.
Cư
Trần
Lạc
Ðạo
(Trọn
bộ 3 tập)
Toronto, Canada
1999 - PL 2543
---
o0o
---
Tập
1
(7)
Hạnh Bố Thí
Trong vô lượng pháp môn tu theo đạo
Phật, bố thí là hạnh tu chủ yếu mà mười phương chư Phật, chư vị Bồ
Tát dạy chúng ta thực hành, để đem lại ích lợi, đem lại an lạc cho tất
cả chúng sanh, ngay trên thế giới ta bà này. Bố thí là hạnh tu hàng đầu
trong "Lục Ðộ Ba La Mật", gồm có: bố thí, trì giới, nhẫn
nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ. Bố thí cũng là hạnh tu hàng
đầu trong"Tứ Nhiếp Pháp", gồm có: bố thí, ái ngữ, lợi
hành và đồng sự. Người theo đạo Phật cần nên biết nhiều về
hạnh bố thí, để thực hành đúng theo Chánh Pháp, để thực hành một
cách liên tục, một cách hoan hỷ, để được phước báu vô lượng vô
biên, để đem an lạc và hạnh phúc cho mình và cho mọi người.
* * *
Trước hết, bố thí có nghĩa là cho một cách rộng
rãi. Cho một cách rộng rãi có hai nghĩa: một là, cho tất cả mọi thứ,
đến tất cả mọi người; và hai là, cho với tất cả tấm lòng rộng rãi,
không kỳ thị, gọi là "bất tùy phân biệt". Chúng ta sống trên
thế gian này gặp nhiều phiền não và khổ đau, từ nhiều nguyên
do, trong đó lòng tham lam là yếu tố hàng đầu. Do lòng tham lam, ích
kỷ, con người không bao giờ thấy đủ, luôn luôn nghĩ đến bản thân
mình. Có được chín đồng con người cố gắng kiếm thêm cho đủ mười
đồng, để dành khi hữu sự cần đến, hay để dưỡng lão mai sau.
Ðến khi đã được chín trăm ngàn rồi, con người vẫn cố làm việc,
cố dành dụm, cố đấu tranh, cố giành giựt, bất chấp thủ đoạn, để có
nhiều thêm nữa, để thành triệu phú, dù rằng lúc đó tuổi tác
đã già nua, gần đất xa trời, vẫn không thức tỉnh. Ðó là lòng tham lam
tiền tài, của cải.
Lòng tham danh, háo danh cũng thúc đẩy, sai khiến
nhiều ông bà già tiếp tục bon chen trên đường đời, tiếp tục giở
những thủ đoạn bất chánh bất lương, những tuyệt chiêu điêu luyện,
những kinh nghiệm hại người, để đoạt cho kỳ được, giữ cho thực
lâu, các chức vụ hay danh vị nào đó, trong các tổ chức bất vụ lợi trá
hình, đôi khi đó chỉ là các chức dỏm, danh hàm, danh hão mà thôi, chẳng có
chút giá trị nào cả. Lòng tham lam luôn luôn thúc đẩy con người đấu tranh,
giành giựt, bất chấp thủ đoạn, thì làm sao cuộc sống thực sự được an lạc
và hạnh phúc? Người hiểu hai chữ "tri túc" là người biết an
phận với những gì đang có, biết cần kiệm, biết sống một cuộc
sống đơn giản, an nhàn, trong sạch, thanh bạch, chính là người được an lạc
và hạnh phúc lớn nhất trên đời. Nếu chúng ta không có những gì mình
thích thì chúng ta hãy thích những gì mình đang có. Ðược như vậy, cuộc
đời đâu còn gì gọi là khổ đau.
Trong Kinh Di Giáo, Ðức Phật có dạy:
Tri túc chi nhơn tuy ngọa địa thượng du vi an
lạc.
Bất tri túc giả thân xử thiên đường diệc bất xứng ý.
Nghĩa là người biết thế nào là đủ, tuy nằm
trên đất cũng thấy an vui hạnh phúc. Người không biết thế nào là
đủ, tuy thân xác ở trên cảnh giới thiên đường, tâm ý vẫn không thỏa
mãn!
Sách cũng có câu:
Tri túc tiện túc đãi túc hà thời túc.
Tri nhàn tiện nhàn đãi nhàn hà thời nhàn.
Nghĩa là nếu biết thế nào là đủ thì tức
thời thấy đủ, biết thế nào là nhàn thì tức thời thấy nhàn. Như vậy
đầy đủ và an nhàn thực ra rất cần thiết, rất quan trọng cho cuộc
đời, nhưng chúng ta không bao giờ đạt được đầy đủ và an nhàn, nếu
không chịu "biết đủ, biết nhàn". Bởi vậy, cho nên đức Phật
dạy pháp bố thí, để dẹp bớt, để dứt trừ lòng tham lam, ích kỷ,
đòi hỏi, bỏn sẻn, keo kiệt, bần tiện của con người. Hạnh bố thí gồm
có ba thứ: tài thí, pháp thí và vô úy thí.
1) Tài thí:
Về tài thí có hai phần: nội tài thí và ngoại tài
thí. Chúng ta có thể cho những gì bên ngoài thân thể, như là tiền
bạc, của cải, cơm gạo, quần áo, thuốc men, vật chất nói chung, gọi là
"ngoại tài thí". Khi thực hành ngoại tài thí, chúng ta cần chú ý
các yếu tố đúng người, đúng thời và đúng lượng. Chẳng hạn, người
nào cần tiền bạc, chúng ta giúp tiền bạc, người nào cần thuốc men,
chúng ta giúp thuốc men và chỉ giúp lúc cần thiết, với số lượng hợp
tình, hợp lý mà thôi. Nhiều khi giúp đỡ tiền bạc quá nhiều,
có thể làm cho người nhận sanh tâm ỷ lại, sanh lòng lười biếng,
không thích làm việc, không chịu cực khổ, không kham nổi những khó khăn
trong cuộc sống, chỉ biết nằm chờ viện trợ từ kẻ khác mà thôi.
Nhiều khi giúp đỡ tiền bạc có thể đưa đến chuyện hại
người, nếu chúng ta không biết người nhận sẽ xử dụng số tiền
đó với mục đích sai lạc, mục đích xấu.
Chúng ta có thể đem cho những gì thuộc về thân
thể, thân mạng của mình, các bộ phận trên cơ thể như là mắt, tim,
gan, phèo, phổi, gọi là "nội tài thí". Ðiều này khó
thực hiện được khi còn sống, nhưng chúng ta có thể làm được khi
vừa mới tắt thở. Có rất nhiều người dù không theo đạo Phật, không
hiểu giáo lý đạo Phật, nhưng họ đã ký sẵn giấy cam đoan cho
các bộ phận trên cơ thể, hoặc cho luôn thân xác của họ, cho bất cứ
ai cần đến, hoặc cho các viện nghiên cứu, để giải phẩu, học
hỏi, tìm hiểu, ngay khi họ vừa mới tắt thở. Ðiều này giúp chúng
ta hiểu rằng, trong tận cùng thâm tâm của mỗi con người,
"thiện tâm" đều giống nhau, ai ai cũng có, không phân
biệt con người theo bất cứ tôn giáo nào trên thế gian này.
Ngày nay, chúng ta ít người thực hành nổi hạnh bố thí
thân mạng như người xưa, nhưng chúng ta có thể dùng thân mạng để
làm những việc ích lợi cho người, như công quả trong chùa, góp công sức
trong các cuộc lạc quyên cứu giúp người gặp nạn bão lụt, gặp hỏa hoạn, làm
việc thiện nguyện giúp người khó khăn, khốn khổ. Thực ra, từ xưa
đến nay, trên thế gian này, có biết bao nhiêu người sẵn lòng xả
thân cứu người, nhiều khi gặp hiểm nguy đến tánh mạng. Ðó cũng
gọi là nội tài thí.
2) Pháp thí:
Về pháp thí có hai nghĩa: một là, đem cho tất cả
mọi việc, đem cho tất cả các pháp trên thế gian này, và hai là,
đem cho giáo pháp của Phật, còn gọi là Phật Pháp. Chúng ta có thể cho
tất cả những gì không thuộc phần nội tài thí và ngoại tài thí nói trên.
Chẳng hạn như chúng ta có sở học, có kiến thức, có sự hiểu
biết về một vấn đề nào đó, về một phương diện nào đó,
về một ngành nghề nào đó, chúng ta có thể đem ra chỉ bảo, hướng
dẫn, truyền dạy, giúp đỡ cho người, một cách bất vụ lợi, không mong cầu
báo đáp, không kể lể ơn nghĩa. Việc này bất cứ ai cũng có
thể làm được, không tốn đồng xu cắc bạc, chỉ cần tấm lòng vị tha, chỉ
cần tấm lòng thực sự "vì người quên mình" mà thôi.
Ðối với hàng tu sĩ xuất gia, hay cư sĩ tại gia, có
học hiểu và thực hành giáo pháp của Phật, đem ra giảng giải cho
mọi người được biết để áp dụng, để xây dựng cuộc sống an
lạc và hạnh phúc hiện đời, giúp mọi người hiểu được chân
lý, để giảm bớt phiền não và khổ đau. Theo nghĩa này, pháp
thí là điều quan trọng hơn cả. Tại sao vậy? Bởi vì, khi chúng ta
giúp người về vật chất, như tiền bạc, cơm gạo, có thể làm cho
người được qua cơn khó khăn trong ngắn hạn, trong một thời gian nào đó mà
thôi. Khi chúng ta giúp người về tinh thần, như dạy chữ, dạy nghề,
hướng dẫn cách sống đúng phép vệ sinh chẳng hạn, có thể làm cho
người được qua cơn khó khăn, trong một thời gian nào đó, thậm chí có
thể giúp họ sống vui, sống khỏe trọn một đời này mà thôi.
Còn nếu chúng ta có học hiểu và thực hành
giáo pháp của Phật, còn gọi là Phật Pháp, đem ra giảng giải cho mọi
người được biết, để áp dụng trong cuộc sống, chẳng những có
thể giúp con người sống an lạc và hạnh phúc ngay hiện đời, ngay
kiếp này, cao hơn nữa là giúp con người được giác ngộ và giải thoát
khỏi vòng sanh tử luân hồi khổ đau, vĩnh viễn muôn kiếp. Bởi vậy cho
nên, Ðức Phật dạy hàng Phật Tử tại gia "pháp cúng dường" chư Tăng
Ni, để các vị xuất gia không phải lo chuyện sinh sống, yên tâm tu hành
thanh tịnh, chuyên tâm nghiên cứu kinh điển, rồi đem ra giảng giải cho
mọi người được biết, được hiểu một cách rõ ràng, để áp
dụng tu hành theo đúng Chánh Pháp. Pháp cúng dường như vậy là thanh tịnh
nhất, dành cho các bậc chân tu thanh tịnh. Ðó là một dạng khác của sự bố
thí.
Tuy nhiên, không phải giáo pháp luôn luôn cần hơn cơm
gạo, hoặc ngược lại, không phải cơm gạo luôn luôn là ưu tiên hàng đầu
trong cuộc sống. Trong kinh sách, gọi đó là "tùy duyên", nghĩa là
tùy theo trường hợp, tùy theo hoàn cảnh, tùy theo con người. Trong một
buổi Ðức Phật thuyết pháp, có một người nghèo khó đến dự. Ðức
Phật liền bảo dọn cơm cho người đó ăn, xong rồi mới giảng pháp cho
nghe sau. Khi nghe xong thời pháp đó, người nghèo khó ngộ đạo, chứng ngay quả
tu đà hoàn, phát tâm qui y Tam Bảo. Do đó, ngày nay chúng ta có câu "có
thực mới vực được đạo", nghĩa là phải được tạm no lòng, mới hy
vọng hiểu được đạo lý cao siêu. Chúng ta không thể đem giáo
pháp cao siêu ra giảng dạy cho những người đang đói khổ, đang cần cơm gạo
trước hết. Cũng như không thể đem giáo pháp tối thượng dạy ngay cho
người sơ cơ, mới học đạo. Nhu cầu tại thế gian của con người đi từ
vật chất đến tinh thần, rồi sau đó mới bàn đến chuyện tâm linh
xuất thế gian.
3) Vô úy thí:
Về vô úy thí thì có nhiều nghĩa rộng rãi, cao
siêu hơn. Vô là không, úy là sợ, thí là cho. Vô úy thí là đem cho sự
không sợ hãi. Hay nói cách khác, vô úy thí là làm sao giúp đỡ cho con
người bớt sự lo âu, giảm thiểu phiền muộn, hay không còn sợ hãi. Con
người sống trên thế gian này có rất nhiều điều lo lắng, âu sầu,
phiền muộn, hay sợ hãi. Nào là sợ thiếu tiền, sợ thiếu ăn, sợ
thiếu mặc, sợ bệnh hoạn, sợ thiên tai, sợ mất công ăn việc làm,
sợ mất hạnh phúc gia đình, sợ đủ-mọi-thứ-chuyện trên trần
đời. Nhưng nỗi lo sợ lớn nhất của con người chính là sợ chết! Tự
cổ chí kim, từ người nghèo hèn cho đến người sang trọng, từ người
bình dân cho đến người học thức, từ người trẻ cho đến cụ già,
từ người thường dân cho đến vua quan hay hàng quí tộc, từ giới phàm phu
tục tử cho đến các bậc hiền triết thánh nhơn, nào có ai tránh
được cái chết đâu, mặc dù con người vốn tham sinh úy tử, ham sống sợ
chết!
Con người thường hay nghĩ "đời còn dài", cho
nên chỉ bận tâm đến chuyện mưu sinh, chuyện tranh danh đoạt lợi,
chuyện đấu tranh tranh đấu, chuyện hơn thua thị phi, đúng sai phải
quấy, đủ thứ chuyện linh tinh lang tang. Ðến khi sắp từ giã cuộc đời,
mới giựt mình tỉnh giấc, thì đã quá muộn màng! Thực ra, con người có
thể chết bất cứ lúc nào, bất cứ cách nào, bất cứ nơi nào. Vô úy
thí có nghĩa là giúp người qua cơn sợ hãi mọi thứ, bớt sự lo lắng
mọi điều, trong tâm trí, qua các biến cố, trước các điều
hiểm nguy, và còn có nghĩa là: chúng ta không nên gây não phiền,
không nên gây bực dọc cho bất cứ ai, để yên cho mọi người
được sống cuộc đời an vui, yên ổn, dù cho họ là người thân hay kẻ
thù. Ðó chính là tâm lượng "bất tùy phân biệt".
Còn đối với sự sợ chết, chúng ta khuyến hóa
mọi người tu hành, cầu đạo giải thoát. Bởi vì chỉ có giáo pháp của
Ðức Phật mới có thể chỉ bày cho con người hiểu rõ ràng, tường tận "pháp
vô sanh", tức là chỉ dạy đường lối tu hành để giải thoát khỏi
mọi thứ phiền não và khổ đau, không còn sanh tử luân hồi nữa. Ðạo
Phật không phải chỉ có hình thức cúng kiến, lễ lạy, cầu nguyện mà
thôi. Thực hành hạnh vô úy thí còn có nghĩa là giúp chúng sinh khắc phục
tư tưởng khiếp nhược, sợ hãi, tự ti mặc cảm yếu hèn, giúp chúng
sinh hiểu được điều Ðức Phật giác ngộ dưới cội cây bồ đề và
giảng dạy trong tam tạng kinh điển. Ðiều đó chính là: Tất cả
chúng sanh ai ai cũng đều có Phật Tánh như nhau, tất cả đều bình
đẳng, và tất cả chúng sanh đều sẽ thành Phật, giải thoát mọi khổ
đau phiền não, nếu biết tu tập thực hành đúng Chánh Pháp.
Trong các kinh điển Phật giáo, đó là bốn bước:
khai, thị, ngộ, nhập. Nghĩa là Ðức Phật khai mở cánh cửa giải thoát, chỉ
thị cho con người thấy được, hiểu được thế nào là pháp vô sanh.
Sau đó, giúp cho con người làm sao giác ngộ được pháp vô sanh và chỉ rõ
đường lối tu hành làm sao chứng nhập được pháp vô sanh. Ðó chính là
"con người chân thật bất sanh diệt" của tất cả chúng ta, chứ
chúng ta không phải là cái xác thân giả tạm đang có này. Chúng ta cần nên
biết rằng: Con người sở dĩ sợ chết, bởi vì con người sợ mất cái
thân tứ đại mấy chục ký lô giả tạm này, cứ tưởng đó là mình, mà
không hề biết mình có cái không hề chết, không hề bị
diệt mất, cái đó chính là "con người chân thật bất sanh
diệt" của tất cả chúng ta vậy.
Chúng ta biết rằng khi thọ hưởng một tài sản
hay của cải, vật chất nào, không nên chỉ dùng cho riêng mình. Chúng ta nên
bố thí ra, chia xẻ với mọi người, để tạo an vui cho những người chung
quanh và cũng tạo an vui cho chính chúng ta nữa. Cái gì chúng ta ăn, chỉ
được nhứt thời. Cái gì chúng ta tích trữ, dành dụm, chỉ được nhứt đời
mà thôi, chắc chắn chúng ta sẽ bỏ lại tất cả khi ra đi. Nhưng tất cả những
gì chúng ta cho ra, những gì chúng ta bố thí, sẽ trở lại với chúng ta, dưới
dạng phước báo, quả báo lành, sự bình an, sự may mắn, giúp chúng ta được
tai qua nạn khỏi. Chứ thực sự không có chúa trời, không có ngọc hoàng
thượng đế hay đức Phật nào, vì lòng riêng tư, mà đến cứu giúp,
theo lời van xin cầu khẩn của chúng ta cả. Nói cách khác, cái gì chúng ta đã
tiêu xài, bây giờ không còn nữa. Cái gì chúng ta đã mua sắm, bây giờ phải
để lại cho người khác, khi ra đi. Chỉ có cái gì chúng ta "đã cho,
đã bố thí" với lòng từ bi, là vẫn còn "thuộc về chúng ta"
khi từ giã cõi đời. Ðó chính là nghiệp lành, là phước báo, là quả
báo tốt, là sự may mắn, luôn luôn theo cùng với chúng ta như hình với bóng.
Danh ngôn Tây Phương cũng có câu: "If you continually give, you will
continually have".
Trong Kinh Ðịa Tạng, phẩm thứ mười, khi Bồ Tát Ðịa
Tạng từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay cung kính và bạch Phật rằng:
"Bạch Ðức Thế Tôn, con xem chúng sanh trong nghiệp đạo, so sánh
công đức bố thí, hiệu quả có sự nhiều ít khác nhau, có người
được hưởng phước một đời, có người được hưởng phước mười đời, có
người được hưởng phước hàng trăm, ngàn đời, lợi lạc lớn lao. Tại sao
như thế, cúi xin đức Thế Tôn từ bi giảng trạch cho chúng con được
biết". Ðức Phật dạy tóm lược như sau: "Bất cứ ai gặp những
người già yếu, bần cùng, hèn mạt, tàn tật, câm ngọng, đui mù, ngây
điếc, không được toàn vẹn, mà tự tay đem bố thí với lòng từ bi,
thương xót, dùng lời mềm mỏng an ủi họ tử tế, khiến cho
họ được an ổn, vui vẻ, thì được hưởng phước báo vô lượng. Tuy
nhiên, nếu làm được những việc thiện như thế mà đem hồi
hướng cho pháp giới chúng sanh thì những người làm công đức ấy được
hưởng những sự vui sướng nhiệm mầu hàng trăm ngàn đời, nếu đem
công đức ấy hồi hướng cho quyến thuộc nhà mình, hay muốn tự mình hưởng
những lợi ích, thì ba đời được vui vẻ, làm một phần thì được hưởng vạn
phần".
Tại sao vậy? Bởi vì những người làm phước đó đã
phát tâm rộng lớn đem "hồi hướng cho khắp pháp giới chúng sanh",
không cứ công đức ít nhiều, không dành riêng cho mình và người thân
của mình, đó chính là những người đã "diệt được lòng tham",
cho nên được sự "giải thoát hoàn toàn", cho nên được hưởng quả
"phước báo lớn lao" như vậy. Còn những người chỉ phát tâm hạn
hẹp, chỉ muốn đem công đức ấy hồi hướng cho người thân, hay cho chính mình
mà thôi, họ sẽ được hưởng quả phước báo hạn chế hơn, tùy theo
tâm lượng còn nhỏ hẹp của chính mình.
Trong Kinh Kim Cang, Ðức Phật có dạy: "Nhược Bồ
Tát ư pháp, ưng vô sở trụ hành ư bố thí. Sở vị bất trụ sắc bố thí, bất
trụ thinh, hương, vị, xúc, pháp bố thí. Bồ Tát ưng như thị bố thí, bất
trụ ư tướng. Nhược Bồ Tát bất trụ tướng bố thí, kỳ phước đức bất khả
tư lượng". Nghĩa là nếu chúng ta không chấp bốn tướng: ngã, nhơn,
chúng sanh, thọ giả, và không chấp sáu trần: sắc, thinh, hương, vị, xúc,
pháp, mà thực hành hạnh bố thí, thì phước đức không thể nghĩ, không
thể lường được.
Không chấp bốn tướng: ngã, nhơn, chúng sanh,
thọ giả, có nghĩa là khi thực hành hạnh bố thí, chúng ta
không nên thấy có mình là người cho, để cầu mong được báo đáp,
được cám ơn, được tán thán, chúng ta không nên thấy có người nào là kẻ
nhận sự bố thí đó, để kể lể chuyện ơn nghĩa, chúng ta không
nên thấy có bao nhiêu người đã nhận sự bố thí đó, để khoe khoang, và
chúng ta cũng không nên thấy có vật gì, điều gì đã được đem cho,
để khỏi tiếc nuối về sau, có khi tiếc của, muốn đi đòi lại!
Nếu được như vậy, sau khi thực hành hạnh bố thí, chúng ta sẽ an trụ
được tâm của chúng ta. Chúng ta sẽ không bực dọc khi gặp những người
bội bạc, không biết ơn, thậm chí còn trở mặt với chúng ta nữa. Lòng từ
bi của chúng ta cũng không bị hạn chế, khi không còn nhớ là đã bố thí
bao nhiêu tiền của, đã bố thí cho bao nhiêu người, đã dành bao nhiêu
thời giờ để làm hạnh bố thí đó.
Muốn hàng phục được tâm ý của chính mình, chúng
ta phát nguyện độ tất cả chúng sanh mà không thấy có chúng sanh nào
được độ. Bố thí xong rồi thì thôi, đừng nhớ nghĩ gì nữa. Khi chúng ta xả
bỏ được hết tất cả vọng niệm, tức là chúng ta đã thực hành
hạnh bố thí ở mức độ cao nhất, mà ít người hiểu được. Hàng phục
được tâm ý của chính mình thì mau tiến đến chỗ giải thoát,
cho nên Ðức Phật dạy phước đức không thể nghĩ, không thể lường
được, chính là nghĩa đó vậy.
Không chấp sáu trần: sắc, thinh, hương, vị,
xúc, pháp, mà thực hành hạnh bố thí, có nghĩa là chúng ta không
chấp vào sắc tướng dễ nhìn hay khó nhìn, không chấp vào âm thinh dễ nghe hay
khó nghe, không chấp vào mùi hương dễ ngửi hay khó ngửi, không chấp vào mùi
vị dễ nếm hay khó nếm, không chấp vào xúc chạm dễ chịu hay khó chịu,
không chấp vào sự việc, ý tưởng vừa ý hay không vừa ý, thích
hay không thích, ưa hay ghét. Sở dĩ tâm ý của chúng ta thường hay loạn
động, bởi vì chúng ta thường hay dính mắc với sáu trần. Hễ mắt thấy bất
cứ sắc gì thì liền khởi vọng niệm phê phán đẹp hay xấu, hễ tai
nghe bất cứ tiếng gì thì liền khởi vọng niệm phê phán êm dịu
hay chát chúa, hễ mũi ngửi bất cứ mùi gì thì liền khởi vọng niệm
phê phán thơm quá hay thúi quá, hễ lưỡi nếm bất cứ vị gì thì liền
khởi vọng niệm phê phán ngon quá hay dỡ quá, hễ thân xúc chạm bất cứ
vật gì thì liền khởi vọng niệm phê phán mát mẽ mịn màng hay nhám
nhúa nhơ nhớp, hễ ý nhớ tưởng bất cứ chuyện gì thì liền khởi
vọng niệm phê phán hài lòng hay bực bội. Cứ như thế, cả ngày,
suốt tháng, quanh năm, tâm của chúng ta luôn luôn bất an, loạn động.
Chúng ta thực hành hạnh bố thí còn có nghĩa là chúng
ta buông xả hết các vọng niệm, các tạp niệm, để an trụ
tâm, để thanh tịnh tâm thì mau tiến đến chỗ giải thoát. Cho
nên Ðức Phật dạy thực hành được hạnh bố thí như vậy, thì phước đức
không thể nghĩ, không thể lường được. Chúng ta thực hành hạnh bố
thí với tấm lòng rộng rãi, với tất cả tấm lòng "vì người quên
mình", với tất cả tấm lòng từ bi, cung kính, không cầu danh lợi, không
cầu báo đáp, không vì hơn thua, không mê hoặc lòng người, không chọn
lựa món xấu đem cho, món tốt giữ lại, tức là không trụ sắc; cho rồi không
cần nghe lời khen, tiếng cám ơn, tức là không trụ thinh, v.v.. và của đem
bố thí phải thanh tịnh, chơn chánh; người nhận bố thí phải được tôn
trọng, bình đẳng, phải được cám ơn! Ðó chính là sự bố thí thanh
tịnh, trong sáng, "bất tùy phân biệt" nam phụ lão ấu, người tu
hay người đời, đẳng thí vô sai biệt, phổ đồng cúng dường, thượng
cúng thập phương chư Phật, chư hiền thánh nhơn, hạ cập lục đạo phẩm,
cho nên đem lại phước báo vô lượng vô biên, cho nên trong kinh sách gọi
là "bố thí ba la mật".
Tại sao chúng ta phải tu hạnh bố thí? Chúng ta tu hạnh
bố thí là kiến tạo một kho tàng phước báu, là tu tập nghiệp lành.
Bố thí tiêu trừ đau khổ, làm cho tâm trí được an vui, thảnh thơi, hạnh
phúc. Tu hạnh bố thí được người thương mến, dễ thu phục lòng người,
phát triển lòng từ bi. Tu hạnh bố thí là gốc rễ của tất cả các
thiện pháp. Bố thí là pháp tu, hạnh tu mà những người kém phước đức
và trí huệ cần noi theo. Chư vị hiền thánh nhơn kim cổ đều trải
qua các hạnh tu bố thí.
* * *
Tóm lại, nhờ tu hạnh bố thí chúng ta diệt được
lòng tham lam ích kỷ ở tự tâm, thể nhập tự tánh bình đẳng, đại từ
đại bi, đem lại sự no ấm, thoát khổ đặng vui, đều nhờ công năng tài
thí. Chúng ta cũng có thể phát triển chánh trí, phá trừ vô minh, si
mê, thể nhập chân lý, đem lại bình tỉnh, cởi mở sự lo buồn sợ hãi,
khiến chúng sanh được sống thanh thảng, tự tại, đó là nhờ công năng
của pháp thí và vô úy thí.
Hạnh bố thí là nền tảng của các nghiệp lành,
nghiệp thiện, giúp con người sống trong chánh đạo, dẹp bỏ được tam
độc: tham lam, sân hận, si mê. Pháp môn này, nói chung, mọi người ai ai
cũng có thể thực hành được, nhưng muốn thực hành cho đến mức độ
cao thâm, rốt ráo tột cùng, gọi là "ba la mật", chúng ta phải
phát tâm bồ đề kiên cố, dũng mãnh, bất thoái chuyển, tức là phát
tâm lượng của các bậc Bồ Tát và Ðại Bồ Tát vậy.
---
o0o
---
Mục Lục
Tập
1:
1
|
2
|
3
|
4
|
5
|
6
|
7
|
8
|
9
|
10
|
11|
12
Tập
2:
1
|
2
|
3
|
4
|
5
|
6
|
7
|
8
|
9
|
10|
11|
Tập
3:
1|
2
|
3
|
4|
5|
6
|
7
|
8
|
9
|
10|
11|
12|
13|
14
|15|
16
---
o0o
---
| Thư
Mục
Tác
Giả
|
--- o0o ---
Chân
thành
cám
ơn
Cư
sĩ
Chính
Trực
đã
gửi
tặng
phiên
bản
điện
tử
bộ
sách
này
(Trang
nhà
Quảng
Đức,
05-2002)
Trình
bày
:
Nhị
Tường
Cập
nhật
ngày:
01-05-2002
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục