Lời Dịch Giả
Tiểu Sử 
Phổ Thuyết
Khám Xét
Cơ Duyên
Thư Ðáp Về Pháp Yếu 1
Thư Ðáp Về Pháp Yếu 2
Thư Ðáp Về Pháp Yếu 3
Thư Ðáp Về Pháp Yếu 4
Thư Ðáp Về Pháp Yếu 5
Giải Ðáp Vấn Ðề Thiền Mặc Chiếu
w
.
Tông Cảo Thiền Sư
ĐẠI HUỆ NGỮ LỤC
Tỳ Kheo Thích Duy Lực dịch từ Hán sang Việt và lược gỉai
Từ Ân Thiền Đường xuất bản 1992
(21)

THƯ ĐÁP LÝ BỈNH (tự Hán Lão)

PHỤ THƯ HỎI:

I

Bỉnh gần đây được vào thất thân cận, nhờ Ngài khích lệ và khai phá ám muội cho, bỗng có tỉnh ngộ. 

Con tự xét căn cơ thấp kém, một đời học hỏi hiểu biết đều lọt vào tình thức (kiến chấp), buông cái nầy bắt cái kia như mở dây xích này lại buộc dây xích khác. Ngày nay nhờ Ngài bỗng được mở trói, vui mừng biết bao! Nếu chẳng phải Đại Tông Sư rủ lòng từ bi thì đâu được như thế. 

Từ khi được mở trói thì mặc áo ăn cơm, dắt con bồng cháu mỗi mỗi vẫn y như những tình cảm trói ngại đã quen và cũng chẳng cho là kỳ lạ. Ngoài ra, những tập khí xưa, nghiệp chướng cũ tự nhẹ bớt dần dần. 

Lời dặn của Ngài con chẳng dám quên. Song nghĩ lại con mới được vào cửa đại pháp chưa thấu, ứng cơ tiếp vật gặp việc chưa thể vô ngại, nên con rất mong được Ngài dạy bảo thêm, khiến cho tiến tới để khỏi làm hổ thẹn giáo pháp của Ngài. 

THƯ ĐÁP:

I

Đọc thư ông viết: "Từ khi mở trói mặc áo ăn cơm, dắt con bồng cháu mỗi mỗi y như cũ nhưng tình cảm trói ngại đã quên cũng chẳng cho là kỳ lạ. Ngoài ra những tập khí xưa nghiệp chướng cũ cũng tự nhẹ bớt dần dần". Biết được ông như vậy, đọc đi đọc lại tôi cảm thấy rất hoan hỉ. Đây là học Phật có hiệu nghiệm vậy. 

Nếu chẳng phải bậc đại trượng phu ngộ một cái liền siêu việt số lượng, thì chẳng thể biết nhà mình quả thật có cái diệu dụng chẳng thể truyền. Nếu không được như thế thì hai chữ NGHI, NGỘ trong Pháp môn, đến tận cùng vị lai cũng chẳng thể tiêu hoại. Dẫu cho miệng tôi bằng hư không, cây cỏ ngói đá đều phát ra ánh sáng trợ giúp tôi thuyết pháp cũng chẳng làm gì được, mới tin rằng việc nhân duyên này chẳng thể truyền, chẳng thể học, cần phải tự chứng tự ngộ mới đến triệt để. Ông nay nhất ngộ đã quên sở đắc thì đâu còn gì để nói nữa. 

Phật nói: 

Chẳng chấp ngôn thuyết của chúng sanh,
Tất cả hữu vi đều hư vọng.
Dù chẳng y theo lời ngôn ngữ,
Nhưng cũng chẳng chấp vô ngôn thuyết.

Trong thư ông nói đã quên tình cảm trói ngại cũng chẳng cho là kỳ lạ, ấy là âm thầm phù hợp với lời Phật. Thuyết nầy gọi là Phật thuyết. Lìa thuyết này gọi là tà ma thuyết. 

Sơn Tăng trước kia có đại nguyện: "Thà đem thân này thay tất cả chúng sanh chịu khổ địa ngục, chứ không bao giờ dùng miệng này lấy Phật pháp vị nhân tình mà làm mù mắt tất cả chúng sanh". 

Ông đã đến nơi điền địa này, tự biết việc này chẳng từ người khác mà được, vậy cứ y như trước đâu cần hỏi nữa. Đại pháp rõ hay chưa rõ? Ứng cơ ngại hay chẳng ngại? Nếu còn nghĩ vậy thì chẳng phải như trước rồi. 

Trước kia thấy ông hoan hỉ quá nên chẳng dám nói trắng ra, e ngại kẹt trong lời nói. Nay sự hoan hỉ đã qua mới dám chỉ ra việc này. Ông được đến mức này chẳng phải là dễ nhưng vẫn cần phải sanh tâm hổ thẹn mới được. 

Thường thường kẻ lợi căn thượng trí khi chứng đắc cảm thấy chẳng phí sức liền sanh tâm cho là dễ quá, chẳng chịu tu hành. Phần nhiều bị cảnh giới trước mắt lôi kéo đi, làm chủ chẳng được, lâu ngày dài tháng mê muội mà chẳng thể trở về. Đạo lực không thắng nghiệp lực thì nhất định sẽ bị bọn ma nhiếp trì. Lúc lâm chung cũng chẳng đắc lực. Hãy nhớ lấy cho.

Lời nói hôm trước: "Lý thì đốn ngộ, theo ngộ cùng tiêu. Sự thì tiệm trừ lần lần mới hết". Đi đứng ngồi nằm chớ nên quên mất. Ngoài ra đủ thứ lời sai biệt của cổ nhân đều chẳng thể cho là thật cũng chẳng thể cho là giả. Lâu ngày thuần thục tự nhiên âm thầm khế hợp bản tâm vậy. Chẳng cần cầu kỳ lạ thù thắng nào khác. 

Xưa kia hòa thượng Thủy Lạo hỏi Mã Tổ (709 - 788): Thế nào là ý của Tổ Sư từ Ấn Độ đến? 

Tổ nói: Lại gần đây ta nói cho nghe. 

Thủy Lạo vừa đến gần định lễ bái, bị Mã Tổ dùng chân đá nhào. 

Thủy Lạo bất giác đứng dậy vỗ tay cười ha hả. 

Tổ bảo: Người thấy đạo lý gì mà cười? 

Thủy Lạo nói: Muôn ngàn pháp môn, vô lượng diệu nghĩa, hôm nay bị đá một trận thì biết được nguồn gốc sát đáy. 

Mã Tổ cũng không nói gì thêm. 

Tuyết Phong (822-908) biết Cổ Sơn cơ duyên đã thuần thục. Một hôm Ngài bỗng chụp ngay ngực Cổ Sơn hỏi rằng: Cái gì vậy? 

Cổ Sơn ngay đó liễu ngộ. Luôn cả cái tâm liễu cũng mất luôn chỉ mỉm cười và khoát tay mà thôi. 

Tuyết Phong hỏi: Ông được đạo lý sao? 

Cổ Sơn lại khoát tay nói: Hòa thượng! Đâu còn có đạo lý nào nữa. 

Tuyết Phong liền thôi. 

Thuở xưa, Thiền Sư Đạo Minh đuổi theo Tổ Huệ Năng đến Đại Du Lãnh để đoạt y bát. Ngài Huệ Năng để y bát trên tảng đá nói: Y này là biểu tín (vật tiêu biểu để làm tin), há có thể dùng sức tranh dành ư? Ông cứ lấy đi. 

Đạo Minh tận sức giở lên không nổi mới kinh hãi thưa: Tôi nay cầu pháp chứ chẳng vì cầu y bát, xin hành giả khai thị. 

Huệ Năng nói: Chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác, ngay lúc ấy cái gì là bản lai diện mục của thượng tọa? 

Đạo Minh ngay đó đại ngộ, toàn thân xuất mồ hôi, rơi lệ đảnh lễ rằng: Ngoài mật ý mật ngữ kể trên, còn có ý chỉ nào nữa chăng? 

Huệ Năng nói: Nay vì ngươi nói ra thì chẳng phải mật ý rồi. Ngươi nếu tự phản chiếu diện mục mình thì mật ở bên ngươi. Nếu ta nói được thì chẳng phải là mật vậy. 

Đem ba công án kể trên so với cái ngộ của ông, hay dở thế nào xin ông tự đoán xem. Đâu còn có đạo lý kỳ lạ gì khác nữa. Nếu còn có cái khác thì chẳng thể gọi là ngộ rồi. Chỉ cần biết làm Phật, chớ đừng lo Phật chẳng biết nói. Xưa nay những người đắc đạo, tự mình đã viên mãn, đều dùng cái của mình sẳn có tùy cơ tiếp vật như gương sáng trên đài, ngọc sáng trong tay, Nam đến thi hiện hình Nam, Nữ đến thì hiện hình Nữ, mà chẳng cần tác ý vậy. Nếu có tác ý ắt có pháp thật cho người rồi. Ông muốn thấu rõ đại pháp ứng cơ vô ngại, hãy cứ vẫn y như trước, chẳng cần hỏi người, lâu ngày sẽ tự gật đầu vậy. Lời tôi nói khi chia tay xin chép lại để cạnh chỗ ngồi. Ngoài ra chẳng có lời khác để thuyết. Dẫu có thuyết, đối với bổn phận của ông cũng thành lời thừa rồi. Nói lòng vòng nhiều quá, nay tạm gạt qua một bên đi. 

PHỤ THƯ HỎI:

II

Vừa được lời đáp khai thị đã thấu ý chỉ thâm sâu. Bỉnh tự thấy có ba điều hiệu nghiệm. Một là gặp việc nghịch thuận tùy duyên ứng phó, chẳng lưu lại trong lòng. Hai là tập khí lâu đời chẳng cần dứt trừ mà tự nó nhẹ dần dần. Ba là đối với công án của Cổ Đức trước kia cảm thấy mờ mịt, nay lại thấy rõ ràng, không còn ám muội nữa. 

Thư trước nói đại pháp chưa rõ là vì sợ rằng được ít cho là đủ nên muốn được khuyếch sung (mở rộng) thêm, chứ đâu dám cầu kiến giải thù thắng nào khác. "Tẩy trừ tập khí” hiện hành, lúc ấy chẳng phải không! Lời dạy của Ngài, con rất khâm phục. 

THƯ ĐÁP:

II

Được thơ sau thấy có tiến thêm, chẳng biết gần đây được tùy duyên phóng khoáng, như ý tự tại chăng? Thức ngủ, nhị biên được như một chăng? Chỗ "vẫn y như cũ" có dời đổi chăng? Tâm sanh tử còn tương tục chăng? 

Chỉ cần tẩy sạch làm phàm tình, thực chẳng có thánh giải khác. Ông đã được ngộ, khai mở chánh nhãn, tin tức sở đắc xưa bỗng quên mất thì đắc lực hay chẳng đắc lực như người uống nước lạnh nóng tự biết vậy. Nhưng trong cuộc sống hàng ngày nên y theo lời dạy của Phật: "Một là tu tập trừ các trợ nhân; hai là chơn tu nạo sạch chánh tánh (tánh dâm dục) (l); ba là tinh tấn xoay ngược hiện nghiệp". Đây là chân phương tiện trong vô phương tiện, chân tu chứng trong vô tu chứng, chân thủ xả trong vô thủ xả của người xong việc (đã ngộ). 

Cổ Đức nói: "Lớp da đã lột hết, chỉ còn một chân thật". Cũng như nhánh lá của cây chiên đàn róc sạch hết, chỉ còn lại cây chiên đàn chân thật. Ấy là lý cùng tột của ba việc "trừ các trợ nhân, nạo sạch chánh tánh và xoay ngược hiện nghiệp" vậy. Ông thử nghĩ xem, lời nói như thế đối với bổn phận của người đã xong việc mặc dù như cây quạt trong mùa đông, song e miền Nam khí trời lạnh nóng bất thường nên thiếu nó chẳng được. Một tiếng cười. 

GHI CHÚ: (l) chánh tánh (tánh dâm dục): 
Chúng sanh đều dùng dâm dục làm chánh nhân để sanh ra sinh mạng nên gọi tánh dâm dục là chánh tánh. 

III

Lúc Phú Quí Thân ở Tam Cù có thư đến hỏi đạo, nhân đó bất đắc dĩ tôi buông lời phương tiện chẳng ít. Nhưng ông ta vẫn kẹt nơi Mặc Chiếu, chắc chắn đã bị bọn tà sư dẫn vào hang quỉ.

Nay tôi được thư kế tiếp, biết ông ta vẫn còn chấp tỉnh tọa cho là tốt. Ông ta cố chấp như thế làm sao tham được Tổ Sư Thiền? Lần này đáp thư, tôi không tiếc khẩu nghiệp, dài dòng thống thiết phá chấp cho ông ta, nhưng chẳng biết ông ta có chịu quay đầu lại khán câu thoại đầu hay không.

Bậc Thánh xưa nói: “Thà có thể phá giới lớn như núi Tu Di, quyết chẳng để bị tà sư huân một tà niệm nhỏ như hạt cải vào trong tàng thức, như đổ dầu vào trong bún thì không làm sao lấy ra được”. Ấy là tình trạng của ông ta vậy.

Nếu ông có gặp ông ta thì hãy đọc thử thư tôi đáp cho ông ta nghe. Theo đó mà làm phương tiện cứu vớt ông ta. Trong Pháp Tứ Nhiếp của Bồ Tát, đồng sự nhiếp là mạnh nhất, ông nên khai triển pháp môn này khiến ông ta tăng cường lòng tin “Tin tự tâm”, như vậy chẳng những tiết kiệm được một nửa sức Sơn Tăng, mà cũng khiến ông ta chịu xa lìa hang ổ cũ vậy.

(22)

THƯ ĐÁP GIANG THIẾU MINH

Đời người một trăm năm, thời gian có là bao. Ông xuất thân từ nhà nghèo hèn tiến lên quan chức, ấy là có phước nhất thế gian. Ông lại biết hổ thẹn hồi tâm hướng về đạo, học pháp xuất thế gian để thoát ly sanh tử, ấy là người khéo lựa chọn nhất trên đời. Cần phải quyết tử dụng công phu, chẳng màng đến việc khác, chẳng để cho người khác chi phối, tự làm chủ cho mình. Chỗ cuối cùng được chứng tỏ rõ ràng mới là bậc đại trượng phu đã xong việc thế gian và xuất thế gian vậy. 

Liên tiếp mấy ngày ông cùng với Lý Hán Lão đàm luận về đạo. Lành thay! Lành thay! Cho ông ta là đã dứt được tâm dong ruổi tìm cầu, đến chỗ "đường ngôn ngữ dứt, chỗ tâm hành diệt", ngay chỗ muôn ngàn sai biệt thấy được chân tay cổ nhân, chẳng bị phương tiện văn tự của cổ nhân trói buộc. Sơn Tăng thấy ông ta như thế chẳng hề bảo ông ta một chữ, vì e làm trở ngại ông ta. Đợi khi ông ta muốn nói chuyện với Sơn Tăng, lúc ấy mới cùng ông ta giải rõ việc này. Chứ chẳng phải ngưng luôn đâu. Người học đạo nếu tâm tìm cầu chẳng dứt thì dẫu có cùng họ giải rõ việc này cũng vô ích, vì họ là kẻ ngu si cuồng loạn chạy ở vòng ngoài. 

Cổ Đức nói: "Gần gũi người lành như đi trong sương móc, tuy chẳng ướt áo nhưng cũng được thấm nhuần". Ông thường qua lại hầu chuyện với Lý Hán Lão, tôi rất mong, rất mong! 

Ông chớ nên đem lời dạy của Cổ Đức ra bày đặt bậy bạ. Như Nam Nhạc nói với Mã Tổ rằng: "Ví như trâu kéo xe, nếu xe chẳng đi thì đánh xe là phải hay đánh trâu là phải?" Mã Tổ nghe xong ngộ ngay. Về mấy lời này, Tông Sư các nơi chẳng hội được, lại đoán mò bậy bạ, dù thuyết pháp như sấm sét cũng chỉ là hiểu theo lời nói. Ấy là phỉ báng Tổ Sư. Xem thư ông gửi Châu Phong, ông tự ý đặt điều chú giải cho Như Lai Thiền là Tổ Sư Thiền, Sơn Tăng đọc qua bất giác bật cười. 

Bài tụng gửi đến kỳ này xem kỹ thấy khá hơn hai bài tụng trước, nhưng từ nay hãy ngưng hẳn, nếu cứ tụng đi tụng lại mãi thì đến chừng nào mới xong. Như Lý Hán Lão, ông ta há chẳng biết làm kệ tụng sao, tại sao ông ta không làm một chữ? Vì là người biết pháp nên sợ phạm pháp mà thôi! Ông ta ngẫu nhiên lộ ra một đầu sợi lông thì tự nhiên gãi nhằm chỗ ngứa của Sơn Tăng. Như câu: "gặp người khắp nơi, gạt trước mặt" trong bài tụng Xuất Sơn Tướng, đáng làm thuốc điểm nhãn cho tòng lâm. Một ngày nào đó ông sẽ tự thấy, chẳng cần Sơn Tăng nói trắng ra. 

Lược giải: 
"Gặp người khắp nơi, gạt trước mặt" 
Cổ Đức nói: "Người học chẳng thấy được ý của chư Tổ thì phải bị chư Tổ lừa gạt. Cũng như người không qua được sông hồ thì bị sông hồ chướng ngại vậy". 
Gần đây, tôi thấy ông bỗng nhiên thay đổi và rất nỗ lực về việc này, nên tôi viết thơ này hơi dài dòng. 

(23)

THƯ ĐÁP PHÚ QUÍ THÂN

I

Lúc tuổi trẻ ông đã biết phát lòng tin hướng đến Tổ Sư Thiền, nhưng về tuổi già bị tri giải làm chướng nên chưa có chỗ ngộ nhập, ngày đêm mong muốn biết phương tiện thể cứu đạo này. Ông đã có lòng chí thành, tôi đâu dám từ nan. 

Theo lời thỉnh của ông, tôi nói ra ít lời sau đây. Chỉ cái tâm cầu ngộ nhập này tức đã là tri giải chướng đạo rồi, lại còn tri giải nào làm chướng ngại ông nữa? Thực ra gọi cái gì là tri giải ? Tri giải từ đâu mà đến? Người bị chướng ngại là ai? Chỉ một câu này điên đảo có ba: 

Một là tự nói bị tri giải làm chướng. 

Hai là tự nói chưa ngộ, cam đành làm kẻ mê.

Ba là ở trong mê đem tâm chờ ngộ. 

Ba thứ điên đảo này là cội gốc sanh tử. Cần phải chớ sanh một niệm, ngay đó tâm điên đảo bặt, mới biết không có mê để phá trừ, không có ngộ để chờ đợi, không có tri giải để làm chướng, như người uống nước lạnh nóng tự biết, lâu ngày tự nhiên không còn những kiến giải này. Chỉ cần nhìn ngay chỗ cái tâm hay biết tri giải đó khán xem còn chướng được hay không? Trên cái tâm hay biết tri giải đó còn có những kiến giải kể trên hay không? 

Từ xưa, các bậc đại trí huệ, đều lấy tri giải làm bè bạn, dùng tri giải làm phương tiện. Ở trên tri giải thực hành lòng từ bình đẳng, ở trên tri giải làm các Phật sự như rồng gặp nước, như hổ ở núi, chẳng bao giờ lấy đó làm bực dọc. Chỉ vì các Ngài biết được chỗ khởi của tri giải. Đã biết được chỗ khởi của tri giải thì chính tri giải này tức là nơi giải thoát, cũng là chỗ thoát sanh tử. Đã là nơi giải thoát sanh tử thì cái tri giải đó bản thể vốn là tịch diệt. Tri giải đã tịch diệt thì kẻ năng biết tri giải đó chẳng thể không tịch diệt. Vậy Bồ Đề, Niết Bàn, Chân Như, Phật tánh cũng chẳng thể không tịch diệt. Theo lý này suy ra thì còn có vật nào có thể làm chướng ngoại, và nhằm vào đâu để cầu ngộ nhập. 

Phật nói: 

Các nghiệp từ tâm sanh,
Nên nói tâm như huyễn.
Nếu lìa tâm phân biệt,
Ắt đường sanh tử tuyệt.

Tăng hỏi Hòa Thượng Đại Châu: Thế nào là Đại Niết Bàn? 

Sư đáp: Chẳng tạo nghiệp sanh tử. 

Tăng hỏi: Thế nào là nghiệp sanh tử? 

Sư đáp: Cầu đại Niết Bàn là nghiệp sanh tử. 

Cổ Đức nói: "Người học đạo có một niệm chấp thật sanh tử, tức là rơi vào ma đạo, một niệm khởi các kiến chấp tức sa vào ngoại đạo"

Duy Ma Cật nói: "Chúng ma ưa sanh tử, Bồ Tát ở nơi sanh tử mà chẳng nhiễm, ngoại đạo ưa các kiến chấp, Bồ Tát ở nơi các kiến chấp mà chẳng động". Như thế chứng tỏ người lấy tri giải làm bè bạn, dùng tri giải làm phương tiện, ở trên tri giải thực hiện lòng từ bình đẳng, ở trên tri giải làm các Phật sự, là người thực hành đúng theo lời dạy của Phật, Tổ. Tại sao? Chỉ vì bậc Thánh liễu đạt thời gian tánh không, sanh tử Niết Bàn vốn là tịch diệt. 

Người chưa đến được chỗ này chẳng nên nghe theo lời bậy bạ của bọn tà sự dẫn vào hang quỉ, ở đó nhắm mắt nổi vọng tưởng. Gần đây chánh pháp suy đồi, bọn này nhiều như mè như lúa, cũng như một người mù dẫn cả bọn mù cùng nhau vào hầm lửa. Thật đáng thương xót! Mong ông thẳng thắn chớ theo bọn này. Nếu theo bọn này, dù tạm thời giữ được cái xác thân này chẳng bị lay động, lại cho là đạo cứu cánh, nhưng tâm thức vẫn lăng xăng trôi nổi như bụi trần. Dẫu cho tâm thức tạm ngưng thì cũng như đá đè cỏ, vậy muốn đến chỗ cứu kính an lạc của Vô Thượng Bồ Đề làm sao mà được. Xưa kia, tôi cũng từng bị bọn này làm lầm, về sau nếu tôi không gặp được thiện tri thức chân chánh thì phải uổng qua một đời. Nay mỗi khi nghĩ đến, tâm không thể nhẫn được, nên chẳng tiếc khẩu nghiệp mà tận sức cứu vãn cái tệ đoan này. 

Ngày nay, người biết quấy nếu muốn ngay đó lãnh hội cần phải nơi một niệm này được bùng vỡ, mới liễu thoát được sanh tử, mới gọi là ngộ nhập, nhưng không được giữ cái tâm chờ bùng vỡ. Nếu cứ giữ cái tâm chờ bùng vỡ thì không bao giờ bùng vỡ được. Chỉ cần đem những vọng tưởng như tâm điên đảo, tâm suy nghĩ phân biệt, tâm tham sống sợ chết, tâm tri kiến hiểu biết, tâm ưa tịnh chán động v.v... nhất thời buông xuống, ngay chỗ buông xuống đó khán công án : 

“Tăng hỏi Triệu Châu: Con chó có Phật tánh hay không? 

Triệu Châu đáp: Không”.

Xem tại sao Triệu Châu nói "không"? 

Một chữ KHÔNG này là lợi khí để đập tan những ác tri ác giác. Nhưng chẳng được dùng bộ óc tìm hiểu cho là có hay không, chẳng được cho là đạo lý, chẳng được dùng ý căn suy nghĩ tính toán, chẳng được hướng theo cái nheo mày nhướng mắt để lãnh hội, chẳng được hướng trên lời nói để so đo, chẳng được bỏ vào trong cái vỏ vô sự, chẳng được hướng chỗ đề khởi của Chư Tổ để hội ngộ, chẳng được theo văn tự để dẫn chứng. Chỉ cần suốt ngày đêm đi đứng ngồi nằm luôn luôn tự hỏi: "Con chó có Phật tánh hay không? 
Tại sao Triệu Châu nói "không"? Hằng ngày thử thực hiện công phu như thế xem, không bao lâu sẽ tự thấy hiệu nghiệm phần nào. Việc một bước ngàn dậm cũng có thể được vậy. 

Cổ Đức nói: "Ý Tổ Sư ở đây rất linh động, không vật nào có thể hạn chế nó được. Nếu lìa cuộc sống hàng ngày mà có chỗ xu hướng khác thì cũng như lìa nước tìm sóng, càng tìm càng xa vậy". 

II

Được biết, những ngày gần đây ông lấy đại sự nhân duyên (công phu tham thiền) này làm đều tâm niệm, dũng mãnh tinh tấn thuần nhất không tạp, lòng tôi xiết bao vui mừng. 

Ông có thể suốt ngày trong lúc làm việc, công phu đã được tương ưng chưa? Hai lúc thức và ngủ đã được nhất như chưa? Nếu chưa được thì không nên luôn luôn chìm đắm trong không tịch. Người xưa gọi đó là làm việc trong nhà quỉ dưới núi đen, công phu như thế đến tận đời vị lai cũng không có ngày thấu thoát. 

Hôm qua được thư, tôi thầm nghĩ ông say đắm việc nhập định vắng lặng, đến khi hỏi Trực Các (bạn đồng tham) thì mới biết quả đúng như điều tôi tiên đoán. 

Nói chung, người trôi lăn nhiều ở chốn thế gian, từ lâu đã dính chặt trần lao, bỗng nhiên được người chỉ bảo hướng vào chỗ tĩnh lặng làm công phu, chợt được trong tâm vô sự, liền nhận đó là cứu cánh an lạc. Chứ không biết là như đá đè cỏ, tuy tạm cảm thấy thanh tịnh, nhưng đâu ngờ gốc rễ vô minh vẫn còn, biết đến ngày nào mới chứng được tịch diệt viên mãn. Muốn được cái tịch diệt chân chánh hiện tiền cần phải ở trong sự sanh diệt lăng xăng nhảy một cái ra khỏi (tỉnh ngộ). Khi ấy chẳng động một mảy lông (chẳng cần tác ý) cũng có thể quậy nước sông dài thành tô lạc, biến đất cát thành vàng ròng, ứng cơ tiếp vật tự do tự tại, tự lợi, lợi tha việc nào cũng xong. 

Bậc Thánh xưa gọi đó là Vô tận tạng đà la ni môn, Vô tận tạng thần thông du hí môn, Vô tận tạng như ý giải thoát môn. Những việc này chẳng phải là bậc đại trượng phu thì đâu thể làm được. Nhưng cũng chẳng phải do tạo tác mà được, vì vốn là vật sẵn đủ trong tâm ta. Mong ông quyết tâm tinh tấn, nhất định sẽ đến chỗ này. Khi hoát nhiên đại ngộ, trong tâm rõ ràng như trăm ngàn nhật nguyệt, mười phương thế giới trong một niệm thấu rõ mà không có một mảy may nghĩ tưởng nào khác thì mới được cùng cứu cánh tương ưng. Nếu được như thế thì chẳng những đắc lực trên đường sanh tử mà ngày sau, khi ông được lên cầm quyền, lại còn có thể giúp Vua cai trị hơn cả Nghiêu Thuấn. Điều này chắc chắn như chỉ tay trên bàn tay vậy. 

III

Thư Ông nói: "Người sơ cơ được chút công phu tĩnh tọa cũng là khá", lại nói: "Chẳng dám có kiến chấp về tĩnh lặng". Phật nói: "Ví như có người bịt lỗ tai rồi cất tiếng la to, tự họ không nghe cũng tưởng người khác không nghe như họ vậy". Thật chỉ tự làm chướng nạn mà thôi. 

Người tham thiền nếu tâm sanh tử chưa vỡ, hằng ngày trong 12 thời mờ mờ mịt mịt như người chết hồn chưa tan, đâu có thì giờ rảnh để ý đến tĩnh lặng hay náo động? 

Trên hội Niết Bàn, tên Quảng Ngạch buông đao đồ tể liền thành Phật, đâu phải là thực hiện công phu trong tĩnh lặng mà được. Ông ta há chẳng phải là người sơ cơ ư? Ông thấy việc này, cho rằng người đời nay chẳng có khả năng như vậy, rồi lại gán cho ông ấy là Cổ Phật thị hiện. Nếu có kiến giải như thế là do chẳng tin tự tâm, cam chịu làm người hạ liệt mà thôi. 

Trong Thiền Tông ta chẳng luận kẻ sơ cơ hậu học, cũng chẳng luận người tiền bối lão tham. Nếu muốn chân thật yên tịnh, cần phải tâm sanh tử vỡ, chẳng do làm công phu trong tĩnh lặng. Hễ tâm sanh tử vỡ thì tự yên tịnh vậy. Điều bậc Thánh xưa gọi là phương tiện tịch tịnh chính lá cái này, chỉ tại bọn tà sư đời mạt pháp chẳng hội lời nói phương tiện của bậc Thánh xưa đó thôi. Ông nếu tin được lời của Sơn Tăng, thử hướng ngay chỗ náo động khán câu thoại đầu xem, không kể ngộ hay không ngộ, chính ngay lúc tâm rối loạn hãy cứ đề câu thoại đầu hỏi mãi, khi ấy còn thấy tịnh hay không, còn thấy đắc lực hay không? Nếu thấy đắc lực thì chẳng cần buông xả gì cả. Khi tĩnh tọa chớ để hôn trầm và tán loạn. Nếu cảm thấy hai thứ bệnh này hiện tiền chớ nên dùng sức diệt trừ, chỉ cần đề câu thoại đầu hỏi tiếp thì ngay đó hai bệnh tự hết. Công phu lâu ngày mới biết chỗ ít phí sức chính là chỗ đắc lực, cũng chẳng cần làm công phu trong tĩnh lặng, ngay chỗ náo động này chính là công phu vậy. 

Khi Lý Hán Lão mới gặp Sơn Tăng ở Tuyền Nam, thấy Sơn Tăng cực lực bài bác Mặc chiếu tà thiền làm mù mắt người. Ông ta bất bình nửa nghi nửa giận, bỗng nghe Sơn Tăng nói câu thoại đầu "Cây bách trước sân", ông ta hốt nhiên đập vỡ thùng sơn đen, ở trong một tiếng cười đã hoàn toàn xong việc (ngộ), mới tin lời của Sơn Tăng không một mảy may dối gạt, cũng chẳng phải tranh giành nhân ngã, liền đối trước Sơn Tăng sám hối. Ông ta hiện đang còn ở nơi ấy, mời ông đến đó hỏi xem có phải hay không. 

Thượng Tọa Đạo Khiêm đã đi Phước Kiến, không biết đã đến đó chưa. Ông ấy tham thiền nếm nhiều cay đắng, cũng đã từng mất hơn mười năm nhập khô thiền (tĩnh tọa như cây khô). Những năm gần đây, ông ấy mới được chỗ an lạc (ngộ). Khi gặp, xin hỏi thử ông ấy: "Phải thực hiện công phu như thế nào?" Trước kia ông ấy đã đi lầm đường tất sẽ thương xót kẻ lầm đường, tôi nghĩ rằng ông ấy sẽ thành thật thố lộ hết cho ông biết vậy.

 (24)

THƯ ĐÁP TRẦN QUÝ NHẬM

I

Thư ông tự nói căn tánh rất ngu độn mà muốn lưu ý đoạn đại sự nhân duyên này, nếu thật như vậy tôi sẽ mừng cho ông. 

Hiện nay bậc sĩ phu phần nhiều đối với việc này (tham Tổ Sư Thiền) chẳng thể ngay đó thấu thoát, chỉ vì căn tánh quá linh lợi, tri kiến quá nhiều, vừa nghe Tông Sư mở miệng liền dùng bộ óc lãnh hội ngay, không phát khởi nghi tình nên vĩnh viễn không thể chứng ngộ. Lại không bằng kẻ độn căn, đầu óc đơn giản, không có nhiều tri kiến này nọ, nên được ngay nơi một cơ một cảnh hoặc một ngôn một cú hoát nhiên khám phá (đại ngộ). Cái ngộ này dù Đại Sư Đạt Ma có xuất hiện dùng trăm món thần thông muốn chướng ngại người này cũng chẳng được, chỉ vì người này không có đạo lý gì để chướng. Người căn tánh linh lợi, trái lại, bị cái linh lợi làm chướng, chẳng thể dẹp ngay, phá ngay được. Đối với việc này, dẫu cho dùng thông minh linh lợi học được đi nữa thì trên việc bổn phận của chính mình (tham thiền) lại càng không đắc lực. Cho nên Ngài Nam Tuyền nói: "Ngày gần đây thiền sư rất nhiều mà không tìm ra một người si độn" là vậy. Ngài Chương Kỉnh nói: "Chí lý bặt lời, người đời chẳng biết, lại cưỡng tập việc khác, cho là công phu. Chẳng biết tự tánh vốn chẳng phải là cảnh trần, mà là cái môn đại giải thoát vi diệu, có cái giác chiếu soi không nhiễm không ngại, ánh sáng cùng khắp không gian thời gian, xưa nay chưa từng biến đổi, giống như mặt trời xa gần đều chiếu, tuy đến các vật mà chẳng cùng tất cả hòa hợp. Diệu minh sáng tỏ chẳng nhờ tu tập, chúng sanh chẳng rõ nên chấp lấy cảnh tượng bên ngoài, giống như dụi mắt vọng thấy hoa đốm trên không, trải qua nhiều kiếp uổng tự lao nhọc. Nếu được phản chiếu thì bản thể tự tánh hiện khắp không gian thời gian, không thấy có người thứ hai, khi ấy hành vi tạo tác đều ở trong thật tướng". 

Ông tự nói căn tánh ngu độn, thử như thế phản chiếu xem cái biết ngu độn đó có ngu độn hay không? Nếu chẳng hồi quang phản chiếu mà chỉ giữ lấy cái ngu độn rồi tự sanh phiền não, thật là ở trên huyễn vọng chồng thêm huyễn vọng. Chỉ cần tin tôi, hễ biết được căn tánh ngu độn thì nhất định là không ngu độn. Tuy không chấp lấy cái ngu độn này mà cũng chẳng được bỏ cái ngu độn này để tham. Lấy, bỏ, lợi, độn tại người chớ chẳng tại tâm. Tâm này cùng với chư Phật ba đời một thể không hai, nếu có hai thì pháp chẳng bình đẳng vậy. Thọ giáo truyền tâm đều là hư vọng, cầu chân thật tìm thật càng thấy so le. Chỉ cần biết cái tâm thể vốn bất nhị thì quyết định chẳng còn ở trong phạm vi của lợi, độn, lấy, bỏ, ngay khi đó một dao cắt đứt dây trói như thấy mặt trăng quên ngón tay. Nếu còn chần chờ suy trước tính sau, ấy là trên "nắm tay không" mà sanh kiến giải chấp thật, trong pháp căn cảnh vọng lập méo mó, trong thân ngũ ấm vọng tự trói buộc, không biết đến bao giờ mới hết. 

Những năm gần đây, có một bọn tà sư thuyết Thiền Mặc Chiếu, dạy người suốt ngày đêm mọi việc đều chớ màng đến, cứ thôi đi, nghỉ đi, im lặng không cho lên tiếng, e sợ lọt vào cảnh trước mắt (chấp cảnh). Thường thường sĩ phu bị thông minh linh lợi sai khiến nên phần đông ghét chỗ náo động, bỗng được bọn tà sư dạy bảo tĩnh tọa, cảm thấy ít phí sức, liền cho đó là đúng, lại chẳng biết cầu diệu ngộ, chỉ cho Mặc chiếu là cùng tột. Tôi chẳng tiếc khẩu nghiệp ra sức cứu vãn cái tệ đoan này. Nay cũng có chút ít người biết quấy, xin ông hãy hướng đến chỗ nghi tình chẳng vỡ mà tham, đi đứng nằm ngồi chẳng được buông bỏ. 

Tăng hỏi Triệu Châu: Con chó có Phật tánh hay không? 

Triệu Châu đáp: Không. 

Tại sao Triệu Châu nói "không". 

Một chữ KHÔNG này chính là một cây dao cắt đứt cái tâm nghi sanh tử. Cái cán dao này chính người đương sự tự cầm trong tay, bảo người khác hạ thủ giùm chẳng được, phải chính mình hạ thủ mới được. Nếu xả được tánh mạng thì mới có thể quyết liệt hạ thủ. Nếu chẳng xả được thì cứ ở chỗ NGHI chẳng vỡ mà tham cứu, bỗng nhiên một ngày nào đó dám chịu xả mạng thì ngay đó xong việc (kiến tánh). Khi ấy, mới tin rằng lúc tĩnh lặng tức là lúc náo động, lúc náo động tức là lúc tĩnh lặng, lúc nói tức là lúc nín, lúc nín tức là lúc nói, chẳng cần hỏi người, cũng tự nhiên chẳng bị bọn tà sư mê hoặc. Mong thay! Mong thay! 

Thuở xưa Châu Thế Anh có lần gửi thư hỏi Ngài Chân Tịnh rằng: "Phật pháp thâm diệu, hằng ngày nên dụng tâm thể cứu như thế nào? Xin Ngài từ bi chỉ dạy". 

Chân Tịnh đáp: "Phật pháp huyền diệu không hai, nhưng nếu chưa đến chỗ huyền diệu thì có cao thấp đối đãi nhau. Nếu như đến được chỗ huyền diệu thì người ngộ tâm ắt biết đúng như thật tức là Tự tâm vốn đã thành Phật, tự tại như thật, an lạc như thật, giải thoát như thật, thanh tịnh như thật mà hàng ngày chỉ dụng tự tâm. Tự tâm linh động, nắm được liền dùng, chớ hỏi nó là phải hay không phải, đem tâm suy nghĩ liền không phải vậy. 

Tâm không suy nghĩ thì mỗi mỗi thiên chân, mỗi mỗi minh diệu, mỗi mỗi như hoa sen chẳng dính nước. Cái tâm thanh tịnh siêu việt tất cả, do mê tự tâm nên làm chúng sanh, ngộ tự tâm nên thành Phật, mà chúng sanh tức Phật, Phật tức chúng sanh, do mê ngộ nên có chúng sanh và Phật". 

Ngày nay, người học đạo phần đông chẳng tin tự tâm, chẳng ngộ tự tâm, chẳng được thọ dụng sự minh diệu của tự tâm, chẳng biết tự tâm vốn an lạc giải thoát, lầm cho ngoài tâm có thiền, có đạo, vọng lập kỳ lạ, vọng sanh lấy bỏ, tuy có tu hành mà rơi vào cảnh giới đoạn kiến của ngoại đạo và thiền tịch tịnh của nhị thừa, chỗ gọi là: "Tu hành sợ đọa hố đoạn thường". 

Nói kẻ đoạn kiến là đọan diệt bản tánh diệu minh của tự tâm, cứ ở ngoài tâm chấp không mà mắc kẹt vào thiền tịch tịnh. 

Nói kẻ thường kiến là chẳng ngộ tất cả pháp không, chấp thật các pháp hữu vi thế gian cho là cứu cánh. 

Bọn tà sư dạy sĩ phu nhiếp tâm tĩnh tọa, mọi việc chớ màng cứ thôi đi, nghỉ đi, há chẳng phải là đem tâm thôi tâm, đem tâm nghỉ tâm, đem tâm dụng tâm đó sao? Nếu tu hành như thế thì làm sao chẳng rơi vào cảnh giới đoạn kiến, thiền tịch tịnh của ngoại đạo và nhị thừa, làm sao phát hiện được cái huyền diệu của tự tâm nhiệm mầu sáng suốt, thọ dụng sự an lạc thanh tịnh giải thoát. Cần phải người đương sự tự chứng tự ngộ, tự nhiên chẳng bị lời nói của Cổ Đức xoay chuyển mà còn có khả năng chuyển được lời của Cổ Đức.

Như viên ngọc quý ma ni trong sạch vùi trong bùn sình, dù trải qua trăm ngàn năm cũng chẳng bị ô nhiễm vì bản thể của nó vốn tự trong sạch. Tâm này cũng vậy, khi mê dù bị trần lao mê hoặc mà bản thể tâm này chưa từng mê hoặc, như hoa sen chẳng dính nước vậy. Nếu bỗng ngộ tâm này vốn đã thành Phật, cứu cánh tự tại, an lạc như thật, các thứ diệu dụng cũng chẳng từ bên ngoài đến, vì nó vốn sẵn tự đầy đủ. Phật nói: "Không có pháp nhất định tên là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, cũng không có pháp nhất định để cho Như Lai thuyết". Nếu xác định bản thể của nó thật có sự việc như thế thì lại chẳng đúng. Do sự bất đắc dĩ, nhân vì mê ngộ, lấy bỏ, mà nói ra đủ thứ đạo lý, ấy là lời phương tiện đối với người chưa đến chỗ huyền diệu đó thôi. Kỳ thật bản thể không có đạo lý nào. 

Xin Ông hãy dụng tâm như thế này: Hàng ngày trong mười hai thời chẳng được chấp sanh tử Phật đạo là thật có, cũng chẳng được chấp sanh tử Phật đạo là thật không, chỉ cần khán câu thoại đầu, thiết yếu là chẳng nên dùng ý căn để suy lường, chẳng nên ở trên ngôn ngữ để tìm hiểu, chẳng nên ở chỗ nói năng để nhận lấy, cũng chẳng nên hướng vào chỗ "đá lửa điện chớp" để lãnh hội, chỉ cần đề câu thoại đầu hỏi mãi, cũng chẳng được đem tâm chờ ngộ, chờ thôi nghỉ, nếu đem tâm chờ ngộ, chờ thôi nghỉ thì càng không dính dáng gì! 

***

c

Nguồn: www.quangduc.com

Về danh mục

buổi nhạc giao Mất ngủ làm tăng nguy cơ đột quỵ quan he giua nha nuoc va cong dan theo kinh dien khai Nhớ Tết xưa phap an cu cua chu tang Tết Đoan Ngọ và nhớ Rau lang nhuận tràng hạnh phúc từ những điều bình dị m¹o từ lực nhi người phật tử với tâm nguyện hoằng nỗi nhớ ngày đông vÃÆ Chùa Thái Sơn cuộc cách mạng từ bi hoc phat thấy duc Д ГІ bun hoà Lá thư Xuân Bệnh bến quê nhà Šnước có ý nghĩa gì giới thiệu tượng phật giúp hạn chế Từ miền Trung tôi viết doan vat Lở Từ miền Trung tôi viết Nghệ lien mưa Nửa dối Khoa là m ý niệm về hạnh phúc truyền vu lan nghĩ về mẹ 5 tan o thai lan lặng Lễ VÃÆ Cắt tỉa cho đĩa trái cây thêm sành giải