.
LAI QUẢ THIỀN SƯ
THIỀN THẤT KHAI THỊ LỤC 
Việt Dịch: THÍCH DUY LỰC
Tiểu Sử 
Phần 1
Phần 2
Phần 3
Phần 4
THIỀN THẤT KHAI THỊ LỤC
PHÁP NGỮ KHỞI THẤT

Phật lịch 2486, tức năm Dân Quốc thứ 31 (1942) âm lịch năm Nhâm Ngọ. Khai thị thiền thất trong thời kỳ tháng mùa đông kiết chế, khởi đầu từ ngày 15 tháng 10 đến ngày 27 tháng chạp tại Chùa Cao Mân, sông Tam Xoa, đất Dương Châu, tỉnh Giang Tô.

Sư cầm hương bản nói rằng:

Lư khai đại dã chính tư thời
Vạn thánh thiên hiền tổng tận tri
Thiết ngạch đồng đầu tề hạ luyện
Hư không ngõa lịch mạc nghi trì
Trùng thiên thám, mãnh gia truy
Thái không phá hậu mạc đình chùy 
Trực đãi sinh tiền thoát lạc tận
Khoái tương tự kỷ tróc sinh hồi.

Khởi!

Tạm dịch:

Mở lò đãi luyện vàng chính là lúc nầy
Muôn Thánh ngàn Hiền đều biết cả.
Những kẻ cứng đầu, cứng cổ đều phải bỏ vào lò luyện
Không phân biệt hư không hay ngói bể đều không được chậm trể.
Hãy thêm than, thổi cho mạnh nữa.
Mặc dù đập bể hư không rồi cũng không ngưng chùy
Cho đến sinh tiền đầu rơi thoát sạch hết
Mau mau tìm bắt cái bổn lai của mình về
 


KHỞI THẤT:

Hôm nay nhà Chùa vì các ông khởi thất cho nên một số người phải bận rộn:

thiền đường, ngoại liêu, thủ lĩnh, hành đơn cho đến những người ở ngoài Chùa đều rất bận rộn. Vì các ông đả thất, chẳng những người trong ngoài Chùa bận rộn mà có lẽ thập phương Chư Phật, Chư Đại Bồ Tát, Hộ Pháp Long Thiên cũng bận rộn không xiết. Nói chung ấy là vì các ông đả thất.

Ta hỏi các ông: "Đả thất là làm việc gì sao lại làm bao nhiêu người bận rộn như vậy? Cái đó còn chẳng kể làm gì, ngay cả thập phương Chư Phật, Chư Đại Bồ Tát, Hộ Pháp Long Thiên so với chúng ta lại còn bận rộn hơn nữa, bận rộn việc gì vậy, các ông có người nào biết được không? Đả thất là làm cái việc gì? Có lẽ có người còn chẳng hiểu được. Trong lòng các ông nói rằng: "Những cực khổ lúc bình thường đã quá lắm rồi, nay lại còn phải đả thất. Thầy nói nghe thì hay đấy, vì chúng tôi đả thất, lại nói thập phương Chư Phật, Chư Đại Bồ Tát, Lịch Đại Tổ Sư, Hộ Pháp Long Thiên đều vì chúng tôi mà bận rộn. Bận rộn là bận rộn việc gì, chẳng qua chỉ đem đến thêm chút khổ nữa cho chúng tôi phải chịu đựng chứ có việc gì khác nữa đâu!".

Đúng thật đáng thương xót! thương xót không thể nói được. Các ông tuy ngu mê như thế nhưng ta vẫn chiếu theo quy củ của nhà Chùa để làm việc. Các ông phải hiểu được là: Quy củ đả thất rất nghiêm khắc, khác với lúc bình thường. Vậy khác ở chỗ nào? Ấy là ngày nay các ông xin phép sanh tử ở các vị Tổ quá khứ và cũng xin phép sanh tử với ta, ta hứa cho phép sanh tử, vậy sanh tử các ông nằm trong hai tay ta, muốn cho các ông sống thì sống, muốn cho chết thì chết. Đứng ngay chỗ nầy chết. Lúc bình thường sắc thân các ông giao nhà Chùa còn tính mệnh phó cho Long Thiên, trong thời kỳ đả thất thì không như vậy, sắc thân, tính mệnh đều giao trọn trong tay ta. Quy củ nghiêm khắc là như thế nào? Ta đại khái đem ra nói cho các ông nghe. Từ nay về sau trong thời kỳ đả thất, Tăng chúng và các vị hành đơn đều không chắp tay chào các vị duy na, không hỏi thăm ban thủ, cũng không chắp tay hỏi thăm ta. Trong thời kỳ đả thất Phật cũng chẳng lạy, hương cũng chẳng đốt, thì các ông chắp tay hỏi thăm để làm gì? Ta vì các ông nói trước thế nầy: Việc lớn hơn hết là bệnh nặng, việc lớn nhất đã không có rồi, nói gọn lại là bệnh. Một khi có bệnh thì chẳng phải là chắp tay xin duy na cho nghỉ sao? Vị duy na không dám cho nghỉ có phải chắp tay xin ban thủ chăng? Không được, vị ban thủ lại dám cho các ông nghỉ bệnh ư? Chẳng những là phép nghỉ bệnh, nghỉ chạy hương, nghỉ kinh hành cho đến hết thảy các việc nghỉ phép, ban thủ, duy na đại khái đều không dám to gan như thế đâu. Vì sao vậy? Các ông xin phép sanh tử, không phải xin ban thủ, duy na mà phải xin ta, các vị kia dám thay ta cho phép ư? Vậy khi nào có bệnh thì làm cách nào? Chẳng có cách nào hết, sống cũng đả thất, chết cũng đả thất, mạnh cũng đả thất, đau cũng đả thất, chung quy là đả thất. Ngay khi bệnh nặng, đứng cũng chẳng nổi thì làm sao chạy được? Nếu các ông thực đã đến lúc chẳng còn có thể chạy được đi nữa thì phải đem thân thể các ông quăng xuống đáy quảng đơn (giường ngủ chung của đại chúng). Các ông bệnh cũng được, sống cũng được, chết cũng được, đợi sau khi giải thất thì mới đưa đi chôn, dù năm người hay ba người cũng quăng xuống đáy quảng đơn. Đây là cách giải quyết kẻ có bệnh. Lại nữa, các ông trong thời kỳ đả thất, đi hương, ngồi hương, quả đường cho đến đại tiểu tiện mà quày đầu một cái, hoặc cười đùa, như thế thì ta bảo các ông biết: Các ông phải mất mạng đó. Thế là sao? Một khi các ông đã đến thiền đường thì hương bản của các vị ban thủ, duy na đều quay về các ông mà đập xuống. Một, hai chục hương bản chẳng kể đầu, mắt, tai cứ đánh hết, đánh rồi mà không chết vẫn phải đả thất. Nếu như đánh các ông bị thương thì làm cách nào? Thì cũng phải liệng các ông xuống đáy quảng đơn. Sau khi giải thất rồi thì đem đi chôn một lượt. Chẳng phải như lúc bình thường đánh chết rồi đem đi chôn, đánh bị thương rồi thì đưa vào liêu như ý (nhà y tế ở tòng lâm).

Thời kỳ đả thất thì không như thế. Vậy thì Chùa Cao Mân đánh chết người chẳng coi việc đó ra gì sao? Những năm qua trong thời kỳ đả thất cũng có mấy người bị đánh chết, đây là việc bình thường chẳng có gì là lạ. Ta đã h cáo các ông nhiều rồi: những quy củ nào ta đã giao rõ cho thì các ông phải làm đúng như thế, chẳng vì tình riêng tư, không được sai chạy một chút. Ta nói gọn lại một câu: Có bệnh gần chết không được xin nghỉ bệnh, chết rồi liền đem quăng xuống đáy quảng đơn. Phạm quy củ đánh chết rồi cũng quăng xuống đáy quảng đơn. Ta đã dặn dò các ông rõ ràng, mảy may không được sai chạy. Lại nữa, lúc bình thường, các ông trong khi tịnh muốn đi ngoài thì xin phép với duy na, duy na đánh sáu hương bản thì có thể mở cửa đi ra được. Trong thời kỳ thiền thất chẳng cho như vậy, vì rằng một ngày 12 nén hương thì có thể 24 lần đi ra ngoài. Dù cho các ông có đau bụng muốn đi ngoài thì có ít nhiều thì giờ để đi chăng? Bất cứ cây hương nào cũng không cho phép mở cửa. Các ông dù có iả ngay ra quần hay ỉa trên nệm ngồi thì cũng không quái lạ gì các ông cả, iả ra trên nệm thì có thể được chứ mở cửa thì không thể được. Các ông phải lưu tâm. Đả thất là làm việc gì? Các ông phải hiểu cho rõ ràng, không có gì hơn ngoài việc tham thiền, ngộ đạo, liễu sanh thoát tử. Muốn tham thiền mà chẳng tham câu thoại đầu thì không được. Muốn liễu thoát sanh tử thì cũng tham câu thoại đầu thì mới liễu được. Các ông phải phát tâm đi. Hãy tham.

KHAI THỊ
Ngày 16 tháng 10 (thất đầu ngày đầu)

"Lương y chi môn bệnh giả đa" (Thầy thuốc giỏi nhiều bệnh nhân đến). Người đời khi có bệnh đều phải đến thầy thuốc, ông bệnh nào thì lương y cho ông uống thuốc nấy, ông ta theo chứng bệnh mà cấp thuốc đến khi bệnh dứt được, đó là lý lẽ nhất định của pháp thế gian, pháp xuất thế gian cũng như vậy. Chúng ta từ vô lượng kiếp cứ mắc bệnh mãi cho đến ngày nay, hết thảy người đời chỉ biết sự đau đớn trên xác thân mình, còn một thứ đại bệnh mà chẳng biết tí nào cả. Người thế tục chẳng biết có cái đại bệnh nầy thì còn nói được đi vì họ từ mê nầy vào mê khác, thiện căn ít nên không thể lạ gì họ, các ông là người dụng công tu đạo, liễu thoát sanh tử mà tại sao lại cũng giống họ vậy? Các ông cứ cho mình là mình tốt hơn người thế tục. Ta hỏi các ông: "Có bệnh không?" Các ông nghe hỏi vậy trong lòng không vui, nghĩ: "Người khỏe mạnh tại sao hỏi có bệnh hay không? Từ sáng đến tối ăn mấy tô cơm, trà cũng uống, nước cũng uống thì có bệnh gì; có bệnh thì có chỗ nào tốt đâu?" Đúng đấy, thực là khổ sở lắm! Cái bệnh lớn như thế thì cũng loàng xoàng mà qua đi thôi. Ta thấy các ông như thế trong lòng thật bất nhẫn tỷ như: một nhà thương lớn có giám đốc, có y sĩ, người đến, người đi đều là để khám bệnh. Bác sĩ hỏi ông: "Có bệnh không?" Ông nói: "Có bệnh" Ông ta hỏi: "Bệnh gì?" Ông nhất định nói: "Nhức đầu, ăn cơm không được" cho đến những thứ bệnh khác. Bác sĩ liền theo lời ông và sự bắt mạch của ông ta mà cấp thuốc cho ông. Ông cầm lấy thuốc uống luôn không kể là cái gì chỉ mong khỏi bệnh, thầy thuốc nhất định muốn ông phải uống, uống rồi thì chung quy muốn khỏe mạnh.

Thiền đường của chúng ta đây cũng như bệnh viện, các ông đến là để chữa bệnh cho nên hỏi các ông bệnh gì, các ông còn nói là không có bệnh chăng? Các ông đương nhiên nói: "Có bệnh". Ta lại hỏi các ông: "Mắc bệnh gì?". E rằng các ông không có người trả lời cho xuôi được, có bệnh gì các ông chẳng nói ra nguyên do căn bệnh thì ta làm sao ra toa được? Ông không nói thì ta có biện pháp gì? Một số các ông biết được chút ít thì cứ nói chút ít thì ta cũng có thể cấp thuốc cho các ông uống. Nhưng mà một chút các ông cũng chẳng biết thì ta có biện pháp nào? Này các sư, mắc cái đại bệnh nầy mà chẳng biết, lại quay lưng với đạo, càng chạy càng xa. Trong lúc các ông lại còn có vài người cứ cho là "nói bệnh lớn với bệnh nhỏ gì, chúng tôi lại đây là để xem nề nếp nhà Chùa, đến là để tham học, xem qua cách thức gia hương đả thất, biết được chút ít là được rồi". Có khá nhiều vị nghĩ như thế đó. Bởi vì các ông không triệt để biết được mình vốn có cái đại bệnh ghê gớm, cái đại bệnh không trị không được. Chỉ sau khi các ông biết được triệt để cái đại bệnh nầy thì các ông mới có thể biết được cái lợi hại của bệnh không trị không được, phải uống thuốc. Giả sử các ông không biết cái bệnh nầy thì còn nói gì chuyện uống thuốc. Bệnh viện nầy cũng chẳng cần ở. Bởi vì các ông không biết mình có bệnh nên chẳng quan tâm gì đến việc đau đớn, không uống thuốc hình như cũng chẳng có việc gì, thế còn phải ở lại bệnh viện để làm chi?

Nay ta cho các ông biết: đại bệnh nầy là "sanh tử đại bệnh". Đại bệnh nầy nhất định phải trị, nhất định phải uống thuốc. Các ông phải hiểu được: hôm nay đến được chỗ nầy quả không phải là dễ đâu, ấy là do sự bồi đắp từ kiếp trước. Cái thân người nầy không dễ gì có được, phải trải qua bao đại kiếp ở trong các loài khác đến nay mới có được cái thân người nầy! Ta lại để thân nầy trôi qua, há chẳng phải là để phí phạm đi mất sự vun trồng của đời trước sao? Phải biết rằng: thân nầy không phải là trường cữu, cho là 100 năm mà nay chúng ta đã trải qua mấy chục năm rồi, thời gian còn lại có được bao nhiêu ngày? Huống nữa đời người chỉ trong hơi thở, cứ khi miệng không hít không thở ra nữa là khổ rồi! Nay chúng ta lại gặp cơ duyên tốt nầy, nên lo sao cho thiết thực làm một phen thì mới không phí phạm kiếp làm người, mới biết được sanh tử là đại bệnh của chúng ta. Cái sanh tử đại bệnh nầy không giống với đại bệnh ở thế gian, không uống thuốc câu thoại đầu thì không được. Các ông hãy đề lên câu thoại đầu mà tham đi!

KHAI THỊ
Ngày 17 tháng 10 (thất đầu ngày thứ nhì)

Đả thất làm cái gì? Chẳng có gì khác hơn là tinh tiến. Ta nói ngay ra là "chân" tinh tiến. Tại sao đả thất lại là "chân" tinh tiến? Bình thường cũng cho là các ông cũng có thể tinh tiến được nhưng chung quy lại không lâu dài mãi được; ấy là do lúc bình thường có nhiều công việc phiền nhiễu nên không thể trách các ông được. Bởi vì vừa đang dụng công tinh tiến thì bảng gõ hối phải đi lên chánh điện, mới cảm thấy công phu hơi đắc lực lại phải đi quả đường, cho đến việc tuần hương, đổi phiên trực thiền đường đều là những việc quấy rối sự dụng công. Nhưng hiện tại đả thất thì không như vậy, không thượng điện, không quả đường cho đến đi tiêu giấy xúc cũng không cần các ông động tay, có thể cho là chu đáo lắm rồi, bình thường tất cả việc quấy rối làm cho trong lòng bận hết sức! nhưng hôm nay thì mọi việc quấy rối đều đã có người quét sạch cả rồi, chẳng còn tí nào nữa, như vậy có thể hoàn toàn tinh tiến được. Nhưng ta muốn hỏi các ông: tuy mọi việc quấy rối đã quét sạch rồi, chỉ lo rằng trong lòng các ông lại quét không sạch thôi!

Các ông quét sạch chưa? Mọi người đều đứng ở đây, ta hỏi các ông: sạch hay chưa? Các ông hãy xét kỹ thử xem: nếu muốn nhà Chùa giúp các ông thành tựu như vậy thì phải buông bỏ tất cả, chỉ lo dụng công thôi; các ông còn có được cơ hội tốt nầy, tất cả chẳng cần chúng ta phải làm gì hết, trống rỗng cả rồi. Để thời gian trôi qua như thế lại là đả thất sao? Để thời gian đi qua trống rỗng như thế thì thực là phụ ơn nhà Chùa mà cũng phụ ơn bản thân các ông. Nhưng hôm nay ta còn để các ông tự phụ ơn mình sao? Các ông phải biết cái loại nhân cho thời gian bỏ trống qua (Hư tiêu tín thí) nầy như đã gieo xuống, đến khi cảm quả (quả địa ngục) thì không biết ra làm sao nữa! Ta nói như vậy nhưng có lẽ trong lòng các ông lại không như vậy. Vậy thì như thế nào? "Quả thật tôi từ lúc vào thiền đường đến nay, việc thượng điện, quả đường, quy củ lớn nhỏ bận rộn hết sức chẳng có tí rỗi rảnh. Trước kia đã chịu nhiều khổ sở để học được Kinh Lăng Nghiêm, Pháp Hoa cho đến những điều thấy được, lãnh hội được còn chưa sờ mó (suy nghĩ) tới được. Ngày nay đả thất tốt rồi; chẳng có việc gì làm, tôi ngồi xuống ôn lại những việc tôi đã trao đổi từ lâu không muốn để quên mất".

Đúng đấy! Các ông ngồi xuống trong lòng có như thế không? Ta thấy trong bụng các ông đầy ắp những Lăng Nghiêm Pháp-Hoa tuôn ra như nước chảy. Nhưng hôm nay lo việc căn bản đại sự thì những Kinh giáo các ông chứa đầy trong bụng một chữ cũng chẳng dùng được; không những một chữ cũng chẳng dùng xong mà ngay cả một mảy lông cũng chẳng dùng được; các ông có tin không? Ta thiết nghĩ: sợ rằng không dễ gì tin được. Tại sao vậy? Các ông cho là: trong thiền tông vì lẽ gì một chữ cũng dùng không xong? Vậy thì lấy bảy chỗ trưng tâm, mười phen hiển kiến trong Kinh Lăng Nghiêm chẳng là công phu sao? Nhất chân pháp giới trong Kinh Hoa Nghiêm vì sao Thiền tông một chữ càng dùng không được? Thế chẳng phải là làm các ông khó tin sao? Đúng đấy! Vậy thì ta muốn hỏi các ông: Có tham câu thoại đầu là pháp lớn hay pháp nhỏ, cứ cho nó là cây củi mục vô dụng đi. Các ông hãy nhai nó xem có mùi vị gì không? Bảo các ông nhai thì cứ nhai thử xem! Chúng ta mắt thì thấy giống nhau, thí dụ câu thoại đầu viết lên tờ giấy đỏ dán trên cột, các ông thấy, ta cũng thấy, có thể cho cùng một nhãn kiến đi. Ta nói các ông thấy đỏ, ta thấy xanh, các ông có tin không? Ta không những thấy được không phải là đỏ mà lại là xanh, mà ngay cả xanh cũng bất khả đắc, các ông lại càng khó tin. Ta muốn hỏi các ông cái câu thoại đầu như củi mục nầy các ông nhai có được tí mùi vị nào không? Giả sử đã nhai ra được tí mùi vị thì tự nhiên sẽ thấy không phải là đỏ mà là xanh. Lại thêm cái tinh tiến nầy trong thời kỳ đả thất thì chẳng phải là ngay cả đến cái xanh nầy cũng bất khẳ đắc sao? Đến lúc đó ta sẽ hỏi ông:

Lăng Nghiêm có còn không? Pháp Hoa có dùng được không? Cho đến tất cả kiến, văn, giác, tri có còn không? Các ông thử nghiên cứu xem? Có phải như thế hay không? Cho nên ta bảo các ông đem tất cả cái học, cái thấy, cái nghe, cái hiểu chứa đầy trong bụng quăng hết đi, quăng bỏ cho thật sạch hết, một chút cũng không cho còn, có lẽ các ông còn chưa chịu quăng bỏ, dù cho có bỏ cũng chưa chịu quăng bỏ cho sạch trơn. Mặc dầu đã quăng bỏ cho sạch trơn rồi thì trong Thiền tông cũng chưa cho là xong việc đâu. Vậy các ông lại phải đem cả cái da bụng mà quăng tuốt đi luôn thì có thể cho là xong việc chưa? Chưa xong đâu! Việc trong Thiền tông còn phải đem quăng luôn cả cái bụng đi thì mới kể là xong việc. Nếu chẳng quăng bỏ luôn cái bụng thì lâu về sau nó vẫn còn chứa đựng cái khác. Các người hãy phát tâm tham đi!

KHAI THỊ
Ngày 18 tháng 10 (thất đầu ngày thứ ba)

Dụng công thiên nhật, ngộ tại nhất thì (dụng công ngàn ngày chỉ ngộ trong nhất thời). Giả sử công phu các ông được không tí nào gián đoạn, dụng công được ngàn ngày thì đối với sự khai ngộ ta dám bảo đảm. Giả sử công phu chưa đến được chỗ đó thì ta không dám bảo đảm. Trong các ông có người đã ở đây được năm ba năm, cũng có người ở Chùa Kim Sơn được năm ba năm, tính chung là ở Chùa Kim Sơn đươc năm ba năm, tính chung là ở Chùa Kim Sơn Cao Mân mười năm, hai mươi năm khổ hạnh tại làm sao không có được công phu ngàn ngày? Đã có công phu ngàn ngày thì không phải nhất định ở trong thời kỳ đả thất nầy sẽ khai ngộ sao? Trong thời kỳ đả thất là chuyên môn để nắm chắc công phu khai ngộ. Vì sao mà không khai ngộ được? Bởi vì đáng tiếc cho các ông quá, tuy nói không có năm năm, mười năm hai mươi năm công phu mà ngàn ngày công phu cũng đã có rồi, nếu các ông không có được công phu ngàn ngày thì đối với sự khai ngộ hãy còn chưa làm đến được. Ta nói như vậy trong lòng các ông cho rằng: "Mùa hè khí trời nóng bức quá lại còn lên chánh điện, quả đường, làm công phu thì chưa được xứng đáng, đợi đến thời kỳ thay đổi chức sự cần phải phép tắc lớn nhỏ làm cho hết sức bận rộn, cho đến "gia hương" đều không phải là lúc dụng công phu. Đả thất mới là chân thật dụng công phu, không được lại bỏ qua nữa". Đại khái các ông đều như thế cả. Ta thấy cái tư tưởng nầy của các ông cứ cho là một năm chỉ có đả thất mới mới dụng công phu, mùa hạ thì kiết hạ, lúc thay đổi chức sự thì cũng là thay đổi chức sự, gia hương còn phải lên chánh điện, quả đường, đả thất thì mới cần dụng công, loại người như vậy là tệ hại nhất. Tại sao vậy? Đả thất là phải định kỳ thủ chứng, là cái lúc nhất văn thiên ngộ chứ đâu phải là thời kỳ để dụng công phu. Dụng công phu phải ở ngay trong lúc bình thường, ngày thường không chịu dụng công phu đợi đến đả thất mới dụng công, thì đến lúc nào mới có thể khai ngộ được?

Ta nói đến chữ ngộ thì còn có phần của các ông không? Ta cho các ông một thí dụ: Trước đời Mãn Thanh, người đi học được mười năm rồi hễ gặp kỳ thi thì đi thi phải không? Nếu đến trường thi mà còn chưa biết viết chữ, nhìn mặt chữ không ra, trong khi thi mới tập viết, như vậy phỏng có được không? Ra làm quan có phần các ông không? Trong thời kỳ mười năm học hành các ông không đi học, chỉ mang cái tên là người đi học, đến trường thi thì chỉ muốn được đậu làm quan, sợ là không xong rồi. Chúng ta hôm nay đả thất cũng giống như ở trường thi, khổ công ba năm đã đủ tư cách rồi, khi nhà Chùa mở Thiền thất thì phải khai ngộ liền mới đúng. Các ông bình thường mang tiếng dụng công mà thực ra chẳng có dụng công gì cả, đến lúc đả thất thì làm sao khai ngộ được? Cũng như không đi học mà đi thi, các ông sai lầm như vậy đã lâu lắm rồi không phải mới hôm nay. Xem như thế thì còn phải đả thất không? Có phải là không đả thất cũng được chăng? Bởi vì các ông không có một người có tư cách đả thất, các ông như vậy là rất phụ ơn nhà Chùa, nhà Chùa chỗ nào cũng vì các ông mà lo lắng, có một tí trái ngược với đạo thì mau mau sửa đổi cho tốt, như thế ta dám nói nhà Chùa đã hết bổn phận đối với thiên hạ, chỉ có thể nói các ông phụ ơn nhà Chùa chứ nhà Chùa quyết không hề cô phụ các ông. Nếu có người dụng công phu được năm ba năm, mặc quần áo, ăn cơm, lên chánh điện quả đường, đi cầu ngủ nghỉ đã dụng công đến cực điểm, hôm nay đến Chùa Cao Mân dự tính tham gia đả thất lại muốn được thủ chứng ngay, không ngờ nhà Chùa không cho các ông đả thất, vậy thì nhà Chùa cô phụ các ông rồi. Ta hỏi các ông còn có một người như vậy không? Ta lại hỏi các ông nữa: đừng nói quá khứ ba năm, năm năm không dụng công phu cũng đã bỏ luống qua rồi, cả mùa hè cũng chưa đề lên một câu thoại đầu, cho đến vào thiền đường gia hương cũng không biết đề lên câu thoại đầu, bây giờ đang thời kỳ đả thất từng cây hương một, từng thất một, ngồi hương đi hương đề được mấy câu thoại đầu. Các ông xét lòng tự hỏi xem có làm đủ bổn phận đối với người đời không? Đối với bất cứ việc học nào cũng vậy đều cần phải nói đến tiến bộ. Cái tiến bộ ở trong thiền tông các ông có biết ở chỗ nào không? Lên chánh điện có tiến bộ, quả đường có tiến bộ, đi cầu có tiến bộ cho đến nơi nơi đều có tiến bộ cả. Các ông có biết lên chánh điện tiến bộ ở chỗ nào không? Đứng trên chánh điện đầu không có chút nghiêng, thân cũng không tí nhúc nhích, như thế là tiến bộ. Tại sao vậy? Công phu dụng đến chỗ đắc lực, đầu làm sao nghiêng được, thân làm sao nhúc nhích được? Đầu hễ nghiêng, không thấy sắc thì nghe tiếng, thân cử động không nhức thì ngứa, đâu còn công phu nữa. Trong lúc quả đường, lên chánh điện, cho đến mọi nơi, ngay cả đi vào nhà tiêu đậy nắp cầu không ra tiếng, thậm chí nhướng mày nháy mắt, đi đứng nằm ngồi đều dụng công phu. Các ông cần nhận thức chỗ quý trọng lúc bình thường của thiền tông, cái chỗ tốt của thiền thất. Các ông hãy phát tâm. Tham đi!

KHAI THỊ
Ngày 19 tháng 10 (thất đầu ngày thứ tư)

Pháp của thiền tông vốn là bất lập văn tự, không mượn ngôn ngữ. Bất lập văn tự thì không có lời để nói, không mượn ngôn ngữ thì không có gì để mở miệng. Cứ theo như thế mà nói thì không cần phải nói chuyện sao? Tại sao mà mỗi ngày có vài lần khai thị? Phải hiểu là: trong thiền tông nói chuyện vốn là bất đắc dĩ vì tâm các ông mỗi mỗi đều khác nhau, cái bất lập văn tự, không mượn ngôn ngữ của thiền tông là cần phải đạt đến chỗ hành đồng nhất; mười phương Chư Phật, lịch đại Tổ sư hành như vậy, hiện nay các ông cũng có thể hành như vậy mới có thể nói không mượn ngôn ngữ. Nay vì các ông tâm hạnh khác nhau, trăm người trăm hạnh. Muốn cả trăm người các ông đều quy về một tâm hạnh thôi, cho nên phải nói là vậy. Nhưng lời nói là lời nói của thiền tông, trong thiền tông bất cứ là người nào cũng không cho giảng kinh điển, ngữ lục, công án. Các ông nghe vậy đương nhiên có mối hoài nghi: "Kinh điển Chư Phật thuyết không được giảng, tại sao ngữ lục, công án của Tổ sư lại cũng không được giảng?" Bởi vì giảng rồi đối với các ông cũng vô ích, lại thêm cho các ông tâm của trăm người lại phân thành mấy ngàn cái tâm.

Đây là lẽ gì vậy? Cái hạnh của các ông đều phải đi con đường hướng thượng, lấy câu thoại đầu làm miếng ngói gõ cửa, bia chỉ đường. Người xưa tuy có (những công án) "Lúc cha mẹ chưa sanh ra", "con chó không có Phật tánh" cho đến một ngàn tám trăm công án, nhưng bất cứ chư Tổ nào cũng đều phải ở một công án mà thâm nhập, cho nên thiền đường hòa thượng, vị ban thủ cứ mở miệng là thoại đầu, ngậm miệng lại cũng thoại đầu, nói chuyện cũng thoại đầu, chẳng nói chuyện cũng thoại đầu. Cái nầy là rất cần yếu trong thiền tông. Trong bụng các ông cứ cho là tham thiền cũng như đi chơi ở Thượng Hải, hôm nay Tân Thế Giới, ngay mai Đại Vũ Đài, ngày kia Tiên Thi Công Ty mới tương ứng tâm của các ông. "Nhưng hôm nay đến Thiền đường tại sao từ sáng đến tối, từ đầu năm đến cuối năm đều chỉ có một câu thoại đầu? Một tí mùi vị cũng chẳng có, làm cho người ta buồn muốn chết đi". Đúng đấy! lại nữa, lời khai thị không có trình tự gì hết, không có hình ảnh văn chương gì hết, thực là làm cho người ta chẳng muốn nghe, chẳng lạ gì khi người ta nói: "Thông thiền mà không thông giáo cứ mở miệng thì nói bậy". Đúng! Thật đáng thương cho các ông. Ta nói: ấy là các ông không hiểu đạo, giả sử như các ông thật biết nói bậy, thế thì tốt đấy. Tại sao vậy? Ông không hợp cơ thì ông không chịu nghe, người khác nghe thì thấy hứng thú lắm, ông nghe thấy tốt người khác lại nghe không tốt, bởi vì tâm hạnh mọi người đều khác nhau, thì nói chuyện làm sao nhất trí được? Cho đến việc làm văn chương cũng không có luôn, các ông lại hiểu sai rồi; ở đây không cho các ông làm văn chương cũng không phải giáo môn giảng kinh, y văn thích nghĩa, phân khoa phán giáo. Trong thiền tông cũng như hôm nay ta nói chuyện nầy chuyện kia, cũng có người nghe rồi nói tốt, lại lúc sư ban thủ giảng huyền giảng diệu cũng có người nghe rồi thấy tốt; cái nầy tức là "thô ngôn cập tế ngữ, khái quy đệ nhất nghĩa (Lời nói thô và tế đều quy vào đệ nhất nghĩa) cốt là ở nơi các ông biết nghe. Các ông phải hiểu được cái khổ tâm của người nói chuyện, vì các ông có tâm hạnh khác nhau, cái bất đồng ấy đều là: "vọng tưởng chấp trước" của các ông cho nên các ông có trăm cái tâm, người nói chuyện nói ra trăm cái pháp, muốn dạy cho các ông trăm cái tâm nầy quy thành một tâm, quả là chẳng dễ gì. Hôm nay ta giảng cái đường lối công phu, người các ông biết nghe giảng, nghe rồi trong bụng cảm thấy tốt lắm tựa hồ còn cái nghi tình thì chưa giảng đến, vậy ngày mai ta sẽ giảng làm sao để khởi nghi tình lên. Các ông nghe rõ nghi tình biết khởi lên rồi nhưng lại không kéo dài được, hôm sau sẽ giảng đến nguyên do gì làm cho nghi tình không phát khởi được. Từng bước từng bước một giảng tới, cho đến từng thất từng thất một nói chuyện khác nhau. Thất thứ nhất giảng về việc không hiểu dụng công phu, thất thứ hai giảng về con đường dụng công phu, thất thứ ba giảng về tiến bộ của công phu, thất thứ tư giảng về tin tức của công phu, thất thứ năm thì giảng về chỗ thấy của công phu, cho đến thất thứ mười từ cạn vào sâu, từ xa đến gần. Hôm nay nói chuyện trình tự cho các ông biết rồi, các ông trong lòng có cái nắm được rồi. Hãy tham đi!

KHAI THỊ
Ngày 20 tháng 10 (thất đầu ngày thứ năm)

Các ông đều là mộ đạo mà đến đây vì Chùa Cao Mân có đạo để tu, các ông người nào cũng đều như vậy cả. Nhưng nói câu mộ đạo nghe ra thì thấy dễ nghe lắm, mà nói đến sự thực hành: đạo tại sao cần phải mộ? Các ông từ ngàn muôn dặm muốn ngộ cái đạo của Chùa Cao Mân, vậy không phải là hướng ngoại mộ đạo sao? Mộ đạo như vậy không phải là hướng ngoại tìm cầu sao? Đâu cứ đều nhất định phải đến Chùa Cao Mân mới có đạo? Đạo vốn không có đông, tây, nam, bắc, cũng không có ông có tôi, cứ trực hạ thừa đương (ngộ ngay lúc đó) thì được rồi. Hai chữ "thừa đương" cũng là lời thừa, vốn không thiếu không thừa saün sàng đầy đủ. Tiếc thay chúng ta vô lượng kiếp trước với Chư Phật cũng đã đồng diện mục, không những đồng diện mục mà sợ còn có chỗ siêu việt hơn cả thập phương Chư Phật, bỗng đâu được cái thân huyễn hóa nầy, rồi không chịu cái nầy bèn đổi lấy cái khác, không chịu nữa thì đổi lấy cái khác nữa. Từ cái nầy thay đổi qua cái kia mà thay đổi mãi cho tới ngày nay. Cứ mỗi lần thay đổi thì lại thêm một dấu vết làm cho bản lai diện mục của chúng ta bị che lấp kín mít, một tí hơi cũng không thấu được. Mặc dầu bị che lấp kín mít nhưng nói chung không thiếu sót tí nào. Mười phương Chư Phật cũng như vậy, Bồ Tát, Tổ Sư cho đến côn trùng nhỏ xíu cũng như vậy, sơn hà đại địa cũng như vậy, thảo mộc tòng lâm, cho đến trong hư không, ngoài hư không cũng như vậy, trong một hư không cho đến vô lượng vô số hư không đều như vậy cả. Ông không thiếu sót, ta cũng không thiếu sót, chỉ tiếc một cái là không dám "thừa đương". Giả sử chúng ta thừa đương được thì e rằng không phải là người giống như thế nầy đâu. May mắn cho chúng ta ngày nay được cái thân xác làm người nầy, trong thời kỳ "làm người" nầy phải nghĩ ra cách thế nào có thể "thừa đương" được! Đối với cách thừa đương được của mình, cần các ông phải có "lòng tin". Nhưng lòng tin trước hết phải tin rằng cái xác thân nầy chẳng bao lâu sẽ tan hoại, hoại rồi thì đường đi nhiều lắm, không hiểu kiếp nào mới được thành người nữa, đường trước mắt thì mênh mông không biết ra thế nào. Phải triệt để tin cái mặt mũi bổn lai của mình, phải hết sức tin tưởng mình như thế, không thừa đương thì không được, không hiểu cái ta của chúng ta thì không được. Tự tin được mình thì tiếp tục phải tin phương pháp của câu thoại đầu, câu thoại đầu là thừa đương mình, câu thoại đầu là phương tiện để hiểu mình, không phải chỉ nói câu thoại đầu có bao nhiêu cái tốt mà còn muốn các ông tự mình thấy đến được là câu thoại đầu xác thực không sai. Nhưng dạy các ông dụng công phu các ông lại cho rằng: "Câu thoại đầu nầy dùng được gì đâu? Niệm Phật là ai? Niệm Phật là tôi, còn có người khác niệm Phật cho tôi sao?" Không những các ông sơ tham mới có tình hình như vậy thôi đâu. Lúc ta còn tham học, đến các Chùa thấy dán câu Niệm Phật là ai? Thấy qua rồi thì cảm thấy hình như không giống với tất cả học vấn thế gian. Học vấn thế gian hễ học thì thông liền, còn câu thoại đầu thì không dễ gì thông, nghiên cứu như vậy niệm Phật là ai? Là tôi chăng? Suy nghĩ một hồi thì cảm thấy không phải là tôi. Vậy lấy gì làm tôi? Hơn nữa, tôi nói niệm Phật là tôi, tôi hôm nay sửa tấm giấy đỏ lại, niệm Phật là tôi, thế có thể được không? Nếu không sửa được tức là không phải tôi. Vậy không phải tôi thì là Phật sao? Không phải, tất cả đều là không phải, như vậy suy nghĩ phân biệt một lúc, quày đầu lại mới biết mình đã sai lầm rồi, ai dạy ông ở trong phân biệt suy nghĩ mà dụng công phu? Ông phải biết đề lên câu thoại đầu cảm thấy không hiểu thì ở chỗ không hiểu không rõ mà đi tìm cứu cánh, ấy tức là nghi tình. Ở trong nghi tình nầy dụng công phu lâu đi rồi, dụng đến quày đầu trở lại lúc ấy ông mới triệt để nhận thức được chính mình. Hãy tham đi!

KHAI THỊ
Ngày 21 tháng 10 (thất đầu ngày thứ sáu)

Lúc Phật còn tại thế, có một người ngoại đạo đem hoa cúng Phật, lạy xong, Phật nói: "Bỏ hoa xuống". Người ngoại đạo bèn bỏ hoa xuống, Phật lại nói: "Buông tay xuống". Người ngoại đạo buông tay xuống. Phật lại nói nữa: "Buông thân người xuống", người đạo đứng ngơ ngác cả nửa ngày, thân làm sao buông xuống được? Bèn hỏi: "Thưa Thế Tôn, thân làm sao buông xuống được? Phật nói: "Không buông xuống được thì gánh lên đi", Người ngoại đạo liền ngộ. Các ông thử nghĩ xem: hai chữ "buông xuống" còn có cái gì quý hơn đâu? Cho nên ta thường dạy các ông buông xuống, thân cũng buông xuống, thế giới cũng buông xuống, hai chữ "buông xuống" cũng buông xuống luôn. Các ông không những không chịu buông xuống mà hình như còn muốn nhiều thêm chút nữa mới vừa lòng. Bởi vì trước kia đã có cái thói quen lấy được sự nhiều cho là tiến bộ được ít là không tiến bộ, cho nên hôm nay học Kinh Lăng Nghiêm, ngày mai học Kinh Pháp Hoa, ngày mốt học Kinh Hoa Nghiêm càng nhiều càng tốt, các ông nghe nói hôm nay giảng câu thoại đầu nầy, ngày mai giảng: "Trước khi cha mẹ chưa sanh ra", ngày mốt giảng "con chó không có Phật tánh", mỗi ngày đổi một câu thoại đầu như thế thì mới vừa lòng các ông, nghe cho nhiều cho lắm thì mới thấy phải. Hôm nay ta bảo các ông buông xuống thì phải buông xuống cho đến không còn chỗ nào để buông nữa. Cái chỗ không có cái gì để buông ấy cũng còn phải buông luôn nữa. Nếu không lãnh hội được đích chỉ thiền tông ở chỗ nầy, không chịu tin cái từ tâm tha thiết của thiền tông thì các ông sanh ra sự hiểu lầm, đã có sự hiểu lầm nầy rồi thì gieo cái nhân phỉ báng, tương lai sẽ chiêu cảm cái quả phỉ báng, lúc ấy thì khổ chết thôi. Cái hiểu lầm của các ông là ở chỗ nào? Thứ nhứt là bảo các ông buông xuống thì buông xuống, buông xuống rồi thì trong tư tưởng mình suy nghĩ nầy nọ như ở trong cái động đen tối. Thứ hai bảo ngươi lấy cái nghe được, học được, lãnh hội được tất cả đều buông xuống, các ngươi không chịu buông xuống mà trái lại còn nổi tâm sân lên nói rằng: "Thiền tông mở miệng không nói cái không đúng của giáo môn thì nói cái không đúng của Tịnh Độ, đó không phải là chuyên môn phỉ báng giáo môn, phỉ báng Tịnh Đạo sao?" Các ông hiểu lầm như vậy ấy là "sai một mảy may mất đi một ngàn dậm" rồi. Bởi vì các ông không hiểu cửa thiền tông là cái cửa gì, ấy là cái cửa tuyệt tướng, siêu tông, ly danh,ly tướng, cũng không phải bảo ông hủy bỏ Kinh điển, vứt bỏ Tịnh Độ, không có sự như vậy đâu! chỉ bảo các ông trong thời kỳ tham thiền nầy phải buông bỏ tất cả, tức là bảo các ông nghỉ ngơi các tâm, cho nên nói: "nghỉ ngơi tức là bồ đề", muốn bảo các ông nghỉ ngơi cho đến một mảy lông cũng không có mới được, nếu còn một mảy lông nào thì sẽ che khuất cả hư không. Ta lại cho một ví dụ: như người đi học nghề thợ mộc, học được năm ba năm cho là học thành nghề rồi, cưa cũng biết cưa, bào cũng biết bào; vì kiếm tiền không được nhiều liền đổi nghề may vá, học may thì phải học cầm kéo phải không? Ông đến tiệm may mà còn đem búa đem cưa sao? Búa với cưa còn có chỗ dùng chăng? Không những búa, cưa đều không dùng được mà cũng không cho cả cái tâm làm thợ mộc tồn tại, bởi vì tay ông cầm kim mà trong tâm lại là thợ mộc thì cái việc may vá của ông làm sao học thành được! Hôm nay các ông tham thiền đương nhiên phải lo việc tham thiền, tham thiền thì cần phải buông xuống, cần phải nghỉ ngơi, các ông đem sự học được, nghe được, lãnh hội được đựng trong bụng, thế còn có chỗ dùng gì được đâu? Thiền còn tham được chăng? Cũng như học thợ may đem búa đem đục đựng trong túi đeo trong người vậy. Các ông suy nghĩ cẩn thận xem có phải không? Không phải cứ nghe ta nói là xong việc đâu, cần phải trong tâm các ông lãnh hội triệt để mà nói: "đúng thế" mới được. Tham thiền cần phải buông bỏ muôn niệm, nếu có một tí không buông bỏ thì cái một tí nầy sẽ che khuất cả hư không. Các ông lãnh hội được chưa? Chúng sanh từ vô lượng kiếp đến nay chỉ vì cái không buông bỏ, lớn là thế giới, nhỏ là thân tâm, một đời, một kiếp đến nay tương lai lại chẳng sẽ là nối tiếp một đời một đời sao? Chúng ta muốn làm người phải bổn quy nguyên mà không đem thân tâm, thế giới vứt bỏ hết thì phản bổn quy nguyên chỉ là nói suông thôi, thực sự thì làm không đến được. Nếu muốn danh và thực phù hợp nhau, thì trước hết cần phải biết: thế giới từ đâu mà đến, thân từ đâu mà có? Tâm lấy gì mà có? Nếu biết được thân tâm, thế giới từ đâu mà có thì mới có thể từ căn bản mà cắt đứt được, một hết thì tất cả đều hết, mới là rút củi dưới đáy nồi ra (để nước ngưng sôi). Nếu không giải quyết từ căn bản thì chỉ là múc canh để nước ngưng sôi thôi. Thế giới lấy gì mà có? Phải hiểu: thế giới lấy thân mà có, thân lấy tâm mà có, tâm lấy mê hoặc mà có. Muốn quét sạch thân tâm, thế giới thì trước tiên trên căn bản phải quét sạch cái mê hoặc, mê hoặc quét sạch được rồi thì tâm sẽ sạch, tâm sạch rồi thì thân phải sạch, thân sạch rồi thì thế giới đương nhiên sẽ sạch luôn. Như vậy phương pháp quét mê là đề lên câu thoại đầu, phương pháp nầy quét mê rất triệt để, mê nếu không có câu thoại đầu thì không thể quét sạch từ căn bản được. Các ông sau khi có thể lấy câu thoại đầu mà khổ công tham cho thông rồi thì hành cái hạnh đại bi cứu thế. Cái hạnh nào lại không được đâu! Sợ cái học cả đời các ông không đủ dùng. Muốn các ông đều đầy đủ chánh tri, chánh kiến để tránh cái hảo tâm vì đạo mà lại chiệu lấy cái quả ác. Phải nhanh chóng lên, hãy phát tâm. Tham đi!

KHAI THỊ
Ngày 22 tháng 10 (Thất đầu ngày thứ bảy)

Thật tội nghiệp cho người đời nay, người nào mở miệng cũng biết nói liễu sinh, ngậm miệng nói thoát tử, nhưng còn sợ chưa biết cái gì gọi là sinh, làm sao gọi là tử. Không những người thế gian như vậy mà ngay cả người tu hành chúng ta cũng như vậy luôn. Lấy chuyện người xuất gia ngày nay của chúng ta mà nói, tối ngày dụng công phu sợ còn chưa biết dụng công phu làm gì, hiện tại tu nhân gì, tương lai cảm quả gì, chắc các ông chưa có một người hiểu được. Tối ngày chỉ là trống rỗng trôi qua thôi, cũng chẳng hiểu trời bao cao, đất bao dày, thế nào là Tứ Thánh, thế nào là lục phàm, chúng ta hôm nay ở thiền đường tu là tu nhân gì, tương lai cảm được quả gì, chắc không có người hiểu được. Các ông nếu có người hiểu được thì e rằng ta không bảo các ông dụng công phu các ông còn chịu không dụng chăng? Các ông phải biết: hôm nay ở thiền đường gieo cái nhân thành Phật tương lai nhất định cảm được cái quả thành Phật. Người xưa nói: "nhân nào quả nấy", trồng dưa được dưa trồng đậu được đậu. Chúng ta người dụng công phu chỉ cần quyết tâm triệt để mà dụng đi bất kể ba, năm, tám, mười năm cũng được, ba mươi năm, năm mươi năm cũng được; nói tóm lại: lấy đại ngộ làm cứu cánh triệt để. Cổ nhân đã nói: "treo cao túi bát, lấy ngộ làm kỳ hạn". Cứ ngay thẳng mà dụng công đi, quyết định lấy câu thoại đầu làm chính hạnh của ta, dù kiếp nầy không ngộ thì phát nguyện kiếp sau, không hỏi 3 kiếp, 5 kiếp hay 30 kiếp, quyết định không tu pháp môn nào khác. Các ông muốn được cái chí nguyện kiên cố như vậy mà hành thì ta dám bảo đảm nhất định sẽ được khai ngộ. Hành như vậy mà không khai ngộ thì Chư Phật Tổ Sư há lại chẳng rơi vào vọng ngữ sao? Tổ Triệu Châu nói: "Các người hành như vậy mà không khai ngộ thì chặt cái đầu của lão tăng đi." Cái phương pháp tham thoại đầu nầy là phươgn pháp chân thật bất hư, là cái pháp căn bản của tất cả loài hữu tình, vô tình, chỉ cần dụng công phu không hỏi khai ngộ hay không khai ngộ: công phu dụng đến nơi tự nhiên sẽ ngộ, không cần ông lo nghĩ đến ngộ, nếu chỉ muốn khai ngộ mà không chịu dụng công phu thì làm sao ngộ được? Cổ nhân nói: "Không cần cầu ngộ, chỉ cần đề lên câu thoại đầu thẳng tay mà tham, tham đến sơn cùng thủy tận. "Ổ" lên một tiếng, được đến chỗ nầy rồi đó "như người uống nước nóng lạnh tự biết", trong quá khứ có một vị tham thiền ở thiền đường ba năm chê trong thiền đường người đông làm lộn xộn, tự thấy công phu không được thâm nhập bèn bỏ đi vào núi ở. Ở trên núi cất một cái nhà tranh, trồng một ít cải, ban ngày trông chừng không cho chim rừng ăn cải, ban đêm hổ sói tranh giành ngày đâm chẳng yên, đối với công phu mình cũng bị lộn xộn, ở núi ba năm rồi công phu mình cũng không thâm nhập được bèn không muốn ở nữa, muốn tìm một căn nhà để nhập thất, như thế mới tương ứng với công phu. Đi khất thực được hai, ba năm gặp một cụ già tại gia đã kiến tánh. Bà ấy thấy người tham thiền nầy rất có đạo đức hạnh trì bèn thỉnh đến nhà mời dùng cơm chay và nói chuyện về tâm rất là tương đắc. Bà ấy nói: Thưa đại sư, tôi muốn thành tựu cho sự nhập thất của người. Người tham thiền nghe rồi nói: "rất tốt! Tôi đang muốn nhập thất đây". Bà ấy bèn đưa sư nhập thất. Bà cụ trong nhà không có ai ngoài cô con gái mới 16 tuổi cũng đã khai ngộ, bà sai cô gái mỗi ngày đem cơm xuống cho sư ăn, được ba năm sau bà bảo cô gái: "Con đã đưa cơm được ba năm rồi, hôm nay lúc đưa cơm đợi thầy ấy ăn xong thì con đến ôm cứng lại bảo ông nói". Người con gái nghe rồi nhớ kỹ và cũng làm theo lời dặn, lên ôm thặt rồi bảo rằng: "Nói đi". Người tham thiền nói: Khô mộc ỷ hàn nham, tam đông vô noãn khí (cây khô dựa trên núi tuyết, mùa đông không chút hơi ấm), người con gái buông tay về nhà kể cho mẹ nghe, bà ấy nghe xong rồi mắng người tham thiền đuổi đi, đốt luôn cái am tranh và nói rằng: "Tôi cúng dường ba năm mà chỉ cúng dường một thằng chết". Người tham thiền nghe cảm thấy mắc cở bèn cầm bồ đoàn lên mà đi khất thực nữa, tự trách mình được người ta cúng dường ba năm mà chưa khai ngộ được, bị họ chưởi mắng rất là tủi hổ, bèn ra sức dụng công phu. Khất thực ba năm lại đến chỗ bà nọ, cùng nói chuyện công phu yêu cầu bà cho nhập thất một lần nữa. Lại nhập thất thêm ba năm và bà ấy cũng bảo con gái đưa cơm như trước. Tròn ba năm, cô gái cũng y theo lời mẹ dặn trước lại lên ôm chặt lấy người tham thiền bảo: "Nói đi, nói đi", kỳ nầy người tham thiền mở miệng đáp lại: "Trời biết, đất biết, ngươi biết, ta biết, đừng cho bà già ngươi biết". Cô gái về nhà kể lại cho mẹ nghe, bà mẹ nghe rồi trong lòng hoan hỷ nói với người tham thiền" "Tốt lắm! Tốt lắm! Mừng người đã khai ngộ rồi". Các ông đến nghe chuyện nầy rồi thì hãy tưởng tượng xem ngươi biết, ta biết, đừng cho bà già ngươi biết, nếu là người thế gian nói vậy thì có còn là chuyện tốt không? Đại khái các ông cùng có một cách lãnh hội như vậy, nếu lãnh hội như vậy là sai lầm rồi. Bảo các ông ở trên bổn phận mà lãnh hội, các ông tưởng tượng xem có lãnh hội được hay không? Nếu không lãnh hội được thì cứ tham đi!

KHAI THỊ
Ngày 23 tháng 10 (thất thứ nhì ngày đầu)

Liễu sanh, thoát tử, minh tâm, kiến tánh, pháp tham thiền rất là đương cơ, cũng có thể nói là trùm khắp tam căn. Ta thật tin tưởng pháp nầy, trong tám vạn bốn ngàn pháp môn không pháp nào sánh cùng pháp nầy. Nhưng mà trong các ông còn nhiều người không cho như vậy, cứ nghĩ rằng tham câu thoại đầu làm sao có thể vượt hẳn lên tám vạn bốn ngàn pháp môn được! Dù ông không tin thế cũng được, chúng ta hãy bỏ qua câu thoại đầu, các ông nói pháp nào được liễu sanh thoát tử trực tiếp nhất, triệt để nhất? Có cái nào khỏi cần tham, cũng khỏi cần dụng công phu mà có thể minh tâm, kiến tánh được không? Các ông nghĩ thử xem, nếu thực có một pháp nào so với tham thiền còn mau hơn thì ta cũng muốn theo các ông mà học. Bởi vì ngã kiến các ông quá sâu, thiện căn quá cạn, muốn trừ cái chấp kiến của các ông quy về một con đường lớn nầy nên cần phải chỉ ra cho các ông biết, các ông suy nghĩ cẩn thận xem: xem Kinh có thể liễu sanh thoát tử không? Niệm Phật trì chú có thể liễu sanh thoát tử không? Các ông đến nơi đây là vì sanh tử mà đến, đương nhiên cần phải nghiên cứu, không phải là việc nhỏ đâu, các ông thảo luận thử xem; coi Kinh chỉ có thể gieo trồng một chút thiện căn, biết được chút ít ý nghĩa, muốn nói liễu sanh thoát tử thì làm không xong. Niệm Phật, niệm A Di Đà Phật cũng có thể liễu sanh thoát tử, mà muốn bảo đạt đến đỉnh núi Niết Bàn thì làm không được, trì chú thì thân tâm được thanh tịnh, có thể được một tí thần thông, liễu sanh thoát tử thì không thể được, bởi vì xem Kinh, niệm Phật, trì chú đều là hướng ngoại tìm cầu, sanh tử của các ông không phải từ ngoài mà được, không dựa vào cái khác mà có, đều từ trong nhà mình mà ra, ông chạy ra ngoài càng chạy càng xa. Ông cần phải biết: tham câu thoại đầu tức là hướng vào trong nhà mà chạy. Tại sao vậy? Ta nói một ví dụ: như con cháu đi học, đọc quyển Bá Gia Tính Từ Triệu, Tiền, Tôn, Lý, Châu, Ngô, Trịnh, Vương cứ đọc thẳng một mạch bất quá mấy ngày thì thuộc lòng rồi, giả sử đọc câu Triệu, Tiền, tôn, Lý rồi hỏi đó là lý lẽ gì thì làm sao giải thích, cứ hỏi như vậy không phải là ngớ ngẩn sao? Chỉ trong câu Triệu, Tiền, Tôn, Lý mà nghiên cứu thì câu Châu, Ngô, Trịnh, Vương không phải mất rồi sao? Đạt đến chỗ thâm nhập của việc nghiên cứu thì Triệu, Tiền, Tôn, Lý, cũng mất tiêu luôn. Các ông hãy nghĩ: hai chữ niệm Phật, không phải A Di Đà Phật, A Di Đà Phật từng câu mà thẳng tay niệm. Hôm nay hỏi ông: niệm Phật là người nào? Đứng ngay chỗ nầy không phải quày đầu lại sao? Cũng giống như đọc câu Triệu, Tiền, Tôn, Lý, các ông suy xét cẩn thận thử một chút xem có đúng không? Niệm Phật là ai không phải là quày đầu vào trong nhà mà chạy sao? Hướng vào trong nhà là gì? Không có sanh cũng không có tử, nói minh tâm, kiến tánh cũng là lời nói dư, đến nhà tâm không đợi nói minh, bổn lai đã minh, tánh không cần kiến, đã saün sàng hiện tiền. Cái câu thoại đầu nầy bước một chân thì đưa ông đến nhà, chỉ cần có một câu mà có thể về nhà ngơi nghỉ yên ổn. Tại các ông không biết câu thoại đầu có chỗ tốt như vậy. Các ông tưởng rằng: "tối ngày cứ đề câu thoại đầu lên thì vọng tưởng cũng nổi lên nhưng lại không kéo dài được, vậy thì làm sao lại nói tham câu thoại đầu thì đến nhà được? Thực là làm cho tôi khó hiểu". Đúng thế! Các ông phải hiểu được: biết có vọng tưởng đó là công phu đã tiến bộ, đề khởi lên được mà kéo không dài, lại càng tiến bộ thêm. Các ông phải hiểu: bất cứ một pháp môn nào cũng ở trong vọng tưởng mà sinh hoạt. Làm sao biết được có vọng tưởng? Sở dĩ biết được có vọng tưởng cảm thấy không kéo dài được đều là tin tức tốt. Thực tại các ông tu đạo là đáng thương. Chúng ta đứng ở đây là người mấy chục tuổi cả, nói đến sanh tử thì không kể xiết, nên muốn tu đạo, truy cứu câu niệm Phật là ai không được thông, ba năm, năm năm cũng còn chưa thông, tình huống như vậy thì nói làm sao tu đạo? Nói sanh tử làm sao cho xiết? Chỉ để cho ngày tháng trôi qua thôi. Câu thoại đầu nầy tham không được thông còn kể được là người tu hành sao? Chỗ nào cũng cần thể diện, câu thoại đầu không thông thì không cần thể diện gì cả. Người có chút tri thức thì phải biết làm sao cho đúng bổn phận. Các ông còn có người nào chảy nước mắt không? Thật là tội nghiệp. Tất cả đều ở trong chỗ đen tối.

Ngày nay bảo các ông nhắm mắt lại, các ông đều nhắm mắt lại. Ta lại hỏi các ông: Mắt mở ra rồi có thấy được ta chăng? Mắt nhắm lại rồi ông còn tự mình thấy được mình không? Các ông nhắm mắt lại thì thấy tối um, một tí gì cũng chẳng thấy. Ta hỏi các ông nữa: đang lúc nhắm mắt lại rồi, bước thêm bước nữa thì đến chỗ nào? Các ông còn có ai nắm chắc được không? Các ông có hiểu được bước một bước nầy thì đi đến chỗ nào không? Hãy tham đi!

KHAI THỊ
Ngày 24 tháng 10 (thất nhì ngày thứ hai)

Người mới phát tâm tham thiền dụng công sợ vọng tưởng, ngồi lâu sợ hôn trầm. Ta nói loại người như các ông thì dụng công không được, liễu thoát sanh tử không có phần của các ông. Tại sao vậy? Bởi vì các ông không biết phạm vi của vọng tưởng cũng như hôn trầm từ đâu ra? Các ông cần phải hiểu: Từ vô lượng kiếp đến nay lên thiên đường cũng nó, xuống địa ngục cũng nó, biến thành trâu ngựa cũng nó, hôm nay tu hành cũng là nó, muốn liễu thoát sanh tử cũng là nó, muốn thành Phật, làm Tổ cũng là nó. Cần phải hiểu rằng: trên từ thành Phật dưới đến địa ngục tất cả mọi cái đều do nó làm chủ. Lực lượng của nó lớn lắm, ông muốn sợ nó thì phải lìa xa nó, ông muốn lìa xa nó phỏng ông có lực lượng bao nhiêu? Lực lượng của vọng tưởng có tưới bao nhiêu nước cũng không vào được, còn lực lượng của ông chỉ cần một giọt trong số đó cũng đã thấm vào rồi. Các ông tưởng tượng xem sức lực các ông nhỏ bé như vậy thì làm sao mà lìa nổi cái sức của vọng tưởng lớn dường ấy được? Ông nhất định là sợ nó rồi, xa lìa nó không được, mà lìa không được lại càng sợ, còn một ngày lìa không được thì chỉ có sợ nó thôi, càng sợ lại càng lìa không được, ba năm, năm năm muốn lìa muốn sợ như vậy cho đến suốt đời cũng chỉ muốn lìa nó, sợ nó thôi. Các ông tưởng tượng xem còn dụng công phu được không? Nếu đã dụng công phu không được thì còn làm sao liễu thoát sanh tử được? Cho nên các ông sợ vọng tưởng, sợ hôn trầm là việc không đúng rồi. Lại nữa, vọng tưởng là làm sao mà lìa? Cả thân tâm các ông vốn là ở trong vọng tưởng. Bởi vì tâm các ông là tâm vọng tưởng, thân các ông cũng là thân vọng tưởng, thế giới cũng là vọng tưởng, trong hư không là vọng tưởng, ngoài hư không cũng là vọng tưởng, cử tâm, động niệm, đi đứng nằm ngồi, lằm việc đều ở trong vọng tưởng. Ta hỏi các ông: lìa vọng tưởng rồi ông ở chỗ nào? Lìa vọng tưởng rồi ông là người gì? Các ông hãy nghiên cứu cẩn thận xem còn có thể lãnh hội một tí nào không? Vậy thì làm thế nào mới có thể dụng công phu được? Vọng tưởng có nhiều chừng nào đi nữa cũng đừng đợ nó, vậy không sợ nó thì phải yêu nó sao? Cũng không được yêu nó. Không sợ nó, không lấy nó làm bạn ác, không yêu nó, không lấy nó làm bạn tốt. Giả sử ông yêu nó vậy thì đến phải xuống địa ngục rồi. Vì ông yêu nó thì phải tùy thuận nó, thuận nó thì phá giới, phá giới thì không phải xuống địa ngục sao? Cho nên, sợ cũng sợ không được, yêu cũng yêu không được, chỉ cần đề lên câu thoại đầu là cái gì? Khởi lên nghi tình để tham vấn truy cứu, nhưng mà hai chữ truy cứu chỉ cho ông truy cứu câu thoại đầu niệm Phật là ai? Rốt ráo là ai? Cứu kính là ai? Nếu mà cứ truy cứu cái đề khởi câu thoại đầu "Niệm Phật là ai?" là ai? Người biết truy cứu lại là ai? làm như thế thì không những không phải là truy cứu mà trái lại chỉ là ngược trở lại thôi, đây là việc bên thức thần không gọi là tham thiền, không thể liễu sanh thoát tử được! Vậy thì tham làm sao đây? Hôm nay ta cho các ông rõ: cái đường lối trực tiếp là ở niệm Phật là ai, là người nào, không hiểu được, cứu kính là ai cũng không rõ ràng. Ngoài ra một tí suy nghĩ, đoán nầy đoán nọ cũng không có. Các ông ở chỗ nầy thẩm định sâu sắc một tí xem có vọng tưởng không? Còn hôn trầm không? Hãy nghiên cứu cẩn thận, không phải chuyện nhỏ nhặt đâu. Các ông lúc tham thiền đi tiêu đi tiểu xong ngồi xuống, ngồi xuống rồi chưa nghe đánh bản chỉ tịnh còn phải đợi thêm một chút xíu nữa, đánh ba lần bản, một lần chuông chỉ tịnh rồi mới suy nghĩ đề lên câu thoại đầu thì vọng tưởng cũng đến luôn, chán quá! Muốn lìa bỏ vọng tưởng; một lìa, lìa không được, lại lìa nữa thì hôn trầm đến luôn. Đuổi vọng tưởng hôn trầm không được thì mặc kệ nó. Đến giờ khai tịnh thì cũng hết chuyện rồi, chạy hương thì chạy, đại khái đều như thế. Tiếc thay! Cứ như thế mãi thì cho đến tận vị lai cũng không có khi nào dứt được. Các ông muón thấy rõ cái khổ của việc sanh tử, cái khổ của tam ác đạo, trong nháy mắt đã bị lôi kéo đi, thực đáng sợ, đáng sợ lắm! Chỉ mong các ông triệt để nhận thức mau chóng đề lên câu thoại đầu tham cho thông rồi thì sanh tử sẽ không có phần của các ông, lục đạo luân hồi còn ở đâu lại được nữa! Các ông hãy phát tâm. Tham đi!

KHAI THỊ
Ngày 25 tháng 10 (thất nhì ngày thứ ba)

Mở mắt thì không chiêm bao, tâm không khởi ý thì không có đối đãi. Ý nghĩa hai câu nầy ta giảng sơ qua: mắt mở thì cứ mở cho lớn thì không chiêm bao, mắt nhắm lại thì nằm chiêm bao, đại khái là như vậy. Nhưng ta nói: mắt nhắm nằm chiêm bao, mắt mở rộng lại còn nằm chiêm bao hơn, các ông tin hay không? Các ông nghĩ rằng mắt nhắm thì ngủ nằm chiêm bao, tại sao mắt mở rộng cũng còn nằm chiêm bao. Tôi có chỗ không tin. Đúng đấy! Nhưng ta nói các ông đứng ngay đây đang nằm chiêm bao, suốt ngày suốt đêm chiêm bao, mắt nhắm lại nằm chiêm bao còn có thể mau chóng tỉnh lại được, các ông mở mắt mà chiêm bao thì chẳng có lúc nào tỉnh, còn biết cái chiêm bao nầy sẽ kéo dài tới thời gian nào mới có thể tỉnh được? Tội nghiệp quá! Người chưa liễu ngộ đều là mở mắt nằm chiêm bao mà không hiểu được đang nằm chiêm bao. Muốn biết cái chiêm bao nầy lúc nào mới tỉnh lại được thì nhất thiết phải khai ngộ, khai ngộ rồi cũng như ngủ nằm chiêm bao thình lình tỉnh dậy. Ta hỏi các ông cái chiêm bao nầy còn có kỳ hạn tỉnh dậy không? Còn nói về cái tâm không khởi ý, ý tức là niệm, tâm có thể khởi thiện niệm, khởi ác niệm, nếu tất cả niệm đều không khởi ấy tức là không có đối đãi, đại khái ý nghĩa là như vậy đó. Kỳ thực không phải thế, cần phải thánh bất khả đắc, phàm bất khả đắc, niệm bất khả đắc, tâm cũng bất khả đắc, nói không rơi vào hai (có đối đãi) thì đã rơi vào ba, luôn cái nhất cũng bất khả đắc mới cho là có một tí tương ưng trong thiền tông. Trong thiền tông chính yếu là phá cái mở mắt chiêm bao, quét sạch mọi tà niệm. Chiêm bao không tỉnh được thì sanh tử không liễu được, tà niệm không trừ thì vọng sinh ra chi tiết, chi tiết vọng rồi thì thiện nhân chiêu ác quả. Ông tưởng là không sai: kỳ thật là báng Phật, phỉ Tổ, phỉ báng thiền đường, phỉ báng đại pháp luân, cái nhân nầy đã gieo xuống rồi thì khỏi nói nữa, phải đọa địa ngục A Tỳ. Mỗi khi có người nói: "Trong thiền tông nói nghe thì tốt lắm, có huyền có diệu, nhưng làm thì có chỗ như không đúng. Mỗi khi ngồi xuống lại buồn ngủ mà còn ngáy nữa", thế thì tâm ông sanh hột giống khinh mạn, ông làm như vậy thì cái nhân phỉ báng đã gieo xuống rồi. Tại sao vậy? Người xưa có câu chuyện tương tợ nay ta kể ra một câu chuyện xưa cho nghe: Ngày trước Tứ Tổ đến núi Ngưu Đầu ở Nam Kinh thấy có tử khí (hơi màu đỏ). Tổ nói: "Trong núi nhất định có người tu đạo." Tổ bèn trèo lên, thì gặp Thiền Sư Pháp Dung, có con cọp ở một bên, Tứ Tổ làm ra vẻ hoảng sợ, Dung nói: "Ông còn có cái nầy tồn tại sao?" Tứ Tổ nói thầm trong bụng "Đây là bậc Đạo nhân" rồi chạy đến chỗ ngồi bằng cỏ của Pháp Dung và vẽ một chữ Phật lên trên đó. Dung thấy có chữ Phật thì không dám ngồi, Tứ Tổ bèn hỏi: "Ông còn cái nầy tồn tại sao?" Biết được đồng là có đạo. Đêm đó Dung nhường chỗ cho Tổ ngủ, trên giường suốt đêm Tổ cứ ngáy. Sáng ngày hôm sau, Dung nói: "Ông thực không biết mắc cở, ngáy suốt đêm làm tôi ngồi không yên". Tứ Tổ nói: "ông còn làm phiền tôi, ông làm con rệp rớt xuống đất té gảy chân vừa kêu vừa nhảy không thôi suốt đêm làm tôi ngủ không yên". Người đời sau có hai câu nói:

"Pháp Dung khi chưa gặp Tứ Tổ thì như thế nào? Sau khi gặp rồi thì thế nào? Khi chưa gặp thì Trời, người đều cúng dường, vượn khỉ dâng trái cây, sau khi gặp Tổ chẳng còn ai cúng dường, quả chẳng ai dâng. "Các ông tham xem tại sao như vậy? Lúc ta ở Chùa Kim Sơn khi dụng công phu đắc lực nằm trên quảng đơn nghe tiếng ồn ào, ta đi xuống xem thì không thấy ai, tất cả đại chúng đều ngủ không một người nào nói chuyện, ta nhìn dưới đáy quảng đơn mới thấy hai con rệp cắn lộn nhau, ta mới đưa chúng tới liêu như ý, cho ít đồ ăn để chúng nó ăn. Các ông thử tưởng tượng xem, còn có thể lấy cái vọng tưởng của mình mà phân biệt được không? Điều ta nói chính là bản thân ta làm đến. Hôm nay ta nói cái chỗ hành của ta, sợ các ông còn có điểm hoài nghi, đợi khi công phu của các ông đến chỗ nầy rồi thì các ông sẽ được biết. Nhưng đợi đến các ông biết để ăn năn cái nhân phỉ báng đã tạo lúc trước thì đã trễ rồi, cho nên ta hôm nay đặc biệt chỉ ra cho các ông, ấy là việc rất cần cần lắm. Các ông hãy phát tâm, tham đi!

KHAI THỊ
Ngày 26 tháng 10 (thất nhì ngày thứ tư)

Tham thiền dụng công quý ở chỗ hành. Hành được mới gọi là tham thiền, không hành, miệng nói tham thiền cũng như không. Chữ hành trong thiền tông rất quan trọng. Không những đời nay hiểu sai lầm cái chữ hành nầy mà ngày xưa người hiểu sai lầm cũng không ít; tất cả đều cho thấy được là xong, hoặc lãnh hội được sự kiện nầy người xưa nay đều vốn có, không cần tu chứng, hoàn toàn là vậy rồi, vậy còn hành cái gì? Cứ cho hành là dư thừa, kỳ thực thiền tông rất quý chữ hành, ấy là sự thực hành, chớ nên lầm tưởng. Phải biết cửa thiền tông là cửa vô thượng, cái hành của thiền tông là hành vô thượng. Muốn đạt đến mục đích trước tiên phải biết: chúng ta từ vô lượng kiếp đến nay là do hành mà đến, tuyệt không phải khi không mà có được, cũng không phải người ta đưa ông đến; lên thiên đường cũng do ông đi, xuống địa ngục cũng do ông đến, thai trâu bụng ngựa cũng do ông đi đến, nay làm người như thế nầy cũng do ông hành tới, đại khái đều như vậy cả. Chẳng thấy người ta lôi ông xuống địa ngục. Từ đó suy ra phàm chúng sanh có sinh tử thì cũng từ lý nầy. Chúng ta dĩ nhiên đều biết tất cả đều do tự ta hành đến, vậy ngày nay muốn phản bổn quy nguyên đâu phải cứ nói ra là đến nhà được đâu, là lãnh hội được đâu? Thời gian tới phải trãi qua biết bao niên đại mới đến nơi xa như thế nầy, nay muốn phản bổn quy nguyên tất phải theo lối cũ mà về thôi. Hơn nữa, trên tâm hạnh các ông đều biết phiền não không tốt, vọng tưởng xấu xa, nghiệp chướng không được nổi lên, nhưng mà tuy biết phiền não là không tốt, phải vứt đi, vọng tưởng là cái xấu phải bỏ đi, sự thật thì có thể bỏ được chăng? Giả sử vứt được thì vứt ngay bây giờ xem nào, dù ông bản lĩnh to bằng trời sợ không làm được như lời đâu, đã không làm được thì không được như thế, theo thế mà nghiên cứu thì chữ hành tất nhiên không được thiếu sót, nhưng đối với người trung hạ căn mà nói thì cái hành này cũng giống như đi đường từ bao xa đến, khi trở về cũng phải đi từng ấy xa thì mới trở về được nguyên xứ. Ví dụ từ ngoài nghìn dặm đến hôm nay trở về cũng phải trải qua nghìn dặm, mỗi ngày đi trăm dặm thì phải đi mất mười ngày mới đi hết. Giả sử thiếu một ngày hay thiếu một dặm cũng không đến nhà được, lý do nầy thì nhất định. Nhưng đối với các ông người có chút căn cơ lại thêm vào đích chỉ trong thiền tông của chúng ta thì không cần phải đi như vậy. Chỗ hành của thiền tông thì như thế nào? Ông từ ngàn dặm đến đây, hôm nay không những không cần ông đi ngàn dặm mới đến được quê nhà mà luôn cả danh từ ngàn dặm đường cũng bất khả đắc, danh từ đã bất khả đắc mà còn muốn ông đi sao? Quày đầu lại là đúng rồi, gót chân không cần nhúc nhích hễ cử động là phải rồi. Các ông thử nghĩ xem: cái pháp tham thiền nầy có trực tiếp không? Người căn cơ thượng đẳng phải hiểu được rằng không phải sinh ra là đã được thượng căn rồi mà cũng là do ở chúng ta từ làm người hạ căn đạt đến trung căn, rồi từ trung căn thành thượng căn, đến thượng căn rồi thì nhất văn thiên ngộ (một nghe ngàn ngộ). Tham đi!

KHAI THỊ
Ngày 26 tháng 10 (thất nhì ngày thứ năm)

Pháp tham thiền là một chính pháp cứu thế, cứu thân và diệu pháp cứu tâm. Chữ thiền nầy là cái cửa ngõ tất yếu mà làm người cần phải đi qua, người tham thiền không phải đã tham được thiền là xong đâu, thực ra phải có một tí mùi vị gì của tham thiền; vậy thì ông phải bận rộn hết sức, có bảo các ông dừng nghỉ một chút các ông cũng không chịu. Nếu chân thực đạt được mục đích của thiền thì việc thành Phật saün sàng trước mắt. Phật đây không có quốc độ nầy quốc độ nọ, không có chúng sanh chư Phật. Muốn thành Phật trải qua a-tăng-kỳ kiếp, cần phải xả đầu mắt, xả óc tủy tim gan, ngũ tạng, kết duyên cho với chúng sanh cõi đại địa, kết duyên cho đầy đủ rồi, nhân duyên thành thục thị hiện giáng sanh, khổ hạnh thành Phật tọa đạo tràng, một đời hoằng dương thánh giáo. Nhưng quả địa Phật nầy lại do nhân địa Phật tạo ra quả địa Phật, khi thành thì làm giáo chủ cả đại thiên thế giới. Mỗi người tham thiền các ông cần đạt đến mục đích của thiền, không những các ông ở tại thiền đường nầy mà cả tăng lẫn tục ở khắp nơi, nam hoặc nữ đều cần phải đạt đến mục đích của thiền, muốn đạt đến mục đích đương nhiên phải có một phen sự việc, còn mong các ông dư ra được mấy người không chỗ làm việc, ở đó mà ngủ gục, tại sao vậy? Mỗi thế giới có một giáo chủ, vậy vô lượng thế giới cho đến vi trần trong hư không đều có giáo chủ. Người thành Phật quá động còn dư ra mấy người không có thế giới để làm giáo chủ giáo hóa chúng sanh, đây là điều tôi hy vọng đối với các ông, không những ta hy vọng các ông như vậy, cả đến thập phương Chư Phật thấy các ông có cái tri thức tham thiền được như vậy cũng phải vui vẻ cười to, chư Đại Bồ Tát cho đến hộ pháp long thiên đều phải chắp tay hoan hỷ hộ trì các ông, không những hộ trì mà lễ bái cũng còn được nữa. Vì vậy ở trong đạo tràng nầy, thêm vào thời kỳ thiền thất được định kỳ thủ chứng, nên cần phải thiết tha nổ lực, mọi cái đều phải buông bỏ hết, buông đến sạch sành sanh. Tham đi!

KHAI THỊ
Ngày 28 tháng 10 (thất nhì ngày thứ sáu)

Người trong thiền tông phải làm việc trong thiền tông. Các ông cần phải hiểu cái hành trong thiền tông là cái gì? Nếu không hiểu rõ thì cho ông có suốt đời ở thiền đường thì vẫn còn đứng ở ngoài cửa thôi. Hôm nay ta nói cho các ông biết qua, ấy là việc ở thiền tông không có gì khác ngoài việc tham thiền ngộ đạo, liễu sanh thoát tử nhưng tham thiền là tham ở nơi mình, liễu sanh thoát tử là liễu thoát sanh tử của mình chứ không phải là thay cho người khác, dù cho ông có bản lĩnh lớn bằng trời cũng không thể làm thay cho người khác được. Còn có người ở thiền đường tưởng rằng là ở thay cho người khác, cho đến làm mọi việc là làm thay cho người khác. Các ông phải biết rằng tất cả mọi việc, việc nào không phải việc của mình đâu? Các ông nếu là người có chút tri thức không đợi ta nói ra mà đã biết quay về với chính mình rồi. Lại có một số người tưởng ở thiền đường Chùa Cao Mân, dụng công là dụng cho Chùa Cao Mân. Trong các ông nếu có người như vậy thì còn xứng đáng là người làm cái việc trong thiền tông không? Tham thiền ngộ đạo, liễu sanh thoát tử còn có phần của các ông không? Vì vậy muốn các ông mở mắt thấy cho rõ. Nhưng tham thiền ngộ đạo liễu sanh thoát tử, hai câu nói đó gom lại chỉ là hai chữ tham thiền. Do tham thiền mà ngộ được đạo, ngộ đạo rồi sanh tử lý nào không liễu? Tóm lại là tham thiền. Đối với việc tham thiền thì thế nào là thiền? Thế nào là tham? Các ông cần phải biết rõ ý nghĩa tham thiền rất rộng. Ta sơ lược chỉ cho các ông một chỗ hạ thủ rất xác thực, mong các ông cứ nghe thì lãnh hội ngay và một mạch mà hành thì sẽ đến nhà. Trước nhất phải biết: từ vô lượng kiếp do một niệm bất giác nên đều hướng ngoại mà chạy cho đến nay vẫn còn bất tri bất giác, thậm chí đều không biết có nhà, vì thế nên gọi là chúng sanh. Phải biết hướng ngoại là gì? Hướng nội là gì? Hướng ngoại là lục đạo luân hồi sanh tử bất định; hướng nội là bổn lai diện mục cùng đồng một thể với chư Phật. Dạy các ông tham thoại đầu là dạy các ông hướng nội, tham thoại đầu tức là tham thiền, là hướng nội. Tóm lại, muốn thấy bổn lai diện mục mà không hướng nội là không được; không hướng nội ấy là sinh tử. Vì sao tham thoại đầu là hướng nội? Có lẽ các ông không rõ ràng, ta giảng một thí dụ cho các ông nghe: các ông đang ngồi đây ta hỏi các ông: "Có thấy bàn thờ Phật không?" Các ông đương nhiên trả lời là thấy, ta hỏi thêm: "Trên bàn thờ có gì?" Nhất định các ông sẽ trả lời là: Bên trong có Phật Tỳ-Lô và những thứ khác." Ta lại hỏi: "Người thấy bàn thờ Phật là ai?" Các ông hãy quay đầu hướng vào chính mình xem! Trong lúc đó không thấy có Phật, ngay cả bàn thờ Phật cũng không có luôn, các đồ vật khác còn có không? Không những không còn mà còn phải quay đầu lại tham vấn trên cái niệm của chính mình đi. Các ông thử nghĩ xem thấy bàn thờ là hướng ngoại, không thấy là hướng nội; không thấy bàn thờ Phật trên niệm nầy mà "truy" ấy là hướng nội. Theo như thí dụ nầy mà thấy thì tham thoại đầu cũng vậy. Niệm Phật, có Phật để niệm được là hướng ngoại; tham "niệm Phật là ai" thì cứ trên niệm ấy mà tham vấn, ấy là hướng nội, hướng nội tức là tham thiền. Hôm nay ta đem ví dụ về sự tham thiền giảng cho các ông nghe qua rồi các ông không được nói là không biết tham thiền, không hiểu được tham câu thoại đầu nữa. Ta hôm nay giao hẹn rõ ràng cho các ông rồi, hãy phát tâm. Tham đi!

KHAI THỊ
Ngày 29 tháng 10 (thất thứ nhì ngày thứ bảy)

Người có một tí lợi căn thì dụng công không lấy gì làm khó. Không nhờ ở tu chứng, đương thể bổn lai chân tánh không dư, không thiếu, thanh tịnh quang minh không do người khác mà được, đều tụ mình saün có, chỉ vì các ông không thể hành như vậy thôi. Bệnh ở đâu? Bệnh ở nơi chữ "chướng". Chúng ta vốn không có mê, vì chướng mà có mê, chướng lìa thì ngộ, sanh tử vì chướng mà có, nếu không có chướng thì sanh tử cũng không. Nếu bỏ chướng đi thì bổn lai diện mục chúng ta đương nhiên hiện ra. Như vậy phải biết chướng là cái cửa ngõ trọng yếu của người dụng công phu, các ông có biết không? Nếu biết được cái chướng nầy thì các ông sẽ có biện pháp để trừ nó. Nếu không biết chướng là cái gì, lấy cái gì làm chướng thì còn nói làm sao trừ chướng được? Làm sao lo cho xong? Đối với người thông thường thì cho là: "sanh tử là chướng, sanh tử bên bờ nầy là chướng, bên bờ kia là Niết Bàn, Niết Bàn không phải là chướng, mê là chướng, ngộ tức không phải là chướng, trần lao là chướng, thanh tịnh là cứu cánh, chúng sanh là chướng, Phật là rất tốt". Đại khái là thế. Thiền tông thì không vậy, sanh tử là chướng, Niết Bàn cũng là chướng, mê là chướng, ngộ cũng là chướng, chúng sanh là chướng, Phật cũng là chướng, thân là chướng, tâm cũng là chướng, sơn hà đại địa là chướng, hư không cũng là chướng. Các ông còn tin chăng? Có người cho rằng: sanh tử là khổ đương nhiên là chướng rồi, Niết Bàn là lạc làm sao lại là chướng được? Chúng sanh là chướng, sao Phật cũng là chướng? Sưn hà là chướng, hư không tại sao cũng là chướng? Nói như vậy thì tôi cần dụng công làm cái gì? Việc trong thiền tông thật là khó tu quá! Đúng đấy! Các ông hồ nghi như vậy nên ta muốn chỉ ra cho các ông, muốn dẫn các ông đi trên đường đi của thiền tông. Nhưng ta chỉ vẽ cho các ông, dẫn đường cho các ông là muốn các ông tự đi, chứ nếu các ông không tự mình đi thì ta không đi thay cho được đâu. Tại sao trong thiền tông muốn nói sanh tử Niết Bàn, chúng sanh Chư Phật, bờ nầy bờ kia, thanh tịnh phiền não, mê ngộ, thân tâm, hư không đại địa đều là chướng? Phải biết rằng tất cả chướng không rời tâm, sanh tử là tâm, chứng Niết Bàn cũng là tâm, cho đến hết thảy hư không đại địa cũng đều là tâm cả. Cái tâm nầy là cái chướng căn bản, căn bản đã chướng thì còn chổ nào không phải là chướng nữa? Các ông muốn lìa cái chướng nầy thì phải có cách nào? Nếu nói: sanh tử khổ là chướng thì lìa bỏ nó, lạc của Niết Bàn cũng là chướng thì cũng bỏ luôn lạc đi; bờ nầy không trụ, bờ kia không trụ, phiền não không trụ, thanh tịnh không trụ, cho đến hư không cũng không trụ. Tóm lại, tất cả trần lao thế giới bên ngoài thân đều bỏ sạch, nhức ngứa trên thân cũng bỏ, vọng tưởng nhiều như cát trong tâm cũng bỏ. Phương pháp trừ bỏ như vậy sai hay không sai? Nhưng trong thiền tông không như vậy. Tại sao như thế? Nếu bỏ từng món một thì chẳng lúc nào hết được; bên nầy dứt thì bên kia sanh, chôn hồ lô trên nước thì không dễ gì được đâu. Đến nhà rồi thì mới có thể đem gốc của nó mà bỏ đi hết được. Thí dụ như mặt trời mặt trăng sơn hà đại địa v.v... tuy là sắc tướng nhiều lắm nhưng đều ở trong một cái hư không, nếu ta muốn bỏ mặt trời mặt trăng, sơn hà đại địa không phải là nhiều lắm sao? Nếu muốn bỏ lần lượt từng món vật cho hết thì e rằng không có bản lĩnh to như thế! Nếu ta có sức lực một tay đặp bể hư không thì còn cái gì nữa? Liễu chướng cũng như vậy thôi. Mặt trăng mặt trời và mọi cái khác cũng giống như những cái chướng nầy nọ của chúng ta, hư không thì cũng như tâm của chúng ta, nếu có thể đem tâm mà liễu bỏ được, thế không phải là trừ bỏ hết tất cả chướng hay sao? Pháp liễu tâm tức là tham thoại đầu; pháp nầy để trên niệm mình mà truy cứu, lâu ngày rồi thì tâm sẽ hết, vọng tưởng cũng sẽ hết, nhân, pháp, đều mất. Lúc bấy giờ thì các ông mới nhận thức Chùa Cao Mân, mới hiểu được lợi ích của câu thoại đầu ở thiền đường! Nhưng sự dụng công ngay bây giờ của các ông cần phải đề lên câu thoại đầu từng giây, từng phút mà truy cứu, chẳng hỏi động tịnh nằm ngồi đi đứng, niệm niệm không gián đoạn, có ngày các ông sẽ đập bể được hư không. Hãy tham đi!

KHAI THỊ
Ngày 30 tháng 10 (thất thứ ba ngày đầu)

Pháp luân chưa chuyển thực luân phải chuyển trước. Trong sự khó khăn vô vàn của nhà chùa, dù cho khó khăn đến đâu cũng phải ra sức duy trì cho nên phát khởi thiền thất cho các sư được chuyên tâm tu hành. Cũng vì đạo tâm của các sư thành khẩn cảm động đến hộ pháp long thiên và được nhiều vị trưởng lão ở các nơi phát đại từ bi, thấy nhà chùa đời sống thanh bần mà quan tâm đến đạo niệm của các ông vì thế đặc biệt cung cấp dầu, muốn, gạo, củi để nhà chùa khỏi phải lo lắng, các sư được an tâm tu đạo. Các vị trưởng lão nầy trước kia hoặc là thủ tọa hòa thượng. Tây đường sư phụ, hoặc đường chủ sư phụ, lâu nay vẫn thường quan tâm đến sự thanh bần của đạo tràng. Nhưng các sư đó không thể so sánh với người đại phú được, đều tiện tặn, ăn xài bỏn xẻn, tích tụ tiền bạc do y bát khất thực không dễ gì có được. Không thể nói là cứ ngồi ngồi, đi đi mà trai thực tiêu đi được đâu. Nếu các ông cứ cho như thế mà không có công việc gì khác thì làm sao có thể trang trải được nợ cơm! Người xưa đã nói: "Thốn hương năng tiêu đấu kim (một tấc hương có thể tiêu được đấu vàng)". Tại sao suốt ngày tọa hương mà không đủ trả được nợ cơm? Thật đúng lắm! Ta muốn hỏi các ông:

Từ sáng đến tối, tấc hương nào tiêu được đấu vàng? và tấc hương nào không tiêu được đấu vàng? Các ông hãy nghiên cứu thử xem? Không phải là việc nhỏ đâu! Ta thấy các ông đối với "tấc hương tiêu đấu vàng" đại khái còn chưa làm được. Đối với việc trang trải nợ cơm, ta không những có thể hứa với các ông mà còn có thể bảo đảm nữa. Ta bảo đảm ở chỗ nào? Là ở chỗ muốn cho các ông đối với câu thoại đầu không biết là ai, cứu cánh là ai, điều đó không hiểu được, rốt ráo là ai cũng còn không hiểu được; suốt ngày tiền niệm là câu thoại đầu, mà hậu niệm cũng là câu thoại đầu. Các ông tự mình đi như vậy thì ta bảo đảm các ông tiêu được cái nợ cơm. Ta muốn hỏi các ông có tham thiền hay không? Các ông đương nhiên trả lời:

"Suốt ngày tôi tham câu thoại đầu không mảy may gián đoạn", ta hỏi thêm các ông: câu thoại đầu không gián đoạn thì trên thân các ông có áo mặc không, quả đường còn ăn cơm không? Các ông trả lời ta cách nào? Nếu biết sự mặc là áo quần, sự ăn là cơm gạo thì không đúng rồi, tôi không dám bảo đảo đâu! Ngoài ra các ông còn trả lời ra sao nữa, hãy nghiên cứu thử xem? Mặc áo không phải mặc áo, ăn cơm không phải ăn cơm; cũng như người xưa nói mặc áo suốt ngày không dính một sợi chỉ, suốt ngày ăn cơm không cắn một hạt gạo. Nếu các ông tham thiền được như thế thì đầy là bằng chứng ta có thể bảo đảm. Trái lại, ta không những không dám bảo đảm mà ngay cả Phật Thích Ca cũng chẳng dám. Các ông phát tâm, hãy tham đi!

KHAI THỊ
Ngày 1 tháng 11 (thất thứ ba ngày thứ hai)

Tham thiền không phải là việc hưởng nhàn. Hôm nay là trong thời kỳ đả thất không cần phải nói lại con đường công phu làm chi nữa, nếu cần phải nói thì không còn đả thất nữa. Vì sao vậy? Vì lúc bình thường cần phải dụng công cho tốt, kịp đến lúc đả thất cần thêm tinh tiến thời ngộ ngay thôi. Nếu muốn nói đường đi trong thời kỳ thất vậy thì, đường đã nhiều lại thêm lắm: vọng tưởng, hôn trầm, chẳng biết đến tham thiền. Không biết đến việc phát khởi nghi tình, phiền não, vô minh v.v... lại càng thêm lắm. Cứ theo như thế mà vẫn còn được gọi là đả thất hay sao? Đả thất cần ở sự khai ngộ cũng như theo đuổi việc thi cử vậy. Kỳ thi không phải là lúc đi học, lúc bình thường cần phải học hành cho tốt. Một khi đã đến nơi trường thi rồi thì chỉ còn lo việc công danh. Giả sử vô trường thi chữ không biết lại còn đi tìm lấy người để hỏi, điều nầy có được không? Đả thất cũng như thế. Trong thời kỳ đả thất còn không hiểu được sự dụng công, lại cũng chẳng hiểu vọng tưởng và tham thiền có như nhau hay không, đầu mối sự phát nghi tình là như thế nào, như thế mà đả thất hay sao? Thật tiếc cho các ông không thể không nói được. Nếu mà không nói thì không những chỗ sâu xa không thấy đến mà chỗ nông cạn cũng chẳng nhìn ra, cho nên ta nay vì các ông mà nói, tham thiền khởi nghi tình là như thế nào? Phải biết câu thoại đầu là như thế nào? Không rõ cứu cánh là ai? Chẳng hiểu được là ai, rốt rào là ai? cũng chẳng biết là ai, không rõ không biết, mơ mơ hồ hồ tức là nghi tình vậy. Vọng tưởng với tham thiền đều là một vọng tưởng, cùng một con đường. Ta nói như thế các ông nghe lại cho là: "tham thiền cũng là vọng tưởng, vậy còn phải tham thiền làm gì? Vọng tưởng hóa ra là lục đạo luân hồi, tham thiền cũng là vọng tưởng vậy tham thiền không phải là luân hồi sao?" Cần phải hiểu được là chỗ khác nhau giữa vọng tưởng của sự tham thiền với vọng tưởng của vọng tưởng là thế nào? Vọng tưởng thì tùy nghiệp chuyển, tham thiền thì tùy tâm chuyển, tùy nghiệp chuyển thì tâm đi trước, các ông đi theo sau tâm. Nghiệp thì chuyển hướng về nẻo luân hồi mà đi, cho nên vọng tưởng là theo nghiệp chuyển, tùy nghiệp thì tất cả là sanh tử. Tham thiền thì tùy tâm chuyển. Tâm là cái gì vậy? Có phải quả tim bằng thịt của các ông không? Thế lấy gì làm tâm của các ông? Tâm, vậy thì ở đâu? Ở trong chăng? Ở ngoài chăng? Hay là ở khoảng giữa hay nơi nào nữa? Thật đáng tiếc! Các ông thật chẳng biết gì? Ta nói đưa chân lên, để chân xuống, đi đứng nằm ngồi, ra vào tới lui, tất cả chỗ nào cũng chẳng mảy may rời tâm cả, vậy có chỗ nào không phải tâm đâu? Ấy chỉ là mình thừa nhận không được thôi. Hôm nay ta hai tay mang đến trước mặt các ông sợ rằng các ông cũng chẳng biết ra được. Thế còn người nào có thể thừa nhận được chăng? Ta dám nói với các ông một người cũng chẳng có. Vậy thì câu thoại đầu đợi các ông tham cứu cho đến chỗ đắc lực, muốn các ông tự mình nhận thức một tí. Ta nói cái gì các ông cũng có thể tin lấy được, nếu công phu không đến được nơi nầy thì dù ta có nói tốt nữa cũng không dễ gì tin được đâu. Nhưng câu thoại đầu này nói là chân như cũng được, nói là Phật tính cũng được, nói là Pháp thân cũng được, nói là tâm cũng xong, phạm vi của nó rất rộng lớn vậy. Thật đáng tiếc cho các ông! Đối với tâm thì tuyệt không biết gì. Hôm nay ta dạy cho các ông hãy lấy câu thoại đầu làm tâm đấy. Câu thoại đầu đến nơi đâu các ông đến nơi đó, câu thoại đầu đi trước các ông đi theo sau. Nói tóm lại, lấy câu thoại đầu để xét tâm ta, hỏi tâm ta, truy cứu tâm ta, lâu ngày đi rồi cũng có thể làm sáng được tâm ta. Đây tất cả sẽ là: vọng tưởng tùy nghiệp chuyển tức là sanh tử, vọng tưởng tùy tâm chuyển tức là minh tâm. Các ông phải thấu đáo thấy được là lời ta có đúng không, việc ta nói là việc của ta, không liên can gì đến các ông, muốn cho các ông dụng công phu đến nơi ấy thì các ông tự mình sẽ thấy thôi, và các ông mới có được sự thụ dụng. Giả sử như lời của ta nói mà các ông đối với bổn phận mình lại không nghe không hỏi, thế thực là đáng tiếc! Đáng buồn! Phải hiểu được là: cái xác thân nầy, thời giờ thì hữu hạn, một khi đã ngã xuống rồi thì không còn gì để truy xét nữa. Tiền đồ thật không kham nghĩ đến. Cần phải nhanh chóng lên. Hãy tham đi!

>>>Phần 2

c

Nguồn: www.quangduc.com

Về danh mục

sua liu nhẫn 白骨观 危险性 cảm đau tuy theo quan niem cua moi nguoi thêm mÙng Kho âu Nghe dung 西南卦 giận quan bat tinh thiền tăng 泰卦 vụ Ð Ñ Ñ LÃm benh hay do thua Tức giận là kẻ thù của sức Cư sĩ Tâm Minh LÊ ĐÌNH THÁM 1897 1969 hơn Đường 真言宗金毘羅権現法要 day la cau tra loi hay nhat Thích phat tu tren buoc duong tim cau chan ly Suc Bì cuốn chay toan phÃÆp LÃƒÆ cau chuyen muon thuo tòa niem phat cho cau phuoc bao huong thu Môn niet nhung cau noi giup ban tinh ngo thangka Su những câu chuyện ám hại đức phật 放下凡夫心 故事 bồ Vài nét về sơ tổ sáng lập dòng ra Ä i hài hay dem tam tu hanh cung duong duc phat nhan mua khái thuc tap chanh niem cho nguoi ban ron phật giáo là trí tín chứ không mê tín bí quyết dạy con thông minh của người giu gin tam y Từ Tuệ Cổ Ăn chay phật kinh điển Những biểu hiện khi cơ thể thiếu buông xã đi nan duyen 4 yeu to chan chanh dinh huong cho cuoc doi ban