Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa
(Trọn bộ 24 tập)

Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm
Khảo dịch: Hòa Thượng Thích Thiện Siêu
Sàigòn - 1998

--- o0o ---

Tập 23

Quyển Thứ 554

 

HỘI THỨ TƯ

Phẩm BỀN CHẮC

Thứ 27 – 2

Thiện Hiện phải biết: Nếu Bồ tát Ma ha tát năng trụ được Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm như thế, thời được mười phương vô lượng vô số vô biên thế giới hiện tại Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác, các chúng Bí sô vây quanh trước sau, tuyên nói Bát nhã Ba la mật đa; ở giữa đại chúng tự nhiên vui mừng xưng nêu khen ngợi công đức sắc tướng dòng dõi danh tự Bồ tát Ma ha tát này, chỗ gọi an trụ Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm công đức chơn tịnh.

Thiện Hiện phải biết: Như ta ngày nay vì chúng tuyên nói Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm, ngự giữa đại chúng tự nhiên vui mừng xưng nêu khen ngợi Bảo Tràng Bồ tát Ma ha tát thảy, các Bồ tát Ma ha tát và các hiện trụ ở chỗ Phật Bất Ðộng tịnh tu phạm hạnh, trụ Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm công đức sắc tướng dòng dõi danh tự các Bồ tát Ma ha tát, chỗ gọi an trụ Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm công đức chơn tịnh.

Hiện tại mười phương vô lượng vô số vô biên thế giới tất cả Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác, vì chúng tuyên nói Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm. Ở kia cũng có các Bồ tát Ma ha tát tịnh tu phạm hạnh chẳng lìa Bát nhã Ba la mật đa. Các Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác kia đều ở giữa chúng tự nhiên vui mừng xưng nêu khen ngợi công đức sắc tướng dòng dõi danh tự Bồ tát Ma ha tát kia, chỗ gọi chẳng lìa Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm công đức chơn tịnh.

Bấy giờ, Thiện Hiện bèn thưa Phật rằng: Tất cả Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác khi chúng tuyên nói Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm, đều ở giữa chúng tự nhiên vui mừng xưng nêu khen ngợi công đức sắc tướng dòng dõi danh tự tất cả chúng Bồ tát Ma ha tát ư?

Phật nói: Chẳng phải vậy. Chẳng phải Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác khi vì chúng tuyên nói Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm đều ở giữa chúng tự nhiên vui mừng xưng nêu khen ngợi công đức sắc tướng dõng dõi danh tự tất cả Bồ tát Ma ha tát.

Thiện Hiện phải biết: Có Bồ tát Ma ha tát đã đối Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề được chẳng quay lui, hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm phương tiện khéo léo. Bồ tát Ma ha tát này được nhờ các Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác khi vì chúng tuyên nói Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm, ở giữa đại chúng tự nhiên vui mừng xưng nêu khen ngợi công đức sắc tướng dòng dõi danh tự.

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Vả có chúng Bồ tát Ma ha tát chưa đối Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề được chẳng quay lui, mà nhờ Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác khi vì chúng tuyên nói Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm, ở giữa đại chúng tự nhiên vui mừng xưng nêu khen ngợi công đức sắc tướng dòng dõi danh tự ư?

Phật nói: Cũng có. Nghĩa là có chúng Bồ tát Ma ha tát mặc dù đối Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề chưa được chẳng quay lui, mà tu Bát nhã Ba la mật đa phương tiện khéo léo, Bồ tát Ma ha tát này cũng được nhờ Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác khi vì chúng tuyên nói Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm, ở giữa đại chúng tự nhiên vui mừng xưng nêu khen ngợi công đức sắc tướng dòng dõi danh tự.

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Kẻ vừa nói đây là Bồ tát Ma ha tát nào ư?

Phật bảo: Thiện Hiện! Có chúng Bồ tát Ma ha tát khi theo Phật Bất Ðộng làm Bồ tát mà học sở tu, mà trụ sở hành, tu hành Bát nhã Ba la mật đa phương tiện khéo léo. Bồ tát Ma ha tát này tuy đối Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề chưa được chẳng lui, mà nhờ Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác khi vì chúng tuyên nói Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm, ở giữa đại chúng tự nhiên vui mừng xưng nêu khen ngợi công đức sắc tướng dòng dõi danh tự.

Lại có chúng Bồ tát Ma ha tát theo Bảo Tràng Bồ tát Ma ha tát thảy mà học sở tu, mà trụ sở hành, tu hành Bát nhã Ba la mật đa phương tiện khéo léo. Bồ tát Ma ha tát này tuy đối Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề chưa được chẳng lui, mà nhờ Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác khi vì chúng tuyên nói Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm, ở giữa đại chúng tự nhiên vui mừng xưng nêu khen ngợi công đức sắc tướng dòng dõi danh tự.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm, đối trong tánh vô sanh tất cả pháp tuy rất tin hiểu, mà chưa chứng được Vô sanh pháp nhẫn, đối trong tánh đều vắng lặng tất cả pháp tuy rất tin hiểu mà chưa được vào bậc chẳng quay lui. Bồ tát Ma ha tát này đã trụ Bát nhã Ba la mật đa phương tiện khéo léo, cũng nhờ Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác khi vì chúng tuyên nói Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm, ở giữa đại chúng tự nhiên vui mừng xưng nêu khen ngợi công đức sắc tướng dòng dõi danh tự.

Thiện Hiện phải biết: Nếu Bồ tát Ma ha tát nhờ các Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác khi vì chúng tuyên nói Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm, ở giữa đại chúng tự nhiên vui mừng xưng nêu khen ngợi công đức sắc tướng dòng dõi danh tự, Bồ tát Ma ha tát này vượt các Thanh văn và bậc Ðộc giác, gần được ký chẳng quay lui Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Sở dĩ vì sao? Vì Bồ tát Ma ha tát này tu hành Bát nhã Ba la mật đa phương tiện khéo léo, chắc sẽ an trụ bậc chẳng quay lui, mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát nghe thuyết Bát nhã Ba la mật đa sở hữu nghĩa thú sâu thẳm như thế hết lòng tin hiểu, không ngờ không nghi, chẳng mê chẳng ngất, chỉ khởi nghĩ này: “Như Phật đã thuyết Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm, lý thú tất nhiên định chẳng điên đảo”. Bồ tát Ma ha tát này đến khởi nghĩ đây: “Ta đối Bát nhã Ba la mật đa nghĩa thú sâu thẳm rất sanh tin hiểu, quyết định ta đã ở hoặc lại sẽ ở chỗ Bất Ðộng Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác và các Bồ tát Ma ha tát rộng nghe Bát nhã Ba la mật đa, với thâm nghĩa thú rất sanh tin hiểu. Sanh tin hiểu rồi siêng tu phạm hạnh, sẽ được trụ bậc chẳng quay lui. Trụ bậc ấy rồi mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề”.

Thiện Hiện phải biết: Nếu Bồ tát Ma ha tát chỉ nghe Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm như thế hãy được vô biên công đức thắng lợi, huống là hết lòng tin hiểu, tu hành như đã nói, buộc niệm suy nghĩ nghĩa thú thẳm sâu. Bồ tát Ma ha tát này an trụ chơn như gần Nhất thiết trí, mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, vì các hữu tình tuyên nói pháp yếu.

Bấy giờ, Thiện Hiện bèn thưa Phật rằng: Pháp lìa chơn như không riêng khá được, hãy nói pháp nào an trụ chơn như? Lại nói ai năng gần nhất thiết trí mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề? Ai lại vì ai, nói pháp yếu nào?

Phật bảo: Thiện Hiện! Ngươi đã hỏi rằng: Pháp lìa chơn như không riêng khá được, hãy nói pháp nào an trụ chơn như. Lại nói: Ai năng gần Nhất thiết trí mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Ai lại vì ai nói pháp nào ấy. Như vậy, như vậy. Như ngươi đã nói. Pháp lìa chơn như trọn bất khả đắc, làm sao nói được pháp trụ chơn như.

Thiện Hiện! Chơn như hãy bất khả đắc, huống riêng có pháp năng trụ chơn như. Ðâu lại có năng gần Nhất thiết trí mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, dễ lại có năng vì người nói pháp.

Thiện Hiện phải biết: Chơn như chẳng thể tự trụ chơn như, vì trong ấy trọng không năng sở trụ vậy. Chơn như chẳng thể gần Nhất thiết trí, vì trong ấy trọn không năng sở gần vậy. Chơn như chẳng thể chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, vì trong ấy trọn không tánh năng đắc sở đắc sai khác vậy. Chơn như chẳng năng vì người thuyết pháp, vì trong ấy trọn không năng sở thuyết vậy. Tùy thuận thế tục nên nói có Bồ tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm, an trụ chơn như, gần Nhất thiết trí, mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, vì các hữu tình tuyên nói pháp yếu.

Khi ấy, Thiên Ðế Thích bèn thưa Phật rằng: Bát nhã Ba la mật đa như thế lý thú sâu thẳm cực khó tin hiểu. Các Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm, mặc dù biết các pháp đều bất khả đắc mà cầu Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Muốn vì hữu tình tuyên nói pháp yếu là việc rất khó.

Sở dĩ vì sao? Ðịnh không có pháp năng trụ chơn như, cũng không có gần Nhất thiết trí mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, cũng không có năng tuyên nói pháp yếu. Nhưng các Bồ tát nghe việc như thế, tâm chẳng chìm đắm, không ngờ không nghi, chẳng kinh chẳng sợ, cũng chẳng mê ngất. Các việc như thế rất là hiếm có.

Bấy giờ, Thiện Hiện gọi Thiên Ðế Thích rằng: Kiều Thi Ca! Như ngươi đã nói. Các chúng Bồ tát nghe pháp sâu thẳm tâm chẳng chìm đắm, không ngờ không nghi, chẳng kinh chẳng sợ, cũng chẳng mê ngất, mà cầu Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, muốn vì hữu tình tuyên nói pháp yếu là việc cực khó, rất hiếm có ấy.

Kiều Thi Ca! Các Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm quán pháp đều không, trọn vô sở hữu, ai chìm ai đắm, ai ngờ ai nghi, ai kinh ai sợ, ai mê ai ngất? Vậy nên việc này chưa là hiếm có. Nhưng bởi hữu tình ngu si điên đảo chẳng năng thông suốt được các pháp đều không, nên cầu Bồ đề, muốn vì tuyên nói phương tiện khéo léo chẳng cực là khó.

Thiên Ðế Thích nói: Tôn giả Thiện Hiện nói ra các lời không chẳng nương không. Vậy nên nói ra thường không trệ ngại. Như có kẻ lấy tên bắn ngửa hư không, hoặc xa hoặc gần đều không trệ ngại. Tôn giả nói ra cũng lại như thế, hoặc sâu hoặc cạn tất cả nương không, ai năng đối trong dám làm lưu nạn.

Khi ấy, Thiên Ðế Thích bèn thưa Phật rằng: Tôi cùng Tôn giả Thiện Hiện đã nói, vì thuận thật ngữ pháp ngữ Như Lai, đối pháp tùy pháp là chính thuyết ư?

Bấy giờ, Thế Tôn bảo Thiên Ðế Thích rằng: Ngươi cùng Thiện Hiện có các lời nói đều thuận thật ngữ pháp ngữ Như Lai, đối pháp tùy pháp nói không điên đảo. Vì cớ sao?

Kiều Thi Ca! Vì Cụ thọ Thiện Hiện sở hữu biện tài không chẳng nương không mà thi thiết vậy. Sở dĩ vì sao?

Cụ thị Thiện Hiện quán tất cả pháp đều rốt ráo không, hãy chẳng đắc Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm, huống có kẻ năng hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm. Hãy chẳng đắc chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, huống có kẻ năng chứng chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Hãy chẳng đắc Nhất thiết trí, huống có kẻ năng đắc Nhất thiết trí. Hãy chẳng đắc chơn như, huống có kẻ năng đắc chơn như thành Như Lai. Hãy chẳng đắc tánh vô sanh, huống có kẻ năng chứng tánh vô sanh. Hãy chẳng đắc Bồ đề, huống có kẻ năng chứng Phật Bồ đề. Hãy chẳng đắc mười lực, huống có kẻ năng thành mười lực. Hãy chẳng đắc bốn vô sở úy, huống có kẻ năng thành bốn vô sở úy. Hãy chẳng đắc các pháp, huống có kẻ năng thuyết.

Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Cụ thọ Thiện Hiện đối tất cả pháp trụ trụ xa lìa, đối tất cả pháp trụ trụ vô sở đắc. Vì quán tất cả pháp rốt ráo đều không, năng sở hành thảy bất khả đắc vậy.

Kiều Thi Ca! Cụ thọ Thiện Hiện đối tất cả pháp trụ trụ xa lìa, trụ trụ vô sở đắc, so chúng các Bồ tát Ma ha tát trụ hạnh trụ vi diệu Bát nhã Ba la mật đa trăm phần chẳng kịp một, ngàn phần chẳng kịp một, cho đến cực số phần cũng chẳng kịp một.

Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Chúng các Bồ tát Ma ha tát này sở trụ hạnh trụ vi diệu Bát nhã Ba la mật đa, ngoại trừ Như Lai trụ, đối trụ các Bồ tát và các Thanh văn, Ðộc giác thảy là tối là thắng, là tôn là cao, là diệu là vi siệu, là thượng là vô thượng.

Vì vậy nên, Kiều Thi Ca! Nếu Bồ tát Ma ha tát muốn đối trong tất cả chúng hữu tình là tối là thắng, là tôn là cao, là diệu là vi diệu, là thượng là vô thượng ấy, phải trụ hạnh trụ vi diệu Bát nhã Ba la mật đa chớ được tạm nới.

 

HỘI THỨ TƯ

Phẩm RẢI HOA

Thứ 28

Bấy giờ, trong Hội vô lượng vô số trời Ba mươi ba vui mừng nhảy nhót, đều đem hương hoa mầu nhiệm trên trời phụng rải lên Như Lai và các Bồ tát.

Khi ấy, sáu ngàn Bí sô trong chúng đều từ tòa dậy, đảnh lễ chân Phật, lệch che vai tả, gối hữu chấm đất, hướng lên Thế Tôn cung kính chấp tay. Vì Phật thần lực nên đều nơi lòng bàn tay hương hoa mầu nhiệm tự nhiên đầy rẫy. Chúng Bí sô này vui mừng nhảy nhót được chưa từng có, đều đem hoa ấy phụng rải lên Phật và các Bồ tát. Ðã rải hoa rồi, đồng phát nguyện rằng: Chúng tôi dùng sức căn lành thù thắng đây, nguyện thường an trụ hạnh trụ vi diệu Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm, mau tới Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.

Bấy giờ, Thế Tôn tức thì mĩm cười. Như Phật thường pháp, từ nơi diện môn phóng các sắc quang xanh vàng đỏ trắng hồng tía lục bích vàng bạc pha lê, soi khắp vô biên cõi nước chư Phật, trên đến Phạm thế, dưới thấu phong luân. Dần hồi trở lại xoay quanh bên hữu Phật qua ba vòng, rồi vào từ trên đảnh.

Khi ấy, A Nan Ðà liền từ tòa dậy chấp tay lễ Phật, bạch Thế Tôn rằng: Nhân nào duyên nào hiện mĩm cười đây? Chư Phật hiện cười chẳng không nhân duyên. Cúi xin Như Lai xót thương vì nói.

Bấy giờ, Phật bảo A Nan Ðà rằng: Các Bí sô đây, ở đời đương lai trong kiếp Tinh Dụ đều được làm Phật, đồng danh Tán Hoa, mười hiệu đầy đủ. Tăng số Thanh văn tất cả đều ngang, thọ lượng cũng ngang hai mươi ngàn kiếp. Mỗi mỗi Phật kia diễn ra ngôn giáo lý thú sâu rộng lưu khắp trời người. Chánh pháp trụ đời đồng hai vạn kiếp. Cõi các Phật kia rộng rãi nghiêm tịnh, người vật phồn thịnh, yên ổn giàu vui. Các Như Lai kia đều ở cõi mình đem các đệ tử dạo qua quanh khắp thôn thành làng xóm quốc ấp vương đô, quay xe diệu pháp độ chúng trời người khiến được lợi ích an vui thù thắng. Các Thế Tôn kia qua lại trụ xứ ngày đêm thường mưa diệu hoa năm sắc. Do nhân duyên này nên Ta cười nụ.

Vậy nên, Khánh Hỷ! Nếu Bồ tát Ma ha tát muốn được an trụ các trụ tối thắng ấy, phải trụ hạnh trụ vi diệu Bát nhã Ba la mật đa. Nếu Bồ tát Ma ha tát muốn được an trụ trụ Như Lai ấy, phải trụ hạnh trụ vi diệu Bát nhã Ba la mật đa.

Khánh Hỷ phải biết: Nếu Bồ tát Ma ha tát tinh siêng tu học Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm cho được rốt ráo, Bồ tát Ma ha tát này đời trước hoặc từ trong người chết rồi sanh lại nơi đây, hoặc từ trên trời Ðỗ Sử Ða chết sanh đến trong người. Sở dĩ vì sao? Vì kia ở đời trước hoặc ở trong người, hoặc ở trên trời do từng rộng nghe Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm, nên với đời nay năng siêng tu học Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm.

Khánh Hỷ phải biết: Như Lai hiện thấy nếu Bồ tát Ma ha tát năng siêng tu học Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm, đối thân mạng của không điều đoái luyến, định đối Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề được chẳng quay lui.

Lại nữa, Khánh Hỷ! Nếu loại hữu tình mến ưa lóng nghe Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm. Nghe rồi thọ trì đọc tụng biên chép, tinh siêng tu học, suy gẫm đúng lý, vì các thiện nam tử thảy Bồ tát Thừa tuyên nói khai chỉ, dạy răn dạy trao. Phải biết người kia là Ðại Bồ tát, từng ở quá khứ đích thân theo Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác nghe thuyết Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm như thế. Nghe rồi thọ trì đọc tụng biên chép, tinh siêng tu học, suy gẫm đúng lý. Cũng từng vì người tuyên nói khai chỉ, dạy răn dạy trao Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm, nên với đời nay năng xong việc này.

Khánh Hỷ phải biết: Loại hữu tình này từng ở quá khứ vô lượng chỗ Phật trồng các căn lành, nên với đời nay năng làm được việc ấy. Loại hữu tình đây nên khởi nghĩ này: Ta trước chẳng những theo Thanh văn thảy nghe thuyết Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm như thế, định theo Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác nghe thuyết Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm như thế.

Ta trước chẳng những đối Thanh văn thảy gần gũi cúng dường trồng các căn lành, định đối Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác gần gũi cúng dường trồng các căn lành. Nhờ nhân duyên này được nghe Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm đây mến ưa thọ trì đọc tụng biên chép tinh siêng tu học suy gẫm đúng lý, rộng vì hữu tình tuyên nói không mỏi.

Lại nữa, Khánh Hỷ! Nếu loại hữu tình chẳng kinh chẳng sợ, mến ưa lóng nghe Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm. Nghe rồi thọ trì đọc tụng, biên chép tinh siêng tu học, suy gẫm đúng lý, hoặc pháp, hoặc nghĩa, hoặc văn, hoặc ý đều khéo thông suốt, tùy thuận tu hành. Các hữu tình này thời là hiện thấy Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác chúng ta.

Khánh Hỷ phải biết: Nếu loại hữu tình nghe thuyết Bát nhã Ba la mật đa sở hữu nghĩa thú sâu thẳm như thế, hết lòng tin hiễu, chẳng sanh hủy báng, chẳng nên trở hoại. Các hữu tình này đã từng cúng dường vô lượng chư Phật, ở chỗ chư Phật trồng nhiều căn lành, cũng được bạn lành nhiếp thọ.

Lại nữa, Khánh Hỷ! Nếu các hữu tình năng đối chỗ thắng phước điền Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác trồng các căn lành, tuy định sẽ được hoặc quả Thanh văn, hoặc quả Ðộc giác, hoặc quả Như Lai mà chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, cần phải đối Bát nhã Ba la mật đa nghĩa thú sâu thẳm khéo suốt không ngại, tinh siêng tu học các hạnh Bồ tát cho cực viên mãn.

Khánh Hỷ phải biết: Nếu Bồ tát Ma ha tát năng đối Bát nhã Ba la mật đa nghĩa thú sâu thẳm khéo suốt không ngại, tinh siêng tu học các hạnh Bồ tát cho cực viên mãn, Bồ tát Ma ha tát này chẳng chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề mà trụ Thanh văn bậc Ðộc giác ấy, tất không có lẽ đó.

Vậy nên, chúng Bồ tát Ma ha tát muốn được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, nên đối Bát nhã Ba la mật đa nghĩa thú sâu thẳm khéo suốt không ngại, tinh siêng tu hành các hạnh Bồ tát cho cực viên mãn.

Vậy nên, Khánh Hỷ! Ta đem kinh điển Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm phó chúc cho ngươi, nên chính thọ trì đọc tụng thông lanh chớ để quên mất.

Khánh Hỷ phải biết: Ngoại trừ kinh điển Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm đây, thọ trì các pháp mà ta đã thuyết giả sử có quên mất, tội kia hãy nhẹ. Nếu đối kinh điển Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm chẳng khéo thọ trì, thấp đến một câu có phải quên mất, tội ấy rất nặng.

Khánh Hỷ phải biết: Nếu đối kinh điển Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm, thấp đến một câu năng khéo thọ trì chẳng quên mất ấy được phước vô lượng. Nếu đối kinh điển Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm chẳng khéo thọ trì thấp đến một câu có bị quên mất, phải bị tội nặng, lượng phước đồng như trước.

Vậy nên, Khánh Hỷ! Ta đem kinh điển Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm ân cần giao ngươi. Phải chính thọ trì đọc tụng thông lanh, suy gẫm đúng lý, rộng vì người nói, phân biệt khai chỉ khiến kẻ thọ trì rốt ráo hiểu rõ văn nghĩa ý thú.

Khánh Hỷ phải biết: Nếu Bồ tát Ma ha tát đối Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm thọ trì đọc tụng rốt ráo thông lanh, suy gẫm đúng lý, rộng vì người nói, phân biệt khai chỉ khiến kia hiểu rõ. Bồ tát Ma ha tát này là thời thọ trì nhiếp lấy chỗ sanh trưởng sở chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề của chư Phật Thế Tôn quá khứ vị lai hiện tại.

Khánh Hỷ phải biết: Nếu loại hữu tình khởi tâm an tịnh hiện ở chỗ Ta, muốn đem các thứ hương hoa thượng diệu cho đến đèn sáng cúng dường cung kính tôn trọng ngợi khen không lúc lười mỏi. Phải đối Bát nhã Ba la mật đa chăm lòng lóng nghe thọ trì đọc tụng rốt ráo thông lanh, suy gẫm đúng lý, rộng vì người nói, phân biệt khai chỉ khiến kia hiểu rõ. Hoặc lại biên chép trang nghiêm các báu, hằng đem các thứ tràng hoa thượng diệu cho đến đèn sáng cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen, chẳng nên lười bỏ.

Khánh Hỷ phải biết: Nếu Bồ tát Ma ha tát cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm, thời là hiện tiền cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen Ta và chư Phật mười phương ba đời.

Khánh Hỷ phải biết: Nếu Bồ tát Ma ha tát nghe Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm khởi tâm an tịnh cung kính mến ưa, tức đối tất cả Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác quá khứ vị lai hiện tại sở chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề khởi tâm an tịnh cung kính mến ưa.

Khánh Hỷ! Nếu ngươi mến ưa với Ta, chẳng bỏ nơi Ta, cũng phải mến ưa chẳng bỏ kinh điển Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm, thấp đến một câu chớ cho quên mất.

Khánh Hỷ! Ta nói nhân duyên dặn dò phó thác kinh điển Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm như thế, dù trải qua vô lượng trăm ngàn đại kiếp cũng chẳng thể hết. Cất tóm mà nói: Như Ta đã là Ðại sư các ngươi, Bát nhã Ba la mật đa phải biết cũng là Ðại sư các ngươi! Các ngươi trời, người, a tố lạc thảy đối Ta kính trọng, cũng phải kính trọng Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm.

Vậy nên, Khánh Hỷ! Ta đem vô lượng phương tiện khéo léo phó thác kinh điển Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm cho ngươi, ngươi phải thọ trì không nên quên mất. Ta nay đem Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm đây đối trước vô lượng đại chúng các trời, người, a tố lạc thảy dặn dò giao phó cho ngươi, nên chính thọ trì chớ để quên mất.

Khánh Hỷ! Ta nay thật lời bảo ngươi: Có các kẻ tịnh tín muốn chẳng bỏ Phật, muốn chẳng bỏ Pháp, muốn chẳng bỏ Tăng, lại chẳng muốn bỏ Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề chư Phật ba đời đã chứng, quyết định chẳng nên bỏ Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm. Như vậy gọi là pháp chư Phật chúng ta dạy răn dạy trao cho các đệ tử!

Khánh Hỷ phải biết: Nếu các thiện nam tử thiện nữ nhân mến ưa lóng nghe Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm, thọ trì đọc tụng rốt ráo thông lanh, suy gẫm đúng lý, dùng vô lượng môn rộng vì người nói, phân biệt khai chỉ thi thiết gây dựng khiến kia hiểu rõ, tinh tiến tu hành. Các thiện nam tử thiện nữ nhân này mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề Nhất thiết trí trí năng chóng được viên mãn. Sở dĩ vì sao? Vì chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề Nhất thiết trí trí đều nương Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm như thế mà được sanh vậy.

Khánh Hỷ phải biết: Chư Phật ba đời đều nương Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm như thế sanh ra Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Vậy nên, Khánh Hỷ! Nếu Bồ tát Ma ha tát muốn được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề phải siêng tinh tiến tu học Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm như thế. Sở dĩ vì sao? Vì Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm là mẹ các Bồ tát Ma ha tát đẻ các Bồ tát Ma ha tát vậy.

Khánh Hỷ phải biết: Nếu Bồ tát Ma ha tát siêng học sáu thứ Ba la mật đa, mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Vậy nên, Khánh Hỷ! Ta đem sáu Ba la mật đa đây lại giao phó dặn dò ngươi, nên chính thọ trì chớ bỏ quên mất.

Sở dĩ vì sao? Sáu Ba la mật đa như thế là kho pháp vô tận các Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác, vì tất cả Phật pháp từ đây sanh vậy.

Khánh Hỷ phải biết: Chư Phật Thế Tôn mười phương ba đời sở thuyết pháp yếu, đều là từ sáu thứ Ba la mật đa kho pháp vô tận tuôn chảy ra vậy.

Khánh Hỷ phải biết: Chư Phật Thế Tôn mười phương ba đời đều nương sáu thứ Ba la mật đa kho pháp vô tận, tinh siêng tu học chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.

Khánh Hỷ phải biết: Ðệ tử Thanh văn chư Phật Thế Tôn mười phương ba đời đều nương sáu thứ Ba la mật đa kho pháp vô tận, tinh siêng tu học đã đang sẽ vào vô dư Niết bàn.

Lại nữa, Khánh Hỷ! Giả sử ngươi vì người Thanh văn thừa thuyết pháp Thanh văn. Do pháp đây nên hữu tình thế giới Tam thiên đại thiên tất cả đều được quả A la hán, cũng chưa vì Ta làm đệ tử Phật làm việc nên đáng. Nếu ngươi năng vì người Bồ tát thừa tuyên nói một câu pháp tương ưng Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm, tức gọi vì Ta làm đệ tử Phật, làm việc nên đáng. Ta đối việc này rất sanh tùy hỷ, hơn người giáo hóa hữu tình thế giới Tam thiên đại thiên tất cả đều được quả A la hán.

Lại nữa, Khánh Hỷ! Giả sử tất cả hữu tình thế giới Tam thiên đại thiên nhờ sức kẻ dạy, chẳng trước chẳng sau đều được thân người, đồng thời chứng được quả A la hán. Các A la hán này sở hữu tánh thí, tánh giới, tánh tu các việc phước nghiệp. Nơi ý hiểu sao? Việc phước nghiệp kia hãy vì nhiều chăng?

Khánh Hỷ thưa rằng: Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều. Việc phước nghiệp kia vô lượng vô biên.

Phật bảo: Khánh Hỷ! Nếu có Thanh văn năng vì Bồ tát tuyên nói pháp tương ưng Bát nhã Ba la mật đa qua một ngày đêm, chỗ được nhóm phước rất nhiều hơn kia.

Khánh Hỷ phải biết: Thôi một ngày đêm, chỉ chừng một ngày. Lại thôi một ngày, chỉ chừng nửa ngày. Lại thôi nửa ngày, chỉ chừng một giờ. Lại thôi một giờ, chỉ chừng bữa ăn. Lại thôi bữa ăn, chỉ chừng chốt lát. Lại thôi chốt lát, chỉ chừng phút ngắn. Lại thôi phút ngắn, chỉ gảy móng tay, người Thanh văn này năng vì Bồ tát tuyên nói pháp tương ưng Bát nhã Ba la mật đa, chỗ được nhóm phước rất nhiều hơn trước. Vì cớ sao? Vì người Thanh văn này chỗ được nhóm phước vượt khỏi các căn lành tất cả Thanh văn Ðộc giác vậy.

Lại nữa, Khánh Hỷ! Nếu Bồ tát Ma ha tát vì người Thanh văn tuyên nói các thứ pháp Thanh văn thừa. Giả sử tất cả hữu tình thế giới Tam thiên đại thiên nhờ pháp đây nên thảy đều chứng được quả A la hán, đều đủ các thứ công đức thù thắng. Nơi ý hiểu sao? Bồ tát Ma ha tát này do nhân duyên đây chỗ được nhóm phước hãy vì nhiều chăng?

Khánh Hỷ thưa rằng: Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều. Bồ tát Ma ha tát ấy chỗ được nhóm phước vô lượng vô biên.

Phật bảo: Khánh Hỷ! Nếu Bồ tát Ma ha tát vì các thiện nam tử thảy Bồ tát thừa, hoặc các thiện nam tử thảy Ðộc giác thừa, hoặc các thiện nam tử thảy Vô thượng thừa tuyên nói pháp tương ưng Bát nhã Ba la mật đa qua một ngày đêm, chỗ được nhóm phước rất nhiều hơn trước.

Khánh Hỷ phải biết: Thôi một ngày đêm chỉ chừng một ngày; lại thôi một ngày chỉ chừng một giờ, lại thôi một giờ chỉ chừng bữa ăn; lại thôi bữa ăn chỉ chừng chốt lát; lại thôi chốt lát chỉ chừng phút ngắn; lại thôi phút ngắn chỉ chừng gảy móng tay, Bồ tát Ma ha tát này năng vì các thiên nam tử thảy Tam thừa tuyên nói pháp tương ưng Bát nhã Ba la mật đa, chỗ được nhóm phước rất nhiều hơn trước vô lượng vô số. Vì cớ sao? Vì pháp thí tương ưng Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm vượt khỏi pháp thí tất cả Thanh văn, Ðộc giác và các căn lành Nhị thừa kia vậy.

Sở dĩ vì sao? Bồ tát Ma ha tát này tự cầu Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, cũng đem pháp tương ưng Ðại thừa chỉ hiện khuyên dẫn khen gắng vui mừng các hữu tình khác khiến đối Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề được chẳng quay lui.

Khánh Hỷ phải biết: Bồ tát Ma ha tát này tự tu bố thí Ba la mật đa cho đến Bát nhã Ba la mật đa, cũng dạy người tu bố thí Ba la mật đa cho đến Bát nhã Ba la mật đa.

Tự trụ nội không cho đến vô tánh tự tánh không, cũng dạy người trụ nội không cho đến vô tánh tự tánh không. Tự trụ chơn như cho đến bất tư nghì giới, cũng dạy người trụ chơn như cho đến bất tư nghì giới. Tự trụ khổ tập diệt đạo thánh đế, cũng dạy người trụ khổ tập diệt đạo thánh đế.

Tự tu bốn niệm trụ cho đến tám thánh đạo chỉ, cũng dạy người tu bốn niệm trụ cho đến tám thánh đạo chi. Tự tu bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định; cũng dạy người tu bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Tự tu không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn; cũng dạy người tu không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn. Tự tu tám giải thoát cho đến mười biến xứ, cũng dạy người tu tám giải thoát cho đến mười biến xứ.

Tự tu Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa, cũng dạy người tu Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa. Tự tu tất cả đà la ni môn, tam ma địa môn; cũng dạy người tu tất cả đà la ni môn, tam ma địa môn. Tự tu năm nhãn, sáu thần thông; cũng dạy người tu năm nhãn, sáu thần thông.

Tự tu Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, cũng dạy người ta Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Tự tu ba mươi hai tướng, tám mươi tùy hảo; cũng dạy người tu ba mươi hai tướng, tám mươi tùy hảo. Tự tu pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả; cũng dạy người tu pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả.

Tự tu nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí; cũng dạy người tu nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí. Tự tu hạnh Bồ tát Ma ha tát, cũng dạy người tu hạnh Bồ tát Ma ha tát. Tự tu Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, cũng dạy người tu Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Tự tu Nhất thiết trí trí, cũng dạy người tu Nhất thiết trí trí. Nhờ nhân duyên đây căn lành tăng trưởng, mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.

Khánh Hỷ phải biết: Bồ tát Ma ha tát này trọn nên căn lành thù thắng như thế, nghĩ nhớ căn lành thù thắng như thế. Nếu kia đối Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề mà có quay lui, không có lẽ ấy.

Bấy giờ, bốn chúng vây quanh, Thế Tôn khen nói Bát nhã Ba la mật đa, giao phó A Nan Ðà khiến thọ trì rồi, lại đối trước Hội đại chúng tất cả trời, rồng, dược xoa, kiện đạt phược, a tố lạc, yết lộ trà, khẩn nại lạc, mạc hô lạc già, người, phi người thảy hiện sức thần thông, khiến chúng đều thấy Bất Ðộng Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác, Thanh văn Bồ tát đại chúng vây quanh vì hội Hải Dụ tuyên nói diệu pháp và thấy tướng nghiêm tịnh cõi kia. Thanh văn Tăng kia đều A la hán, đã hết các lậu, phiền não không còn, được chơn tự tại, tâm khéo giải thoát, huệ khéo giải thoát, như luyện ngựa khôn, cũng như rồng lớn, đã làm phải làm, đã xong phải xong, bỏ các gánh nặng, trọn được lợi mình, hết gút các cõi, chính biết giải thoát, chăm lòng tự tại, rốt ráo số một. Bồ tát Tăng kia tất cả đều là chúng trông biết quen ngay, được đà la ni và vô ngại biện, trọn nên vô lượng công đức mầu nhiệm chẳng thể nghĩ bàn chẳng cân lường.

Phật thu thần lực khiến chúng Hội đây trời, rồng, dược xoa, kiện đạt phược thảy chẳng còn thấy kia Bất Ðộng Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác, Thanh văn, Bồ tát và các đại chúng cùng tướng nghiêm tịnh cõi Phật kia. Chúng Hội và cõi nghiêm tịnh Phật kia đều chẳng phải nhãn căn cõi này đối tới nổi. Sở dĩ vì sao? Vì Phật thu thần lực, đối cảnh xa kia không duyên thấy được vậy.

Bấy giờ, Phật bảo A Nan Ðà rằng: Ngươi cỏn thấy Bất Ðộng Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác, cõi nước chúng hội nữa chăng?

A Nan Ðà thưa: Tôi chẳng còn thấy các việc kia, vì chẳng phải sức mắt tôi đi tới vậy.

Phật bảo cụ thọ A Nan Ðà rằng: Như Như Lai chúng hội cõi nước kia chẳng phải cảnh giới mắt cõi này đi đến được. Phải biết các pháp cũng lại như thế, chẳng phải cảnh giới căn mắt thảy đi đến.

Khánh Hỷ phải biết: Pháp chẳng hành pháp, pháp chẳng thấy pháp, pháp chẳng biết pháp, pháp chẳng chứng pháp.

Khánh Hỷ phải biết: Tánh tất cả pháp không kẻ năng hành, không kẻ năng thấy, không kẻ năng biết, không kẻ năng chứng, không động không tác. Sở dĩ vì sao? Vì tất cả pháp đều không tác dụng, năng lấy bị lấy đều như hư không, tánh xa lìa vậy. Vì tất cả pháp chẳng thể nghĩ bàn, năng sở nghĩ bàn đều như huyễn sĩ, tánh xa lìa vậy. Vì tất cả pháp không kẻ tác thọ, như sáng bóng thảy, chẳng chắc thật vậy.

Khánh Hỷ phải biết: Nếu Bồ tát Ma ha tát năng hành như thế, năng thấy như thế, năng biết như thế, năng chứng như thế là hành Bát nhã Ba la mật đa. Cũng chẳng chấp trước tướng các pháp này.

Khánh Hỷ phải biết: Nếu Bồ tát Ma ha tát khi học như thế là học Bát nhã Ba la mật đa.

Khánh Hỷ phải biết: Nếu Bồ tát Ma ha tát muốn được chóng mau viên mãn tất cả Ba la mật đa, đến tất cả pháp bờ kia rốt ráo, nên học Bát nhã Ba la mật đa.

Sở dĩ vì sao? Vì kẻ học như thế, đối trong các học là tối thắng, là tôn là cao, là diệu là vi diệu, là thượng là vô thượng, lợi ích an vui tất cả thế gian, kẻ không nương hộ vì làm nương hộ. Chư Phật Thế Tôn khai cho xưng khen cho tu học Bát nhã Ba la mật đa như vậy.

Khánh Hỷ phải biết: Chư Phật Bồ tát học học ấy rồi, trụ trong học ấy, năng đem ngón tay hữu hoặc ngón chân hữu cất lấy các thế giới Tam thiên đại thiên vứt bỏ qua phương khác, hoặc đem lại bản xứ, hữu tình trong ấy chẳng hay chẳng biết, không tổn không sợ. Sở dĩ vì sao? Vì oai lực công đức Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm chẳng thể nghĩ bàn. Chư Phật và các Bồ tát quá khứ vị lai hiện tại học Bát nhã Ba la mật đa đây, đối đời sau đời nay và pháp vô vi thảy đều được trí kiến vô ngại.

Vậy nên, Khánh Hỷ! Ta nói năng học Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm đối trong các học là tối là thắng, là tôn là cao, là diệu là vi diệu, là thượng là vô thượng.

Khánh Hỷ phải biết: Các kẻ có muốn lấy lượng ngằn mé Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm, như đứa ngu si muốn lấy lượng và ngằn mé hư không. Vì cớ sao? Vì Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm công đức không lượng không ngằn mé vậy.

Khánh Hỷ phải biết: Ta trọn chẳng nói công đức thắng lợi Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm như danh thân thảy có lượng ngằn mé. Sở dĩ vì sao? Vì danh cú văn thân là pháp có lượng. Công đức thắng lợi Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm pháp chẳng có lượng. Chẳng phải danh thân thảy năng lường được công đức thắng lợi Bát nhã Ba la mật đa, cũng chẳng phải công đức thắng lợi Bát nhã Ba la mật đa là bị kia lường.

Bấy giờ, Khánh Hỷ bèn thưa Phật rằng: Vì nhân duyên nào Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm nói là không lượng?

Phật bảo: Khánh Hỷ! Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm tánh vô tận nên nói là không lượng, tánh xa lìa nên nói là không lượng, tánh vắng lặng nên nói là không lượng, như thật tế nên nói là không lượng, như hư không nên nói là không lượng, công đức nhiều nên nói là không lượng, không ngằn mé nên nói là không lượng, chẳng thể lường nên nói là không lượng.

Khánh Hỷ phải biết: Các Ðức Phật ba đời đều học Bát nhã Ba la mật đa rốt ráo viên mãn chứng được Vô lượng Chánh đẳng Bồ đề, vì các hữu tình tuyên nói khai chỉ, mà Bát nhã Ba la mật đa đây thường không dứt hết. Sở dĩ vì sao? Vì Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm như thái hư không chẳng thể hết vậy.

Khánh Hỷ phải biết: Các kẻ có muốn Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm hết, thời là muốn hư không hết ngằn mé. Vậy nên Khánh Hỷ! Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm nói là không hết. Bởi không hết nên nói là không lượng.

Bấy giờ, Thiện Hiện khởi nghĩ này rằng: Chỗ đây sâu thẳm, ta nên hỏi Phật. Nghĩ thế ấy rồi, bèn thưa Phật rằng: Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm vì sao Như Lai nói là không hết?

Phật bảo: Thiện Hiện! Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm như thái hư không chẳng thể hết nên nói là không hết.

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Bồ tát Ma ha tát làm sao dẫn phát Bát nhã Ba la mật đa?

Phật bảo: Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát nên quán sát không hết, nên dẫn phát Bát nhã Ba la mật đa. Nên quán thọ tưởng hành thức không hết, nên dẫn phát Bát nhã Ba la mật đa.

Nên quán nhãn xứ không hết, nên dẫn phát Bát nhã Ba la mật đa. Nên quán nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ không hết, nên dẫn phát Bát nhã Ba la mật đa.

Nên quán sắc xứ không hết, nên dẫn phát Bát nhã Ba la mật đa. Nên quán thanh hương vị xúc pháp xứ không hết, nên dẫn phát Bát nhã Ba la mật đa.

Nên quán nhãn giới không hết, nên dẫn phát Bát nhã Ba la mật đa. Nên quán nhĩ tỷ thiệt thân ý giới không hết, nên dẫn phát Bát nhã Ba la mật đa.

Nên quán sắc giới không hết, nên dẫn phát Bát nhã Ba la mật đa. Nên quán thanh hương vị xúc pháp giới không hết, nên dẫn phát Bát nhã Ba la mật đa.

Nên quán nhãn thức giới không hết, nên dẫn phát Bát nhã Ba la mật đa. Nên quán nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới không hết, nên dẫn phát Bát nhã Ba la mật đa.

Nên quán nhãn xúc không hết, nên dẫn phát Bát nhã Ba la mật đa. Nên quán nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc không hết, nên dẫn phát Bát nhã Ba la mật đa.

Nên quán nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ không hết, nên dẫn phát Bát nhã Ba la mật đa. Nên quán nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ không hết, nên dẫn Bát nhã Ba la mật đa.

Nên quán địa giới không hết nên dẫn phát Bát nhã Ba la mật đa. Nên quán thủy hỏa phong không thức giới không hết, nên dẫn phát Bát nhã Ba la mật đa.

Nên quán nhân duyên không hết, nên dẫn phát Bát nhã Ba la mật đa. Nên quán đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên không hết, nên dẫn phát Bát nhã Ba la mật đa.

Nên quán vô minh không hết, nên dẫn phát Bát nhã Ba la mật đa. Nên quán hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử sầu thán khổ ưu não không hết, nên dẫn phát Bát nhã Ba la mật đa.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát nên quán sắc như hư không không hết, dẫn phát được Bát nhã Ba la mật đa. Nên quán thọ tưởng hành thức như hư không không hết, dẫn phát được Bát nhã Ba la mật đa.

Nên quán nhãn xứ như hư không không hết, dẫn phát được Bát nhã Ba la mật đa. Nên quán nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ như hư không không hết, dẫn phát được Bát nhã Ba la mật đa.

Nên quán sắc xứ như hư không không hết, dẫn phát được Bát nhã Ba la mật đa. Nên quán thanh hương vị xúc pháp xứ như hư không không hết, dẫn phát được Bát nhã Ba la mật đa.

Nên quán nhãn giới như hư không không hết, dẫn phát được Bát nhã Ba la mật đa. Nên quán nhĩ tỷ thiệt thân ý giới như hư không không hết, dẫn phát được Bát nhã Ba la mật đa.

Nên quán sắc giới như hư không không hết, dẫn phát được Bát nhã Ba la mật đa. Nên quán thanh hương vị xúc pháp giới như hư không không hết, dẫn phát được Bát nhã Ba la mật đa.

Nên quán nhãn thức giới như hư không không hết, dẫn phát được Bát nhã Ba la mật đa. Nên quán nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới như hư không không hết, dẫn phát được Bát nhã Ba la mật đa.

Nên quán nhãn xúc như hư không không hết, dẫn phát được Bát nhã Ba la mật đa. Nên quán nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc như hư không không hết, dẫn phát được Bát nhã Ba la mật đa.

Nên quán nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ như hư không không hết, dẫn phát được Bát nhã Ba la mật đa. Nên quán nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ như hư không không hết, dẫn phát được Bát nhã Ba la mật đa.

Nên quán địa giới như hư không không hết, dẫn phát được Bát nhã Ba la mật đa. Nên quán thủy hỏa phong không thức giới như hư không không hết, dẫn phát được Bát nhã Ba la mật đa.

Nên quán nhân duyên như hư không không hết, dẫn phát được Bát nhã Ba la mật đa. Nên quán đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên như hư không không hết, dẫn phát được Bát nhã Ba la mật đa.

Nên quán vô minh như hư không không hết, dẫn phát được Bát nhã Ba la mật đa. Nên quán hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử sầu thân khổ ưu não như hư không không hết, dẫn phát được Bát nhã Ba la mật đa.

Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát làm dẫn phát Bát nhã Ba la mật đa như thế.

Thiện Hiện phải biết: Các Bồ tát Ma ha tát quán sát mười hai duyên khởi như thế xa lìa hai bên. Các Bồ tát Ma ha tát quán sát mười hai duyên khởi như thế không giữa không biên. Chúng các Bồ tát Ma ha tát này chẳng chung diệu quán. Nghĩa là cần phải ngồi yên tòa Diệu Bồ đề mới năng như thật quán sát mười hai duyên khởi như thế, lý thú sâu thẳm như thái hư không chẳng thể hết vậy, mới năng chứng được Nhất thiết trí trí.

Thiện Hiện phải biết: Nếu Bồ tát Ma ha tát đem hành tướng như hư không không hết, hành Bát nhã Ba la mật đa, như thật quán sát mười hai duyên khởi, chẳng rơi Thanh văn và bậc Ðộc giác, mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.

Thiện Hiện phải biết: Các Bồ tát Ma ha tát nếu đối Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề mà có quay lui, đều bởi chẳng nương phương tiện khéo léo tác ý như thế, chẳng như thật biết các Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm, làm sao nên đem hành tướng không hết dẫn phát Bát nhã Ba la mật đa, làm sao nên đem hành tướng không hết như thật quán sát mười hai duyên khởi.

Thiện Hiện phải biết: Các Bồ tát Ma ha tát nếu đối Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề mà có quay lui ấy, đều bởi xa lìa dẫn phát Bát nhã Ba la mật đa phương tiện khéo léo.

Thiện Hiện phải biết: Các Bồ tát Ma ha tát nếu đối Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề chẳng quay lui ấy, tất cả đều nương dẫn phát Bát nhã Ba la mật đa phương tiện khéo léo. Bồ tát Ma ha tát này nhờ nương phương tiện khéo léo như thế hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm, đem hành tướng như hư không không hết như thật quán sát mười hai duyên khởi. Do nhân duyên đây, mau được viên mãn Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm, chóng năng chứng được Nhất thiết trí trí.

Thiện Hiện phải biết: Các Bồ tát Ma ha tát khi quán sát pháp duyên khởi như thế, chẳng thấy có pháp không nhân mà sanh, chẳng thấy có pháp tánh tướng thường trụ, chẳng thấy có pháp có kẻ tác thọ.

Thiện Hiện phải biết: Các Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm đem hành tướng như hư không không hết, như thật quán sát mười hai duyên khởi, dẫn phát Bát nhã Ba la mật đa, tu các hạnh Bồ tát Ma ha tát, mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.

Thiện Hiện phải biết: Nếu Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm đem hành tướng như hư không không hết dẫn phát Bát nhã Ba la mật đa như thật quán sát mười hai duyên khởi.  Khi ấy Bồ tát Ma ha tát chẳng thấy sắc uẩn, chẳng thấy thọ tưởng hành thức uẩn. Chẳng thấy nhãn xứ, chẳng thấy nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ. Chẳng thấy sắc xứ, chẳng thấy thanh hương vị xúc pháp xứ. Chẳng thấy nhãn giới, chẳng thấy nhĩ tỷ thiệt thân ý giới.

Chẳng thấy  sắc giới, chẳng thấy thanh hương vị xúc pháp giới. Chẳng thấy nhãn thức giới, chẳng thấy nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới. Chẳng thấy nhãn xúc, chẳng thấy nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc. Chẳng thấy nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ, chẳng thấy nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ.

Chẳng thấy địa giới, chẳng thấy thủy hỏa phong không thức giới. Chẳng thấy nhân duyên, chẳng thấy đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên. Chẳng thấy vô minh, chẳng thấy hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử sầu thán khổ ưu não.

Chẳng thấy bố thí Ba la mật đa, chẳng thấy tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa. Chẳng thấy nội không cho đến vô tánh tự tánh không. Chẳng thấy chơn như cho đến bất tư nghì giới.

Chẳng thấy khổ tập diệt đạo thánh đế. Chẳng thấy bốn niệm trụ cho đến tám thánh đạo chi. Chẳng thấy bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Chẳng thấy không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn. Chẳng thấy tám giải thoát cho đến mười biến xứ.

Chẳng thấy Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa. Chẳng thấy Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa. Chẳng thấy tất cả đà la ni môn, tam ma địa môn. Chẳng thấy năm nhãn, sáu thần thông. Chẳng thấy Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Chẳng thấy ba mươi hai tướng, tám mươi tùy hảo. Chẳng thấy pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả.

Chẳng thấy nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí. Chẳng thấy quả Dự Lưu cho đến Ðộc giác Bồ đề. Chẳng thấy tất cả hạnh Bồ tát Ma ha tát. Chẳng thấy chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Chẳng thấy Nhất thiết trí trí. Chẳng thấy thế giới Phật đây, chẳng thấy thế giới Phật kia. Chẳng thấy có pháp năng thấy thế giới Phật đây Phật kia.

Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát năng hành như thế là hành Bát nhã Ba la mật đa.

Thiện Hiện phải biết: Nếu khi Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm, khi đó ác ma rất sanh buồn khổ như trúng tên độc. Ví như có người chết mất cha mẹ thân tâm đau khổ, ác ma kia cũng vậy.

Cụ thọ Thiện Hiện bèn thưa Phật rằng: Là một ác ma thấy các Bồ tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm rất sanh buồn khổ như trúng tên độc, hay nhiều ác ma là tất cả ác ma khắp thế giới Tam thiên đại thiên đều cũng như thế?

Phật bảo: Thiện Hiện! Tất cả ác ma đầy khắp thế giới Tam thiên đại thiên thấy các Bồ tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm rất sanh buồn khổ như trúng tên độc, đều ở bản tòa chẳng thể tự yên.

Sở dĩ vì sao? Nếu Bồ tát Ma ha tát trụ Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm hạnh trụ nhiệm mầu, thế gian trời, người, a tố lạc thảy tìm cầu cái dở đều chẳng thể được, cũng lại chẳng năng làm rối loạn chướng ngại được.

Vậy nên, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát muốn chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, phải siêng an trụ Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm hạnh trụ nhiệm mầu.

Thiện Hiện phải biết: Nếu Bồ tát Ma ha tát năng siêng an trụ Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm hạnh trụ nhiệm mầu, thời năng tu mãn bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa.

Thiện Hiện phải biết: Nếu Bồ tát Ma ha tát năng chính tu hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm phương tiện khéo léo, bèn năng đầy đủ tu mãn tất cả Ba la mật đa; khởi việc lưu nạn đều năng như thật giác biết xa lìa kịp thời.

Thiện Hiện phải biết: Nếu Bồ tát Ma ha tát muốn chính nhiếp thọ phương tiện khéo léo, nên hành Bát nhã Ba la mật đa, nên tu Bát nhã Ba la mật đa.

Thiện Hiện phải biết: Nếu khi Bồ tát Ma ha tát tu hành Bát nhã Ba la mật đa, dẫn phát Bát nhã Ba la mật đa, khi ấy chư Phật Thế Tôn vô lượng vô số thế giới hiện đang thuyết pháp thảy đều hộ niệm. Bồ tát Ma ha tát này nên khởi nghĩ đây: “Các Ðức Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác kia cũng từ Bát nhã Ba la mật đa sanh ra Nhất thiết trí”. Bồ tát Ma ha tát khởi nghĩ đây rồi, lại nên suy gẫm: “Như các Ðức Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác sở chứng được pháp, ta cũng sẽ chứng”.

Như vậy, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát tu hành Bát nhã Ba la mật đa, dẫn phát Bát nhã Ba la mật đa làm suy gẫm ấy, qua trong gảy móng sanh ra nhóm phước hơn chúng các Bồ tát hữu sở đắc qua lâu số đại kiếp như cát Căng già tu hành bố thí chỗ được công đức. Huống là năng qua một ngày, nửa ngày tu hành Bát nhã Ba la mật đa, dẫn phát Bát nhã Ba la mật đa nghĩ nhớ suy gẫm công đức chư Phật.

Thiện Hiện phải biết: Nếu Bồ tát Ma ha tát năng qua một ngày, hoặc lại cho đến qua trong gảy móng tu hành Bát nhã Ba la mật đa, dẫn phát Bát nhã Ba la mật đa, nghĩ nhớ suy gẫm công đức chư Phật. Bồ tát Ma ha tát này chẳng lâu sẽ trụ bậc chẳng quay lui. Bồ tát Ma ha tát này thường được các Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác đồng chung hộ niệm.

Thiện Hiện phải biết: Nếu Bồ tát Ma ha tát thường được các Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác hộ niệm, ấy là định chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, chẳng rơi Thanh văn Ðộc giác thảy. Bồ tát Ma ha tát này quyết định chẳng còn đọa lại các ác thú, quyết định chẳng sanh các chỗ không rảnh, thường sanh thú lành chẳng lìa chư Phật.

Thiện Hiện phải biết: Nếu Bồ tát Ma ha tát tu hành Bát nhã Ba la mật đa, dẫn phát Bát nhã Ba la mật đa, nghĩ nhớ suy gẫm công đức chư Phật qua trong gảy móng hãy được vô biên công đức thắng lợi, huống qua một ngày hoặc một ngày hơn tu hành Bát nhã Ba la mật đa, dẫn phát Bát nhã Ba la mật đa, nghĩ nhớ suy gẫm công đức chư Phật. Như Hương Tượng Bồ tát Ma ha tát, thường năng tu hành Bát nhã Ba la mật đa, dẫn phát Bát nhã Ba la mật đa, nghĩ nhớ suy gẫm công đức chư Phật thường chẳng bỏ lìa, Bồ tát Ma ha tát này nay ở chỗ Bất Ðộng Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác tu hành phạm hạnh.

--- o0o ---

Mục Lục Tập 23

Quyển thứ: 551 | 552 | 553 | 554 | 555

 556 | 557 | 558 | 559 | 560 | 561 | 562  | 563 | 564 | 565

 566 | 567  | 568 | 569 | 570 | 571 | 572 | 573 | 574 | 575

--- o0o ---

Mục Lục Tổng Quát Kinh Bát Nhã

Tập:  1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 78 | 9 | 10 | 11 | 12

13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 18 | 19 | 20 | 21 | 22 | 23 | 24  

--- o0o ---

Vi tính: Chân Hiền Tịnh
Cập nhật: 01-12-2003

Nguồn: www.quangduc.com

Về danh mục

vào bói khổ PhÃp tăng giao Chiếc bóng tuà Rụng tóc Nguyên nhân và cách khắc phục ÐÑÑ cẩm nang vào đời cho người phật tử Bao tử ï½ mười lê đám 8 sai lam pho bien khi an chay Một Tui chua phuoc hoi nhĩ tuổi trẻ và xu hướng thích làm tiệc hoc mie Cảm thuy sự khác nhau giữa giới luật và luật Äón à đỉnh cổ Phật giáo ngã NhÒ 5 loại thực phẩm giúp giải độc cho niem bốn ơn lớn mà người phật tử cần thong dong trước tám ngọn gió đời mở mat phap Chùa nay chùa xưa Hồi n廕簑 gieo nghiệp sát sanh quả báo sẽ nghèo Có mục tiêu sống tốt 66 xung trà Nộm chương xii về trí bân và giải hàn Thu suc Chua bốn viên ngọc quý chết người Á