Lời Dịch Giả
Tiểu Sử 
Phổ Thuyết
Khám Xét
Cơ Duyên
Thư Ðáp Về Pháp Yếu 1
Thư Ðáp Về Pháp Yếu 2
Thư Ðáp Về Pháp Yếu 3
Thư Ðáp Về Pháp Yếu 4
Thư Ðáp Về Pháp Yếu 5
Giải Ðáp Vấn Ðề Thiền Mặc Chiếu
w
.
Tông Cảo Thiền Sư
ĐẠI HUỆ NGỮ LỤC
Tỳ Kheo Thích Duy Lực dịch từ Hán sang Việt và lược gỉai
Từ Ân Thiền Đường xuất bản 1992
(6)

THƯ ĐÁP LỮ THUẤN NGUYÊN

Xưa kia Đô Úy Lý Văn Hòa tham vấn thiền sư Thạch Môn Từ Chiếu, ngộ được của tông chỉ của Lâm Tế, có làm bài kệ rằng:

Học đạo, tâm cứng như sắt,
Thẳng tay, trong lòng vững chắc.
Chụp ngay Vô Thượng Bồ Đề,
Tất cả thị phi chẳng màng.

Lành thay lời này, có thể giúp cho học vấn sáng tỏ, phát ra đại dụng vậy. Còn bảo Phật là thuốc của chúng sanh, chúng sanh bệnh lành thì thuốc cũng vô dụng. Nếu bệnh lành còn giữ thuốc thì chỉ có thể nhập cảnh giới Phật, mà chẳng thể nhập cảnh giới ma, vẫn còn là bệnh. Bệnh này với bệnh chúng sanh chưa lành đâu có khác. Hễ bệnh lành thì thuốc cũng bỏ, Phật, ma đều quét thì mới có thể đối với đại sự nhân duyên này có chút phần tương ưng.

Phật là kẻ đã liễu sự trong cõi chúng sanh, chúng sanh là kẻ bất liễu sự trong cõi Phật. Muốn được như một thì phải đem Phật với chúng sanh buông xả một lượt, vậy mới không có sự liễu với sự bất liễu.

Cổ Đức nói: 

Hễ ở nơi sự thông vô sự,
Thấy sắc nghe tiếng khỏi mù điếc.

Con người dù biết được đạo lý thế gian hư vọng chẳng thật, song đến khi đối cảnh gặp duyên, sự thực bỗng hiện trước mắt, muốn không tùy thuận nó nhưng vẫn phải bị nó lôi kéo đi. Bởi vì tập khí từ vô thủy đến nay, chỗ quen đã quá quen, chỗ lạ thì quá lạ, nên tuy tạm biết được rõ, song đạo lực chẳng thắng được nghiệp lực.

Vậy thế nào là chỗ quen của nghiệp lực? Thế nào là chỗ lạ của đạo lực?

Thật ra đạo lực và nghiệp lực vốn chẳng cố định, chỉ cần xem chỗ hiện hành hàng ngày có tham ái hay không mà thôi. Nếu có tham ái thì nghiệp lực thắng đạo lực. Nghiệp lực thắng thì khi gặp cảnh duyên liền bị kẹt, gặp cảnh duyên bị kẹt thì chỗ nào cũng dính mắc, chỗ nào cũng dính mắc thì gặp khổ, vui đều là khổ. Cho nên Phật Thích Ca nói với Di Lặc rằng: “Nếu ngươi cho sắc, không đoạt nhau (sanh diệt lẫn nhau) nơi Như Lai Tạng thì Như Lai Tạng tùy theo sắc, không mà cùng khắp pháp giới, thế nên mới có những hiện tượng gió thổi thì động, hư không thì tịnh, mặt trời hiện thì sáng, mặt trời lặn thì tối. Vì chúng sanh mê muội, bỏ bản giác theo cảnh trần, nên sanh khởi trần lao mà có tướng thế gian”. Ấy là nghiệp lực thắng đạo lực.

LƯỢC GIẢI:

Sắc không đoạt nhau nơi Như Lai Tạng:
Tại sao nói sắc, không đoạt nhau? Như ban ngày thấy sáng khắp hư không, ban đêm thấy tối khắp hư không, đó là sáng tối tự sanh diệt đoạt nhau chẳng dính dáng với hư không. Hư không chưa từng sáng tối. Hư không dụ cho Như Lai Tạng. Do nghiệp lực sanh khởi trần lao mới thấy có gió động tịnh, mặt trời sáng tối v.v… lăng xăng đoạt nhau trong Như Lai Tạng mà chẳng dính dáng với Như Lai Tạng. Như Lai Tạng chưa từng dính mắc trần lao. (lược giải hết)

Phật Thích Ca lại nói: “Ta có cái diệu minh bất sanh bất diệt hợp với Như Lai Tạng thì Như Lai Tạng chỉ có diệu giác sáng tỏ chiếu khắp pháp giới. Thế nên một là vô lượng, vô lượng là một, trong nhỏ hiện lớn, trong lớn hiện nhỏ, khắp mười phương cõi đạo tràng chẳng động, thân gồm mười phương hư không, nơi đầu sợi lông hiện Phật sát, ngồi trong hạt bụi chuyển pháp luân”. Đây là chỗ hiện hành đạo lực thắng nghiệp lực.

Dù nói như thế nhưng sự thật cả hai đều là hư vọng. Nếu bỏ nghiệp lực mà chấp đạo lực thì tôi dám bảo rằng người này chẳng hội được phương tiện tùy nghi thuyết pháp của chư Phật. Tại sao vậy? Như Phật Thích Ca nói: “Nếu chấp pháp tướng tức là dính mắc ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả. Nếu chấp phi pháp tướng cũng là dính mắc ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả. Do đó chẳng nên chấp pháp cũng chẳng nên chấp phi pháp”. Đoạn trên tôi nói: “Đạo lực và nghiệp lực vốn chẳng cố định” là nghĩa này vậy.

Nếu là bậc đại trượng phu, mượn đạo lực làm công cụ để phá trừ nghiệp lực, nghiệp lực đã trừ thì đạo lực cũng hư vọng. Nên nói: “Chỉ dùng giả danh tự dẫn dắt chúng sanh”. Lúc chưa khám phá thì khó lắm, còn sau khi khám phá rồi thì có gì khó dễ đâu!

Bàng Uẩn nói: 

Phàm phu chí lượng hẹp,
Vọng nói có khó dễ.
Lìa tướng, như hư không,
Khế hợp chư Phật trí.
Giới tướng cũng như không,
Kẻ mê tự tác trì.
Gốc bệnh chẳng nhổ sạch,
Chỉ là đùa hi hi.

Muốn biết gốc bệnh chăng? Chẳng phải vật gì khác, mà chỉ là cái chấp khó chấp dễ, vọng sanh lấy bỏ đó. Cái gốc bệnh này nhổ không sạch, thì phải chìm nổi trong biển sanh tử chẳng có ngày ra.

Xưa Tú tài Trương Tuyết vừa bị bậc tôn túc điểm đúng căn bệnh, liền hội và nói:

Dứt trừ phiền não càng thêm bệnh,
Hướng đến Chân như cũng là tà.
Tùy thuận thế duyên vô quái ngại!
Niết Bàn sanh tử bằng không hoa.
(hoa đốm trên không)

Muốn được thẳng tắt, chẳng nghi Phật, Tổ, chẳng nghi sanh tử, chỉ cần để cho tấm lòng trống rỗng, việc đến thì tùy duyên ứng phó, mà tâm định như nước trong lặng, chiếu soi như gương sáng tỏ. Nếu tướng thiện ác, xấu đẹp nào đến, trốn một mảy may không được, vậy mới tin biết cái cảnh giới vô tâm tự nhiên bất khả tư nghì.

(7)

NGỤY CÔNG THỈNH THĂNG TÒA

Sư khai thị: Muốn biết pháp chăng? Ấy là Bồ Đề, Niết Bàn, Chân Như, Phật Tánh. Muốn biết bệnh chăng? Ấy là tham sân, tà kiến, vọng tưởng, điên đảo. Mặc dầu như thế, nhưng lìa điên đảo vọng tưởng thì chẳng có Chân Như, Phật Tánh; lìa tham sân, tà kiến thì chẳng có Bồ Đề, Niết Bàn. Như thế phân là đúng hay là chẳng phân là đúng? Nếu phân thì còn một bỏ một, cái bệnh càng nặng. Nếu chẳng phân thì Chân Như, Phật Tánh mơ hồ, rốt cuộc làm sao nói rõ cái lý lẽ “trừ bệnh chẳng trừ pháp”.

Có người vừa nghe những lời kể trên liền nói: “Tức pháp là bệnh, tức bệnh là pháp. Hễ có ngôn thuyết đều chẳng phải nghĩa thật. Nếu thuận theo Chân Như thì vọng tưởng, điên đảo, tham sân, tà kiến thảy đều là pháp. Nếu thuận theo điên đảo thì Chân Như, Phật Tánh, Bồ Đề, Niết Bàn thảy đều là bệnh”. Nếu có kiến giải như thế thì chẳng những không đủ tư cách mặc đồ tu, mà muốn làm nô lệ cho Tọa chủ cũng không thể được. Tại sao? Như Cổ Đức nói: “Nếu có một pháp hơn pháp Niết Bàn, ta nói cũng như mộng huyễn”. Nếu được ở trong mộng huyễn, như thực mà chứng, như thực mà giải, như thực mà tu, như thực mà hành, dùng cái pháp như thực đó khéo tự điều phục, rồi khởi tâm đại bi làm mọi phương tiện để điều phục tất cả chúng sanh, mà đối với chúng sanh chẳng có cái tư tưởng điều phục hay không điều phục, cũng chẳng nghĩ rằng đó là vọng tưởng, điên đảo, tham sân, tà kiến; chẳng nghĩ rằng đó là Chân Như, Phật Tánh, Bồ Đề, Niết Bàn, chẳng nghĩ rằng đó là “trừ bệnh chẳng trừ pháp”, chẳng nghĩ là “còn một bỏ một”, “phân hay chẳng phân”. Nếu chẳng có những suy nghĩ như thế thì được nhứt đạo trong sạch, bình đẳng, giải thoát.

(8)

THƯ ĐÁP TĂNG THIÊN DU

PHỤ THƯ HỎI: 

Lúc tôi ở Trường Sa được thư của Lão sư Viên Ngộ nói: "Ông lúc tuổi già tham thiền sở đắc rất là kỳ vĩ". Tôi nhiều lần nghĩ đến điều đó, nay đã tám năm rồi, thường hận chưa được đích thân nghe lời dạy bảo. Thật xiết bao ngưỡng mộ! 

Tôi từ ấu niên đã phát tâm tham lễ các bậc tri thức, cúi đầu đảnh lễ hỏi đến việc này. Từ tuổi trưởng thành về sau, bị việc hôn nhân và quan chức sai khiến nên việc dụng công chẳng được thuần nhất. Từ đó đến ngày nay, tuỗi đã già rồi, đối với điều chưa được học hỏi thường tự hổ thẹn thở than, lập chí phát nguyện nếu chẳng ngộ thì thôi, bằng ngộ thì phải thân chứng đến chỗ đại thôi nghỉ của người xưa mới thôi. Tâm này tuy chưa từng có một niệm lui sụt, nhưng tự biết công phu chưa được thuần nhất, có thể nói là chí nguyện lớn mà lực lượng nhỏ vậy. 

Trước đây tôi có thống thiết thỉnh cầu Lão Sư Viên Ngộ khai thị, Lão Sư đã dạy cho tôi sáu đoạn pháp ngữ. Đoạn đầu tiên chỉ thẳng việc này, sau nêu ra hai công án "Núi Tu Di" (l) và "Buông xuống đi" (2) của Vân Môn và Triệu Châu. Ngài bảo suốt ngày âm thầm thường giữ nghi tình, lâu ngày ắt được ngộ nhập. Tâm Ngài từ bi thiết tha đến thế, ngặt vì tôi quá ngu dại. 

Nay may mắn các việc trần duyên của tư gia đều xong cả, rảnh rang không bận việc gì, cũng chính là lúc tôi thống thiết tự cố gắng để thỏa mãn đền đáp lại cái chí nguyện ban đầu. Nhưng còn hận chưa được gần gũi để nghe lời Ngài dạy bảo. 

Một đời bê bối đã cặn kẽ trình bày, chắc Ngài có thể soi thấu được tâm này, ngưỡng mong nhận được lời răn nhắc. 

Hàng ngày tôi phải dụng công như thế nào, ngõ hầu chẳng lạc vào lối khác, ngay thẳng khế ngộ tự tánh? 

Nói ra như thế cảm thấy rất hổ thẹn, nhưng tỏ lòng thành thật chẳng dám giấu giếm. Xin Ngài lượng tình thương xót cho. 

Kính bái. 

GHI CHÚ 
(l): Có vị tăng hỏi Vân Môn: "Chẳng khởi một niệm có lỗi hay không?" Sư đáp "Lỗi bằng núi Tu Di". 
(2): Có vị tăng hỏi Triệu Châu: "Lúc một vật chẳng đem đến thì thế nào?" Sư đáp: "Buông xuống đi". 

THƯ ĐÁP

I

Theo thư ông đã trình bày, từ ấu niên cho đến lúc làm quan, ông đã từng tham lễ các bậc đại Tông sư, thời tráng niên ông bị khoa cử, hôn nhân, quan chức chi phối, lại bị các sự hiểu biết và thói quen xấu xa thắng thế nên công phu chưa thể thuần nhất được, và ông cho đó là một cái tội lớn. Ông lại hay thiết tha nghĩ đến thế gian vô thường, các pháp hư huyễn, không có chút gì gọi là vui mà chuyên tâm muốn tham cứu một đoạn đại sự nhân duyên này. 

Như thế các điều đó rất hợp lòng tôi. 

Song đã là kẻ sĩ, sống nhờ lộc Vua thì khoa cử, hôn nhân, quan tước là những điều ở thế gian không ai tránh khỏi, cũng không phải là cái tội của ông. Vì một chút tội nhỏ mà sanh lòng lo sợ lớn, nếu chẳng phải do nhiều kiếp từ vô thủy đến nay đã từng thân cận bậc Thiện Tri Thức chân chánh, huân tập sâu xa chủng trí Bát Nhã thì đâu được như thế. Nhưng điều mà ông cho là cái tội lớn đó, hiền thánh cũng chẳng tránh được. Song, đã biết đó là pháp hư huyễn, chẳng phải cứu cánh, mà hồi tâm vào trong cửa này, dùng nước trí Bát Nhã (nghi tình) rửa sạch cấu nhiễm, ngay dưới chân cắt đứt tất cả tâm phan duyên không cho tương tục nữa là đủ rồi, không cần nhớ trước nghĩ sau vậy. Đã nói hư huyễn thì lúc làm cũng huyễn, lúc thọ cũng huyễn, lúc mê cũng huyễn, lúc giác cũng huyễn, quá khứ hiện tại vị lai thảy đều là huyễn. Hôm nay biết lỗi thì dùng thuốc huyễn để trị cái bệnh huyễn. Nếu bệnh lành ắt thuốc cũng bỏ, người thì vẫn y như củ, chỉ là người xưa kia thôi (l). Nếu đặt ra có người thật, có pháp thật, ấy là kiến giải của tà ma ngoại đạo vậy. Mong ông hãy suy xét kỹ! 

GHI CHÚ: (l) Bệnh là mê, hết bệnh là ngộ, ngộ rồi mà chẳng trụ nơi ngộ nên nói đồng như chưa ngộ, nghĩa là vẫn như người thuở xưa vậy. 

Chỉ cần tham mãi như thế thì luôn luôn ở trong thắng tịnh. Nhất là không được quên hai công án : "Núi Tu Di" và "Buông xuống đi". Chỉ cần trong tâm chân thật tham cứu đi! Việc đã qua không cần lo sợ, cũng không cần suy nghĩ, vì suy nghĩ, lo sợ đều là chướng đạo. 

Chỉ cần phát đại thệ nguyện được gặp bậc Thiện Trí Thức, ngay dưới một lời liền dứt sanh tử, chứng ngộ vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, nối huệ mạng Phật hầu đền đáp thâm ân to tát của chư Phật. 

Nếu như thế thì lâu ngày không có lý gì mà không ngộ. Phải biết Thiện Tài Đồng Tử lúc ở trước Ngài Văn Thù phát tâm trải qua một trăm mười thành, tham vấn năm mươi ba vị Thiện Tri Thức, sau cùng đến chỗ Đức Di Lặc, trong khoảng búng ngón tay tức thì quên hết các pháp môn đã đắc từ các bậc Thiện Tri Thức trước (nghĩa là ngộ). Lại y theo lời Đức Di Lặc dạy, nghĩ muốn thân cận Ngài Văn Thù. Ngay lúc ấy Ngài Văn Thù từ xa duỗi cánh tay mặt qua một trăm mười do tuần đến xoa đầu Thiện Tài và bảo: “Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử! Nếu lìa Tín căn thì tâm yếu kém, lo âu, ăn năn, công hạnh chẳng được đầy đủ, lui sụt sự cần mẫn tinh chuyên. Đối với một thiện căn tâm sanh trụ trước, được ít ở một ít công đức bèn cho là đủ là chẳng khéo phát khởi hạnh nguyện, chẳng được thiện tri thức nhiếp hộ, cho đến chẳng thể biết rõ pháp tánh như vậy, chỉ thú như vậy, pháp môn như vậy, sở hành như vậy, cảnh giới như vậy. Đối với những năng lực như cái biết cùng khắp, cái biết đủ thứ, cái biết triệt để, thấu triệt thâm sâu, diễn giải, phân biệt, ngộ giải, chứng đắc, thảy đều chẳng được”. 

Ngài Văn Thù dạy Thiện Tài như thế, Thiện Tài ngay dưới lời nói này liền thành tựu vô lượng pháp môn, đầy đủ vô lượng quang minh đại trí, vào cửa Phổ Hiền. Ở trong một niệm thấy hết các vị thiện tri thức số nhiều như vi trần trong tam thiên đại thiên thế giới và được thân cận, cung kính, cúng dường, thọ giáo, được trí "niệm chẳng quên", trang nghiêm giải thoát. Nơi một lỗ chân lông của Ngài Phổ Hiền, siêu việt số thế giới cõi Phật nhiều như vi trần, bất khả thuyết, bất khả thuyết, đồng như Phổ Hiền, đồng như chư Phật, cõi đồng, hạnh đồng và giải thoát tự tại cả thảy đều đồng, không hai không khác. Lúc ấy, mới có thể chuyển ba độc tham, sân, si thành ba tụ tịnh giới (l), chuyển sáu thức thành sáu trần thông, chuyển phiền não thành Bồ Đề, chuyển vô minh thành đại trí. Những điều kể trên chỉ ở tại một niệm chân thật cuối cùng của đương nhân mà thôi. 

GHI CHÚ:
(l) - Ba tu tịnh giới: 
l- Nhiếp Luật nghi giới. 
2- Nhiếp Thiện pháp giới. 
3- Nhiều ích hữu tình giới.

Như thế, Thiện Tài ở chỗ Đức Di Lặc trong khoảnh khắc búng ngón tay còn có thể bỗng quên tam muội sở chứng từ của các thiện tri thức, huống là những ác nghiệp, tập khí hư ngụy từ vô thủy ư! Nếu cứ cho các tội đã làm khi trước là thật thì cảnh giới trước mắt hiện nay cũng phải thật có, cho đến quan chức, phú quí, ân ái thảy đều là thật. Đã là thật thì địa ngục, thiên đàng cũng là thật, phiền não vô minh cũng là thật, người tạo nghiệp cũng thật, người chịu quả báo cũng thật, pháp môn đã chứng cũng thật. Nếu kiến giải như thế thì tận đời vị lai cũng không có người vào Phật thừa và các phương tiện của chư Phật chư Tổ trái lại trở thành vọng ngữ cả. 

Theo lời ông nói, lúc gởi thơ nsày ông đã đốt hương lễ bái trước Phật, Tổ và từ xa hướng về am này cúi lạy rồi mới gửi. Ông thành tâm chí thiết đến thế, chúng ta tuy cách nhau không xa nhưng chưa có dịp giáp mặt đàm luận mà hôm nay ý tự nhiên nghĩ, tay tự nhiên viết, bất giác dông dài như thế này, đó chẳng qua là cũng xuất phát từ lòng chí thành, chẳng dám có một lời một chữ dối gạt nhau. Nếu như tôi dối ông là cũng tự dối vậy. 

Tôi còn nhớ Thiện Tài tham kiến Bà La Môn tối tịch tịnh được "thành ngữ giải thoát". Chư Phật, Bồ Tát quá khứ, hiện tại, vị lai đối với vô lượng Bồ Đề đã không lui sụt, hiện không lui sụt, sẽ không lui sụt, phàm hễ cầu điều gì cũng được thành tựu viên mãn là đều do chí thành mà được. Ông đã cùng với ghế trúc, bồ đoàn làm bạn, chẳng khác nào Thiện Tài gặp Bà La Môn Tối Tịch Tịnh. Lúc gởi thư đến Vân Môn (l) này, ông còn đối trước Phật, Tổ và từ xa lễ lạy rồi mới gửi, và tha thiết muốn nhận được thư của tôi, đó là sự chí thành tột bực vậy. Hễ tin nhau thì hãy thực hành công phu như thế, tương lai nhất định sẽ thành tựu viên mãn Vô Thượng Bồ Đề không sai vậy. 

GHI CHÚ
(l) Lời Ngài Đại Huệ tự xưng, vì Ngài trụ trì tại Chùa Vân Môn. 

II

Ông xuất thân dòng phú quí mà chẳng bị phú quí trói buộc, nếu chẳng phải đời trước gieo trồng chủng trí Bát Nhã thì đâu thể được như vậy. Chỉ e ông quên ý này, bị thông minh lanh lợi chướng ngại, dùng cái tâm có sở đắc để cầu pháp vô sở đắc, nên chẳng thể ở nơi nguồn gốc cho một dao cắt đứt ngay đó thôi nghỉ như cổ nhân vậy. Bệnh nầy chẳng riêng sĩ phu trí thức mà tăng sĩ tham học lâu năm cũng mắc phải. Họ phần nhiều không chịu ở nơi ít phí sức làm công phu, chỉ dùng ý thức thông minh so đo suy nghĩ để hướng ngoại tìm cầu, chợt nghe thiện tri thức trước mặt khai thị về việc bổn phận vượt ra ngoài phạm vi ý thức thông minh so đo suy nghĩ thì lại bỏ qua. Lại tưởng Cổ Đức có pháp thật cho người. 

Ngài Nham Đầu (828-887) nói: "Buông vật là cao, chạy theo vật là thấp". Phải biết cương yếu của Thiền Tông cần nên biết cú (ngữ). Thế nào là cú? Khi chẳng nghĩ điều gì là chánh cú, cũng gọi là lịch lịch (rõ ràng), cũng gọi là tỉnh tỉnh, cũng gọi là thế ấy. Đem cái "thế ấy" đó để phá tan tất cả thị phi nhưng mới nói thế ấy thì chẳng phải thế ấy rồi, cho nên gặp cú quét cú gặp phi cú quét phi cú, giống như một đống lửa hồng, đụng gì cũng cháy, đâu thể có chỗ dựa. 

Sĩ phu trí thức thời nay phần nhiều đem suy nghĩ so đo làm nơi nương náu, mới nghe lời nói "thế ấy" bèn cho là lọt vào "ngoan không". Khác chi chỉ vì nghi sợ ghe chìm mà đã vội nhẩy xuống nước trước để bị chết đuối. Thật rất đáng thương xót! 

Gần đây, tôi có đến Giang Tây gặp Lữ Cư Nhân, Cư Nhân từ lâu, đã lưu tâm đến Tổ Sư Thiền này và cũng mang cùng một bệnh ấy. Ông ta đâu chẳng phải là người không thông minh ư! 

Tông Cảo tôi có hỏi ông: Ông sợ tôi rơi vào không, vậy ông có biết được người sợ đó là không hay là chẳng không? Thử nói xem! 

Ông ta ngẩm nghĩ muốn tìm câu trả lời, lúc ấy tôi liền hét cho một tiếng, cho đến ngày hôm nay ông ta vẫn còn mờ mịt, dò xét mặt mũi chẳng được. Đó là vì trước kia đã ôm cái tâm cầu ngộ, tự làm chướng nạn, chứ chẳng do việc gì khác. Nay Ông hãy thực hành Công phu tham Thiền như thế, lâu ngày chầy tháng tự nhiên sẽ được đến nơi. 

Nếu muốn đem tâm chờ ngộ, đem tâm chờ thôi nghỉ thì dù tham mãi đến Di Lặc hạ sanh cũng chẳng thể ngộ, cũng chẳng thể thôi nghĩ, trái lại càng thêm mê muội mà thôi. 

Hòa Bĩnh Điền nói: 

Thần quang bất muội
Vạn Cổ huy du
Nhập thử môn lai
Mạc tồn tri giải

Dịch nghĩa: 

Thần quang chẳng phải sáng tối
Luôn luôn chiếu soi vạn cổ
Những ai muốn nhập cửa này
Cần phải quét sạch tri giải

Cổ Đức nói: "Việc này chẳng thể dùng hữu tâm cầu, chẳng thể dùng vô tâm đắc, chẳng thể dùng ngữ ngôn tạo, chẳng thể dùng im lặng thông". Trên đây là những lời tha thiết bậc nhất để dạy bảo hậu học mà thường thường người tham thiền chỉ đọc qua rồi thôi, không chịu xét nét kỹ lưỡng xem đó là đạo lý gì. Nếu là người có chí khí, vừa nghe nói đến liền ngay đó đem bảo kiếm Kim Cương Vương chém một nhát đứt bốn sợi xiềng xích này (bốn sợi xiềng xích là hữu tâm, vô tâm, nói, nín) như vậy thì đường sanh tử đứt, đường phàm thánh cũng đứt, so đo suy nghĩ cũng đứt, đắc thất thị phi cũng đứt, dưới gót chân người ấy sạch trơn không còn gì để nắm. Há chẳng khoái thay! Há chẳng sướng thay!

Xưa kia Hoà Thượng Quán Khê .....(trang 100 đến trang 111)

***

c

Nguồn: www.quangduc.com

Về danh mục

ăn để sống chuoi ngoc tran bao phap thi phật giáo nhật bản thua Quan vet bố kiên Lúc chÙa hòn dÑi Con người có công đưa phật giáo vào học Mời đón đọc Nguyệt san Giác Ngộ số Lưu ý về giấc ngủ đối với người Lễ tưởng niệm Trưởng lão Giác Chánh Thực hành chánh niệm để có v Hệ phái Khất sĩ tưởng niệm cố oàn Hải Dương Tưởng niệm Tổ sư Thông sử that bo kinh phat co nhat tai chua bo da duoc xep hang Bánh xèo nấm mối thật hấp dẫn Độc đáo món bánh Tết thất truyền can phai tu trong mua ban kinh doanh Yoga ngo Cổ sắc Thiền có thể thay thế thuốc giảm đau Phật Đi chùa ăn chay cửa co ngua sự giáo dưỡng tốt nhất không thể Hòa Thượng Võ Ngộ Thông tự thán Có thật là có những loại súp trị cuoi va hanh phuc trong con loc khung hoang nguoi thay dau tien sang nay troi ung nang chương x sáu lá thư và cái chết của Thể Tùy