Lời Dịch Giả
Tiểu Sử 
Phổ Thuyết
Khám Xét
Cơ Duyên
Thư Ðáp Về Pháp Yếu 1
Thư Ðáp Về Pháp Yếu 2
Thư Ðáp Về Pháp Yếu 3
Thư Ðáp Về Pháp Yếu 4
Thư Ðáp Về Pháp Yếu 5
Giải Ðáp Vấn Ðề Thiền Mặc Chiếu
w
.
Tông Cảo Thiền Sư
ĐẠI HUỆ NGỮ LỤC
Tỳ Kheo Thích Duy Lực dịch từ Hán sang Việt và lược gỉai
Từ Ân Thiền Đường xuất bản 1992
THƯ ĐÁP VỀ PHÁP YẾU 

(1) 

THƯ ĐÁP LÝ HIẾN THẦN 

I

Phật nói: 

Nếu người muốn biết cảnh giới Phật.
Ý căn thanh tịnh như hư không.
Xa lìa vọng tưởng và chấp thủ.
Khiến tâm khắp nơi đều vô ngại.

Cảnh giới Phật chẳng phải cảnh giới ngài có tướng Phật bên. Ấy là cảnh giới của thánh trí tự giác vậy. Nếu muốn biết cảnh giới này, chẳng nhờ trang nghiêm tu chứng mà được, phải ở nơi ý căn tẩy sạch các thứ ô nhiễm phiền não từ vô thủy đến nay khiến cho trống rỗng như hư không, xa lìa những chấp thủ trong ý thức và những vọng tưởng hư ngụy chẳng thật. Ý căn nếu như hư không thì Diệu Tâm vô công dụng này tự nhiên khắp nơi chẳng chướng ngại. 

II

Đã học đạo này, trong mười hai thời, nơi tùy duyên tiếp vật không cho ác niệm tương tục, hoặc khi sơ sót khởi một niệm ác phải gấp kéo đầu trở lại. Nếu để mặc nó tương tục không dứt, chẳng những chướng đạo, cũng gọi là người không trí tuệ. 

Khi xưa Quy Sơn hỏi Đại An: Ngươi trong mười hai thời việc làm thế nào? 

An nói: Chăn trâu. 

Sơn nói: Ngươi chăn như thế nào? 

An nói: Một phen vào lúa mạ, liền kéo mũi trở về. 

Sơn nói: Ngươi là người chăn trâu chân thật. 

Người học đạo kiềm chế ác niệm nên như Đại An chăn trâu thì lâu ngày tự thuần thục vậy. 

III

"Cung người, ta chớ cầm, ngựa người, ta chớ cưỡi, việc người, ta chớ biết. "Lời này dù tầm thường cũng có thể làm trợ duyên để đi vào đạo. Hàng ngày thường nên tự kiểm điểm từ sáng tới tối đã làm việc gì tự lợi, lợi người? Nếu cảm thấy hơi thiên một bên thì phải tự cảnh sách, chẳng nên khinh thường. Xưa kia thiền Sư Đạo Lâm kết am trên cây tùng nơi núi Tần Vọng, người thời ấy gọi Ngài là Hòa Thượng "ổ chim". Khi Bạch Cư Dị làm quan Thị Lang ở Tiền Đường có vào núi thăm Sư. Ông thưa: Chỗ ở của Sư rất nguy hiểm. 

Sư Nói: Lão Tăngcó gì nguy hiểm. Thị Lang càng nguy hiểm hơn. 

Đệ tử trấn thủ giang sơn có gì nguy hiểm? 

Củi lửa lẫn lộn, tánh thức chẳng ngừng, há chẳng phải nguy hiểm ư!

Dị lại hỏi: Thế nào là đại ý Phật pháp? 

Sư nói: Việc ác chớ làm, việc thiện phụng hành. 

- Con nít ba tuổi cũng biết nói như thế. 

- Con nít ba tuổi dù nói được, ông già tám mươi hành chẳng được. 

Dị liền lễ bái cáo từ. 

Nay muốn ít phí tâm lực chớ màng đến con nít nói được hay nói chẳng được, ông già tám mươi hành được hay hành chẳng được, hễ việc ác chớ làm thì xong. Lời này tin hay không tin xin nghĩ kỹ! 

*

Vô minh của người đời tuy đang hiện hành, nếu làm thiện thì phước dù chưa đến cũng hơn người không liêm sỉ mang danh thiện mà làm ác. Trong Kinh nói: "Nhân địa chẳng chơn thì chiêu quả quanh co". Hể trực tâm trực hành, thẳng đến Vô Thượng Bồ Đề mới gọi là việc làm của đại trượng phu chân thật. Việc từ trần sa kiếp chỉ ở hiện nay, nếu hiện nay được hội được thì việc trần sa kiếp tức thời tan rã. Nếu hiện nay chẳng hội thì lại trải qua trần sa kiếp nữa, cũng chỉ như thế thôi. Cái pháp như thế xưa nay thường vậy, chưa từng có một chút dời đổi. 

Việc trần lao trong thế gian như mắt xích nối nhau không dứt. Hể giảm bớt được thì cứ bớt, vì tập khí từ vô thủy đã quá quen thuộc, nếu không ra sức chống lại thì lâu ngày bất tri bất giác lún đầu xuống sâu, đến khi lâm chung ắt tay chân rối loạn. Nếu muốn khi lâm chung không rối loạn thì phải từ cuộc sống hàng ngày hiện nay làm việc gì cũng phải không rối loạn mới được. 

Có một hạng người sáng thì xem kinh niệm Phật sám hối, tối thì tạo khẩu nghiệp chửi mắng người, hôm sau lễ Phật sám hối như cũ. Từ đầu năm đến cuối năm, mỗi ngày làm thời khóa như thế, ấy thực là quá ngu si. Không biết chữ sám là tiếng Phạn, chữ hối là tiếng Hán, nghĩa là phải đoạn dứt cái tâm tương tục. Hễ sám hối thì dứt hẳn, chẳng còn tạo tội nữa. Theo ý Phật nên sám hối như thế, người học đạo phải biết đúng như vậy. 

*

Người học đạo trong mười hai thời, tâm ý thức thường nên yên tịnh. Lúc rảnh cũng nên yên tịnh, khiến thân tâm chẳng buông lung. Tập lâu thành quen thuộc, tự nhiên thân tâm hướng về đạo. 

Nhưng yên tịnh Ba La Mật chỉ để trị bịnh vọng giác tán loạn của chúng sanh mà thôi. Nếu chấp ở nơi yên tịnh cho là cứu cánh thì sẽ bị lọt vào tà thiền Mặc chiếu. 

*

Bát Nhã là tiếng Phạn dịch là trí tuệ. Chưa có người đã thấu rõ Bát Nhã lại còn tham sân si ái, cũng chưa có người đã thấu rõ Bát Nhã mà lại còn độc hại chúng sanh, vì làm những việc này là trái nghịch Bát Nhã, đâu thể gọi là trí tuệ. 

*

Hằng ngày đem việc sanh tử thường để trong niệm thì tâm trí đã chánh. Tâm trí đã chánh thì khi ứng dụng hàng ngày tùy duyên làm việc, chẳng phí sức buông bỏ tà ác. Chẳng tà ác thì chánh niệm độc thoát, chánh niệm độc thoát thì lý tùy sự biến, lý tùy sự biến thì sự đắc lý dung, sự đắc lý dung thì ít phí sức lực. Khi vừa cảm thấy ít phí sức lực tức là chỗ đắc được trong việc học đạo này. Chỗ đắc được ít phí sức vô cùng. Chỗ ít phí sức là chỗ đắc sức vô cùng. 

*

Việc này cho người thông minh lanh lợi gánh vác, nhưng nếu ỷ thông minh lanh lợi thì chẳng có phần để gánh vác. Kẻ thông minh lanh lợi dù dễ nhập đạo mà khó nơi bảo nhiệm, vì chỗ nhập cạn mà sức yếu. Vì người thông minh lanh lợi vừa nghe thiện tri thức nói ra liền đem tâm ý thức lãnh hội ngay vậy. Nếu cứ lãnh hội như thế là tự làm chướng ngại, suốt kiếp không khi nào được ngộ, vì ma quỷ bên ngoài gây họa còn có thể trị, còn chính tự tâm mình chướng ngại thì vô phương trị. 

Chứng Đạo Ca rằng: 

Tổn pháp tài, diệt công đức, tất cả đều do tâm ý thức.

IV

Học giả rộng xem nhiều sách vốn để nuôi dưỡng và lợi ích cho tánh thức. Nay ngược lại, chỉ ghi nhớ lời người xưa chứa trong bụng cho là sự nghiệp, dùng để đàm luận, mà chẳng biết ý thuyết giáo của bậc Thánh. Cũng như suốt ngày đếm tiền của người khác, tự mình lại chẳng có được nửa xu. Xem đọc kinh giáo của Phật cũng vậy, nên nhìn thấy mặt trăng mà quên ngón tay, chớ nên y văn giải nghĩa. 

Cổ đức nói: 

Phật thuyết tất cả pháp,
Vì độ tất cả tâm.
Ta chẳng tất cả tâm,
Đâu cần tất cả pháp.

Kẻ có chí khí xem kinh đọc sách nên theo cách như thế mới thể hội được ít phần của bậc Thánh. 
 


KHAI THỊ LÝ HIẾN THẦN 

I

Phật nói: Chẳng nên ở nơi một pháp, một việc, một thân, một quốc độ, một chúng sanh mà thấy Như Lai. Nên cùng khắp tất cả nơi mà thấy Như Lai. 

Phật nghĩa là giác, ở nơi tất cả chỗ thường giác. Nói thấy khắp nghĩa là thấy bổn nguyên tự tánh thiên chân Phật của chính mình, không có một lúc nào, một chỗ nào, một pháp nào, một sự nào, một việc nào, một thân nào, một cõi nước nào, một chúng sanh giới nào mà không khắp. Chúng sanh mê cái này mà luân chuyển trong ba cõi (dục, sắc và vô sắc giới), chịu các thứ khổ. Chư Phật ngộ cái này mà vượt khỏi ba cõi, thọ sự vui thù thắng nhiệm mầu. Nhưng khổ vui đều không có thực thể, chỉ vì có mê ngộ sai biệt mà có các đường khổ vui khác nhau đó thôi. Cho nên Ngài Đỗ Thuận (sơ tổ tông Hoa Nghiêm) nói: Pháp thân lưu chuyển trong năm đường (trời, người, súc sanh, ngạ quỉ, địa ngục) gọi là chúng sanh. Lúc chúng sanh hiện thì pháp thân chẳng hiện vậy. 

II

Thiện ác đều từ tự tâm sanh khởi. Thử nói xem: lìa đi đứng ngồi nằm, suy nghĩ phân biệt ra, lấy cái gì làm tự tâm? Tự tâm từ đâu mà khởi? Nếu biết được chỗ khởi của tự tâm thì vô biên nghiệp chướng nhất thời tan rã, các thứ thù thắng không cầu mà tự đến vậy. 

Thêm nữa, biết được chỗ đi chỗ đến mới gọi là người học Phật. Biết kẻ sanh tử là ai? Biết thọ sanh tử là ai? Kẻ chẳng biết chỗ đi chỗ đến là ai? Kẻ bỗng biết được chỗ đi chỗ đến lại là ai? Khán thoại đầu này con mắt ngơ ngơ hiểu không được, trong bụng trồi lên hụp xuống, trong tâm giống như một đóm lửa, lại là ai ? Nếu muốn biết, chỉ cần hướng vào chỗ "hiểu không được" mà nhận lấy. Nếu nhận được rồi mới biết sanh tử vốn chẳng dính dáng gì cả. Lại nói, phàm xem kinh giáo và nhân duyên nhập đạo của cổ đức tâm chưa sáng tỏ, cảm thấy mê muội, không mùi vị, giống như đang cắn cục sắt, ngay đó chính là lúc nên dụng công phu, không được buông bỏ, ấy là chỗ ý thức ngưng vận hành suy nghĩ chẳng thể đến, tuyệt phân biệt, bặt lý lẽ,. Bình thường nếu có thể nói được đạo lý, phân biệt được chỗ hành, đều là việc bên tình thức. Nhiều người thường hay nhận giặc làm con, cần phải biết việc này vậy. 

(2)

THƯ ĐÁP HUỲNH BÁ THÀNH.

Cổ đức nói: 

Tìm trâu theo dấu tích.
Học đạo phải vô tâm.
Dấu còn thì trâu còn.
Vô tâm đạo dễ tìm.

Nói vô tâm chẳng phải như gỗ đá vô tri, ấy chỉ là gặp duyên thấy cảnh, tâm đều chẳng lay động. Đối với các pháp chẳng chấp thật, tất cả nơi trong sạch vô chướng ngại, chẳng chỗ ô nhiễm cũng không trụ nơi chẳng ô nhiễm. Quán xét thân tâm như mộng như huyễn cũng không trụ nơi cảnh hư vô mộng huyễn. Đến được cảnh giới này mới gọi là chân vô tâm, chẳng phải cái vô tâm của miệng nói. Nếu chưa được chân vô tâm, chỉ căn cứ theo lời nói thì so với tà thiền Mặc Chiếu đâu có khác gì! 

Hễ được gốc, chớ lo ngọn. Tẩy sạch được tâm này là gốc, đã được gốc thì mỗi mỗi ngôn ngữ, mỗi mỗi trí tuệ hàng ngày tùy duyên tiếp vật. Thất điên bát đảo, hoặc giận hoặc vui, hoặc tốt hoặc xấu, hoặc thuận hoặc nghịch, đều là ngọn vậy. Nếu ở nơi tùy duyên được tự giữ bản giác thì chẳng thiếu chẳng dư. 

Người học đạo ứng dụng hàng ngày, cảnh không thì dễ mà tâm không thì khó. Nếu cảnh không mà tâm chẳng không thì tâm bị cảnh lôi kéo. Nếu tâm không thì cảnh tự không. Nếu tâm đã không mà còn muốn khởi niệm thứ hai để không cái cảnh, ấy là tâm này chưa không, lại bi cảnh đoạt. Nếu bệnh này chẳng trừ thì sanh tử không lý nào thoát ly được. 

Như Bàng Uẩn trình kệ Mã Tổ rằng: 

Mười phương đồng tụ hội.
Mỗi mỗi học vô vi.
Đây là nơi tuyển Phật.
"Tâm không" thi đậu về.

Tâm này đã không rồi thì ngoài tâm đâu còn vật gì để cần không nữa! Suy nghĩ kỹ đi. 

  (3)

THƯ ĐÁP LA MẠNH BÁCH

Sự chướng đạo của tâm ý thức còn quá hơn rắn độc, cọp dữ. Tại sao vậy? Vì rắn độc, cọp dữ còn có thể trốn tránh, còn những người thông minh lanh lợi lấy tâm ý thức làm hang ổ, đi đứng nằm ngồi chưa từng có khoảnh khắc xa lìa nó, lâu ngày bất tri bất giác cùng nó kết thành một khối, cũng chẳng phải muốn thành một khối vì từ vô thủy đến nay đã đi con đường này quá quen thuộc, dù bỗng khám phá được cái hại của nó nhưng muốn xa lìa cũng chẳng thể được. Cho nên nói: "Đối với độc cọp dữ còn có thể trốn tránh nhưng với tâm ý thức thực chẳng có chỗ để trốn tránh". 

(4)

THƯ ĐÁP TỪ ĐÔN LẬP

Bậc sĩ phu trí thức phần nhiều dùng cái tâm có sở đắc để cầu cái pháp vô sở đắc. Thế nào là tâm có sở đắc? Đó là tâm thông minh lanh lợi, suy nghĩ tính toán. Thế nào là pháp vô sở đắc? Đó là cái chỗ suy nghĩ chẳng đến, tính toán chẳng được, thông minh lanh lợi không có chỗ dùng. Thấy chăng? Phật Thích Ca trên hội Pháp Hoa, Xá Lợi Phất ba phen ân cần thưa hỏi mà khi đó Phật Thích Ca không có gì để mở niệng, rốt cuộc Ngài tận lực cũng chỉ có thể nói: "Pháp này chẳng phải suy nghĩ phân biệt có thể hiểu được". Đây là cây dùi để mở cửa phương tiện, hiển thị chân thật tướng, là việc cùng tột của Phật Thích Ca. Xưa kia Thiền sư Tuyết Phong cũng vì thiết tha về việc này mà ba phen đến Đầu Tử, chín lần đến Động Sơn. Vì nhân duyên không khế hợp, sau đến thiền hội Đức Sơn. 

Một hôm Phong hỏi Đức Sơn rằng: Tông phong từ xưa nay dùng pháp nào khai thị người? 

Đức Sơn nói: Tông ta không có ngữ cú, cũng chẳng có một pháp để khai thị người. 

Phong hỏi: Việc trong thiền tông từ xưa nay, người học như con còn có phần hay không? 
Đức Sơn cầm gậy đánh xuống rằng: Nói cái gì! 

Tuyết Phong ngay dưới gậy liền vỡ tung được thùng sơn đen (ngộ). Theo đó mà xem thì biết trong cửa này, thông minh lanh lợi, phân biệt tính toán một chút cũng dùng không được. Cổ đức có nói: "Bát Nhã như đống lửa lớn, gần nó ắt bị đốt cháy mặt mày, tính toán suy tư ắt rơi vào ý thức". 

Chứng Đạo Ca nói: 

Tổn pháp tài diệt công đức.
Tất cả đều do tâm ý thức.

Cho nên biết tâm ý thức chẳng những chướng đạo, mà còn khiến người điên đảo làm điều bất thiện nữa. Nếu đã có tâm muốn thấu đáo đạo này, cần phải có chí quyết định chẳng đến được chỗ đại thôi nghỉ, đại giải thoát, thề suốt đời không lui sụt. 

Thực ra Phật pháp chẳng có nhiều, tu lâu khó đắc là vì việc trong trần lao của người đời như mắt xích nối nhau không dứt, kẻ ý chí hạ liệt thường cam chiụ làm bạn với chúng, chẳng hay chẳng biết bị chúng lôi kéo đi tuốt, ngoại trừ những người thực có huệ căn, có nguyện lực mới chịu dứt hẳn trần lao. Chứng Đạo Ca nói: "Thực tánh của vô minh tức là Phật tánh, thân huyễn hóa này tức là Pháp thân. Nếu giác được Pháp thân thì chẳng có một vật, Bổn nguyên là tự tánh thiên chân Phật". Nếu suy nghĩ như thế, thình lình nhập vào chỗ suy nghĩ chẳng thể đến, thấy được cái "vô nhất vật" của Pháp thân, tức là chỗ ra khỏi sanh tử của hành giả. Đoạn trước nói: "Pháp vô sở đắc chẳng thể dùng tâm có sở đắc để cầu" là nghĩa này vậy. 

Bậc sĩ phu trí thức trong cuộc sống, suốt đời suy lường tính toán, vừa nghe thiện tri thức thuyết pháp vô sở đắc trong tâm liền nghi hoặc, e sợ lọt vào KHÔNG. Diệu Hỷ (Đại Huệ) mỗi khi gặp thấy thì hỏi họ rằng: "Kẻ e sợ lọt vào KHÔNG này liệu có thể không như nó được chăng?" Người đời thường trăm phần trăm mịt mù không rõ vì hàng ngày cứ đem suy nghĩ tính toán làm nhà cửa, chợt nghe nói không có chỗ để suy nghĩ thì cảm thấy hoang mang mịt mù, chẳng có chỗ dựa. Không biết ngay nơi chẳng có chỗ dựa đó tức là chỗ an thân lập mạng của chính mình. Đạo hữu Đôn Lập trước kia gặp gỡ ở Di Môn; khi ấy tuổi trẻ khoẻ mạnh, đã biết có đại sự nhân duyên này (từ NGHI đến NGỘ) nhưng vì rộng học nhiều sách, nơi kinh sử đã nhập quá mức vào quá thâm sâu, thông minh quá lố, lý lẽ quá nhiều, định lực thì quá ít, bị việc làm hàng ngày lôi kéo, nên đối với việc "dưới gót chân" (tham thiền) chẳng thể đạt đến miên mật. Nếu chánh niệm hiện tiền mãi mãi, cái tâm thống thiết việc sanh tử không biến đổi, thì trải qua ngày tháng lâu dài ắt chỗ lạ tự quen, chỗ quen tự thành lạ vậy. 

Lại chỗ nào là chỗ quen? Ấy là thông minh lanh lợi, suy nghĩ tính toán. Chỗ nào là chỗ lạ? Ấy là Bồ Đề Niết Bàn Chân như Phật tánh, chỗ suy tư cắt tuyệt, chỗ suy nghĩ đo lường chẳng thể đến, chỗ không thể dùng tâm sắp đặt. 

Hễ khi thời tiết đến, hoặc ở nơi nhân duyên nhập đạo của Cổ Đức, hoặc khi đang xem kinh, hoặc đang làm việc hàng ngày đối với những thiện những bất thiện, những thân tâm tán loạn, những cảnh giới thuận nghịch hiện tiền v.v... đang khi ấy nếu được tâm ý thức tạm ngưng nghỉ, bỗng nhiên "đập bể ống khóa" (kiến tánh) cũng chẳng phải việc khó. 

(5)

THƯ ĐÁP ĐẶNG TỬ LẬP

Gần đây các tòng lâm thường đem lời vấn đáp kỳ lạ của người xưa làm nhân duyên sai biệt để mê hoặc học giả mà không căn cứ vào thực tế. Chỗ Phật thuyết pháp chỉ e người nghe không hiểu, dẫu cho có thuyết lời vi ẩn cũng dẫn chứng thí dụ khiến chúng sanh dễ ngộ nhập. 

Cũng như Tăng hỏi Mã Tổ: Thế nào là Phật? 

Tổ nói: Tức tâm là Phật. 

Nếu ở đây ngộ nhập thì đâu có gì sai biệt. Nếu ở đây chẳng ngộ thì ngay câu "tức tâm là Phật" này liền thành nhân duyên sai biệt. Người tham thiền xem kinh giáo và nhân duyên vào đạo của Cổ Đức cần phải để rỗng rang cái tâm của mình, chẳng nên hướng lên trên danh tự nghĩa cú mà cầu huyền diệu, cầu ngộ nhập. Nếu khởi cái tâm này tức là tự chướng cái chánh tri kiến của chính mình, thì suốt kiếp cũng chẳng có chỗ ngộ nhập. 

Bàng Sơn nói: "Ví như dùng kiếm chém hư không, không kể trúng hay không trúng, hãy chú ý nhé". 

Duy Ma Cật nói: "Pháp siêu việt nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý". Muốn triệt ngộ pháp này, trước tiên cần phải ngăn trừ nơi cửa lục căn không để cho có chút lỗi lầm. Cái gì là lỗi lầm? Đó là bị sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp dính mắc mà không thể xa lìa, lại ở nơi ngôn cú của cổ đức và kinh điển cầu tri kiến, tìm giải hội. Nếu như có thể ở trong kinh điển và nhân duyên vào đạo của cổ đức mà không khởi một niệm nào khác, ngay đó trở về tự tánh thì đối với cảnh giới mình, cảnh giới người đều như ý, tự tại vậy. 

Đức Sơn thấy Tăng vào cửa liền đập, Lâm Tế thấy Tăng vào cửa liền hét. Tôn túc các nơi gọi đó là "ngay đó nhắc nhở trước mặt, thẳng tay phó chúc". Nhưng Diệu Hỷ lại gọi là dính sơn dính sình, dẫu cho ngay nơi một gậy một hét mà toàn thân gánh vác được đã là một kẻ không phải là đại trượng phu, bị họ tạt một gáo nước thối ngay đầu rồi, huống là ở nơi một gậy một hét mà cầu kỳ lạ, tìm diệu hội ư! Ấy là kẻ trong xấu hổ lại thêm xấu hổ. 

***

c

Nguồn: www.quangduc.com

Về danh mục

tuoi tre va ly tuong phung su xa hoi tuổi trẻ với lòng từ bi ha y tra la i sư công bă ng dư luâ n vê ca c nha ngoa i ca m chuong i nguon goc Ngoại vi sao song tu te voi nguoi khac ma luon gap canh 10 tu tanh sau xa cua tam phan 1 Bàn tay là nơi chứa nhiều vi khuẩn chua ang bat nha va tinh Chất béo chuyển hóa không tốt cho trí Phơi nắng sẽ giảm nguy cơ béo phì và ngọc 4 cách tránh hôi miệng khi phải di Chà nh lá Ÿ Phương cách ăn uống giúp huyết áp ổn bài học ý nghĩa từ những việc trong moi tản mạn mùa vu lan Nhục thân hòa thượng gốc Việt trên Ung thư đại trực tràng gia tăng ở Bánh flan thuần chay giải nhiệt ngày duyên và nợ hạnh phúc và đổ vỡ hôm Tháºn nguon goc ao hau trong tang phuc phat giao bac Ð Ð Ð diễn viên việt trinh đứng vững nhờ bánh xèo chay Thông điệp ăn chay cho mọi người 17 loi khuyen day dang suy ngam cua thien su kodo truyen ngan thang minh da cam Quen mà lạ Chè đậu xanh viên rau câu phat giao va a duc vuong k r norman Từ miền Trung tôi viết Xá tội vong nhân 5 nghịch lý ngược đời của người luÃÆn Hoa tím bên thềm tinh tan ba la mat 4 cách giảm stress đơn giản và hiệu nhung thien vien dep khu vuc mien nam thien su thich nhat hanh duoc trao huan chuong Việt ngoi chua cua mien tam thuc va tinh cam cua nguoi Xa Xứ Cồn làm tăng nguy cơ ung thư vú トO Những Người Con Gái Lành của Đức Thế