x
 
 
 
 
 
MỤC LỤC
Lời nói đầu
Tiểu sử của Hòa thượng Thích Duy Lực
[01] Thiền thất 26/10/92–01/11/92 tại Chùa Từ Ân, Quận 11
[02] 29/11/92–05/12/92 tại Chùa Từ Ân, Quận 1
[03] 28/03/93–03/04/93 tại Chùa Từ Ân, Quận 11
[04] 27/04/93–03/05/93 tại Chùa Từ Ân, Quận 11
[05] 20/10/93–26/10/93 tại Chùa Từ Ân, Quận 11
[06] 19/11/93–25/11/93 tại Chùa Từ Ân, Quận 11
[07] Khai thị tại Thủ Đức
[08] 18/12/93–24/12/93 tại Chùa Từ Ân, Quận 11
[09] 14/07/94–20/07/94 tại Chùa Từ Ân , Quận 11
[10] 12/08/94–18/08/94 tại Chùa Từ Ân, Quận 11
[11] 11/09/94–17/09/94 tại Chùa Từ Ân , Quận 11
[12] 10/10/94-16/10/94 tại Chùa Từ Ân, Quận 11
[13] 06/01/95–12/01/95 tại Chùa Từ Ân, Quận 11
[14] 15/02/95–21/02/95 tại Chùa Từ Ân, Quận 11
[15] 06/03/95–12/03/95 tại Chùa Từ Ân, Quận 11
[16] 05/04/95–11/04/95 tại Chùa Từ Ân, Quận 11
[17] 15/05/95–21/05/95 tại Chùa Từ Ân, Quận 11
[18] 03/06/95–09/06/95 tại Chùa Từ Ân, Quận 11
[19] 27/01/96–02/02/96 tại Trường Cơ Bản Phật Học Đại Tòng Lâm
[20] 24/05/96–30/05/96 tại Trường Cơ Bản Phật Học Đại Tòng Lâm
[21] 25/05/97–28/05/97 tại Chùa Pháp Thành, Quận 6
[22] 16/05/97–20/05/97 tại Chùa Tam Bảo, Sa Đéc
[23] 14/06/97–20/06/97 tại Chùa Tam Bảo, Sa Đéc 
[24] 14/07/97–20/07/97 tại Chùa Tam Bảo, Sa Đéc
[25] 14/08/97–20/08/97 tại Chùa Tam Bảo, Sa Đéc
[26] 19/03/99–25/03/99 tại Chùa Hưng Phước, Quận 3
[27] 15/05/99–21/05/99 tại Chùa Hưng Phước, Quận 3
[28] 1995–1999 Khai thị tại Mỹ Quốc 
QUYỂN THƯỢNG
cn
Hòa Thượng Thích Duy Lực
DUY LỰC NGỮ LỤC
QUYỂN HẠ (TỪ NĂM 1992-1999)
Ban Văn Hóa Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ chí Minh Thực Hiện 
Nhà Xuất Bản Tôn Giáo Hà Nội P.L.2546 - D.L. 2002
[17] 15/05/95–21/05/95 tại Chùa Từ Ân, Quận 11

Thế nào chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác? 
Cảnh giới thập thiện 
Xin xuất gia chuyên tu 
Niệm Phật tam muội 
Quên là điều tốt? 
Thế nào chơn tâm và vọng tâm? 
Nhân chi sơ, tánh bổn thiện 
Văn tự, suy nghĩ, lời nói, ba là một 
Thực tế chẳng thể thí dụ 
Khi có người thân lâm chung, bên Tổ sư thiền phải làm saỏ 
Y báo, chánh báo 
Đến chơn tham như thế nàỏ 
Nhịn ăn chẳng phải Phật pháp 
Tâm linh là chủ sinh mạng 
Thế nào trái ngược hiện nghiệp? 
Ngồi kiết già 
Sát sanh theo luật nhân quả 
Tu ở trong chúng khiến tâm lực mạnh 
Ngộ rồi đồng như chưa ngộ 
 

Hỏi:  Thế nào là chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ  ác?

Đáp: Pháp môn Tổ sư thiền cần giữ nghi tình, chỗ thoại đầu là không hiểu không biết, nếu giải thích là biết rồi, làm sao tu?  Câu “Chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác”là ở trong Kinh Pháp Bảo Đàn. Ở nước Mỹ, có một cô Phật tử xem Kinh Pháp Bảo Đàn đến chỗ này, cô ấy đem “Chẳng nghỉ thiện, chẳng nghĩ ác, đang lúc đó thế nào là bản lai diện mục của Thượng tọa Minh” thay vào tên mình và hỏi mãi như vậy trong vòng một tháng, căn bệnh lâu năm của cô chữa trị cả Đông  Tây y đều không khỏi tự nhiên được hết. Lúc đó cô ấy chưa biết tôi, sau này mới tìm đến Thiền đường gặp tôi .

Hỏi: Trước đây con tu theo thập thiện, nay chuyển qua Tổ sư thiền cần tiếp tục tu thập thiện không?

Đáp: Cảnh giới cao nhất của thập thiện là được sanh cõi Trời, kế đó là sanh vào cõi Người và cõi A-tu-la, thuộc tam thiện đạo. Còn thập ác nặng nhất là Địa ngục, nhẹ hơn là Ngạ quỷ, rồi Súc sinh, thuộc tam ác đạo. Mặc dù được sanh thiện đạo, nhưng vẫn còn ở trong luân hồi, chẳng thể giải thoát. Muốn giải thoát phải tu một pháp môn nào, ngộ được bản tâm rồi, gọi là kiến tánh thành Phật mới giải thoát được.

Hỏi: Vậy tham Tổ sư thiền có thể đưa đến nhất tâm bất loạn không?

Đáp: Nhất tâm bất loạn không phải mục đích của tham thiền. Tham thiền là muốn kiến tánh thành Phật, đạt đến giải thoát, còn nhất tâm bất loạn chưa thể đạt đến giải thoát, chỉ là vọng tưởng không nổi lên thôi. Dẫu cho dẹp hết tất cả vọng tưởng, cũng chỉ là vô thỉ vô minh, còn nằm trong vô minh. 
 
Tịnh độ nói tu đến nhất tâm bất loạn là được vãng sanh, nhưng nếu tu không đúng tông chỉ của Tịnh độ thì dù nhất tâm bất loạn cũng không được vãng sanh, vì nhất tâm bất loạn chỉ là đè nén vọng tưởng thôi. Tham thiền chỉ cần giữ được nghi tình không biết thì những thứ kia tự động dẹp hết.

Hỏi: Kính bạch Sư phụ, vì công việc và đời sống khiến con bị gián đoạn công phu, nên sáng nay con đã từ giã vợ con, quyết lên núi để tu cho đến nơi đến chốn. Nhưng được thầy Quảng Trọng giới thiệu con về Chùa Tam Bảo, con đã thu dọn hành trang đi xuống đó tu và muốn xin xuất gia.

Đáp: Ông nói đã tin Phật tánh không giảm bớt, không gián đoạn, thì còn lo gì nữa, còn đi tìm gì nữa? Làm nghề đạp xích lô cứ làm, đạp xích lô cũng đầy đủ Phật tánh, đâu có gián đoạn !  Tại ông không tin, hoặc tin chưa đầy đủ mới đi chỗ khác tìm, tính toán xuất gia. Nếu có nhân duyên thì tự nhiên sẽ có dịp đi đến xuất gia, nếu không cứ làm nghề cũ, đạp xích lô cũng kiến tánh thành Phật vậy, đâu nhất thiết phải đi xuất gia hoặc đi lên núi !
 
Đã nói cuộc sống hằng ngày là sự tu, từ ăn cơm, mặc áo, nói năng tiếp khách v.v…cho đến đạp xích lô cũng là đang tu, nếu đã tin Phật tánh đầy đủ thì đâu cần lo gì nữa? Chỉ là phát hiện cái của mình sẵn có thôi, tu đến đâu phát hiện đến đó, bởi vì sẵn có mà !

Hỏi: Không biết con có nghiệp chướng gì, khi đề câu thoại đầu lên nó cứ từng mảng ép đầu và ngực con đau quá chịu không nỗi, mới tu có một chút còn hơn đạp xích lô mấy năm, suy nghĩ qua việc khác thì không sao, hễ tham vô là đầu con giựt lên, tham nhanh giựt nhanh, muốn dừng lại cũng không được.

Đáp: Tôi đã nói là đừng ra sức, tham thiền ít phí sức chừng nào tốt chừng nấy, chỉ cần công phu miên mật liên tiếp, khỏi cần tập trung tinh thần, khỏi cần cố gắng ra sức. Nếu chẳng ra sức thì không bị những thứ đó.

Hỏi:  Nếu tham như Sư phu nói thì chừng nào mới đến?

Đáp: Đã nói nghi tình là dùng cái không biết để tu, đã không biết thì đâu cần biết tới những gì xảy ra? Do ông còn có cái biết, nay cần giữ cái không biết là đủ. Muốn giữ được phải nhìn chỗ không biết, nhìn chỗ chưa có niệm nổi lên, tức năng biết sở biết đều không có.

Hỏi: Vậy khi con ngồi nó cứ lắc cái thân, muốn dừng lại cũng không được?

Đáp:  Lắc cứ cho nó lắc, đừng có dừng; cái lắc đó là do cơ thể tự vận động, có ích cho sức khỏe. Nếu trong cơ thể có bệnh, lắc riết nó hết bệnh luôn, chớ có kềm chề, kềm là có hại.

Hỏi: Trước kia con học theo pháp môn niệm Phật của Hòa thượng Trí Tịnh, con thấy căn cơ của con thích hợp tu theo pháp đó. Nhưng bây giờ biết được pháp môn tham Tổ sư thiền, vậy con có thể hành theo pháp này được không?

Đáp: Muốn theo pháp nào cũng được .

Hỏi: Hòa thượng Trí Tịnh nói “Pháp môn niệm Phật là pháp môn thiền Tam muội?”

Đáp: Tam muội là tiếng Ấn Độ, dịch là chánh định. Pháp Thiền nào đều có thể đạt đến chánh định, ngoại trừ những pháp thiền không phá ngã chấp là chẳng thể đạt được mà thội.
 
Tổ sư Thiền khác hơn tất cả pháp thiền khác; các pháp thiền khác chú trọng ngồi và quán tưởng, có năng quán sở quán. Chỉ có Tổ sư thiền không chú trọng ngồi và chẳng năng quán sở quán, chỉ là giữ nghi tình, dùng cái không biết để tu, rất đơn giản.

Hỏi: Con nghe các thầy nói:”Người nữ tu hành phải đợi khi chuyển thành thân nam mới có thể kiến tánh,” phải vậy không?

Đáp: Đó là lời nói của những vị tu theo Tiểu thừa, còn Đại thừa thì chẳng phải vậy. Trong lịch sử Thiền tông, người nữ kiến tánh rất nhiều, như tôi đã kể trong cuốn Đường lối thực hành tham Tổ Sư Thiền. Trong Kinh Pháp Hoa, Long nữ tám tuổi thành Phật; ngoài ra còn có một bé gái họ Trịnh, mười ba tuổi kiến tánh, người đời gọi là “Trịnh mười ba”. Một cô họ Tô, mười lăm tuổi kiến tánh, là cháu gái của Thừa tướng Tô Công Tụng. Cô này sau là Diệu Tổng Thiền sư, được Tỉnh trưởng mời về chùa làm chức Trụ trì.

Hỏi: Sư phụ nói “Quên là điều tốt,” nhưng nhiều lúc niệm Phật, con quên  phiền não, quên luôn cả những gì trong cuộc sống hàng ngày, quên đường về nhà … con rất sợ vì trước khi mẹ con qua đời, mẹ cũng quên đến nỗi không còn biết tên con cái …

Đáp: Tôi nói “Quên là tiến bộ”là đối với pháp môn Tổ sư thiền, vì pháp này dùng cái không biết để tu, hành giả Tổ sư thiền khi giữ được nghi tình rồi có quên là tiến bộ, còn mấy pháp khác đều không phải . Ví như niệm Phật là dùng cái biết để tu thì quên là có hại, chứ chẳng phải là tiến bộ.  Còn đối với người bệnh tâm thần thì cái quên ấy là bệnh !  

Hỏi: Làm thế nào để ra khỏi phân biệt?

Đáp: Giữ được nghi tình là không có phân biệt, vì phân biệt là biết, nghi tình thì không biết, đã không biết làm sao phân biệt !

Hỏi: Ví như có cái “không biết”cũng là có vậy?

Đáp: Chẳng biết “có”thì chẳng phải có, chẳng biết “không”thì chẳng phải không. Do ông dùng cái tâm chấp thật, nên nói đến đâu cũng đều là có hoặc không, hoặc chẳng có chẳng không, cũng có cũng không, đều là lọt vào tứ cú. Cái không biết này chỉ là công cụ đưa mình đến chỗ kiến tánh thành Phật, chứ chẳng phải là không biết mãi. Lại nữa, cái không biết này là không biết sống, khác với cái không biết của người ngủ mê, chết giấc, bệnh tâm thần… ấy là cái không biết chết.

Hỏi: Sư phụ thường nhắc đến câu “Nhất thiết duy tâm tạo,” xin hỏi tâm nào tạo?

Đáp: Ông có bao nhiêu tâm?

Hỏi: Con muốn biết là chơn tâm hay vọng tâm?

Đáp: Nói chơn tâm và vọng tâm là hai, tự tánh bất nhị, chẳng có hai. Nói “tâm tạo”cũng chỉ là phương tiện thôi,  như công án của Tổ Đạt Ma truyền pháp cho ngài Huệ Khả:
 
Huệ khả nói: Tâm của con bất an, xin thầy an tâm cho.
 
- Đem tâm đến Thầy an cho !
 
- Tìm tâm không được.
 
- Đã an tâm rồi đó !
 
Tâm còn tìm không được, làm sao có chơn và vọng? Huệ Khả liền ngộ được nên kiến tánh thành Phật, hễ chấp thì đâu thể kiến tánh ! Bệnh của chúng sanh chỉ là bệnh chấp, lời dạy của chư Phật chư Tổ cũng chỉ là lời phá chấp mà thôi,  là phương tiện tạm thời, chẳng phải có thật. Nay chúng ta cho nghiệp thức, phiền não, nghiệp chướng, tham sân si là vọng tâm, là trói buộc,  cho Bồ đề, Niết bàn là chơn tâm, mà chẳng biết Bồ đề, giải thoát, Niết bàn cũng là trói buộc, là xiềng xích bằng vàng. Những trói buộc bằng sợi dây còn dễ cắt đứt, cái làm bằng vàng mới khó cắt đứt, trói chặt mình không giải thoát được. Muốn tự do tự tại, phải cắt đứt tất cả xiềng xích, dù là bằng vàng cũng không thèm.

Hỏi: Vạn vật có phải hoa đốm trên hư không chăng?

Đáp: Tất cả chỉ là phương tiện để thí dụ, nói hoa đốm cũng vậy. Nếu chấp thật có hoa đốm, cũng như Kinh nói:”Hãy đợi hoa đốm kết thành quả,” việc đó vốn là chẳng có mà !

Hỏi: Nhân chi sơ, tánh bổn thiện, con người mới lọt lòng mẹ là không biết, vậy so với pháp tu của Hòa thượng dạy thì như thế nào?

Đáp: Nhân chi sơ, tánh bổn thiện là lời của nhà Nho,  Tổ sư Thiền là lời của nhà Phật. Nhà Nho có tư tưởng chấp thật, còn nhà Phật là phá chấp thật: Nhà Nho chấp có nhân chi sơ thật, nhà Phật thì nói vô thỉ, chẳng những con người không có bắt đầu, vũ trụ vạn vật đều không có sự bắt đầu. Lại nữa, nói là tánh bổn thiện, nếu vốn là thiện thì không thể biến thành ác, sao lại có thể biến thành ác? 
 
Thiện với ác là tương đối, Lục Tổ nói:”Chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác, đang lúc đó thế nào là bổn lai diện mục của Thượng tọa Minh?” Hễ nghiêng về bên thiện cũng bị dính mắc, nghiêng về bên ác cũng bị dính mắc, nhà Phật nói không thiện ác, không tương đối; mặc dù không tương đối, nhưng chẳng phải bảo người ta đừng làm thiện hoặc đi làm ác.
 
Thật ra, đứa bé mới sinh đã biết khóc, biết người ta thương, đòi người ta ẵm, nếu người lớn không ẵm là khóc, khi đói biết đòi ăn, mặc dù chưa biết nói, nhưng biết dùng tiếng khóc để bày tỏ, sao nói là không biết ! 

Hỏi: Cái tâm, cái thức, cái tưởng, nó giống nhau hay khác?

Đáp: Tưởng là tư tưởng, tức sự suy nghĩ. Suy nghĩ, cảm giác, tánh thấy, tánh nghe đều là cái dụng của tâm linh, nhưng bản thể của tâm linh chẳng hình thể số lượng, dùng sự thấy nghe chẳng thể tiếp xúc được. 
 
Tư tưởng, văn tự, lời nói, tên gọi dù có ba nhưng sự dụng chỉ là một: Lời nói là văn tự có tiếng, văn tự là lời nói có hình, tư tưởng là lời nói không hình không tiếng. Do tư tưởng nhận biết được, nói ra miệng thành lời nói, viết ra thành văn tự. Còn có những cái không thể dùng tư tưởng, lời nói, văn tự để nhận thức và diễn tả: Đó là thực thể của tâm linh. Nhưng sự dụng của nó rõ ràng trước mắt, sở dĩ chúng ta thấy nghe được đều nhờ vào sức dụng của tâm linh.

Hỏi: Có phải Đại trí Văn Thù Sư Lợi Bồ tát ám chỉ về trí tuệ, còn Đại hạnh Phổ Hiền Bồ tát chỉ về cái hạnh, cởi con trâu trắng tượng trưng cho sự trong sạch?

Đáp: Không phải. Những thứ ông vừa nói là cách nói của pháp sư bên Giáo môn, còn nói về cái thực tế thì chẳng có gì để thí dụ được. Thực thể của tâm linh muốn nhận biết còn không được, lấy gì để thí dụ? Gọi là thật tướng vô tướng, không có tướng mới gọi là thật tướng, Kinh Kim Cang nói:”Nếu thấy tất cả tướng đều phi tướng mới thấy Như Lai.” Như lai là thật tướng đó, nếu  dùng tư tưởng chấp thật để diễn tả đều không đúng.

Hỏi: Khi có người thân lâm chung, bên Tổ sư thiền phải làm sao?

Đáp: Chẳng làm sao cả. Nếu muốn chiều theo truyền thống đã quen thì tụng kinh cũng được, hễ tự mình làm chủ được thì không tụng kinh cũng được; hoặc mời các bạn đồng tham tụ nhau tham thiền cũng được, tức chẳng có sự cố định. 
 
Hồi thời Phật Thích Ca chưa có kinh, lấy gì để tụng? Sau khi Phật nhập diệt, do Tôn giả A Nan kết tập lại mới thành kinh. Lại nữa, mục đích tụng kinh cho người chết để làm gì? Nếu trong kinh có công năng siêu thoát cho người thì không có nhân quả; vì nếu người quá cổ đã tạo nghiệp ác, phải đầu thai tam ác đạo để trả quả, mời thầy tụng kinh liền có thể siêu thoát thì làm ác cũng chẳng sao, có phải vậy không? 
 
Kinh Phật chỉ để dạy người tu hành, giải thoát khổ vĩnh viễn, muốn làm chủ cho mình, được tự do tự tại phải giác ngộ. Nếu chúng ta không chịu thực  hành, cứ  không ăn  cơm thì  làm  sao được no !

Hỏi: Thế nào là y báo và chánh báo?

Đáp: Chánh báo, y báo là tùy theo nghiệp nhân của mình đáp lại quả báo. Hành động và tư tưởng của mình làm thiện thì tạo thiện nghiệp, làm ác tạo ác nghiệp, có nghiệp nhân ắt có nghiệp quả: Thân hiện nay của chúng ta là nghiệp quả của nghiệp nhân kiếp trước, gọi là báo thân. 
 
Trong kinh Phật nói đến tam thân: Pháp thân, hóa thân và báo thân. Báo thân này là chánh báo, tức do mình có cái nghiệp nhân,  thành quả báo được cái thân này, hoặc thân con trai, hoặc thân con gái, cho đến ngu si, trí huệ, giàu sang, nghèo khổ … 
 
Tất cả vạn vật trong vũ trụ để cho thân này thọ dụng gọi là y báo, như thức ăn, nước uống, quần áo, nhà ở… cung cấp cho cuộc sống hàng ngày của chúng ta, tức mọi sự đi đứng nằm ngồi để nuôi dưỡng cái chánh báo này gọi là y báo. 

Hỏi: Đến chơn tham như thế nào?

Đáp: Ngài Lai Quả nói “Vô tham mới chơn tham,” tham thiền mà không biết mình đang tham gọi là chơn tham, tức giữ được nghi tình kéo dài mãi không gián đoạn,  tự nhiên đạt đến chơn tham, hễ còn nổi lên cái biết, sự nghi và sự biết xen lộn hoài, sát na thay đổi, còn kẽ hở thì chưa phải chơn tham.. Thường thường chơn tham là đến thoại đầu, tức 24/24 giờ không gián đoạn, chẳng có cái biết nào nổi lên.

Hỏi: Chúng con nhập thất liên tục bảy ngày, mỗi ngày chỉ niệm Phật, không ăn, chỉ uống nước hai lít, vậy có tu đúng chánh pháp không?

Đáp: Nhịn ăn để làm gì? Nếu để trị bệnh thì không phải Phật pháp. Phật pháp cũng không dạy người nhịn ăn cho là tu. Cũng có người không hiểu, thực hành theo ngạ thất, tức nhịn ăn bảy ngày, ấy là theo tà pháp, chẳng phải Phật pháp, chẳng thể giải thoát được. Tổ sư thiền không phải vậy, Như Lai thiền cũng không phải vậy.

Hỏi: Con đã thọ giới Bồ tát tại gia, khi đi đám ma có thể lạy vong linh không?

Đáp: Thọ giới Bồ tát chưa phải đã thành Bồ tát, dù đã thành Bồ tát vẫn có thể lạy được. Chúng sanh bình đẳng chẳng cao thấp, chứ không phải mới thọ giới Bồ tát rồi cho mình cao hơn là không được.

Hỏi: Những phát minh khoa học là do trí hay do thức?

Đáp: Do thức. Phàm do bộ não nghiên cứu tìm hiểu đều là thức.

Hỏi: Tất cả việc ở ngoài đời là do trí của bộ não tạo chứ đâu phải do tâm linh, phải không?

Đáp: Bộ não cũng do nghiệp nhân tạo thành, có tâm linh mới có thể sanh ra nghiệp nhân. Tất cả đều do tâm linh mới có, nên nói “Nhất thiết duy tâm tạo.”
 
Do đủ thứ nghiệp nhân mới tạo thành thân người, nghiệp của con người có bộ não, cũng như nghiệp của con dơi có rađa. Tâm linh là chủ của sinh mạng, trong cuộc sống hàng ngày mắt thấy tai nghe đều là sức dụng của tâm linh, là tùy nghiệp hiển dụng.
 
Trong tâm linh của chúng ta sẵn đủ tất cả, nay nhà khoa học cứ phát minh những khoa học mới và tiến bộ mãi, những cái đó ở trong tâm linh của mình đã sẵn,  chứ chẳng phải nhờ học hỏi rồi mới phát minh. Ví dụ: Nhà khoa học nghiên cứu con dơi rồi phát minh ra đa, nhưng nghiệp của con dơi khi sinh ra đã sẵn có ra đa; Nhà khoa học bắt chước sự cấu tạo của bộ não phát minh máy vi tính, ấy là nghiệp của con người sẵn có…
 
Bất cứ những gì có trong nghiệp đều đã sẵn trong tâm linh mình, chẳng phải do học. Cho nên, khoa học mới có tiến bộ, còn tâm linh thì không, vì từ hồi nào đã có sẵn rồi.
 
Thời xưa chưa phát minh kính hiển vi, Đức Phật đã biết có vi trùng. Lại nữa, Phật nói tất cả đều bất sanh bất diệt, là Niết bàn, đến thế kỷ thứ XIX, nhà khoa học mới phát hiện rằng tất cả vật chất năng lượng đều bất sanh bất diệt. Mặc dù khoa học chưa chứng minh nhưng trong tâm linh đã sẵn, cái học đó chẳng dính dáng đến cái sẵn có, nếu chúng ta tu đến tất cả chấp thật đều không thì cái đã sẵn có ấy sẽ hiện ra bằng Phật.
 
Ví dụ: Theo sự nhận biết của khoa học, tốc độ ánh sáng là nhanh nhất, nhưng những nhà khí công, người có công năng đặc dị đã chứng tỏ so với tốc độ của tâm linh thì tốc độ ánh sáng lại là tốc độ thấp nhất ! Giả sử một máy bay bằng tốc độ ánh sáng bay từ quả đất đến một hành tinh khác, như Hải dương tinh chẳng hạn, phải trải qua mấy trăm quang niên (tốc độ ánh sáng trong một giây là ba trăm ngàn dặm), trong khi tâm linh mình một niệm liền đến, chẳng có số lượng về thời gian!
 
Do đó, những gì học được đâu thể so bằng tâm linh sẵn có ! Còn sự tu có thể khiến tâm linh chúng ta hiện ra nhiều sức dụng, như những người có công năng đặc dị, người có năng khiếu đặc biệt v.v…

Hỏi: Thế nào là trái ngược hiện nghiệp?

Đáp: Ai cũng biết về nghiệp, nay muốn sửa lại nghiệp của mình thì phải làm trái với nghiệp. Hễ kiếp trước tạo nghiệp nhân xấu thì kiếp này phải làm ngược lại; như trước kia ham thích thì nay không ham thích nữa, chê ghét cũng vậy, tức bất cứ muốn nổi một tâm niệm nào đều phải làm ngược lại.
 
Bởi do tâm suy nghĩ rồi hành theo sự suy nghĩ đó, mới thành cái nghiệp: Kiếp trước tạo thành nghiệp kiếp này, kiếp này tạo nghiệp kiếp sau… cứ xoay chuyển mãi trong luân hồi, nay muốn chầm dứt luân hồi, phải sửa lại nghiệp của mình.
 
Hiện nghiệp là chấp thật, muốn trái ngược hiện nghiệp phải phá chấp thật, như tham thoại đầu là không hiểu không biết, không biết cái xấu thì không chê, chỉ cần giữ được cái không biết là có thể trái ngược hiện nghiệp.

Hỏi: Đức Phật dạy ngồi theo kiểu kiết già có tác dụng và hữu ích gì?

Đáp: Cách ngồi theo kiết già không phải do Phật dạy, hồi chưa có Phật Thích Ca, các ngoại đạo đã ngồi theo kiểu kiết già, vì ngồi như thế có thể ngồi lâu được, có nhiều người ngồi nhập định đến khi chứng quả A-la-hán, trải qua mấy trăm năm, mấy ngàn năm.

Hỏi: Giả sử có một kẻ quá ác, có khả năng giết hại nhiều người, và có một người khác giết kẻ này để giải cứu bao nhiêu người kia; giữa họ chẳng có thù hằn cá nhân nào, chỉ vì muốn cứu đại chúng nên buộc lòng phải ra tay giết kẻ ác kia, vậy trường hợp đó nhân quả ra sao?

Đáp: Giết người phải thường mạng, nhưng nếu người đó chẳng ác ý, chỉ vì muốn cứu người,  tâm không tạo nghiệp thì không có. Nếu có khởi tâm giết hại là có tạo nhân, có nghiệp nhân ắt có nghiệp quả. Còn những người do chức trách như nhà cầm quyền, dù đã thọ giới Bồ tát, vì trách nhiệm của mình phải xử tử người khác, cũng như giết một người để cảnh cáo nhiều người thì không bị luật nhân quả, vì thực hiện theo đúng pháp luật Nhà nước qui định. Vấn đề này trong Hư Vân Niên Phổ có đề cập. 
 
Trong giới luật của nhà Phật có qui định: Hễ phạm luật pháp nhà nước là phạm giới luật nhà Phật. (Sư phu kể về sự giữ giới của Luật sư Hoằng Nhất, lược qua).

Hỏi: Còn những người cướp của nhà giàu rồi đem phân phát cho người nghèo thì nhân quả ra sao?

Đáp:  Đó cũng là phạm tội, không những vi phạm luật pháp nhà nước, cũng vi phạm giới luật nhà Phật về tội trộm cắp.

Hỏi: Tu ở trong chúng và đến dự thiền thất có ích lợi gì?

Đáp: Đả thiền thất, tụ đông để tu, làm trợ duyên với nhau khiến tâm lực mạnh, ví như ánh sáng đèn: Một cây đèn thì ánh sáng yếu, mười cây đèn ánh sáng mạnh hơn, một trăm cây đèn ánh sáng càng mạnh. Như tôi thường nói; mỗi mỗi đều có cái tâm, nếu một trăm người cùng chung một tâm tham thiền thì sức dụng kích thích khiến tâm tu được mạnh hơn. 
 
Nhưng mặc dù tu một mình ở nhà, đã phát tâm rồi thì ở đâu cũng vậy, tức là nếu có nhiều bạn đồng tham tu chung càng tốt, nếu không thì tu một mình cũng được, tùy theo nhân duyên. Nay tạo đủ mọi nhân duyên giúp cho đại chúng tu được mau kiến tánh, cũng như giúp mình vậy, người khác cũng giúp lại cho mình mau kiến tánh, ấy cũng là phước báo của mình gieo trồng từ kiếp trước, nhưng đừng có tâm ỷ lại, phải tận sức của mình mà tùy duyên tham tới mãi.

Hỏi: Con thấy tu một mình ở cốc riêng dễ sinh ra giải đãi, nhiều khi khuya thức không nỗi, rồi cho là mình có bệnh, đợi ngủ đến sáng rồi mới tu.

Đáp: Cho nên ngài Lai Quả khuyên mọi người nên tu trong Tòng lâm, ở chùa nhiều người tu chung có công hiệu hơn, có sức mạnh hơn.

Hỏi: Người đã chứng ngộ rồi, tự tâm hiện lên đầy đủ sẵn sàng những trí huệ thần thông biến hóa, tại sao Sư phụ lại nói ngộ rồi đồng như chưa ngộ?

Đáp: Tâm linh của mọi người đều giống nhau, đều đầy đủ tất cả thần thông trí huệ năng lực, sở dĩ chưa dùng ra được là bởi có tâm chấp, nếu ngộ rồi  chấp vào sự ngộ vẫn là chấp. Người đã ngộ thật sự thì đồng như chưa ngộ, tức chẳng chấp vào sự ngộ, tất cả diệu dụng mới hiện ra được. Hễ còn chấp cái ngộ là còn chướng ngại.

Hỏi:  Làm sao biết mình có chấp vào cái ngộ đó hay không?

Đáp: Cho mình có ngộ đó ! Nếu không cho là mình có sự ngộ thì ngộ rồi đồng như chưa ngộ.

Hỏi: Chúng con là Phật tử ở Vũng tàu, theo chúng con biết, mỗi lần Sư phụ đến Vũng tàu đều ở tại Chùa Từ Quang, và đó không phải thuộc hẳn pháp môn tham Tổ sư thiền, nên một số Phật tử chúng con muốn thành lập một chùa, một Thiền đường riêng thuộc môn phái Tổ sư thiền ở Vũng tàu. Kinh xin ý kiến của Sư phụ?

Đáp: Ở Vũng tàu, nhiều vị cũng muốn cúng dường đất đai, chùa chiền cho tôi, chỗ thì hai - ba mẫu, chỗ thì một mẫu rưỡi… hiện nay đất đai rất có giá, nhưng tôi không nhận, kể cả cúng dường chùa cũng không nhận. Vì tìm người quản lý rất khó, cái ngã, mỗi người đều có, rồi từ cái ngã đó sinh ra sự tranh chấp. Hiện nay có một số chùa, vị Trụ trì sáng lập ra ngôi chùa, sự nghiệp lớn lao, đến tuổi già tịch đi, rồi đệ tử tranh giành tài sản với nhau, nên tôi không muốn lập bất cứ ngôi chùa nào, hễ người nào có duyên với pháp thì tu, không có duyên thì thôi vậy.

Hỏi: Tu Tổ sư thiền có cần tu Lục độ không?

Đáp: Tham thiền là pháp thiền trực tiếp do Phật Thích Ca thân truyền, đã bao gồm tất cả, không cần học thêm nữa.
 
 

c

Nguồn: www.quangduc.com

Về danh mục

vi sao phat giao duoc bau chon la ton giao bánh nặng cuộc sống thuơng tóm den đời là bể khổ biệt Chùa Xuân Thói quen ăn uống thế nào để khỏe ngủ Ngày bình yên với Luang Prabang Sinh tố dưa hấu dâu tây hôm gioi luat la nguon sinh luc cua tang gia con duong dua den tai sanh tot dep đăng Tờ ï¾ï½½ môn 5 Giai nguyen cau nan ananda Ä Æ cáo Mì ăn liền không tốt cho tim mạch tong quan ve quan dinh phan 2 Giáo lý vô ngã Tứ âu ç¾ dao dung hieu dao phat nhu la mot ton giao tháºn một b羅i khong chốn Faux Meat for Very Real Seasons Thuốc chống trầm cảm làm tăng nguy cơ cÓn vợ thị tứ đọc xong bài viết này thì hãy mỉm cầu ung pho mot cach chanh niem voi chu nghia khung bo Phật giáo Lâm Đồng TT Thích Minh Hạnh Chánh phật giáo thuong lam me oi học