Như
tôi đã nói, những điều tôi tìm thấy trong thời gian qua,
tôi lập thành một bản đồ để làm phương tiện cho Tăng
Ni tu hành. Khi nhìn lên bản đồ, quí vị tự thấy con đường
của mình đi, đi đường nào biết đường đó, không nghi
ngờ nữa. Biểu đồ này tôi đặt tên Biểu đồ hai đường
trầm luân sanh tử và giải thoát sanh tử. Một bên trầm luân,
một bên giải thoát, ai chọn đường nào thì đi đường đó.
Tôi chỉ rõ như thế để quí vị đừng lầm con đường mình
đã chọn.
Con
đường được tô màu hồng tượng trưng cho tâm không sanh
diệt, con đường tô đen tượng trưng cho tâm sanh diệt. Trên
biểu đồ, chúng ta thấy có cái ngã ba, nếu đi theo con đường
đen xuống mãi là đi trong luân hồi lục đạo, không có ngày
ra khỏi. Nếu tách theo con đường màu hồng là đường tắt
đi thẳng tới giải thoát. Tuy nhiên, còn một ngã tách nữa
cũng giúp chúng ta tu giải thoát, nhưng có thứ lớp theo Ngũ
thừa Phật giáo. Đó là con đường tô màu vàng.
Như
tôi đã nói, khi chúng ta nhận tướng không sắc chất, tức
cái không làm thân và tâm không sanh diệt làm tâm thì sẽ
đi tắt con đường màu hồng là đường không sanh diệt. Tại
sao? Vì tâm không sanh diệt không thể nào đi trên con đường
sanh diệt được, phải đi đường không sanh diệt. Tâm không
sanh diệt đi đường không sanh diệt, hợp với tướng không
của các pháp.
Tâm
không sanh diệt còn gọi là Chân tâm, nó sẵn nơi mình, không
phải tìm kiếm ở đâu hết. Nó ra sao? Chúng ta thường lơ
đễnh, chỉ biết cái nổi động mà quên cái chìm ẩn. Như
khởi nghĩ thì nổi, nghĩ vấn đề gì có hình tướng rõ ràng,
rồi đi theo dòng suy nghĩ đó sanh diệt liên miên. Nếu buông
hết những khởi niệm lúc đó mình còn tâm không? Khởi niệm
là tâm sanh diệt, lặng hết niệm là tâm Chân như không sanh
diệt. Như vậy khi buông hết niệm, còn lại tâm không sanh
diệt.
Khi
quí vị ngồi chơi một mình không tưởng gì hết, mắt có
thấy, tai có nghe, những biến động chung quanh có biết không?
Cái biết đó có suy nghĩ không? Chúng ta có sẵn cái biết,
không đợi suy nghĩ mới biết. Cái biết sẵn đó lặng lẽ,
không dấy động, là cái biết chân thật. Nó không bao giờ
vắng thiếu lúc nào mà mình quên. Tại sao quên? Tại vì chạy
theo suy nghĩ, theo tâm nông nổi, nghĩ chuyện này tới chuyện
kia liên miên cả ngày, thành ra đâu có nhớ tâm lặng lẽ.
Tâm suy nghĩ nhớ chuyện dễ thương, chuyện dễ ghét, nhớ
cái phải, cái quấy, cái hơn, cái thua, cái được, cái mất…
Như vậy cứ loanh quanh trong được mất, hơn thua, phải quấy,
mà quên mất cái thật của chính mình.
Phải
quấy, hơn thua là những nhân tạo nghiệp để đi trong luân
hồi sanh tử. Cho nên tâm sanh diệt đó là cái tâm đưa mình
đi trong luân hồi lục đạo. Tôi gọi là con đường trầm
luân. Như vậy con đường trầm luân ai tạo cho mình? Chính
mình đi theo nó quen rồi, có thể quen từ muôn thuở chớ không
phải mới đây. Cho nên ngồi lại trong đầu cứ nghĩ chuyện
này tới chuyện kia, hơn thua, phải quấy đủ thứ hết. Nhiều
khi đi ngủ cũng không chịu ngủ nữa, nhớ ai đó nói hơn,
nói thua với mình, như vậy mà loanh quanh hoài. Vì tâm điên
đảo đó mà chúng ta luân hồi sanh tử. Có bao giờ ngồi lại
tỉnh lặng, buông hết mọi việc đâu?
Trong
tất cả pháp tu của Phật, pháp nào cũng để dứt tâm luân
hồi. Niệm Phật thì nhất tâm để tâm sanh diệt dừng. Tu
Mật tông tụng thần chú thì quên nghĩ. Tu thiền thì ngồi
thiền thấy vọng tưởng liền buông. Tất cả pháp tu đều
cốt làm sao dừng được tâm sanh diệt, hết tạo nghiệp sanh
tử. Còn theo tâm sanh diệt thì còn sanh tử, nên gọi là đi
trên đường trầm luân không có ngày cùng.
Bây
giờ muốn biết người nào còn sanh tử, người nào có thể
hết sanh tử dễ lắm, không có gì khó. Như hỏi “anh sợ
chết không”, đáp “sợ”, người đó sẽ đi trên đường
sanh tử, vì sợ mất thân nên tiếp tục tìm kiếm thân khác
nữa. Chừng nào hỏi “anh sợ chết không”, đáp “chết
là trò chơi, chết là vui”, người đó hết sanh tử. Quí
vị tự kiểm lại xem mình thuộc loại nào? Sợ chết hay chết
là vui? Người thấy chết là vui vì buông được một gánh
nặng, bỏ được cái thây thúi. Phật dạy chúng ta quán quá
nhiều mà rồi cứ tiếc!
Tất
cả chúng ta muốn ra khỏi luân hồi sanh tử thì đừng chạy
theo tâm sanh diệt để tạo nghiệp sanh tử, phải dừng tâm
đó. Vì vậy mọi pháp tu trong nhà Phật đều bắt phải lặng
tâm sanh diệt. Lặng gọi là định hoặc nhất tâm. Không ai
bắt buộc chúng ta phải đi mãi trên con đường sanh tử, mình
có quyền tách sang con đường khác. Tách theo con đường không
sanh diệt thì sẽ không còn sanh tử nữa.
Ngày
xưa học kinh, tôi thấy trong kinh nói người tu từ sơ phát
tâm cho đến thành Phật phải trải qua ba a-tăng-kỳ kiếp.
A-tăng-kỳ tức là vô số, phải trải qua ba vô số kiếp mới
thành Phật. Định nghĩa ba vô số kiếp là tính từ các địa
vị của Bồ-tát: Thập tín, Thập trụ, Thập hạnh, Thập
hồi hướng, rồi Tứ gia hạnh. Qua mấy cấp đó là được
vô số kiếp thứ nhất. Từ Sơ địa tới Bát địa Bồ-tát
là vô số kiếp thứ hai. Bát địa tới Đẳng giác Diệu giác
là vô số kiếp thứ ba. Như vậy quí vị nghĩ mình tu chừng
nào mới thành Phật?
Thêm
một điều nữa, chỗ vô số này không thể tính được. Tại
sao? Phật Thích-ca có dẫn một ví dụ cụ thể, như Ngài tu
một lượt với Bồ-tát Di-Lặc. Bồ-tát Di-lặc thích đi chơi,
tới nhà người sang giàu, còn Ngài chăm chỉ, cố gắng tu
nên đã thành Phật trước. Tới bây giờ mà ngài Di-lặc còn
ở cung trời Đâu-suất làm Bồ-tát. Như vậy thời gian tu
không cố định, quan trọng ở sự nỗ lực của mình, mạnh
mẽ thì vượt qua mau, lười biếng thì chậm trễ dài lâu.
Cũng như học trò ở trường, từ lớp một, lớp hai, lớp
ba v.v… lên dần, nhưng đứa nào học giỏi thì có thể một
năm nhảy hai lớp, còn đứa nào học dở có thể hai năm ngồi
một lớp. Lớp có nhất định, nhưng nhảy được hay không
tùy theo khả năng của mỗi người. Ai tối tăm thì học nhiều
năm, ai sáng suốt thì học mau. Vì vậy mà có từ vô số kiếp,
thời gian dài lâu không thể tính kể ấy là do chúng ta quyết
định, chớ không phải ai hết.
Trên
đường tu chúng ta phải trải qua ba vô số kiếp dài vô kể,
quí vị có ngán không? Học tới Thiền tông tôi giật mình,
khi nghe chư Tổ nói “tức tâm tức Phật”. Tâm mình là Phật,
mê là chúng sanh, giác là Phật. Quên tâm chạy theo cảnh đó
là mê, là chúng sanh. Biết trở lại Tâm chân thật của mình
là giác, là Phật. Gần quá, làm sao mình tin được? Kinh sách
nói phải trải qua ba vô số kiếp, trong khi nhà Thiền lại
nói chỉ giác trở lại Tâm chân thật của mình, sống được
với nó thì thành Phật.
Hồi
xưa trong Thiền sử Trung Hoa kể, có một ông làm đồ tể
khá lâu, sau ông bỏ nghề đi tu. Ông có làm bài kệ:
Tạc
nhật dạ-xoa tâm,
Kim
triêu Bồ-tát diện.
Bồ-tát
dữ dạ-xoa,
Bất
cách nhất điều tuyến.
Nghĩa
là:
Hôm
qua tâm dạ-xoa,
Ngày
nay mặt Bồ-tát.
Bồ-tát
với dạ-xoa,
Không
cách một đường tơ.
Như
vậy thành Phật đâu có khó. Khi nói ba vô số kiếp chúng
ta thấy ngán thôi là ngán, nhưng nói mê là chúng sanh, giác
là Phật thì ta không ngán nữa. Mê giác từ đâu ra? Từ tâm
ra. Thấy mình thật, cảnh thật, chạy theo vọng tưởng cho
đó là tâm thì mê. Bây giờ biết thân này không thật, cảnh
bên ngoài hư dối, sống được với tâm không sanh diệt của
mình là Phật. Nhanh như trở bàn tay. Chính trong bản đồ này
tôi đã vẽ rõ.
Đi
theo con đường không sanh diệt, tướng không sắc chất, không
còn ngã, không còn pháp, đó là tới mục thứ tám trong mười
bức tranh chăn trâu: trâu và chăn đều quên. Qua mục thứ
chín là trở về nguồn cội, tu đến không còn ngã, không
còn pháp thì tới giai đoạn thể nhập Pháp thân, gọi là
chim bay về tổ, lá rụng về cội. Đó là bức tranh thứ chín.
Nhiều người buồn, vì tu mà nhận cái không làm thân. Nhận
cái không làm thân với quán không, hai thứ khác nhau, chúng
ta đừng lầm. Nhận không làm thân là biết trong thân
đã sẵn có cái không rồi, không này với không bên ngoài
chẳng hai. Cái không làm thân nên nó đã sẵn nơi mình, khi
nhắm mắt chúng ta thể nhập với cái không khắp bầu trời
này làm thân, vì vậy nói Pháp thân trùm khắp. Khi nhận cái
thân đó làm mình thì chim bay về tổ, lá rụng về cội. Thiền
sư Huyền Giác nói:
Pháp
thân giác liễu vô nhất vật
Bản
nguyên tự tánh thiên chân Phật.
Nó
là nguồn gốc, là tánh sẵn của mình, là ông Phật không
cần tu. Thiên chân còn được gọi là Phật tánh.
Khi
không chấp thân tứ đại thật, nhận cái không trong tứ đại
này là mình thì tâm không sanh diệt hòa nhập với cái không,
nhắm mắt chúng ta có được thân trùm khắp. Đó là Pháp
thân. Nhiều Phật tử than: “Thầy tu kiểu đó chắc tụi
con bơ vơ”, vì lúc đó không có hình tướng, tâm không suy
nghĩ, thì đâu làm lợi ích cho ai. Nhưng quí vị nên nhớ,
trong mười bức tranh chăn trâu, còn mục thứ mười là buông
thõng tay vào chợ. Đây là Ứng thân hoặc Hóa thân. Khi chúng
ta nhập được Pháp thân rồi thì tùy nguyện độ sanh. Nguyện
độ sanh thì dùng Ứng thân hay Hóa thân, chớ không phải bỏ
chúng sanh bơ vơ.
Chúng
ta đi theo con đường Ngũ thừa, tu tới ba vô số kiếp là
vì một đời tu chưa xong nên tiếp tục sanh đời thứ hai
tu tiếp. Nhưng thử đặt lại câu hỏi, đời này chúng ta
sanh ra trong sạch từ thuở bé tới lớn hay cũng có tội lỗi?
Dù tu sớm hay muộn gì cũng có tội lỗi ít nhiều. Người
không sát sanh hại vật cũng phạm lỗi này lỗi nọ. Qua đời
sau trả hết nợ cũ mới tu tiếp nên rất chậm, có khi trục
trặc, tuột lên tuột xuống nhiều lần. Thiếu gì người
phát tâm cạo tóc vô chùa, đó là họ có duyên trước nhưng
rồi trục trặc tuột xuống. Sau trở lại tu nữa nhưng chưa
chắc đi luôn được. Cứ tuột lên tuột xuống hoài nên ba
vô số kiếp là vừa. Còn đi đường này là đi thẳng, lấy
hư không làm thân thì còn tham trước cái gì? Tất cả pháp
thế gian là mộng là huyễn, như kinh Kim Cang Phật nói “thấy
tất cả pháp như mộng huyễn, bọt bóng”. Chúng ta chỉ một
bề đi thẳng.
Hai
con đường đi tắt và đi quanh rõ ràng, quí vị muốn đi đường
nào? Chắc muốn đi đường quanh nhiều hơn. Đa số nói tu
gieo nhân đời sau tu nữa, ít ai phát nguyện ngay đời này
phải giác ngộ. Quí vị quên rằng mỗi một đời như vậy
có duyên thuận duyên nghịch đủ cả. Yếu yếu một chút
gặp duyên nghịch thì té nhào, không biết tuột lên tuột
xuống bao nhiêu lần mới bước lên được bước sau? Nếu
chịu đi thẳng một cái thì hết sức đơn giản. Tại sao
đơn giản? Như ngài Huyền Giác đã nói trong bài kệ Chứng
Đạo Ca:
Chứng
thật tướng vô nhân pháp,
Sát-na
diệt khước A-tì nghiệp.
Nhược
tương vọng ngữ cuống chúng sanh,
Tự
chiêu bạt thiệt trần sa kiếp.
Ngài
nói nếu mình tu thẳng một đường, không còn nhân, không
còn pháp thì nhảy thẳng vô cái thật tướng. Bấy giờ thấy
thân là hư không, thì cái gì lôi mình trả nợ trước? Còn
thân mới trả nợ, vô đó không còn thân cũng không còn pháp,
cho nên tới đây không còn trâu không còn chăn, đi thẳng cái
một. Khỏi qua từ một, hai, ba cho tới tám, mà thẳng vô vòng
tròn. Thấy mình là hư không thì bao nhiêu nợ nần hết người
đòi, hết người trả. Rõ ràng chỉ trong chớp mắt nghiệp
địa ngục cũng tiêu. Nếu đi đường kia phải trả đủ,
thiếu bao nhiêu trả bấy nhiêu mới lên được. Quí vị muốn
đi đường nào tự chọn. Đây là con đường thật dễ mà
cũng thật khó.