tự tại đối với cái chết. Chúng ta những người còn đang sống hãy trân trọng mạng sống, hãy trân trọng mỗi ngày.

1889.- Thưởng  trăng. 

Khi Nam Tuyền và chúng đệ tử đang thưởng trăng, có một ông tăng cảm khái thưa :
-Không biết đến lúc nào con mới tu đến trình độ tâm sáng như trăng ?
-Vương lão sư 20 năm trước đã tới cảnh giới này.
-Vậy nay thầy đã đạt tới cảnh giới nào nữa?
Nam Tuyền không đáp tự trở về phòng phương trượng.
(Tứ  Lý  Thiền)

Người ở cảnh giới thấp cầu cảnh giới cao. Người ở cảnh giới cao lại cầu vô cảnh giới. Người đạt tới vô cảnh giới lại trở về trong sự sinh hoạt bình thường.

1890.- Ra  cửa  liền  là  cỏ.

Có ông tăng từ Động Sơn đến thăm Khánh Chư. Khánh Chư hỏi :
-Ông từ đâu tới ?
-Con từ Động Sơn tới.
-Động Sơn có lời gì dạy các ông ?
-Động Sơn nói : Đầu Thu cuối Hạ, các ông có người đi Đông, có người đi Tây, nên đi về nơi vạn dậm không tấc cỏ.
Một lúc sau lại hỏi :
-Vạn dậm không tấc cỏ ở đâu ?
Khánh Chư hỏi :
-Có người nào trả lời được không ?
-Không.
-Tại sao không đáp : Ra cửa liền là cỏ.
Ông tăng trở về báo cáo với Động Sơn, Động Sơn bảo :
-Đây là vị thầy của 1500 chúng.
(Nhất  Nhật  Nhất  Thiền)

Cỏ chỉ phiền não. Ra cửa liền là cỏ : Trong đời sống thế tục đâu đâu cũng có phiền não. Nếu muốn đến một nơi không một tấc cỏ thì phải nhổ cỏ ngay trước mắt. Trong sinh hoạt tâm thường chạy theo cảnh, chỉ có đạt được tâm tịnh thì mới tìm được tĩnh thổ không cỏ.        (Xem thêm công án 668)

1891.- Một  sinh  vạn  pháp,  vạn  pháp  trở  về  một.

Long Đàm Sùng Tín vốn người Hồ Nam. Khi chưa xuất gia, bán bánh bên cạnh chùa, nghèo khổ đến chỗ ở cũng không có. Đạo ngộ thương tình cho ông ở nhờ ở một gian  phòng nhỏ. Để trả ơn, Sùng Tín mỗi ngày đều mang biếu Đạo Ngộ 10 cái bánh. Mỗi lần Đạo Ngộ đều sai thị giả trả lại một cái. Một hôm Sùng Tín phản đối :
-Con mang bánh tặng thầy, tại sao mỗi lần  thầy đều  trả  lại một cái ?
-Ông mỗi ngày đều tặng tôi 10 cái bánh, tại sao tôi lại không thể trả lại một cái ?
-Thầy trả lại một cái là có ý gì ?
Đạo Ngộ cười ha hả :
-Trả lại một cái không đủ sao ? 10 cái ông không cho là nhiều, một cái lại cho là ít sao ?
Sùng Tín nghe rồi có chỗ sở ngộ, xin được xuất gia. Đạo Ngộ ưng thuận. Đạo Ngộ lại nói :
-Một sinh 10, 10 sinh 100, trăm sinh ngàn vạn, chư pháp đều do một sinh ra.
Sùng Tín đáp lại :
-Một sinh vạn pháp, vạn pháp đều là một.
(Nhất  Thiền  Nhất  Thế  Giới)

Đạo Ngộ cho Sùng Tín ở nhờ là của ta là của người, trả lại một cái bánh là của người là của ta. Đạo Ngộ đã làm cho Sùng Tín khởi nghi tình mà giác ngộ tự tha là một, tâm vật chẳng hai. Nguyên lai, vũ trụ vạn vật thiên sai vạn biệt chỉ là một tâm. Một tâm chứa vạn vật, vạn vật quay về một tâm, nếu thấy thế thì một và vạn vật còn sai biệt gì ?          (Xem thêm công án 997)

1892.- Làm  sao  ra  khỏi  ba  giới ?

Có ông tăng hỏi Hàng Châu Thiên Long (đệ tử của Đại Mai Trí Thường) :
-Làm sao để ra khỏi dục giới, sắc giới và vô sắc giới ?
-Hiện nay ông ở đâu ?
(Tứ  Lý  Thiền)

Thiền tông nhận định rằng : ba giới đều ở trong “Ngã”, giống như các cảnh biến ảo trong kính vạn hoa.

1893.- Thế  nào  là  huyền  chỉ ?

Có ông tăng hỏi Quy Tông Trí Thường :
-Thế nào là huyền chỉ ?
-Không ai hiểu được.
-Con nỗ lực nghiên cứu, truy tầm có được không ?
-Ông nghiên cứu, truy tầm là đã sai rồi.
-Nếu không nghiên cứu, truy tầm thì sao ?
-Nhưng ai là người nghiên cứu, truy tầm ?
Lại thêm :
-Ông nên biết huyền chỉ của Phật không cần nghiên cứu, truy tầm.
(Tứ  Lý  Thiền)

Trong đời người cưỡi lừa đi tìm lừa rất nhiều, họ đều đi tìm một cái gì bên ngoài, không biết hướng vào trong.

1894.- Rắn  gỗ.

Đời Đường, Tuyết Phong nhân thấy tiều phu mang củi về có một khúc rễ trông giống như một con rắn bèn khắc vào mấy chữ : “Vốn tự nhiên không khắc thêm gì”, rồi đem tặng cho Đại An. Đại An xem rồi nói :
-Bản sắc người ở núi là không dùng đao búa.
(Tứ  Lý  Thiền)

Tuyết Phong khéo quá hóa vụng, vẽ rắn thêm chân. Đại An mặt sắt vô tư, câu nói của ông có nghĩa là :”Nếu Tuyết Phong là người tu hành chân chánh thì không cần phải khắc gì thêm vào cái tâm vốn thanh tĩnh.

1895.- Mây  ở  trời  xanh,  nước ở  bình.

Đời Đường, Lý Cao, Hàn Dũ, Liễu Tông Nguyên v. v. lấy văn kết bạn. Lý Cao trước tác Phục Tánh Thư do Thiền vào Nho, về phương diện này kiến giải của ông so với Hàn Dũ thì cao thâm hơn nhiều, ông còn được coi là tiên phong của nhóm lý học gia sau này.
Lý Cao rất ngưỡng mộ đức hạnh của thiền sư Dược Sơn Duy Nghiễm. Khi ông nhậm chức Lương Châu Thích Sử đã nhiều lần mời thiền sư hạ sơn luận đạo, nhưng đều bị cự tuyệt. Lý Cao đành tự đến bái kiến, gập lúc thiền sư đọc kinh dưới gốc tùng. Tuy Thái thú thân đến bái phỏng, nhưng thiền sư không có ý nghênh tiếp. Thị giả nhắc :
-Thái thú đợi thầy đã lâu.
Thiền sư dường như không nghe, nhắm mắt dưỡng thần. Lý Cao là người nóng tánh, thấy thái độ thiền sư như vậy, tức giận nói to :
-Thật đúng là gặp mặt chẳng bằng nghe danh.
Nói rồi phất tay áo định đi. Dược Sơn lúc đó từ từ mở mắt ra hỏi :
-Sao Thái thú lại trọng tai khinh mắt như vậy ?
Lý Cao tạ tội và hỏi :
-Xin hỏi thế nào là giới, định, tuệ ?
Giới, định, tuệ là phương thức tiệm tu do Bắc phương Thần Tú đề xướng : trước tiên giữ Giới sau tiến tới Định, từ định sanh Tuệ. Nhưng Dược Sơn thuộc Nam tông của Huệ Năng chỉ giảng đốn ngộ. Do đó Dược Sơn nói :
-Nơi đây, tôi không có những chuyện vô dụng này. 
Lý Cao không hiểu xoay qua chuyện khác :
-Quý tánh của thầy là gì ?
-Chính lúc này.
Lý Cao càng không hiểu quay qua hỏi sư tổng quản. Tổng quản bảo :
-Thiền sư tánh Hàn. Nay là mùa Đông, trời chẳng đang lạnh (hàn) đó sao ?
Dược Sơn phì cười :
-Nói bậy không à, chẳng lẽ Thái thú đến vào mùa Hạ, tôi lại có tánh Nhiệt (nóng) hay sao ?
Lý Cao cũng không nhịn được cười, lại hỏi :
-Thế nào là Đạo ?
Thiền sư lấy tay chỉ lên trời rồi lại chỉ xuống đất, sau đó hỏi :
-Ông hiểu không ?
Lý Cao lắc đầu :
-Dạ, không.
-Mây ở trời xanh, nước ở bình.
Câu nói này có hai ý :
1.-Mây ở trời xanh, nước ở bình, cũng như mắt ngang, mũi dọc là bản lai diện mục của sự vật, chẳng có chỗ nào đặc biệt. Chỉ cần ông hiểu biết được bản chất của sự vật, ngộ kiến bản lai diện mục của chính mình thì sẽ hiểu Đạo là gì.
2.-Là nước trong bình cũng như tâm người chỉ cần giữ cho thanh tịnh, không bị ô nhiễm thì tâm liền trong trẻo. Dù đổ nước vào bình tròn hay vuông, nước cũng thích ứng được. Tâm cũng có thể cứng, có thể mềm, có thể lớn, có thể nhỏ giống như mây ở trời xanh tự do, tự tại.
Lý Cao hốt nhiên tỉnh ngộ, bèn đọc bài kệ :
Luyện được thân hình như vóc hạc
Dưới gốc ngàn tùng hai hòm kinh
Đáp câu hỏi Đạo không thừa thãi
Mây ở trời xanh, nước ở bình.
(Nguyên văn chữ Hán xem công án 1021)
(Nhất  Thiền  Nhất  Thế  Giới)

Dược Sơn Duy Nghiễm mới đầu cố ý không để mắt tới Lý Cao để bẻ gẫy ngạo khí và nộ khí của ông. Sau đó thấy ông đã tâm bình khí hòa rồi mới chỉ cho ông lý Đạo. (Xem thêm công án 1021)

1896.- Không.

Đường triều sơ niên, một hôm Tứ tổ Đạo Tín đi tới huyện Hoàng Mai (nay là Hồ Bắc), trên đường gặp một đứa trẻ nhỏ cốt cách, tướng mạo thập phần kỳ tú, không giống như mọi trẻ bình thường khác. Đạo Tín hỏi :
-Ngươi tánh gì ?
-Con dĩ nhiên là có tánh, nhưng tánh không giống như mọi người có.
-Vậy là tánh gì ?
-Phật tánh.
-Nói vậy là ngươi không có tánh sao ?
-Vạn sự, vạn vật bản tánh đều là “Không”, biến hóa vô thường, con tánh “không” cho nên nói không có tánh.
Đạo Tín thấy đứa nhỏ này là một pháp khí có thể truyền thừa Phật pháp, ông thầm chấp nhận, sau lại thâu làm đệ tử và truyền cho y bát. Đứa nhỏ đó là Ngũ tổ Hoằng Nhẫn.
(Tứ  Lý  Thiền)

Tánh danh là tự ngã, tự ngã là ai ? Tự ngã là cơ sở để ta cảm thọ, nhận thức, nếu không có ngã thì không có cảm thọ nhận thức. Nhưng cái ngã này là thực tại bất biến hay như Phật giáo chủ trương là “Không” ? Bụng nếu chẳng  “Không” thì không ăn được. Não nếu chẳng không thì cũng không suy nghĩ được. Thế giới này có cái gì là không biến đổi đâu, cái “không” này biến hay không biến ?               (Xem thêm công án 662)

1897.- Người  ăn  mày  mua  bánh.

Có một trưởng lão một chùa nọ tinh thông kỹ xảo làm bánh tiêu. Bánh tiêu của chùa làm vừa thơm, vừa ngon khiến các khách đến viếng cảnh đều vui vẻ mua để thưởng thức. Chùa càng ngày càng hưng thịnh. Một hôm có một gã ăn mày từ xa lại muốn thưởng thức bánh tiêu. Các chú tiểu thấy gã quần áo rách rưới hôi hám, ngăn không cho gã vào phòng bếp. Hai bên tranh cãi náo loạn. Lúc đó trưởng lão đi ra bảo đồ đệ :
-Kẻ xuất gia phải có lòng từ bi, các chú sao lại làm thế ?
Nói rồi thân lựa một cái bánh tiêu to cung kính đưa cho gã. Gã ăn mày rất cảm động, ăn xong mang 3 xu ra trả:
-Đây là tiền con xin được, xin trưởng lão nhận cho.
Trưởng lão thâu tiền, chắp tay nói :
-Đa tạ ! Thí chủ lên đường mạnh giỏi.
 Gã ăn mày đi rồi, chúng đệ tử phiền muộn hỏi :
-Trưởng lão đã bố thí sao còn nhận tiền ?
-Ông ta không ngại từ ngàn dậm tới chỉ để thưởng thức bánh tiêu, nên tôi tặng không cho ông ta. Nhưng không ngờ ông ta là người hiểu chuyện cho nên tôi lại nhận 3 xu của ông ta là để trân trọng và khích lệ, tương lai sự thành tựu của ông ta chắc là vô lượng.
Chúng đệ tử không cho là phải, nghĩ sư phụ là lão hồ đồ, chỉ nói chuyện trong mộng. Vào khoảng 10 năm sau, một vị phú thương đến lễ Phật, dâng cúng tiền nhang đèn rất nhiều. Chư tăng trông thấy đều kinh ngạc : Ông chính là gã ăn mày năm cũ.
(Nhất  Thiến  Nhất  Thế  Giới)

Bố thí bánh khiến gã ăn mày khỏi khổ vì đói, lại thâu tiền để thỏa mãn lòng tự tôn của gã. Ăn no chỉ giải quyết nhu cầu một thời, nhưng tôn trọng nhân cách một người sẽ khích lệ cả đời người ấy.

1898.- Sớm  đã  không  hợp Đạo.

Một ông tăng hỏi Mã Tổ Đạo Nhất :
-Làm sao để hợp Đạo ?
-Tôi sớm đã không hợp Đạo.
-Ý tổ sư từ Tây sang là sao ?
-Nếu tôi không đánh ông thì chư hòa thượng, đại đức mọi nơi sẽ cười tôi.
(Tứ  Lý  Thiền)

Đạo nói được thì không phải là Đạo thường. Nói thì dễ nhưng muốn thân, tâm, tánh, mạng tại mọi nơi cùng vũ trụ dung hợp làm một thì không thể dùng lời mà tả ra được.

1899.- Phật  là  thế  nào ?

Có ông tăng hỏi Bá Trượng :
-Phật là thế nào ?
-Ông lại là ai ?
-Con là mỗ.
-Ông biết rõ mỗ không ?
-Biết rõ ràng.
Bá Trượng giơ phất tử lên :
-Ông còn thấy không ?
-Thấy.
Bá Trượng lặng im.
(Tứ  Lý  Thiền)

Đối với Thiền tông mà nói thì người người đều là Phật, điều quan trọng là ông có nhận thức được chính mình không. Ngã là gì ? Có phải là hình trên tấm ảnh chụp ? Cái ngã này ngàn người, ngàn mặt, cứu cánh ngã là gì ? Thiền chỉ cho chúng ta phương hướng để tìm cái ngã này.

1900.- Bá  Trượng  hạ  đường.

Một lần Bá Trượng thuyết pháp xong, thấy đại chúng đang giải tán, bèn lớn tiếng hô :
-Đại chúng !
Đại chúng ngoảnh đầu lại tưởng Bá Trượng còn dặn dò gì, nào ngờ Bá Trượng hỏi :
-Là cái gì ?
(Tứ  Lý  Thiền)

Một người đang nằm mộng được một người khác gọi liền tỉnh mộng. Lúc đó người ấy thấy hiện cảnh và mộng cảnh hoàn toàn khác nhau. Nay chúng ta đang sinh hoạt, bỗng có người gọi ngã thì cái ngã trong ngã có tỉnh không ? Không phải ai cũng có kinh nghiệm này, nhưng khi cái ngã đó giác tỉnh thì sẽ thấy non xanh, nước biếc nhân gian đẹp làm sao !

1901.- Đánh  là  không  đánh.

Đại Đạo vô hình, cái vô hình này thường khiến gây ra nhiều chuyện cười. Có một thư sanh đến chùa lễ Phật. Một ông tăng trẻ coi việc tiếp khách thấy thư sanh quần áo lôi thôi, tầm thường không thèm để ý tới. Thư sanh rất giận gã tiểu hòa thượng này chỉ trọng bề ngoài thật đáng ghét. Một lúc sau một vị tài chủ quần áo sang trọng đến lễ Phật, tiểu hòa thượng lăng xăng chạy Đông chạy Tây, bưng trà ân cần tiếp đãi, dạ vâng liên hồi. Thư sanh bèn chất vấn :
-Cùng đốt hương lễ Phật, sao thầy lại đối đãi khác biệt ?
-Ông là người đọc sách hiểu lý chẳng lẽ không nghe nói qua chiêu đãi là không chiêu đãi, không chiêu đãi lại là chiêu đãi sao ?
Thư sanh nghe rồi cho tiểu hòa thượng một bạt tai :
-Ông vì sao lại đánh người ?
-Thầy không nghe nói sao ? không đánh là đánh, đánh lại là không đánh.
(Nhất  Thiền  Nhất  Thế  Giới)

1902.- Đơn  Hà  đùa  ni  cô.

Đơn Hà lúc trẻ lầu thông Tứ thư, Ngũ kinh, lên kinh đô để dự thi, được một thiền sư điểm hóa :
-Làm quan chẳng bằng làm Phật.
Đơn Hà bèn quyết tâm tu học, thành đại sư một thời.
Một lần có một ni cô đến hỏi :
-Thế nào là chân đế của Đạo ?
Đơn Hà không nói một lời, giơ tay vỗ vào mông cô.
Ni cô đỏ mặt, vừa ngạc nhiên, vừa tức giận :
-Không ngờ thầy còn cái đó !
-Không phải là tôi mà là cô. Đạo không xa người, người tự xa Đạo.
Một ông tăng trẻ chứng kiến chuyện này kể lại cho mọi người nghe, rồi kết luận :
-Nguyên lai sư phụ là kẻ hiếu sắc, trước mặt đại chúng mà dám dỡn ni cô.
Khóa lễ chiều có người đem chuyện này báo cáo cho Đơn Hà hay. Đơn Hà bèn cúi đầu lạy ông tăng trẻ :
-Ngã Phật từ bi ! Ngã Phật từ bi !
-Chà , chà con không phải là Phật, thầy nhận lầm người rồi.
-Tôi không nhận lầm người. Tôi lạy là lạy Phật mắt thịt, thai phàm không những nhận lầm người mà còn nhận lầm chính mình.
Ông tăng trẻ hốt nhiên tỉnh ngộ.
(Nhất  Thiền  Nhất  Thế  Giới)

Mắt thịt nhìn không nhất định là thật. Chân lý phải dùng tâm nhãn mới thấy.

1903.- Hạ  sơn.

Chư tăng muốn xuống núi phải được thiền sư cho phép. Có một ông tăng ở Lạc Phổ Sơn theo học với Nguyên An đã nhiều năm, tri giác hỏa hầu đã đạt, muốn xuống núi vân du tứ hải. Ông bèn hướng Nguyên An từ biệt. Nguyên An cười bảo :
-Ngoài núi còn có núi, bốn phía đều là núi, ông muốn xuống núi nào ?
Ý Nguyên An là ông xuống núi rồi sẽ gập nhiều khó khăn, ông có tín tâm và dũng khí để vượt qua không .
Đáng tiếc ông tăng này không hiểu huyền cơ, tưởng sư phụ không cho phép xoay người đi ra, trong lòng buồn phiền, trông thật khó coi. Sư đệ trông thấy bèn hỏi chuyện. Ông ta bèn thuật lại lời sư phụ. Sư đệ nghe rồi cười ha hả :
-Sư huynh, sư phụ khảo nghiệm huynh đó, sao huynh không đáp  “Trúc dậm không ngăn nước chảy, Núi cao chẳng cản mây bay “.
Ý câu này là một người nếu có quyết tâm thì không có gì cản được. Ông tăng nghe lời bèn đến gập Nguyên An lập lại câu nói trên. Thiền sư nghe rồi kinh ngạc, lại gạn hỏi cặn kẽ biết rõ đầu đuôi, tức giận mắng :
-Sư đệ ông cao thâm hơn ông mà còn chưa dám xin xuống núi. Ông hãy ở đây học thêm ít nữa.
Ông tăng mắc cỡ, từ đó chuyên tâm tu học, không dám đề cập đến chuyện xuống núi.
(Nhất  Thiền  Nhất  Thế  Giới)

Nửa bình nước có tiếng vang.

1904.- Gương  Cũ.

Thiền sư Hữu Đạo trên đường hành cước ghé vào một quán trà. Chủ quán cũng là một cao thủ trong chốn Thiền môn, thấy thiền sư bèn mời vào quán :
-Tôi có một vấn đề muốn thỉnh giáo thầy. Nếu thầy đáp được tôi xin cung dưỡng.
Hữu Đạo đồng ý.Chủ quán hỏi :
-Khi gương cũ chưa lau thì thế nào ?
-Tối như sơn.
-Khi lau rồi thì sao ?
-Chiếu trời, chiếu đất.
-Thật xin lỗi ! Tôi không cung dưỡng !
(Thiền  Vị)

Gương cũ dụ cho tự tánh. Tự tánh vốn thanh tĩnh, không sanh không diệt, tự chiếu sáng làm sao có thể phân ra lúc chưa lau và lau rồi ?

1905.- Tôi  là  thiền  sư.

Có một xí nghiệp gia rất thành công, ông thường cùng các vị thiền sư giao vãng, học hỏi. Có một lần ông kể chuyện với thuộc hạ :
-Tôi lần đầu gập Tĩnh Hải đại sư, lúc đó còn trẻ người non dạ, lòng đầy kiêu ngạo nên hỏi khó thiền sư :
-Thiền sư, Thiền tông nhận rằng vạn sự, vạn vật có sanh thì có diệt, vậy tương lai Thiền tông sẽ ra sao ?
-Sẽ bị tiêu diệt.
-Đã biết vậy sao thiền sư còn đối người đời tích cực, giảng thiền lý này ?
-Là thiền sư tôi có trách nhiệm đem ấn chứng của mình nói cho mọi người biết.
Sau một lát thiền sư hỏi lại tôi :
-Con người cuối cùng có chết không ?
-Đương nhiên là chết.
-Đúng rồi ! Làm việc gì cũng phải tận sức, dù biết là không làm được cũng phải gắng sức làm. Nếu như ngày mai có bị hủy, ngày hôm nay tôi vẫn nói cho ông biết thiền lý này.
Sợ tôi chưa hiểu rõ, thiền sư lại giảng thêm ;
-Trí tuệ Thiền giống như ánh sáng của ngọn nến, Thiền tông là ngọn nến. Nến cháy hết rồi, nhưng ánh sáng của nến vẫn tiếp tục từ đời nọ qua đời kia. Nói như thế thì Thiền tông bị tiêu diệt hay không nào có quan hệ gì ?
(Nhất  Thiền  Nhất  Thế  Giới)

Thật là một lời nói làm tỉnh người trong mộng.

1906.- Ngón  tay  của  tiểu  đồng. 

Thiền sư Câu Chi có một chú tiểu đồng thấy ai hỏi về Phật pháp sư phụ đều giơ một ngón tay lên, chú cũng bắt chước sư phụ.
Có người đem chuyện này mách Câu Chi. Câu Chi gọi tiểu đồng lại hỏi :
-Nghe nói chú cũng hiểu Phật pháp có phải không ?
Tiểu đồng cười gật đầu :
-Dạ phải !
-Phật là gì ?
Tiểu đồng giơ một ngón tay lên. Câu Chi rút con dao dấu trong tay áo ra, chặt đứt ngón tay của tiểu đồng. Tiểu đồng đau quá khóc ròng, xoay mình bỏ chạy. Câu Chi lớn tiếng gọi, tiểu đồng xoay đầu lại. Câu Chi giơ ngón tay lên. Tiểu đồng hoát nhiên đại ngộ.
(Danh  Thiền  Bách  Giảng)

Câu Chi giơ một ngón tay lên là biểu thị chứng ngộ cảnh giới không của mình. Tiểu đồng bắt chước cũng giơ một ngón tay lên, nhưng chẳng biểu thị được gì. Khi bị chặt đứt ngón tay tiểu đồng bị sự đau đớn trói buộc, may được Câu Chi lớn tiếng gọi liền tỉnh ra. Khi Câu Chi giơ ngón tay lên thì tiểu đồng liền ngộ ra rằng phải từ bỏ bắt chước, tự mình tự tu thì mới có thể tự chứng được tự tánh.     (Xem thêm công án 1078)

1907.- Khát  nước.

Có một lần Thế Tôn và một vị tỳ kheo cùng đi. Hôm đó trời rất nóng, hai người đi được một lúc thì thấy khát nước. Đức Phật liền bảo vị tỳ kheo :
-Ông hãy mang bình bát ra bờ sông đằng kia lấy nước.
Vị tỳ kheo này vâng lời, một lát sau trở lại thưa :
-Bạch Thế Tôn có một đoàn thương nhân lùa dê và ngựa của họ xuống tắm nên nước sông đục ngầu không uống được. Chúng ta nên đi thêm một quãng nữa rồi hãy lấy nước.
-Trâu bò không ăn cỏ ngay bên cạnh mà lại đi thêm mấy dậm nữa để kiếm cỏ non hơn sao ? Trên đời làm gì có chuyện ấy ! Chúng ta đang khát nước muốn chết còn phải đi mấy dậm nữa để kiếm nước trong ư ? Ông mau trở lại lấy nước sông ấy.
Vị tỳ kheo không vui nhưng vẫn tuân lệnh, tới nơi không thấy đoàn thương buôn đâu cả, dòng sông lại trong trẻo.
(Nhất  Thiền  Nhất  Thế  Giới)

Chẳng có dòng sông nào vĩnh viễn đục; đừng bỏ gần tìm xa, hãy chờ lúc thuận tiện cơ hội sẽ đến. Đó là trí tuệ của Đức Phật.

1908.- Đợi  chờ.

Có một chàng thanh niên chờ người yêu dưới một gốc cây cổ thụ. Chàng ta không có tánh nhẫn nại, cứ xoay qua xoay lại ngóng cổ mà trông. Lúc đó có một lão thiền sư đầu tóc trắng xóa cũng đến ngồi dưới gốc cây. Lão thiền sư đưa cho chàng một cúc áo và bảo :
-Này chàng thanh niên ! Nếu chàng muốn thời gian qua mau thì hãy xoay cái cúc áo này.
Chàng thanh niên cầm lấy cúc áo xoay thì thấy người yêu đôi mắt huyền long lanh đến gập chàng ngay. Chàng lại xoay cúc áo thì thấy hai người làm đám cưới, lại xoay nữa thấy sinh con cháu đầy nhà, nhà cửa sang trọng giầu có, lại xoay thì thấy có vài đứa con bất hiếu bán hết gia sản để cờ bạc, hai vợ chồng già nua bệnh hoạn chết thảm thiết.
Chàng bỗng nghe lão thiền sư hỏi :
-Chàng còn muốn thời gian qua nhanh nữa không ?
-Con đã chết rồi còn nhanh làm gì nữa ?
Ngay lúc đó, lão thiền sư thâu lại cúc áo, chàng thanh niên bừng tỉnh : trời vẫn xanh, chim vẫn hót, bướm bay vòng vòng. Chàng cảm thấy thời gian chờ đợi người yêu tới thật là sung sướng.
(Nhất  Thiền  Nhất  Thế  Giới)

Những người chỉ cần kết quả, coi nhẹ quá trình làm sao hưởng được hạnh phúc ?

1909.- Truyền  gì ?

Đạt Ma sau khi rời bỏ Lương Vũ Đế, vượt sông tới Tung Sơn Thiếu Lâm Tự, ngồi quay mặt vào vách 9 năm.
(Tứ  Lý  Thiền)

Đạt Ma ngồi lâu không nói như vậy là có ý gì ? Đó là giáo pháp của ông ? Là sứ mạng của ông ? Hay ông chờ đợi ai hay một cái gì ? Có ai hiểu không ?

1910.- Mèo  ăn  hồ  tiêu.

Một thiền sư hỏi đồ đệ :
-Làm cách nào để mèo ăn hồ tiêu ?
Đệ tử 1 :
-Bóp mũi nó rồi nhét hồ tiêu vào miệng.
-Dã man quá !
Đệ tử 2 :
-Bắt nó nhịn đói 3 ngày rồi trộn hồ tiêu với cá vào cơm, nó sẽ ăn.
-Vẫn không hay.
-Vậy phải làm sao ?
-Đem nước hồ tiêu bôi lên người nó. Thân bị cay nó sẽ liếm để khỏi bị cay. Dùng cách này không những nó tự nguyện ăn hồ tiêu lại còn khoái chí nữa.
(Nhất  Thiền  Nhất  Thế  Giới)

Nhiều khi chỉ suy nghĩ đơn giản không được, con đường vòng có khi lại là đường chánh.

1911.- Bồ  Tát  sát  sanh.

Một chú tiểu hỏi lão sư phụ :
-Bạch sư phụ, Bồ Tát còn sát sanh không ?
-Có chứ, Bồ Tát thường sát sanh không ngừng nghỉ. 
-Cái gì ? Bồ Tát sao lại sát sanh, lại còn thường làm nữa ?
-Vì cứu độ chúng sanh, trừ yêu diệt ma.
-Vậy là Bồ Tát cũng phạm giới sao ?
-Phạm giới lại là không phạm giới.
-Nghĩa là sao ?
-Phạm giới vì có tướng sát sanh, không phạm giới vì trong tâm không có sát niệm.
-Khi sát sanh thì Bồ Tát có tâm niệm gì ?
-Giúp người bị hại không bị chìm trong nước, cháy trong lửa, giúp người làm hại thoát khỏi vạn kiếp trầm luân.
-Bồ Tát sát sanh có sa địa ngục không ?
-Thường sa địa ngục.
-Đã biết phải sa địa ngục sao còn sát sanh ?
-Đó là tinh thần của Bồ Tát.
(Nhất  Thiền  Nhất  Thế  Giới)

Tôi không vào địa ngục thì ai vào ? Đó là trách nhiệm của Bồ Tát đối với chúng sanh.

1912.- Mộng  Giác  thiền  sư.

Thời vãn Đường có một vị thiền sư lập chí khổ hạnh tu thân, vân du tứ hải tìm học các vị tôn túc, trải nhiều năm vẫn chưa khai ngộ. Một hôm trên đường hành cước ông vào một tòa miếu đổ nát, nằm ngủ tạm bên đống gạch vụn. Bỗng ông nghe một tiếng sấm nổ vang trời, ông vội lồm cồm bò dậy thấy Phật tổ ngồi đoan tọa trong đám mây ngũ sắc. Ông liên thanh niệm :
-A Di Đà Phật ! A Di Đà Phật ! Cúi xin Phật tổ điểm hóa cho con.
Trong lúc lạy bỗng ông thấy đầu Phật biến thành đầu chuột chí chóe :
-Thật đáng nực cười cho loài người, đầu gối mềm sèo bảo quỳ là quỳ !
Thiền sư nổi giận đang nghĩ cách trừng trị con chuột hỗn láo này thì một con mèo xuất hiện vồ lấy con chuột định ăn. Con chuột kêu lên :
-Không được ăn ta ! Hãy quỳ lạy mau, ta là đại diện cho Phật.
Con mèo không nói năng gì cắn đứt đôi con chuột ra, lại chia cho thiền sư một nửa :
-Hòa thượng, ông cũng ăn đi.
Thiền sư sợ quá giật mình tỉnh giấc, hoảng nhiên đại ngộ :
-Ta thật ngu xuẩn, đúng là cưỡi lừa tìm lừa. Ta chính là một vị Phật sống việc gì phải đi khắp nơi tìm lạy Phật giả ?
Thiền sư cả cười, từ đó lấy hiệu là Mộng Giác.
(Nhất  Thiền  Nhất  Thế  Giới)

Mọi người đều là Phật thật, việc gì phải đi tìm Phật ở đâu .

1913.- Tứ  tổ  kháng  chỉ.

Tổ thứ 4 của Thiền tông là Đạo Tín đại sư trú ở Hoàng Mai 30 năm. Niên hiệu Trinh Quán, Đường Thái Tông ngưỡng mộ tiên phong đạo cốt của Đạo Tín phái sứ giả đến mời vào kinh gập mặt. Sứ giả truyền ý chỉ của Hoàng Đế, Đạo Tín nghe xong chỉ nói :
-Xin ông thay tôi cảm tạ thạnh ý của Hoàng thượng. Tôi đã già rồi, quá quen thuộc với cảnh núi rừng, chẳng muốn vào sống cảnh phồn hoa nơi đô thị.
Sứ giả thuật lại cho Thái Tông nghe, Thái Tông lại sai sứ giả lại mời nữa. Đạo Tín lại từ chối :
-Xin  trình  Hoàng thượng  tôi  già  nua bệnh  hoạn không  thể  tiến kinh.
Đạo Tín cương quyết từ chối, sứ giả không có cách nào chỉ đành về bẩm lại. Đường Thái Tông bị cự tuyệt trong lòng không vui, sai người khênh kiệu đến mời. Đạo Tín vẫn từ chối. Thái Tông nổi giận sai sứ giả mang dao đến uy hiếp, nếu không tiến kinh thì sẽ chặt đầu. Đạo Tín không sợ sệt, vươn cổ chờ chém. Sứ giả kinh sợ trở về tâu lại. Thái Tông đành phải kính trọng chí hướng của Đạo Tín không dám mời thỉnh nữa.
(Nhất  Thiền  Nhất  Thế  Giới)

Cổ thánh hiền trong tâm có đại chí nên coi tiền bạc như đất bùn, công danh như mây nổi. Người có chí mọi việc đều có thể làm được.

1914.- Tin  và  không  tin.

Đời Đường một ông tăng thuộc Tịnh Độ tông hỏi Huệ Trung :
-Kinh Thư có nói :
Xanh xanh tạp trúc đều là pháp thân
Xum xuê hoa vàng chẳng phải là không Bát Nhã.
Là nói mọi sự, mọi vật đều có Phật tánh, không biết ý đại sư thế nào ?
-Phật tâm tràn đầy pháp giới, phổ hiện ở tất cả quần sanh, tạp trúc không ra ngoài pháp giới sao chẳng phải là pháp thân. Kinh Bát Nhã nói sắc vô biên, cho nên Bát Nhã cũng vô biên. Hoa vàng không ra ngoài sắc giới, há chẳng phải là Bát Nhã ?
Ông tăng thấy thiền sư dẫn kinh điển hóa giải được câu hỏi khó của mình, lại hỏi :
-Người tin câu nói đúng hay người không tin câu nói đó đúng ?
-Người tin là tục đế, người không tin là chân đế.
-Người không tin là tà kiến, sao thiền sư nói là chân đế ?
-Người không tin tự mình không tin, chân đế là chân đế. Phật tổ cho sanh là khổ, chúng sanh coi sanh là vui, nguyên nhân ở đâu? Mỗi người có cảnh giới riêng, ông tin Phật tổ hay tin chúng sanh?
(Nhất  Thiền  Nhất  Thế  Giới)

Chuyện đời tốt hay xấu, tin hay không tin không quan trọng, quan trọng là nhận rõ bản chất sự tình.

1915.- Phật, Tổ  truyền  pháp.

Đạo Nguyên thượng đường nói :
-Phật thân truyền cho Phật, tổ sư cùng truyền từ đời này sang đời khác, cứu cánh họ truyền cái gì ? Nếu các ông muốn biết thì hãy coi tam thế chư Phật, lục đại Tổ sư như đi giép rách, dùng môi (đồ dùng để múc cháo) cũ. Nếu các ông hãy còn nghi, hãy nhìn dưới chân, Vĩnh Bình tôi chính ở dưới đó.
(Đạo  Nguyên   Ngữ  Lục)

Phật, Tổ truyền là truyền đạo lý phải do công phu của chính mình mà lãnh ngộ, chứ không phải là tiếp nhận cái gì do người khác truyền.

1916.- Thân  tâm  thoát  lạc.

Đạo Nguyên thượng đường nói :
-Khi thân tâm thoát lạc rồi thì sẽ không chấp trước ngoại cảnh. Lúc đó, nếu không triệt ngộ thì cũng không còn bị mê hoặc nữa. Thử hỏi trong đây có vị khách nào từ Giang Nam tới, nghe được ngoài tiếng chim Chá Cô còn có tiếng đàn ?
(Đạo  Nguyên  Ngữ  Lục)

Người đã giác ngộ, khi nghe tôi thuyết pháp có thể nghe được thanh âm của chân lý – là tiếng chim Chá Cô – mà nhớ về Giang Nam (cố hương).

1917.- Vốn  không  một  vật.

Đạo Nguyên thượng đường nói :
-Người biết vốn không một vật thì vạn sự, vạn vật đều hiển hiện, không dấu diếm gì.
(Đạo  Nguyên  Ngữ  Lục)

Đạo Nguyên dẫn lời của Lục Tổ (vốn không một vật) và của Khánh Chư (tất cả đều hiển hiện)

1918.- Lâu  không  nói  pháp.

Đạo Nguyên thượng đường nói :
-Đã lâu Hưng Thánh không nói pháp cho đại chúng nhưng Phật điện, Phật đường, tiếng suối, bóng cây đều vì các ông nói pháp, các ông có nghe không ? Nếu nghe thì chúng nói gì ? Nếu không nghe được thì là mình tự phụ mình, uổng phí diệu pháp.
(Đạo  Nguyên  Ngữ  Lục)

Nếu các ông không hiểu thì các ông đã hạnh phụ tự nhiên vô thượng diệu pháp.

1919.- Bà  Tu  Mật.

Bà Tu Mật là tổ thứ 7 của Thiền tông Ấn Độ. Ông đặt một chung rượu trước mặt tổ thứ 6 là Di Dá Ca, vái lạy rồi đứng hầu một bên. Tổ Di Dá Ca hỏi :
-Đây là chung của tôi hay của ông ?
Bà Tu Mật còn đang ngẫm nghĩ, tổ Di Dá Ca lại nói :
-Nếu ông nghĩ là của tôi thì đó là bản chất nội tại của ông, nếu ông nghĩ đó là của ông, thì tôi sẽ truyền pháp cho ông .
Nghe lời này Bà Tu Mật giác ngộ được tự tánh.
(Zen  Light)

Các thiền sư đều cho rằng cách học tốt nhất là hãy tự làm trống rỗng cái chung của mình. Nếu chúng ta đem đến thiền sư một cái chung đầy những ý tưởng, lý thuyết, kiến thức v. v . thì còn chỗ đâu để học những cái mới nữa ? Công án này còn đi xa hơn một bước nữa là quẳng cả cái chung đi. Chẳng có cái chung nào cả.

1920.- Đề  Ca  Đa.

Đề Ca Đa là tổ thứ 5 của Thiền tông Ấn Độ. Ông nói :
-Xuất gia để trở thành một vị tỳ kheo là vô ngã, là không sở hữu một cái gì. Bản tâm không sanh, không diệt nên là thường đạo. Chư Phật đều là chân thường. Tâm không hình tướng nên bản thể cũng vậy.
Tổ thứ tư là Ưu Ba Cúc Đa xác nhận :
-Ông đã giác ngộ tự tâm ông.
(Zen  Light)

Đạo không phải là lý thuyết, giáo điều, cũng không phải là triết lý, thần học. Chúng ta nghĩ chúng ta có thể hiểu Đạo. Chúng ta nghĩ chúng ta biết khi nói về Thiền. Nhưng nói về thiền là chúng ta đã đánh mất nó. Chúng ta đập đầu vào tảng đá của công án. Chúng ta nghĩ chúng ta đã đạt được và chúng ta hiểu nó. Nhưng có đúng thế không ? Có thể biết một cái gì sao ? Biết là ở một vị thế. Chúng ta bất tri, bất giác và tự động gạt bỏ những gì khác vị thế với chúng ta. Chúng ta có thể nắm một vật bất động trong tay và nói đây là nó không ? Không vì mọi vật luôn thay đổi. Không biết lại trở thành thực tiễn khi đối diện với một vấn đề. Không biết lại là phương thức tốt nhất để biết vì không biết là trạng thái cởi mở, tiếp nhận bất cứ cái gì xẩy ra. Động Sơn có câu :
Khi người gỗ hát
Thạch nữ đứng dậy múa.
Làm sao người gỗ có thể hát, thạch nữ có thể múa ? Trong vị thế không biết mọi sự đều có thể xẩy ra.

1921.- La  Hầu  Đa  La.

La Hầu Đa La là tổ thứ 16 của Thiền tông Ấn Độ. Ông theo học với tổ thứ 15 là Ca Na Đề Bà, khi ông  được nghe nhân duyên của nghiệp ông liền giác ngộ.
(Zen  Light)

Công án này nói về nghiệp. Cha của La Hầu Đa La có một khu vườn, trong đó có một cây đại thọ sanh ra một thứ nấm lạ, mỗi khi hái xong, nấm lại mọc ra liền. Ca Na Đề Bà đến thăm hai cha con La Hầu Đa La. Họ hỏi ông về cây nấm và Ca Na Đề Bà giải thích rằng lúc trước gia đình La Hầu Đa La có cung dưỡng một vị tỳ kheo, tuy nhiên vị này chưa mở đạo nhãn. Do đó những bố thí này đều vô ích. Khi vị tỳ kheo này chết, ông biến thành nấm để trả nợ cũ. Các nghiệp do thân khẩu ý chắc chắn sẽ hiện ra quả. Sống thiền là sống vô chấp : không chấp vào vật chất ta có, hay tinh thần ta đạt được. Bất cứ làm gì chúng ta cũng làm hết sức với lòng từ bi, chúng ta sẽ không trở thành cây nấm để trả nợ.

1922.- Sự  kỳ  đặc.

Đạo Nguyên thượng đường kể lại công án có một ông tăng hỏi Bách Trượng :
-Thế nào là chuyện kỳ đặc ?
-Bách Trượng ngồi một mình trên đỉnh núi Đại Hùng. Nay nếu có người hỏi Vĩnh Bình tôi câu hỏi này tôi sẽ đáp :
-Đánh trống tụ chúng lại nói pháp.
(Đạo  Nguyên  Ngữ  Lục)

Bách Trượng là Bách Trượng, Vĩnh Bình là Vĩnh Bình, hai người đều có sinh hoạt riêng. Sự kỳ đặc là sự sinh hoạt bình thường hàng ngày.

1923.- Thế  nào  là   tâm  Phật ?

Đường Tuyên Tông hỏi thiền sư Hoằng Biện :
-Thế nào là tâm Phật ?
-Phật nghĩa là giác, là người có trí tuệ giác chiếu làm Phật Tâm. Tâm là tên khác của Phật. Tâm dạng nào cũng có, nhưng bản chất thì đồng, không có hình trạng, nhan sắc, nam nữ sai biệt. Phật Tâm tại trời không phải là trời, tại người không phải là người nên có thể hiện làm trời, làm người, làm nam, làm nữ, không có bắt đầu cũng không có kết cuộc, không sanh, không diệt nên gọi là tánh linh giác.
(Thiền  Tư)

Mỗi người có vị trí, nhiệm vụ và tác dụng riêng, có thể tận tâm tận lực làm hết bổn phận mình, đó là Tâm Phật.

1924.- Không  dấu  vết.

Một ông tăng hỏi Ba Tiêu Sơn Viên :
-Các vị Bồ tát không có thần thông thì có hình, có tướng, tại sao không tìm ra tông tích của họ ?
-Tu hành có nhiều tầng lớp, chỉ có những người có cùng cảnh giới mới nhận biết rõ ràng những hiện tượng của cảnh giới ấy, còn không thì có nói ra ông cũng không hiểu.
-Cùng cảnh giới thì mới biết, còn thầy có biết không ?
-Tôi không biết.
-Vì sao thầy không biết ?
-Chẳng phải là thi sĩ thì không bàn về thơ, ông vốn không hiểu lời tôi nói.
(Thiền  Tư)

Người không cùng cảnh giới thì không giao lưu được.

1925.- Kiếm  không  lưỡi.

Một ông tăng hỏi Tào Sơn Bản Tịch :
-Thế nào là kiếm không lưỡi, nó có dạng thức nào ?
-Không do gang thép luyện thành .
-Khi dùng thì sao ?
-Người nào gập phải đều mất mạng.
-Gập phải thì mất mạng, còn không gập thì sao ?
-Cũng bị rơi đầu.
-Thật là uy lực rất lớn, nhưng con vẫn không hiểu : người gập mất mạng đã đành, nhưng còn người không gập vì sao cũng bị rơi đầu ?
-Đặc điểm của kiếm không lưỡi là “không, vô” đương nhiên có thể kết thúc mọi sự việc.
-Cùng tận mọi sự rồi sao ?
-Người tu chặt đứt hết mọi dính mắc chân chính đạt tới cảnh giới vô tướng, vô vật sẽ biết rõ uy lực của kiếm không lưỡi.
(Thiền  Tư)

Ý của thiền sư là phải bỏ tất cả mọi chấp trước.

1926.- Châu  ở  đâu ?

Một hôm Phật Nhật đến bái phỏng Vân Cư Đạo Ưng, thi lễ xong rồi  Phật Nhật bèn hỏi :
-Trong khi tu hành giác tri và vọng tưởng như hai con rồng tranh châu, không biết con nào được châu ?
-Vọng tưởng thì tôi cũng đã bỏ được nhiều rồi.
-Nếu đã vậy thì ông thấy châu ở đâu ?
Phật Nhật á khẩu không trả lời được.
(Thiền  Tư)

Châu mà tâm vọng tưởng đi tìm không phải là bảo châu chân chính. (Xem thêm công án 1667).

1927.- Không  vì  cảnh  mà  động  tâm.

Có ông tăng hỏi Bảo Thọ Thiệu thiền sư :
-Sau khi khai ngộ rồi, nội tâm thâm xứ bị tình cảnh nhiễu loạn thì phải làm sao ?
-Mặc kệ nó.
Ông tăng như vừa tỉnh mộng lạy tạ. Thiền sư nghĩ thầm mình vừa bảo đừng động tâm, sao lại động nữa rồi ? Bèn lớn tiếng mắng :
-Đừng động tâm nữa nếu không tôi sẽ đánh cho ông một trận.
(Thiền  Tư)

Người tu dù ở trong cảnh huống nào cũng không được khởi tâm tương ứng, tâm phải như tường đồng vách sắt.

1928.- Đừng  chấp  danh  tướng.

 Một ông tăng hỏi Chân Giác Linh Chiếu :
-Dưới gốc bồ đề độ chúng sanh, hình dáng cây bồ đề như thế nào ?
-Giống cây khổ luyện.
-Vì sao giống cây khổ luyện ?
-Hình dáng cây bồ đề đối với sự tu hành của ông có quan hệ gì ? ông chỉ chấp vào danh tướng. Ngựa tốt chỉ thấy bóng roi đã chạy, ông không phải là ngựa tốt, thấy roi mà cũng không nhúc nhích.
(Thiền  Tư)

Chấp vào danh tướng thì không hiểu được “Không” của Phật pháp.

1929.- Người  tỉnh  táo.

Có ông tăng hỏi Đoan Châu Đạo Hư :
-Người khai ngộ và người không khai ngộ cùng đến thỉnh giáo thầy, xin hỏi thầy giáo huấn họ thế nào ?
-Ông có thấy ngọn núi kia còn thiếu mấy tấc đất bùn nữa chăng ? Mỗi người đều tự có trí lực.
-Dĩ nhiên là vậy, nhưng sao còn có người đi năm non bẩy núi để tìm kiếm ?
-Những người này bị tục niệm, vọng tưởng làm cho mất bản tánh, cần thiền sư chỉ cho chỗ mê.
-Còn có người không bị cuồng vọng không ?
-Có.
-Là người nào ?
-Thông qua trí tuệ có thể hiểu biết các hiện tượng, không bị ngoại cảnh làm bận tâm, những người này vĩnh viễn không sa vào cảnh cuồng vọng.
(Thiền  Tư)

Ngoại cảnh dễ làm người mê, làm người tỉnh táo rất khó.
 
 

c

Nguồn: www.quangduc.com

Về danh mục

tình yêu doi mat va chuyen hoa kho Muốn giảm cân hãy ăn bơ Muốn giảm cân vi tet cua nhung dua con xa que Hãy cẩn thận khi ăn nấm Muốn giảm cân hãy ăn bơ Thu tinh trong ống nghiệm Mát lành bổ dưỡng sữa hạt sen Nhớ chợ hoa Hàng Lược Bông cải xanh giúp phòng ngừa ung thư tinh than thien tong Khánh Ngoại lời dạy căn bản của phật giáo Đầu năm theo mẹ đi chùa qua Đâu chỉ bạc hà mới chua ân Đâu chỉ bạc hà mới chua Đậu phụ non sốt dầu hào Tương làng Bần Sinh tố dưa hấu dâu tây Về mẹ thân yêu cửa Thiền và Hậu hiện đại Thầy ơi bai hoc quy gia tu loai chim Tuyệt Bóng hieu ro hon ve sac tuc thi khong Điện Ngọn nguồn yêu thương Những thằng già nhớ mẹ 無量義經 trên Tin Ä Æ gia tri thuc tien cua triet ly xa hoi tinh do Sinh tố bơ 30 giây thôi Lễ giỗ Đệ tam Tổ Trúc Lâm Giới thiệu về Tổ sư thiền mua xuan trong dao phat Ăn chay đẩy lùi độc tố Khi nào cần thuốc sinh tố Mẹ LÃ i VÃ Æ 寺院 募捐 Khi nào cần thuốc sinh tố