.
Cư
Trần
Lạc
Ðạo
(Trọn
bộ 3 tập)
Toronto, Canada
1999 - PL 2543
---
o0o
---
Tập
1
(9)
Nguồn Gốc của Khổ Ðau
Trong các buổi lễ chúng ta thành
kính cảm niệm, ghi ơn Ðức Phật Thích Ca đã tìm ra con đường cứu khổ
nhân loại. Chúng ta thường phát nguyện như sau: "Chúng con khổ
nguyện xin cứu khổ. Chúng con khổ nguyện xin tự độ". Sống trên
thế giới ta bà khổ này, một mặt, chúng ta cầu nguyện xin Ðức Phật từ
bi cứu khổ. Mặt khác, tích cực hơn, chúng ta phát nguyện theo Ðức Phật,
để học hiểu và thực hành theo những lời dạy vô cùng quí báu của
Ngài, để đạt được mục đích cứu kính là giác ngộ và giải thoát. Hay
ít ra, ngay trong đời này, chúng ta cũng tạo dựng cho mình, cho đời, một cuộc
sống an lạc và hạnh phúc, trên thế gian đầy phiền não và khổ đau
này.
Chúng ta thường nghe người đời than thở: Trời ơi,
tại sao tôi khổ quá vậy? Làm sao cho tôi hết khổ nè, trời ơi! Người
đời thường kêu trời than khổ vì đủ thứ chuyện, vì nghèo khó, vì
bệnh tật, vì thất nghiệp, vì thất tình. Tuy nhiên, cũng có không ít
người giàu có, khỏe mạnh, có sự nghiệp, có tình yêu, nhưng vẫn kêu
khổ, khổ ơi là khổ! Người già than khổ, người trẻ cũng than khổ! Người ngu
dốt than khổ, người thông minh cũng than khổ! Già trẻ lớn bé, nam phụ lão
ấu, ai ai sống ở đời, mỗi người đều có nỗi khổ riêng. Những
người không tín ngưỡng kêu khổ đã đành, thậm chí những người có tín
ngưỡng vẫn cứ kêu khổ dài dài. Dân da đen, da vàng, da đỏ than khổ. Dân da
trắng cũng than khổ. Dân thường than khổ, hoàng gia quí tộc cũng than khổ.
Công nhân than cực, than khổ. Chủ nhân ông, chủ nhân bà cũng than khổ, kêu
khổ nhiều hơn là khác.
Ðạo Phật nhận định:"Cuộc đời là bể
khổ". Nhận định như vậy có phải đạo Phật chủ trương bi quan
yếm thế, thụ động chấp nhận định mệnh sẵn có, chấp nhận số
phận đã an bài, chấp nhận những cảnh khổ đau của cuộc đời? Ðạo Phật có
dừng lại ở nhận định như vậy, hay đạo Phật có dạy chúng ta phương pháp "Làm
sao cho đời bớt khổ, làm sao cho đời hết khổ?". Thực ra, đây mới
chính là mục đích cứu kính của đạo Phật vậy.
* * *
Trên cuộc đời này, nói chung, chúng ta có hai thứ khổ:
khổ về vật chất và khổ về tinh thần. Khổ về vật chất chẳng hạn
như: nghèo khó, bệnh tật, thất nghiệp, thì có thể giải quyết
được, bằng cách này cách khác, trong một thời gian nào đó. Thí dụ như
để giải quyết chuyện nghèo khó, chúng ta phải làm việc cần cù
hơn, biết tiết kiệm hơn, trong một thời gian. Ðể giải quyết
chuyện bệnh tật, chúng ta phải biết giữ gìn vệ sinh cá nhân và
vệ sinh công cộng, phải đi bác sĩ khám định kỳ, dùng thuốc men đúng
liều lượng chỉ dẫn, ăn ngủ điều độ, tập thể dục thường ngày.
Ðể giải quyết chuyện thất nghiệp, chúng ta phải biết cách
giữ gìn công ăn việc làm, siêng năng chăm chỉ, cải tiến nghiệp
vụ cá nhân, gia tăng năng suất.
Cái vấn đề nan giải chính là cái khổ về mặt
tinh thần. Chúng ta hãy thử tìm hiểu nguồn gốc của cái khổ về mặt
tinh thần này để tích cực tìm cách tạo dựng cho chúng ta một cuộc sống
an lạc và hạnh phúc, ngay tại thế gian hiện đời. Còn chuyện thiên
đàng, thế giới cực lạc là chuyện đời sau. Tại sao chúng ta lại phí
phạm đời sống quí giá hiện hữu, chỉ tiêu cực chờ đợi hưởng phước
trên thiên đàng, hay trên miền cực lạc, ở kiếp sau mà thôi? Mà có
chắc gì chúng ta được lên thiên đàng, được vãng sanh tây phương? Chúng
ta hãy tỉnh thức ngay kẻo muộn, đừng nằm mơ nữa!
Ở đây, chúng tôi xin nói ngay, thông thường khi
gặp cảnh ngộ khổ sở về mặt tinh thần hay tâm linh, chẳng hạn như cuộc
sống cá nhân hay gia đình không được hạnh phúc, không được như ý,
chúng ta thường cầu nguyện các đấng thiêng liêng giúp đỡ phù hộ, hoặc
đi nhờ các ông thầy bói, các bà thầy tướng, rờ rẫm mu rùa, xin xăm xủ
quẻ, cúng kiến thần linh, cầu xin giải hạn, giải tai giải nạn! Thành thực
mà nói, chúng ta có thấy, có biết người nào hết khổ nhờ các cách
này chăng? Hay là chúng ta chỉ nghe thấy có nhiều người bị khổ lụy
nhiều thêm vì mấy ông mấy bà xem bói xem tướng này?
Các đấng thiêng liêng, các vị thần linh thực sự
đều do con người tưởng tượng ra đó, hiện đang ở đâu, liệu có
nghe lời cầu khấn để đến giúp chúng ta chăng? Thí dụ các đấng
thiêng liêng đó là người Do Thái, người Ấn Ðộ, người Trung Hoa, có
nghe hiểu thấu lời cầu khẩn bằng tiếng Việt của chúng ta chăng?
Còn các ông bà bói tướng có bói được, ngày hôm nay, có bao nhiêu khách
đến nạp tiền cho họ tiêu xài chăng? Họ có khả năng gì, tư
cách gì, để có thể cầu khấn, hay sai khiến thần linh nào đó
đến, để hóa giải tai nạn cho chúng ta, có thực là linh thiêng ứng
nghiệm như thần, như họ thường khoe khoang khoác lác, trong các quảng
cáo láo hay không, trong khi họ cũng đang gặp cảnh rắc rối về tiền
bạc, về hạnh phúc trong gia đạo của chính họ? Họ bảo xoay cái
giường, thay cái cửa, sửa cái bếp, là có hạnh phúc sao? Hạnh phúc đâu
dễ tìm từ bên ngoài như vậy được. Thực sự, hạnh phúc ở ngay trong tầm tay
của chúng ta, ở ngay trước mặt của chúng ta mà chúng ta không nhận thấy đó
thôi, lại mất công chạy đông chạy tây, tìm thầy tìm thuốc, để mưu cầu
hạnh phúc. Hạnh phúc là do chính chúng ta có biết cách xây dựng và gìn
giữ hay không. Nhờ giáo lý của đạo Phật, chúng ta sẽ tự tìm được
nguyên nhân gây ra phiền não và khổ đau, biết cách tu tập để
tiêu diệt hết phiền não và khổ đau, tức là chúng ta tìm được an
lạc và hạnh phúc vậy.
Nguồn gốc của sự đau khổ về mặt tinh thần chính
là "lòng cố chấp" của chúng ta. Trong Kinh Viên Giác, Ðức Phật có
dạy: "Con người vì vô minh cho nên có hai thứ chấp: chấp ngã và chấp
pháp. Ðó là hai nguyên nhân chính gây ra phiền não và khổ đau của cuộc
đời". Khi nào hiểu được một cách rõ ràng và phá trừ được hai
nguyên nhân chính gây ra khổ đau về mặt tinh thần này, chúng ta sẽ tìm
được an lạc và hạnh phúc thực sự trong cuộc sống hiện tại vậy.
A. - Chấp Ngã:
Trước hết, chúng ta cần tìm hiểu: Thế nào
là "chấp ngã"? Chấp ngã có nghĩa là chúng ta chấp cái thân giả tạm
và cái tâm vô thường của chúng ta, lại cho là "thực", lại tưởng
chính là "mình", cho nên mới phiền não và khổ đau. Trong Bát Nhã
Tâm Kinh, thân và tâm, gọi chung là "ngũ uẩn" gồm có: sắc,
thọ, tưởng, hành, thức.
1) Nói về cái "sắc thân"
này của chúng ta, tức là cái thân xác, lúc mới sanh ra đời, chỉ có vài
ký lô thôi, nhưng bây giờ thì cân nặng đến mấy chục ký lô, chỉ
do các chất: đất, nước, gió, lửa, tạo nên mà thôi. Chất đất là những thứ
cứng trong thân người như: tóc, lông, răng, móng, xương, thịt. Khi còn sống,
chúng ta mượn những thứ từ đất mà ra, để bồi bổ cái thân này hằng
ngày như: cơm gạo, bánh mì, trái cây. Ðến khi chết, những thứ này
trở về với đất. Chất nước là những thứ lỏng trong thân người như:
máu, mủ, nước miếng. Khi còn sống, chúng ta mượn những thứ từ nước mà
ra, để bồi bổ cái thân này hằng ngày như: canh, sữa, nước giải khát.
Ðến khi chết, những thứ này trở về với nước. Chất gió là những
thứ hơi trong thân người. Khi còn sống, chúng ta mượn những thứ từ không
khí, thở ra thở vô, để bồi bổ cái thân này hằng ngày. Ðến khi
chết, những thứ này trở về với không khí. Chất lửa là những thứ ấm
trong thân người. Khi còn sống, chúng ta mượn những thứ sanh nhiệt,
để bồi bổ cái thân này hằng ngày như: gừng, chất đạm. Ðến khi
chết, những thứ này trở về với hư không.
Cái thân giả tạm nặng mấy chục ký lô này của
chúng ta gồm bốn thứ nói trên, trong kinh sách gọi là "thân tứ
đại", không phải "thực" là của chúng ta. Tại sao vậy? Bởi vì
nếu cái thân tứ đại này "thực" là của chúng ta, thì nó phải
tuân lệnh và tùy thuộc quyền xử dụng của chúng ta. Chúng ta ai ai cũng
muốn cái thân tứ đại này trẻ mãi không già, khỏe mãi không đau, còn mãi
không hoại, nhưng từ xưa đến nay, từ đông sang tây, từ hoàng gia cho
đến thứ dân, từ giàu sang đến nghèo hèn, từ học thức đến
bình dân, có ai được toại nguyện như vậy đâu! Vậy mà ai động đến
"nó", chúng ta liền nổi xung, nhứt định ăn thua đủ, nhứt định
đâm đơn kiện, ra ba tòa quan lớn, cho hả giận cho đã nư, nhứt định
không nhịn nổi, chỉ nhằm bảo vệ cái thân tứ đại vốn giả tạm, không
"thực" này, để rồi một ngày kia, chúng ta cũng phải bỏ lại, dù-muốn-hay-không,
để đi sang thế giới khác, để đi sang kiếp khác.
Ðời người chẳng qua chỉ là hơi thở, khi thở ra mà
không hít vào nữa thì ô hô tử vong! Ðời người chỉ là tạm vay mượn đất,
nước, gió, lửa, từ bên ngoài, để bồi bổ cho đất, nước, gió, lửa, bên
trong thân, từng ngày, từng giờ, từng phút, từng giây. Khi không còn vay mượn
nữa thì con người không còn tồn tại được. Chỉ vì con người mãi quay cuồng
với cuộc sống, nên lúc nào cũng cứ tưởng "đời còn dài" nên mãi
lo đấu tranh, tranh chấp, giành giựt miếng ăn tồi tàn, tiền bạc phi
nhân, danh lợi phù du, hơn thua từng câu từng lời, cho nên mới đau khổ. Con
người quên rằng: ở ngoài nghĩa trang, đâu phải chỉ có mộ phần của các cụ
già trăm tuổi mà thôi! Hiểu được như vậy, chúng ta không còn chấp cái
thân tứ đại mấy chục ký lô này là "thực" của chúng ta nữa,
thì sự đau khổ chắc chắn sẽ giảm bớt. Cái thân tứ đại không còn là
"thực" của chúng ta nữa, thì những thứ phụ thuộc như: nhà cửa,
tiền bạc, danh vọng, địa vị còn có nghĩa gì nữa đâu mà tranh chấp
và đấu tranh hơn thua, được mất, cho đời thêm đau khổ?
Trong Kinh Pháp Cú, Ðức Phật có dạy: "Người
hơn thì thêm oán. Kẻ thua ngủ chẳng yên. Hơn thua hai đều bỏ. Giấc ngủ
được an lành". Làm được như vậy, chúng ta khỏe re! Chuốc khổ vào
thân là tự chúng ta mà thôi. Không ai làm cho chúng ta đau khổ và phiền
não được, nếu chúng ta không muốn tiếp nhận sự phiền não và đau
khổ đó. Ví như người ta đưa lửa phiền não đến, nếu chúng ta
không đưa thân tâm mình ra đón nhận, thì lửa đó chẳng có tác dụng gì
cả!
2) Cái sắc thân tứ đại mấy chục ký
lô của chúng ta là như vậy đó. Còn cái "tâm" của chúng ta thì sao?
Con người chúng ta là một, mà cái tâm thì thay đổi liên miên. Chúng ta sở
dĩ bị khổ đau nhiều đời nhiều kiếp, bởi vì chúng ta chấp lầm
cái "vọng tâm" lăng xăng lộn xộn, thay đổi liên miên đó là
"mình", rồi theo đó mà chợt vui chợt buồn, suốt ngày suốt đêm,
suốt tháng suốt năm, suốt cả cuộc đời này, và cả những đời sau! Vọng
tâm của chúng ta gồm có: thọ, tưởng, hành và thức.
Cái tâm nghĩ suy tính toán, lăng xăng lộn xộn, suốt
ngày đêm đó, có phải "thực" là của chúng ta chăng? Sách có câu:
"Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?". Nghĩa là cùng một cảnh,
nếu chúng ta có tâm sự buồn phiền lo âu, thì thấy cảnh không vui chút
nào. Còn nếu chúng ta có tâm trạng hân hoan vui vẻ, thì dù cây khô trụi
lá, cảnh vẫn đẹp vui như thường. Cái tâm hân hoan vui vẻ là của chúng ta,
hay cái tâm buồn thảm lê thê là của chúng ta?
Sách cũng có câu: "Tâm buồn cảnh được vui sao.
Tâm an thì cảnh ngộ nào cũng an". Cùng một câu nói, nếu tâm của
chúng ta an ổn vui vẻ, thì cho là nói đúng, nói-sao-cũng-được. Ngược
lại, khi tâm của chúng ta đang bực bội, thì cho là nói-xiên-nói-xỏ,
nói-hành-nói-tỏi, nói-bóng-nói-gió. Ðối với người thân mến, người
thương yêu, thì chúng ta có tâm tốt, mặc dù chưa chắc hẳn lúc nào cũng
tốt được như vậy. Còn đối với kẻ thù người oán, thì chúng ta có tâm
không tốt, sẵn sàng gây phiền não đau khổ cho họ. Họ càng khổ
mình càng khoái! Vậy, thực sự, chúng ta là người có tâm tốt hay không
tốt? Chẳng hạn như nếu chúng ta đang cần sự giúp đỡ, khi gặp tai
biến, thì viên cảnh sát chính là ân nhân. Còn nếu chúng ta đang vi
phạm luật pháp, thì bóng dáng của viên cảnh sát thực không đáng ưa chút
nào cả. Cùng một câu chuyện, nếu chúng ta ưa thích thì cho là đúng,
ngược lại không ưa, chúng ta cho là sai. Cái tâm thay đổi bất thường như
vậy "thực" là của chúng ta sao?
Bởi vậy, kinh sách có câu: "Tùy tâm biến
hiện". Nghĩa là mọi sự việc trên thế gian này biến
hiện như thế nào, tốt hay xấu, lành hay dữ, đúng hay sai, phải hay
quấy, được hay không, đều do tâm của chúng ta biến hiện ra cả.
Cái sự cảm thọ tùy theo tâm trạng của chúng ta, tùy theo từng cá nhân, không
ai giống ai, không lúc nào giống lúc nào, không nơi nào giống nơi nào,
không thời đại nào giống thời đại nào. Do đó, "tâm thọ" thực
không đáng tin cậy chút nào.
3) Lại thêm nữa, tâm của chúng ta luôn
luôn giàu sự tưởng tượng nên mới gây ra đau khổ. Có người nói một câu vô-thưởng-vô-phạt,
chúng ta tưởng tượng thêm ra, suy diễn thêm ra, vẽ rắn thêm chân, để
rồi tự chuốc lấy bực bội, phiền não và khổ đau. Chuyện này xảy ra
rất nhiều trong cuộc sống của mọi gia đình ở khắp mọi nơi. Trong
mọi cuộc nói chuyện, thảo luận, thường dễ xảy ra mích lòng, chỉ vì
một câu nói hiểu lầm nào đó của một người, cộng thêm tâm trí
tưởng tượng của các người khác. Tâm tưởng tượng của người vợ hay
người chồng thường dẫn tới chuyện ghen tuông, tạo nên sóng gió, làm
giảm hạnh phúc gia đình. Do đó "tâm tưởng" thực hết sức
là nguy hại vậy.
4) Tâm suy nghĩ của chúng ta luôn luôn
tiếp nối không ngừng, từ chuyện này đến chuyện khác, từ
việc này đến việc khác, từ người này đến người khác, từ
nơi này đến nơi khác, từ đời này đến đời khác, từ xứ này
đến xứ khác, tạo thành một dòng tư tưởng kéo dài vô cùng vô tận,
gọi là tâm hành. Những lúc tâm của chúng ta có những dòng tư
tưởng tiếp nối liên tục như vậy, chúng ta hãy thử tìm cách dừng nó
lại, ngưng nó lại, xem có được không? Chắc là không! Lúc đó, dừng nó lại
không phải dễ, mới biết rằng chúng ta không làm chủ được tâm hành
của chính chúng ta vậy. Lúc còn khỏe mạnh như vậy, chúng ta còn không
kiểm soát, không điều khiển, không làm chủ được tâm hành của
chính mình. Lúc sắp chết, thân thể đau đớn rã rời, thần kinh suy
nhược, chắc chắn chúng ta sẽ bị nó dẫn đi đâu thì đến đó vậy. Thí
dụ như lúc lên giường muốn ngủ mà cái tâm cứ lo lắng, suy nghĩ vớ vẫn vẫn
vơ hoài, muốn dừng cũng không được, cứ tiếp nối liên tục, trằn
trọc suốt đêm thâu, không thể nào chợp mắt được! Do đó, "tâm
hành" thực là một động cơ dẫn dắt chúng ta vào vòng sanh tử luân
hồi, nên còn được gọi là "hành nghiệp".
5) Tâm thức của chúng ta cũng luôn
luôn khởi vọng niệm đẹp hay xấu khi trông thấy một hình sắc nào đó,
khởi vọng niệm dễ nghe hay khó nghe khi nghe thấy một âm thinh nào đó,
khởi vọng niệm dễ chịu hay khó chịu khi ngửi thấy một mùi nào đó,
khởi vọng niệm ngon hay dở khi nếm thấy một vị nào đó, khởi
vọng niệm thích hay không thích khi xúc chạm một vật nào đó. Ðể
rồi những vọng niệm như vậy đưa đến một kho tàng tâm thức, trong
kinh sách gọi là tàng thức, là nơi chứa đựng những chuyện vui hay
buồn, thương hay ghét. Chính những vọng niệm, vọng thức này là
nguồn gốc của khổ đau. Tại sao vậy?
Bởi vì, những vọng niệm đẹp hay xấu, dễ nghe
hay khó nghe, dễ chịu hay khó chịu, ngon hay dở, thích hay không thích, đâu có
phải lúc nào cũng đúng tuyệt đối hết đâu. Chẳng hạn như cùng một
con người, chúng ta khen đẹp, người khác chê xấu, sanh ra mích lòng, đưa
đến đấu tranh, cãi cọ cãi vã, cuối cùng đánh nhau, tức nhiên khổ
đau. Chẳng hạn như cùng một món ăn, lúc mới bắt đầu, ăn vì đói bụng,
chính mình khen ngon, ngon đáo ngon để, đến lúc no rồi, thì lại thấy
dở, hết còn ngon miệng. Cùng một món trái cây như sầu riêng, một món
ăn như khô mắm chẳng hạn, người khen ngon thơm quá xá, thấy là phát thèm,
người chê hôi thúi, khó nuốt khó ngửi, tức nhiên sanh ra, tranh cãi phiền
não, đưa đến khổ đau. Như vậy, "tâm thức" hay các
vọng niệm, vọng thức đó chính là nguồn gốc của sự khổ đau vậy.
Cái thân tứ đại gọi là hình sắc, và các tâm
thọ, tâm tưởng, tâm hành, tâm thức, nói chung gọi là "ngũ
uẩn". Trong Bát Nhã Tâm Kinh, Ðức Phật có dạy: "Chiếu kiến
ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách". Nghĩa là nếu
chúng ta quán sát, chiếu soi, xem xét, thấu hiểu "ngũ uẩn" giai
không, tức là không thực, không thường còn, không vĩnh viễn, không cố
định, không đáng để chúng ta quan tâm, thì chắc chắn chúng ta sẽ độ
được, sẽ qua được hết thảy mọi khổ ách trên đời, sẽ sống được
một cuộc đời hạnh phúc không nghi ngờ gì cả.
Lúc đó, lòng tự ái của chúng ta, tức là sự chấp
ngã, giảm bớt được bao nhiêu thì chúng ta sẽ được an vui trong cuộc sống
được bấy nhiêu. Cái đáng quan tâm không phải là cái "vọng
tâm" thay đổi bất chợt, bất thường nói trên, mà chính là cái
"chơn tâm bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất
giảm" của tất cả chúng ta vậy. Làm sao hiểu được"thế
nào là chơn tâm" chính là mục đích cứu kính của đạo Phật, được
Ðức Phật giảng giải rõ ràng trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm.
B. - Chấp Pháp:
Chúng ta đã hiểu qua thế nào là chấp thân và
chấp tâm, nói chung là "chấp ngã". Bây giờ, chúng ta thử tìm
hiểu: Thế nào là "chấp pháp"? Chấp pháp có nghĩa là đối
với tất cả mọi sự, mọi việc trên đời, chúng ta thường chấp chặt
ý kiến, thành tích, sự suy nghĩ, sự hiểu biết, kiến thức,
sở học, kinh nghiệm, tài năng của mình, không muốn thay đổi, không
muốn cải thiện, không muốn sửa chữa, không muốn chuyển hóa, dù cho có
người khuyên bảo. Thậm chí, dù biết mình nghĩ sai, tin sai, làm sai, nói
sai, cũng vẫn cứ chấp chặt!
Có câu chuyện hai anh chàng vào rừng kiếm củi,
cả hai mỗi người bó được một gánh củi đem về. Trên đường về,
hai anh chàng gặp được quế. Anh thứ nhứt bỏ củi, gánh quế đem về
vì biết quế có giá trị hơn, bán được nhiều tiền hơn. Anh
thứ hai tuy cũng biết như vậy, nhưng chấp chặt cái công gánh củi từ nãy
đến giờ, không chịu thay đổi. Trên thực tế, lắm khi chúng ta biết
là đi sai đường, làm sai việc, nói lỡ lời, suy nghĩ tầm bậy, nhưng đã
lỡ rồi, cho lỡ luôn, sửa lại thì quê quá, xin lỗi thì chạm tự ái quá,
mất mặt quá, nhứt định là không được, tới-đâu-thì-tới, việc
gì phải ngán ai chứ!
Lòng cố chấp nặng nề như vậy thường dẫn chúng ta
đến chỗ đấu tranh bằng lời, đấu tranh bằng võ lực, tức nhiên dẫn
đến khổ đau. Những người có thêm một chút học thức, lòng cố chấp
càng tăng thêm một chút, họ ít khi chịu nhìn thấy sự thực, ít khi chịu
nhận lỗi lầm, ít khi chịu nhường bước người khác. Trong kinh sách
gọi đó là "sở tri chướng". Nghĩa là cái sở tri, cái kiến
thức, sự hiểu biết, đã có từ bấy lâu nay, thường làm chướng ngại,
ngăn cản, cản trở chúng ta nhận ra lẽ phải, nhận ra chân lý. Chân
lý không lệ thuộc tôn giáo nào, giai cấp nào, dân tộc nào, quốc gia
nào, thế lực nào, thời đại nào, không gian nào. Chân lý bất tùy
phân biệt chính là nghĩa đó vậy.
Có câu chuyện một học giả đến xin hỏi đạo
với một thiền sư. Thiền sư mời học giả ngồi, rồi mang trà ra
tiếp đãi. Thiền sư chậm rãi rót trà ra tách trước mặt khách và
tiếp tục rót cho đến khi tràn ra ngoài, vẫn không dừng. Học giả
thấy vậy không còn nhịn được, bèn lên tiếng và hỏi lý do. Thiền
sư từ tốn đáp rằng: Ngài đến đây với đầy ắp kiến thức trong tâm
trí, đâu còn chỗ để thu nhận lý thiền, lẽ đạo. Cũng như
tách trà đã đầy, không còn chỗ nhận thêm nữa vậy.
Trong cuộc sống, chúng ta chứa đầy ắp những thành
kiến, định kiến, thiên kiến, biên kiến, tà kiến, ác
kiến, thường kiến, đoạn kiến, trong tâm trí, cho nên khó mà chấp
nhận được bất cứ ý kiến nào của người khác, khó mà nhận được
thế nào là chánh kiến. Trong cuộc sống vợ chồng, ai cũng chấp chặt
ý kiến của mình là đúng, không chịu nghe giải thích, không chịu bàn
luận với nhau, làm sao gia đình có được hạnh phúc! Ðổi cái cửa, sửa cái
bếp, xoay cái bàn, trở cái giường, thực ra chỉ tốn công sức, hao tiền
của một cách vô ích mà thôi. Ðiều cần phải sửa chính là cái "lòng
cố chấp" của chúng ta mà thôi.
Trong Kinh A Hàm, Ðức Phật có dạy câu chuyện năm
người mù rờ voi, sau này thường được viết trong sách giáo khoa, đem dạy
ở trường học, đáng để chúng ta suy gẫm như sau: Có năm người mù
được dẫn tới rờ một con voi, và sau đó, từng người cho biết ý
kiến. Người rờ được cái vòi thì nhứt định cho là con voi giống
như con trùng thật lớn. Người rờ được cái chân thì nhứt định cho
là con voi giống như cái cột nhà. Người rờ được cái tai thì nhứt định
cho là con voi giống như cái quạt thật lớn. Người rờ được cái bụng thì nhứt
định cho là con voi giống như cái trống thật lớn. Người rờ được cái
đuôi thì nhứt định cho là con voi giống như cái chổi. Thế là cả
năm người đều chấp chặt cái sở tri, cái hiểu biết của riêng
mình, có chứng nghiệm rõ ràng qua sự rờ rẫm hiện vật, cho nên cãi vã
nhau, chướng ngại nhau, không ai muốn nghe, muốn tin điều người khác nói
ra, nhứt định cho mình là đúng. Tức nhiên câu chuyện dẫn đến
chỗ tranh chấp, ấu đả và khổ đau.
Chúng ta cũng thường mắc phải những lỗi lầm như
thế trong cuộc sống cho nên khổ đau. Chúng ta thường nghe thoáng qua một
câu chuyện truyền miệng, không biết đâu là xuất xứ, rồi vội
vàng kết luận là người này tốt, người kia xấu, người này phải, người
kia quấy, đưa đến chỗ bất đồng ý kiến, tranh cãi, phiền
não và khổ đau. Chúng ta không có thời gian, không có khả năng, không có
hoàn cảnh, không có điều kiện, để tìm hiểu "nguyên
hình" của con voi như thế nào, mà đã vội vàng kết luận thì nhứt
định không sai và cũng nhứt định không đúng vậy. Chúng ta có
thể chỉ "đúng một phần" thôi, hãy lắng nghe ý kiến của
người khác! Thực hiện được như vậy, có phải chúng ta tránh được
những cuộc tranh cãi vô ích trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Thực
hiện được như vậy, chắc chắn chúng ta tránh được phiền não và khổ
đau, chắc chắn chúng ta được an lạc và hạnh phúc, không nghi ngờ gì nữa
cả. Thực hiện được như vậy, chúng ta mới là người thực sự biết
tôn trọng chân lý.
Sự khổ đau trong các gia đình thường là do sự chấp
chặt giữa cha mẹ và con cái. Cha mẹ thì nhứt định phải như vầy và
như vầy thì mới đúng, khác đi là không được. Con cái thì nhứt định
phải như vậy và như vậy thì mới được, khác đi là không đúng. Những gia
đình như thế và như thế nhứt định không thể có hạnh
phúc. Chúng ta đừng than phiền con cái đời nay khó dạy. Thực ra con cái
đời nào cũng vậy thôi, chỉ có chúng ta "biết" cách nào dạy con
cái và "biết" cách nào dạy chính mình hay không mà thôi. Hai
thế hệ khác nhau tức nhiên có những khác biệt trong lề lối suy
nghĩ và hành động. Nếu biết thông cảm, dung hòa, tha thứ, hiểu
biết, thì vui vẻ hạnh phúc. Trái lại nếu cố chấp, bảo thủ ý
kiến, thì phiền não và khổ đau. Rõ ràng là như vậy. Tệ hơn nữa
là người lớn nghe lời xúi dại của con cái, làm những chuyện lợi mình
hại người, gây nên tội báo nghiệp báo.
* * *
Tóm lại, để kết thúc, chúng ta hãy suy gẫm câu
chuyện về một ông trưởng giả có bốn bà vợ. Ông trưởng giả thương
nhứt là cô vợ bé, nên đi đâu ông cũng mang theo, không bao giờ thiếu
vắng, nhứt định chặt không đứt, bứt không rời. Ông vẫn thương bà vợ thứ
ba nhiều lắm, nên đi đâu ông cũng thường mang theo, tuy cũng có lúc
quên. Ông vẫn còn thương bà vợ thứ hai, nên thỉnh thoảng nếu nhớ, ông
đem ra khoe cho vui. Ông dường như quên lửng bà vợ cả, một thời đầu ấp tay
gối, mặn nồng xưa kia. Suốt ngày ông chỉ bận bịu với ba bà vợ kia mà thôi.
Ðến lúc sắp phải đi theo tổ tiên, ông bèn kêu các bà vợ đến bên
giường bệnh, và hỏi xem có bà vợ nào muốn đi theo ông hay không?
Cô vợ bé trả lời: Dù khi còn sống, ông cưng
chiều, săn sóc tôi hết mức, chăm lo ngày cũng như đêm, không
thiếu thứ gì cả. Nhưng ông có ra đi thì ra đi một mình. Khi ông hết
thở, tôi sẽ bỏ ông tức khắc, không thể đi theo ông được đâu! Bà vợ
thứ ba trả lời: Khi ông hết thở, tôi sẽ phải qua tay người khác, không
thể nào tránh được đâu! Tôi không muốn cũng không được. Bà vợ thứ
hai trả lời: Tôi sẽ theo ông tới nấm mồ thôi, không thể theo xa hơn
được, không thể nào theo ông mãi mãi được đâu! Ông đi một mình đi!
Tới phiên bà vợ cả, bà từ tốn trả lời: Ông đừng lo, dù ông có quan tâm
đến tôi hay không, dù ông có muốn hay không, đã là vợ chồng với nhau,
lúc nào, đời nào, kiếp nào, ông đi đến đâu, tôi sẽ theo ông tới
đó, như bóng với hình vậy!
Câu chuyện trên ngụ ý rằng: Khi ông trưởng giả
hết thở ra đi, trước nhứt, ông bỏ lại cô vợ bé nhí, chính là cái thân
tứ đại mấy chục người khiêng của ông, mà lúc nào ông chẳng mang theo khi
còn sống. Kế đó, ông bỏ lại bà vợ thứ ba chính là tiền bạc, của
cải, phải sang tay người khác ngay. Bà vợ thứ hai chính là danh vọng, chức
tước chỉ có thể theo ông trưởng giả tới nấm mồ, được nhắc lại trong
các điếu văn của bằng hữu, và được ghi khắc trên mộ bia của ông mà
thôi.
Còn bà vợ cả chính là "nghiệp báo", do
ông trưởng giả đã hành động, đã nói năng, đã suy nghĩ, từ thân khẩu
ý của chính ông, khi còn sanh tiền, sẽ theo ông mãi mãi, và dẫn dắt
ông tái sanh vào cõi lành hay cõi dữ, tùy theo ông trưởng giả đã làm lành
hay dữ, khi còn sanh tiền. Chứ không có đấng nào, không có thần linh nào,
không có ai, cứu rỗi hay trừng phạt ông trưởng giả cả. Tự ông làm,
chính ông hưởng, hay tự ông làm, ông gánh chịu, mà thôi.
Khi còn sanh tiền, con người chỉ biết lo săn
sóc, cưng chiều, cung phụng tấm thân tứ đại cho đầy đủ, sung túc. Lo
kiếm tiền bạc cho thiệt nhiều, có tiền rồi thì dùng
tiền kiếm tí danh, địa vị, dù chỉ là danh hão cũng được, chứ ít
có người biết quan tâm đến "nghiệp báo", ít có
người biết lo tu tâm dưỡng tánh, lo dừng nghiệp và chuyển
nghiệp, lo tu nhân tích phước, lo làm việc phước thiện, để
dành "phước báo" cho mai sau.
Vị trí của cái cửa, cái giường, cái bếp, cái
bàn, đâu có giúp chúng ta được hạnh phúc, cũng đâu làm mất hạnh phúc
của chúng ta. Hạnh phúc có được là do chúng ta có bỏ được "Lòng Cố
Chấp" của chính chúng ta hay không mà thôi. Bỏ được bao nhiêu thì
hưởng được hạnh phúc bấy nhiêu. Rất là đơn giản. Vậy, để tạo dựng
an lạc và hạnh phúc đời này và đời sau, chúng ta hãy tích cực quán sát và
dẹp bỏ hai thứ "Chấp Ngã và Chấp Pháp". Hiểu được như
vậy, làm được như vậy, chúng ta mới thực sự tôn kính, tán thán, biết
ơn và đền ơn cứu khổ của Ðức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni và tìm
được sự an lạc và hạnh phúc trong ánh đạo vàng.
---
o0o
---
Mục Lục
Tập
1:
1
|
2
|
3
|
4
|
5
|
6
|
7
|
8
|
9
|
10
|
11|
12
Tập
2:
1
|
2
|
3
|
4
|
5
|
6
|
7
|
8
|
9
|
10|
11|
Tập
3:
1|
2
|
3
|
4|
5|
6
|
7
|
8
|
9
|
10|
11|
12|
13|
14
|15|
16
---
o0o
---
| Thư
Mục
Tác
Giả
|
--- o0o ---
Chân
thành
cám
ơn
Cư
sĩ
Chính
Trực
đã
gửi
tặng
phiên
bản
điện
tử
bộ
sách
này
(Trang
nhà
Quảng
Đức,
05-2002)
Trình
bày
:
Nhị
Tường
Cập
nhật
ngày:
01-05-2002
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục