Lời Dịch Giả
Tiểu Sử 
Phổ Thuyết
Khám Xét
Cơ Duyên
Thư Ðáp Về Pháp Yếu 1
Thư Ðáp Về Pháp Yếu 2
Thư Ðáp Về Pháp Yếu 3
Thư Ðáp Về Pháp Yếu 4
Thư Ðáp Về Pháp Yếu 5
Giải Ðáp Vấn Ðề Thiền Mặc Chiếu
w
.
Tông Cảo Thiền Sư
ĐẠI HUỆ NGỮ LỤC
Tỳ Kheo Thích Duy Lực dịch từ Hán sang Việt và lược gỉai
Từ Ân Thiền Đường xuất bản 1992
THƯ ĐÁP TRẦN QUÝ NHẬM
II

Ông nói: "Sau khi được thư của Sơn Tăng, mỗi khi gặp náo động chẳng có chỗ trốn tránh, thường tự kiểm điểm mà chưa thấy công phu đắc lực". Ông đâu biết ngay cái chỗ trốn tránh chẳng được đó đã là công phu rồi, nếu còn muốn kiểm điểm nữa lại càng xa xôi. 

Thuở xưa, ngài Lão Hoa Nghiêm nói: "Phật pháp ở chỗ đi đứng nằm ngồi, chỗ uống trà ăn cơm, chỗ nói năng thăm hỏi, chỗ làm việc hàng ngày. Hễ khởi tâm động niệm lại chẳng đúng vậy". Chính đương lúc ông trốn tránh chẳng được đó, rất kỵ khởi tâm động niệm để kiểm điểm. 

Tổ sư nói: 

Phân biệt nếu chẳng sanh,
Hư minh tự chiếu soi.

Bàng Cư sĩ nói: 

Hàng ngày việc không khác,
Duy ta tự hài hòa.
Mỗi mỗi chẳng lấy bỏ,
Nơi nơi đừng chống trái.
Gánh nước và bổ củi,
Quan chức quý là ai?
Thần thông cùng diệu dụng,
Núi non bặt trần ai.

Bậc Thánh xưa nói: "Hễ có tâm phân biệt, so đo, thấy tự tâm có số lượng, thảy đều là mộng". Xin hãy khẩn thiết ghi nhớ lấy! 

Lúc trốn tránh chẳng được, không nên có tâm toan tính, lúc tâm chẳng toan tính thì hết thảy đều sẵn sàng, cũng chẳng cần mang đến lanh lợi hay ngu độn, việc lợi độn trọn chẳng dính dáng, cũng chẳng can hệ đến việc tịnh loạn. Chính đương lúc trốn tránh chẳng được, hốt nhiên đánh mất cái túi vải (ngộ), bất giác vỗ tay cười lớn. Nhớ lấy! Nhớ lấy! 

Việc này nếu dùng một mảy may công phu thủ chứng thì như người lấy tay nắm bắt hư không, chỉ tự nhọc mà thôi. Lúc lao động thì cứ lao động, muốn tĩnh tọa thì cứ tĩnh tọa, nhưng chẳng nên chấp tĩnh tọa làm cứu cánh. Ngày nay bọn tà sư phần nhiều lấy tĩnh tọa Mặc chiếu làm pháp cứu cánh gây hại người hậu học biết bao. Sơn Tăng chẳng sợ kết oán, tận sức bài xích Thiền Mặc Chiếu mong cứu vãn cái tệ đoan đời mạt pháp để báo ơn Phật. 

(25)

THƯ ĐÁP TRIỆU ĐẠO PHU.

Thư ông gửi đến mỗi mỗi tôi đều biết hết. 

Phật dạy: "Người phát tâm đều sẽ thành Phật". Tâm này chẳng phải là tâm trần lao vọng tưởng thế gian, mà là cái tâm Vô Thượng Bồ Đề. Nếu phát tâm này đều sẽ thành Phật. 

Nho sĩ học đạo phần đông tự tạo ra chướng ngại là do không có lòng tin quyết định. 

Phật nói: 

Tin là gốc đạo, mẹ công đức,
Nuôi dưỡng tất cả các pháp thiện.
Phá trừ lưới nghi thoát dòng ái,
Hiển bày vô thượng đạo Niết Bàn.

Còn bảo: 

Tin hay tăng trưởng trí công đức,
Tin hay đưa đến quả Như Lai.

Trong thư, ông tự cho độn căn chưa thể triệt ngộ, tạm gieo hạt giống Phật trong tâm điền, lời này tuy thiển cận song cũng đã gieo nhân sâu xa, ông chỉ cần tin chắc tự tâm ắt không bị ai gạt. 

Ngày nay, người học đạo thường thường ở chỗ nên hoãn lại gấp, chỗ nên gấp lại hoãn. 

Bàng uẩn nói: 

Ngay lúc rắn vào đáy quần vải
Còn hỏi Tông Sư thời tiết gì?

Việc hôm qua, hôm nay còn có chỗ không nhớ, huống là việc đã qua kiếp khác, đâu thể không quên mất ư? Nếu quyết muốn kiếp này được thấu triệt đến chỗ chẳng nghi Phật, chẳng nghi Tổ, chẳng nghi sanh, chẳng nghi tử, thì phải đủ lòng tin tự tâm, đầy đủ chí quyết định, niệm niệm như cứu lửa cháy đầu. Thực hành công phu như thế nếu vẫn còn chưa thấu triệt thì lúc ấy mới có thể nói là độn căn. Bằng chưa gì hết mà tự nói: Tôi độn căn chẳng thể trong đời này triệt ngộ mà chỉ có thể gieo giống Phật để kết duyên thôi". Đó là người không đi mà muốn đến. Thật hết sức vô lý! 

Tôi thường nói với những người tin đạo này rằng: "Dần dần cảm thấy trong cuộc sống hàng ngày chỗ ít phí sức chính là chỗ học Phật đắc lực vậy". Chỗ đắc lực của mình, người khác chẳng biết được, muốn đem ra trình cho người xem cũng chẳng được. Lục Tổ nói với Đạo Minh rằng: "Nếu ông phản chiếu cái bản lai diện mục của chính mình thì mật ý đều ở bên ông vậy". Mật ý đó là chỗ đắc lực hàng ngày. Chỗ đắc lực tức là chỗ ít phí sức vậy. 

Việc trần lao thế gian buông cái này bắt cái kia vô cùng vô tận, trong bốn oai nghi chưa từng lìa bỏ, vì từ vô thủy đến nay đã kết duyên với nó rất sâu dầy, còn trí huệ Bát Nhã từ vô thủy đến nay cùng nó kết duyên thiển cận, nên khi chợt nghe bậc tri thức nói thì hình như cảm thấy khó hội. Nếu từ vô thủy đến nay duyên trần lao cạn, duyên Bát Nhã sâu thì đâu có gì khó hội. Chỉ cần chỗ sâu trước kia nay khiến cho cạn, chỗ trước kia cạn nay khiến cho sâu, chỗ lạ khiến cho quen, chỗ quen khiến cho lạ, vừa biết nổi niệm suy nghĩ việc trần lao cũng chẳng cần ra sức bài trừ, chỉ cần ngay chỗ suy nghĩ đó, nhè nhẹ đề lên câu thoại đầu thì không phí nhiều sức lại đắc lực vô cùng. Xin ông hãy tham cứu như thế, đừng đem tâm chờ ngộ, để cho nó bỗng nhiên tự ngộ đi. 

Lý Hán Lão với ông mỗi ngày gặp nhau, ngoài việc đánh cờ, có còn nói đến việc này chăng? Nếu chỉ đánh cờ mà chưa từng nói đến việc này thì nên ngay chỗ thắng bại chưa phân hãy hất tung bàn cờ, lại hỏi ông ta đòi cho được một việc kia (thoại đầu). Nếu đòi chẳng được mới quả thực là kẻ độn căn. Thôi tạm bỏ qua việc này. 

(26)

THƯ GỬI TRƯƠNG ÍCH CHI.

Chúng sanh hằng ngày hiện hành vô minh, nên hễ thuận với vô minh thì sanh hoan hỷ, còn nghịch với vô minh thì đâm ra phiền não. Phật, Bồ Tát chẳng phải thế, các Ngài lại dựa vào vô minh làm Phật sự. Vì chúng sanh lấy vô minh làm nhà cửa, nghịch với vô minh là phá nhà cửa của chúng sanh, nên Phật, Bồ Tát thuận với vô minh là để theo chỗ chấp trước của chúng sanh mà dẫn dụ họ. 

Ngài Vĩnh Gia nói: 

Vô minh thật tánh tức Phật tánh,
Huyễn hóa không thân tức pháp thân.

(Dịch nghĩa: Thật tánh của vô minh tức là Phật tánh, Sắc thân huyễn hóa này tức là pháp thân). Là cái đạo lý này vậy. 

(27)

THƯ GỬI TRIỆU SƯ TRỌNG.

Cái đạo lý này hướng lên trên sự việc tìm thì nhanh, còn nếu hướng xuống ý căn suy nghĩ tính toán thì càng cách xa vậy. Do đó, ông già Thích Ca trên hội Pháp Hoa chỉ độ được đứ bé gái tám tuổi, trên hội Niết Bàn chỉ độ được một gã đồ tể, trên hội Hoa Nghiêm chỉ độ được một đồng tử. 

Xem cách thức thành Phật của ba người đó, họ có từng hướng ra ngoài để cầu chứng đắc, cực khổ siêng năng tu hành gì đâu? Phật cũng chỉ nói: "Nay ta vì ông bảo nhậm việc này", chẳng hề hư dối vậy. Chỉ nói "vì người bảo nhậm" mà thôi, chứ chẳng nói có pháp có thể truyền để cho ông hướng ra ngoài tìm cầu rồi sau đó mới thành Phật. 

May mắn có được thể cách như thế, tại sao không tin? Ví như lập tức tin nổi, chẳng hướng ra ngoài tìm cầu, cũng chẳng chấp có chứng đắc ở trong tâm, thì bất cứ chỗ nào lúc nào cũng được giải thoát. Sao vậy? Vì đã không hướng ra ngoài tìm cầu thì trong tâm lặng lẽ yên tịnh, vì đã chẳng chấp có chứng đắc trong tâm thì ngoại cảnh u nhàn. 

(28)

THƯ GỬI LÝ BÁ HÒA.

Sợ hãi sanh tử mà gốc nghi nhổ chẳng hết thì trăm kiếp ngàn đời trôi theo nghiệp mà thọ báo, trồi lên hụp xuống chẳng có lúc dừng. Tốt nhất là mạnh dạn một phen nhổ sạch gốc nghi, bèn có thể chẳng rời tâm chúng sanh mà thấy tâm Phật. Nếu có nguyện lực từ đời trước, gặp bậc Thiện tri thức chân chánh dùng phương tiện khéo léo dẫn dắt thì có gì mà khó! 

Thấy chăng? Cổ Đức có nói: "Sông hồ chẳng có tâm làm chướng ngại người, Phật Tổ chẳng có ý gạt gẫm người. Chỉ tại đương nhân qua chẳng được, chớ chẳng nên nói sông hồ làm chướng ngại người. Ngôn giáo của Phật Tổ tuy chẳng gạt gẫm, song chỉ vì người học đạo nhận lầm phương tiện, ở trong một ngôn, một cú, cầu diệu cầu huyền, cầu đắc cầu thất, do đó mà thấu triệt chẳng được, chớ chẳng nên nói Phật Tổ gạt gẫm người. Như người mù chẳng thấy ánh sáng mặt trời mặt trăng là lỗi của người mù chớ chẳng phải lỗi của mặt trời mặt trăng". 

Đây là học cái đạo lìa tướng văn tự, lìa tướng phân biệt, lìa tướng ngôn ngữ này vậy. 

***
 

LÝ LỊCH CỦA SƯ

Sư ba mươi bảy tuổi ngộ đạo. Ở chùa mười mấy năm. Khi trụ trì Kính Sơn thiền hội rất hưng thịnh, hạng nhất trong thời ấy. Kế đó, vì nghịch với người cầm quyền đương thời, bị đày đến Hàng Dương mười năm rồi sau bị đày tiếp đến Mây Dương năm năm (chỗ sơn lam chướng khí không thích hợp cho người ở), nhưng tăng tục vẫn tấp nập tìm đến hỏi đạo. Sau này được ân xá, Sư về trụ trì Dục Vương hai năm, trụ trì Kính Sơn thêm bốn năm, rồi từ chức về hưu ở Minh Nguyệt Đường ba năm. 

Ngày mười hai tháng bảy năm Quý Mùi, nhằm năm thứ nhất niên hiệu Long Hưng, Sư thị hiện có bệnh. Đến mồng chín tháng tám Sư từ giã tứ chúng rằng: "Ngày nai ta sẽ đi". Đến canh năm, đích thân biên thơ tấu cho vua và cho cư sĩ Tía Nham. Thị giả Liễu Hiền xin ban cho bài kệ. Sư lớn tiếng hét: 

Không có kệ thì chết không được sao? Rồi cầm bút viết: 

Sanh cũng như thế!
Chết cũng như thế!
Có kệ không kệ,
Có gì quan hệ.

Xong liệng bút tịch ngay. Sư thọ bảy mươi lăm tuổi, tọa năm mươi tám hạ. Toàn thân thờ trong tháp bên cạnh Minh Nguyệt Đường. Ngữ Lục của Sư gồm một trăm tám mươi quyển, theo Đại Tạng Kinh lưu hành khắp nơi.

Kính cảm ơn Thầy Đồng Thường và Vân Phong 
đã hiệu chỉnh quyển sách này. (Tâm Diệu) 01-01-2007

c

Nguồn: www.quangduc.com

Về danh mục

chuyện vÃ Æ Ùc dieu den bao gio tre em moi het phai chiu dung ước giáo Tháng Giêng là tháng ăn chay dấu Thêm một siêu thị Phật giáo tại Tự Giai thoại văn sử cổ Việt Nam Phật Ăn chay tac gia dalai lama doc dao ngoi chua trieu tiger s nest monastery Mà Škhông Quả nho có nhiều công dụng tốt cho phía háºnh hay de kho dau cua ban duoc tam mat tội Mưa Bắp xào gấc ï¾ ï½ 20 phà Š西南卦 buong xa di Thuốc giảm cân không giảm cân còn gây PhÃÆp Thực hiện bộ phim tư liệu về cuộc 22 tượng yêu thap sang niem chanh tin o cÃÆ Tứ Nhà 泰卦 Trái cây Biết cách ăn mới bổ Gặp gỡ Giáo sư người Mỹ gốc niem uu tu lon cho nam tan mao âu ngoại tình là kẻ sát nhân phá hủy hôn 1 cau chuyen ga de trung vang hay cau chuyen ve cong bat Stress lây qua đường email tim pham hanh cua mot vi chan tu tức happy book hạnh phúc mỗi ngày ï¾ 真言宗金毘羅権現法要 Tản mạn bánh ngọt ngày xuân Trà vầng Cuộc đời đó có bao lâu mà hững hờ Vi khuẩn vùng miệng tiết lộ nguy cơ ung thé xanh hon niem hy vong moi nguoi deu se bi 2 nhan to nay chi phoi ca cuoc dieu can tu duong suot doi la bao dung voi su nội Ä