x
 
 
 
 
 
MỤC LỤC
Lời nói đầu
Tiểu sử của Hòa thượng Thích Duy Lực
[01] Thiền thất 26/10/92–01/11/92 tại Chùa Từ Ân, Quận 11
[02] 29/11/92–05/12/92 tại Chùa Từ Ân, Quận 1
[03] 28/03/93–03/04/93 tại Chùa Từ Ân, Quận 11
[04] 27/04/93–03/05/93 tại Chùa Từ Ân, Quận 11
[05] 20/10/93–26/10/93 tại Chùa Từ Ân, Quận 11
[06] 19/11/93–25/11/93 tại Chùa Từ Ân, Quận 11
[07] Khai thị tại Thủ Đức
[08] 18/12/93–24/12/93 tại Chùa Từ Ân, Quận 11
[09] 14/07/94–20/07/94 tại Chùa Từ Ân , Quận 11
[10] 12/08/94–18/08/94 tại Chùa Từ Ân, Quận 11
[11] 11/09/94–17/09/94 tại Chùa Từ Ân , Quận 11
[12] 10/10/94-16/10/94 tại Chùa Từ Ân, Quận 11
[13] 06/01/95–12/01/95 tại Chùa Từ Ân, Quận 11
[14] 15/02/95–21/02/95 tại Chùa Từ Ân, Quận 11
[15] 06/03/95–12/03/95 tại Chùa Từ Ân, Quận 11
[16] 05/04/95–11/04/95 tại Chùa Từ Ân, Quận 11
[17] 15/05/95–21/05/95 tại Chùa Từ Ân, Quận 11
[18] 03/06/95–09/06/95 tại Chùa Từ Ân, Quận 11
[19] 27/01/96–02/02/96 tại Trường Cơ Bản Phật Học Đại Tòng Lâm
[20] 24/05/96–30/05/96 tại Trường Cơ Bản Phật Học Đại Tòng Lâm
[21] 25/05/97–28/05/97 tại Chùa Pháp Thành, Quận 6
[22] 16/05/97–20/05/97 tại Chùa Tam Bảo, Sa Đéc
[23] 14/06/97–20/06/97 tại Chùa Tam Bảo, Sa Đéc 
[24] 14/07/97–20/07/97 tại Chùa Tam Bảo, Sa Đéc
[25] 14/08/97–20/08/97 tại Chùa Tam Bảo, Sa Đéc
[26] 19/03/99–25/03/99 tại Chùa Hưng Phước, Quận 3
[27] 15/05/99–21/05/99 tại Chùa Hưng Phước, Quận 3
[28] 1995–1999 Khai thị tại Mỹ Quốc 
QUYỂN THƯỢNG
cn
Hòa Thượng Thích Duy Lực
DUY LỰC NGỮ LỤC
QUYỂN HẠ (TỪ NĂM 1992-1999)
Ban Văn Hóa Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ chí Minh Thực Hiện 
Nhà Xuất Bản Tôn Giáo Hà Nội P.L.2546 - D.L. 2002
[21] 25/05/97–28/05/97 
tại Chùa Pháp Thành, Quận 6

Tánh ướt của nước dụ cho Chơn nhử 
Làm thế nào lìa tứ cú? 
Công phu phí sức chẳng lâu bèn 
Thế nào gọi là truyền đăng? 
Làm sao phát khởi nghi tình không gián đoạn? 
Bạch tịnh thức là thức thứ chín? 
Tại sao vô minh thật tánh tức Phật tánh? 
Vài nét tu hành của Luật sư Hoằng Nhất 
Hào ly hữu sai, thiên địa huyền cách 
Vạn pháp tề quán, qui phục tự nhiên 
Sư phụ đã chọn người kế thừa chưả 
Vô vi mà vô sở bất vi 
Nếu không chấp thật và không trụ, có thể nói là vô niệm không?
Biểu đồ của Đại Thừa Tuyệt Đối Luận có ý nghĩa ra sao?
Bát nhã vô tri 
Thế nào nghĩa Lục căn khó thâu
Lục mở nhất tiêu 
Trạm nhập hợp trạm 
Vô dục vô y 
Danh từ “Cổ Đức”như thế nào?
Thế nào là nghĩa câu “Cái gì có bỏ ra, không có đừng đem vào”của ông Bàng Uẩn?
 

Hỏi: Có một bài giảng của một vị pháp sư, đem Chơn như dụ cho tánh ướt của nước, nước dụ cho Như Lai tạng của A-lại-da thức, dụ cho biển cả, vậy có đúng không?

Đáp: Không đúng. Đã nói tâm như hư không trống rỗng vô sở hữu, chẳng có gì để thí dụ, chỉ có hư không; nhưng hư không tức là tâm của mọi người, hễ có dụ được tức thành hai. Hư không tức là tâm, tâm tức là hư không, nên chẳng có gì để thí dụ được. Lục Tổ nói “Bổn lai vô nhất vật,” nếu có thí dụ là có kiến lập thành hai rồi.

Hỏi: Làm cách nào để lìa tứ cú?

Đáp: Đối với tất cả sự vật đều không lấy ý của mình xen vào, tức là không dùng hai chữ “cho là,” chỉ luôn luôn hỏi và nhìn đi song song để giữ nghi tình, giữ được nghi tình thì không lọt vào tứ cú. Tại sao? Vì không biết đó là có thì chẳng lọt vào cú thứ nhất, không biết đó là không thì chẳng lọt vào cú thứ hai, không biết đó là chẳng có chẳng không hay cũng có cũng không thì không lọt vào cú thứ ba, cú thứ tư.

Hỏi: Con thấy cứ hỏi và nhìn ít phí sức, nghi tình không mạnh bằng vừa hỏi vừa nhìn mà có tính cách thắc mắc, tức tối, muốn biết mà không biết, muốn nhìn cái chỗ chẳng có chỗ nhìn, vậy có được không?

Đáp: Phí sức thì duy trì không lâu, mạnh một thời gian rồi sẽ yếu đi và quên . Ví như đi bộ hoặc đi xe máy, lúc đầu ra sức chạy nhanh thì chạy lâu không được, hễ ra sức đến khi mệt rồi phải ngưng, nên đi chậm chậm, bước nhẹ nhẹ mới bền sức đi lâu. Do đó đừng phí sức, vì mục đích chỉ cần miên mật đến chỗ thoại đầu và kiến tánh.

Hỏi: Thế nào gọi là truyền đăng?

Đáp: Truyền đăng là Tổ sư đời trước truyền xuống đời sau, lịch sử ghi lại sự truyền thừa của chư Tổ gọi là Truyền Đăng Lục.

Hỏi: Sư phụ thường nói tham thoại đầu không cho tìm hiểu biết, suy nghĩ biết, ghi nhớ biết, vậy tham thế nào mới phát khởi nghi tình? Có phải vừa hỏi vừa nhìn liên tục không cho gián đoạn? Vậy có sợ trở thành câu niệm không? Nếu để tâm thắc mắc thì có tác ý, có gián đoạn, phải làm sao phát khởi nghi tình mà không bị gián đoạn?

Đáp: Hỏi câu thoại để kích thích cái không hiểu không biết, rồi khán thoại đầu là nhìn vào chỗ không hiểu không biết, muốn xem chỗ không biết đó là gì. Nhưng không biết thì chẳng có chỗ, chẳng có chỗ thì chẳng mục tiêu để nhìn, chỉ nhìn chỗ không biết gì cả, vẫn còn không biết, Thiền tông gọi là nghi tình, chứ chẳng phải không có nghi tình. Nói tóm lại, cái không biết đó đã là nghi tình rồi, ngoài cái không biết đó ra, làm sao có nghi tình? Hỏi là để kích thích nghi tình, nhìn là để kéo dài nghi tình, cho nên, hỏi và nhìn đi song song thì giữ được nghi tình, chính cái nghi tình đó sẽ đưa mình đến thoại đầu.

Nếu dùng bộ não đi tìm hiểu tức là biết, suy nghĩ, ghi nhớ cũng vậy, biết thì chẳng phải tham thiền. Biết cũng là nhất niệm vô minh, không biết cũng là nhất niệm vô minh, nhưng cái không biết đó, đến giờ phút cuối cùng, từ đầu sào trăm thước tiến lên một bước, lìa khỏi ý thức là kiến tánh. Ngay sát na lìa ý thức đó cái không biết tan rã, lúc ấy biết và không biết của bộ não sạch hết, cái biết của Phật tánh tức Vô duyên tri, cũng gọi Chánh biến tri toàn vẹn hiện lên, khắp không gian thời gian, tức kiến tánh thành Phật.

Hỏi: A-đà-na thức là gì? Có phải thức thứ chín không?

Đáp: Kỳ thực, A-đà-na thức tức là thức thứ tám, người ta đặt ra cái thức thứ chín, vì trong thức thứ tám chứa tất cả chủng tử thiện, ác và vô ký, đến chừng kiến tánh rồi, tất cả tập khí đều sạch, chẳng còn chủng tử thiện, ác hay vô ký, khôi phục lại bản lai diện mục trống rỗng vô sở hữu, gọi là Bạch Tịnh Thức, cũng gọi A Đà Na thức, nhưng cái thể vẫn là thức thứ tám, chứ chẳng phải có thêm một cái thức.

Hỏi: Tập khí thế gian và tập khí xuất thế gian gồm những gì?

Đáp: Buồn, giận, yêu, ghét v.v…thuộc tập khí thế gian; còn Bồ đề, Niết bàn, thiền định, giải thoát là tập khí xuất thế gian, chấp vào sự ngộ, sự chứng của mình cũng là những ngã chấp vi tế.

Hỏi: Tại sao vô minh thật tánh tức Phật tánh?

Đáp: Đã biết vô minh không có tánh, không có vô minh rồi thì cái không có vô minh tức là Phật tánh vậy, nó trống rỗng vô sở hữu mà !

Hỏi: Xin Sư phụ kể qua vài nét tu hành của Luật sư Hoằng Nhất .

Đáp: Ngài là một vị Luật sư chuyên hoằng Giới luật. Ngài là con nhà giàu, viết chữ và hoạt họa rất giỏi, trước khi xuất gia, từng đi du học ở Nhật, cưới một người vợ Nhật rồi trở về Trung Quốc làm Hiệu trưởng của một trường Trung học, sau đó có duyên lành biết được Phật pháp và xuất gia ở Tô Châu. Ngài gửi thư về báo cho người vợ biết đã xuất gia, không màng tới gia đình nữa, và bảo cô ấy hãy trở về nước Nhật. Người vợ hay tin tìm đến chùa xin gặp mặt lần cuối cũng không được.

Sau khi xuất gia, ngài nghiên cứu chuyên sâu về Giới luật, mới biết giới luật Nhà Phật rất tỉ mỉ, khó thực hành, nên ngài nói rằng những gì mà ngài thực hành được chỉ là ngũ giới của cư sĩ thôi. Sách Giới luật thời xưa rất khó hiểu, Lúc đó ngài đã thọ giới Tỳ-kheo và nghiên cứu luật Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, viết ra bộ Giới Tướng Biểu Ký, giải thích rất kỹ, mỗi giới đều có khai giá trì phạm, khiến người học giới luật đọc vào rất dễ hiểu. 

Luật sư Hoằng Nhất chuyên hoằng Giới luật, vì hoằng dương giới luật rất khó nên ít người theo học. Thời đó ở Trung Quốc, bên Giáo môn mở trường Phật học, cả ngàn người theo học giáo lý, nhưng theo ngài học luật chỉ có mười ba người thôi. Tiểu sử của ngài có thể tìm được ở các nhà sách Hán văn.

Hỏi: Con là một hành giả thường nghe Sư phụ khai thị, không hiểu tại sao lần nào nghe khai thị cũng như mới nghe? Nghe hoài không biết chán?

Đáp: Vì những gì tôi nói đều là cái căn bản, thực tế, chứ chẳng phải nói suông hay mò đoán. Tôi là giảng theo thực tế ứng dụng hằng ngày, như Lục Tổ nói “Phật pháp tại thế gian, chẳng lìa thế gian giác.” Nói đến chỗ này, chế độ giáo dục thời nay về vấn đề thi cử, nhiều học sinh, sinh viên học suốt ngày suốt đêm, học đến đầu óc căng thẳng, chỉ là theo phương pháp ghi nhớ, đến chừng thi xong là quên hết, chẳng thể áp dụng vào thực tế trên xã hội, chi bằng những người học theo cách thực hành ngay từ ban đầu. Phật pháp cũng vậy, do mọi người hiểu theo cách mê tín, vì các chùa dạy theo pháp mê tín, mà chẳng biết giáo lý của nhà Phật chẳng mê tín, lại phá mê tín.

Trong cuốn Góp Nhặt Lời Phật Tổ và Thánh Hiền có một bài, tựa là Phật Học của Tôn Giáo Nhân Loại, tác giả là một người linh mục Mỹ, ông đó còn biết rõ Phật giáo hơn những pháp sư giảng kinh thuyết pháp, rằng Phật giáo là một tôn giáo không có mê tín.

Hỏi: Thế nào là hào ly hữu sai, thiên địa huyền cách?

Đáp: Hào ly là đơn vị rất nhỏ, nay chúng ta tu pháp môn nào phải thực hiện đúng theo tông chỉ của pháp môn đó, nếu sai hào ly thì cách xa như trời với đất. Ví như Đài phát thanh phát ra làn sóng, dù máy thu thanh nhỏ cách nào, phải vặn đúng tầng số mới thu được, hễ xê xích hào ly, dù chỉ bằng một sợi tóc cũng không được.

Hỏi: Ngài Lai Quả nói “Khi sống trong Thiền đường phải lập hạnh,” vậy lập hạnh như thế nào?

Đáp: Hạnh là hạnh kiểm, phẩm hạnh. Hạnh của hành giả tham thiền là hỏi và nhìn đi song song, hễ gặp duyên thì giúp đỡ người khác, giúp đỡ chúng sanh, không giết hại chúng sanh, không ăn thịt, không đánh đập chửi mắng chúng sanh, ấy là tùy duyên mà làm. Phát nguyện kiến lập hạnh này, gọi là lập hạnh.

Hỏi: Thế nào là “vạn pháp tề quán, quy phục tự nhiên”trong Tín Tâm Minh?

Đáp: Tất cả đều quán một lượt. Kỳ thật, tâm như tánh thấy của mọi người, đều thấy một lượt, như một trăm người ở đây, tánh thấy của mình thấy một lượt, gọi là vạn pháp tề quán, vì tánh vốn như vậy, luôn luôn khắp không gian thời gian.

Do con người không có tu hoặc tu chưa đến mức, nên chỉ quán thấy trước mắt, tu đến bậc A-la-hán có thể quán thấy một tam thiên đại thiên thế giới, còn sức dụng của tâm thì không có gì ngăn cản, khắp không gian thời gian, tức chẳng kiến lập sở hữu, ấy là quả Phật vậy. 

Nay con người kiến lập đủ thứ sở hữu nên chẳng thể thấy xa, sở hữu bớt chừng nào thì thấy xa chừng nấy, bớt đến hoàn toàn không sở hữu thì sự thấy như Phật. Ngài Long Thọ nói:”Hư không vô sở hữu mà dung nạp tất cả vật.” Nếu đạt đến hoàn toàn vô sở hữu thì dung nạp và ứng dụng, tất cả đều ở trong tâm mình, luôn cả hằng sa chư Phật cũng ở trong đó, chẳng phải ở ngoài tâm.

Hỏi: Từ khi Sư phụ học pháp Tổ sư thiền, rồi được truyền thừa và hoằng dương pháp môn này, chắc cũng trải qua nhiều khó khăn, gặp không ít chướng ngại trên đường tu. Đệ tử chúng con là những hành giả sơ tham, mong Sư phụ kể qua lịch sử cuộc đời mà Sư phụ trải qua để truyền lại kinh nghiệm tu, giúp chúng con vượt qua trở ngại  và những nhân duyên chướng đạo?

Đáp: Tất cả lịch sử của chư Tổ được ghi trong Truyền Đăng Lục, cuốn đầu tiên là Cảnh Đức Truyền Đăng Lục ra đời, khiến hành giả tham thiền biết được cơ xảo, phương tiện của chư Tổ, chẳng thể tự phát lên nghi tình, chướng ngại sự kiến tánh, cho nên, hễ biết là chướng ngại. 

Hỏi: Sư phụ đã chọn được người để truyền thừa pháp môn Tổ sư thiền chưa? Sau này Sư phụ tịch diệt ai sẽ kế thừa ï để chỉ dạy và hướng dẫn cho chúng con đi đúng theo chánh pháp?

Đáp:  Bây giờ thì chưa biết người nào kế thừa được. Hồi xưa, ở dưới Lục Tổ có năm phái đều là kiến tánh, truyền đến bây giờ chỉ còn lại phái Lâm Tế và Tào Động, còn ba phái kia đã tuyệt truyền. Người ta kiến tánh cũng còn tuyệt truyền, huống là tôi chưa kiến   tánh !

Kế thừa hay không kế thừa chẳng quan trọng, ấy là tùy duyên. Như tôi thường nói, ngài Lai Quả kiến tánh, thầy của ngài chưa kiến tánh; ngài Hư Vân cũng vậy. Thầy chưa kiến tánh nhưng đệ tử cũng kiến tánh được, sau đó thầy trở lại làm đệ tử, đâu có gì lạ ! Cho nên, khỏi cần hỏi vấn đề này.

Hỏi: Thế nào là vô vi?

Đáp: Vô vi là bản tâm của mình tự động như thế, chẳng làm mà tự làm, tức làm mà không động niệm, gọi là vô vi. Tôi có dùng sự cảm giác của lớp da để thí dụ, nay khoa học gọi là xúc giác, nó khắp không gian thời gian của cơ thề. Lại nữa, như ánh sáng mặt trời chiếu soi chẳng bao giờ ngưng, sở dĩ không chiếu tới chỉ vì bị che khuất thôi. 

Bản tâm của mình như thế, từ hồi nào đến giờ vẫn vậy, cho đến vị lai, mãi mãi không bao giờ ngưng, chẳng có sự bắt đầu, gọi là bất sanh bất diệt, vô thỉ vô chung. Do chúng ta chấp thật cái thân này nên có sanh tử, vinh hoa phú quí, buồn vui yêu ghét v.v… đủ thứ đều do tự mình kiến lập, chướng ngại bản tâm của mình. Nay tu hành là quét sạch chướng ngại thì bản tâm tự hiện, y như bản lai diện mục của nó.

Hỏi: Thế nào là vô vi mà vô sở bất vi?

Đáp: Tức không làm mà chẳng gì không làm. Bây giờ tất cả đều đang động, chẳng cái nào là ngưng, như nay mình thấy tịnh, nhưng thực tế mọi thứ đều chẳng có tịnh.

Hỏi: Nếu đã không có căn, trần, thức thì không có đạo, nếu có đạo thì đó chỉ là giả lập thôi, phải không?

Đáp: Không phải. Căn, trần, thức là sự vật trong chiêm bao, nên Bát Nhã Tâm Kinh dùng chữ Vô để quét sạch, nói vô lục căn, vô lục trần, vô lục thức.

Hỏi: Nếu không chấp thật và không trụ, có thể nói là vô niệm không?

Đáp: Không. Vì đã có kiến lập rồi, phải tự nó như thế mới được.

Hỏi: Con thưa hỏi Sư phụ bằng nhất niệm, và Sư phụ trả lời bằng vô niệm, phải không?

Đáp: Không được. Dùng nhất niệm hỏi thì tôi phải dùng nhất niệm để đáp, nếu dùng vô niệm để trả lời thì người hỏi làm sao biết được !

Hỏi: Lời của Thiền sư nói chỉ là giả lập và phá chấp thật, nói xong liền bỏ hay phủ định luôn?

Đáp: Chẳng phải có cái cố định. Cách đáp của Phật có bốn thứ: Cách thứ nhất là quyết định đáp, cách thứ nhì là đáp hai mặt, tức tục đế và chơn đế, cách thứ ba là dùng cách hỏi trở lại để đáp, cách thứ tư là dùng im lặng mà đáp.

Hỏi: Xin cho một thí dụ về quyết định đáp?

Đáp: Như nói bản thể của tâm trống rỗng vô sở hữu, khắp không gian thời gian, không có sự bắt đầu và cuối cùng, chẳng sanh diệt khứ lai, ấy là quyết định đáp. Còn về cách đáp hai mặt, như tôi thường nói; cái biết của ý thức có hai mặt, dùng cái biết để tu Như Lai Thiền, và dùng cái không biết để tu Tổ sư thiền.

Hỏi: Biểu đồ của Đại Thừa Tuyệt Đối Luận có ý nghĩa ra sao?

Đáp: Đại Thừa Tuyệt Đối Luận có biểu đồ diễn tả về tâm: Tiểu thừa là duy vật luận, Trung thừa là duy tâm luận, Đại thừa là tâm vật hợp một, Tối thượng thừa thì phi tâm phi vật, vì trống rỗng không có gì.

Hỏi: Thế nào là Bát nhã vô tri? Thế nào là Hòa quang đồng trần?

Đáp: Trí của Bát nhã tự động, chẳng thể kiến lập tri, vì hễ có tri tức có vô tri để đối đãi. Hòa quang đồng trần nghĩa là tất cả đều bằng nhau, như ánh sáng cây đèn, đèn lớn thí ánh sáng mạnh hơn, đèn nhỏ ánh sáng yếu hơn, nhưng ánh sáng của đèn lớn đèn nhỏ hòa chung thành một ánh sáng, vốn chẳng có khác, dù muôn ngàn cây đèn cũng cùng một ánh sáng, gọi là hòa quang đồng trần. Ví như bụi trần hòa lẫn trong không khí mà chúng ta không thấy, khi  ánh sáng chiếu qua khe cửa, sẽ thấy bụi trần lăng xăng.

Hỏi: Nay người ta dùng các loại ngũ tân như hành, tỏi, hệ, củ kiệu, hương cừ…chế thành thuốc chữa bệnh, khi Phật tử bị bệnh phải dùng những thứ thuốc đó, có được không?

Đáp: Thì cái đó được khai, như uống rượu cũng vậy. Kỳ thật dùng ngũ tân chẳng phải có phạm giới, nhưng vì chướng ngại cho người tu, hễ ăn sống thì kích thích tánh dâm dục, ăn chín thì kích thích tánh sân hận, nên phải tránh dùng.

Hỏi: Tham Thiền Phổ Thuyết nói “Lục căn khó thâu,” còn Lai Quả Thiền sư nói là như trong nhà đốt cây đèn, các tông phái khác dùng búa đóng bít, che đậy các cửa, còn Thiền tông thì chẳng phải vậy, trước hết đập bể cây đèn, kế đến là triệt hạ căn nhà, vậy nghĩa này như thế nào?

Đáp: Ấy là thí dụ: Trong nhà đốt lên cây đèn, ánh sáng lọt ra ngoài sáu cửa, nay muốn không cho ánh sáng lọt ra ngoài, nên dùng vải che lại, sáu cửa đều che bít, nhưng khi gió thổi thì bị hở, ánh sáng vẫn lọt ra ngoài. Còn thiền tông thì khỏi cần che bít cửa sổ, chỉ cần tắt cây đèn trong nhà thì chẳng còn ánh sáng lọt ra ngoài. 
 
Ánh sáng thí dụ vọng tưởng của bộ não, Tiểu thừa thì bít hết lục căn để trừ vọng tưởng, còn Thiền tông trừ hẵn nguồn gốc, dùng nghi tình chấm dứt hết tất cả biết, hoạt động của bộ não hết thì chẳng còn vọng tưởng nổi lên, lục căn vẫn làm việc như thường.

Hỏi: Thế nào là phước huệ song tu?

Đáp: Bố thí cúng dường là tu phước, tham thiền là tu huệ, nếu hai thứ đều thực hành gọi là phước huệ song tu.

Hỏi: Thế nào là “lục mở nhất tiêu” trong Kinh Lăng Nghiêm?

Đáp: Lục là lục căn, nhất chỉ thân thể, ý nói thân thể dù chỉ có một, nhưng có lục căn, nếu lục căn đã tiêu mà còn chấp thật thân này cũng không thể giải thoát.

Hỏi: Danh từ “Cổ Đức”như thế nào?

Đáp: Cổ là người xưa, Đức là cách xưng hô, tức những vị Đại đức hồi thời xưa, chứ không phải chỉ gọi những vị có đạo đức, Theo cách xưng hô ở Việt Nam là từ Hòa Thượng, rồi đến Thượng Tọa, Đại Đức, nhưng theo giới luật nhà Phật, khi thọ giới Bồ tát, tôn xưng Phật Thích Ca là “Đại Đức Thích Ca Mâu Ni,” tôn xưng Bồ tát Văn Thù, Bồ tát Di Lặc cũng là Đại Đức, do đó Đại Đức cũng không phải là bậc nhỏ. Thật ra, muốn làm Hòa thượng, Thân giáo sư thì Tỳ-kheo thọ giới mười năm có thể rời thầy, tự làm Hòa thượng dạy đệ tử, còn muốn làm Thượng tọa phải hai mươi năm, nên Thượng tọa cũng không phải nhỏ hơn Hòa thượng, nay là vì theo người đời đã quen xưng hô như thế.

Hỏi: Thế nào là nghĩa câu “Cái gì có bỏ ra, không có đừng đem vào”của ông Bàng Uẩn?

Đáp:  Cũng như hư không trống rỗng vô sở hữu mới dung nạp và ứng dụng, muốn hiển bày tâm mình, thì những gì đã có trong tâm đem bỏ ra hết, những gì không có chớ mang vào, hễ mang vào tức kiến lập sở hữu, là chướng ngại.

Hỏi: Thế nào là trạm nhập hợp trạm?

Đáp: Chữ Trạm nghĩa là nước trong lặng chẳng làn sóng, có thể nhìn thấu tới đáy, khi nào liệng cục đá vào sẽ khiến nổi lên làn sóng. Đó là hình dung ý thức của mình, “Trạm nhập”tức ý thức hoạt động, mặc dù không có làn sóng, nhưng ôm cái trong lặng đó (ôm sự ngộ của mình) cũng không được, vẫn còn ở trong mê trí tứ tướng của bậc thánh. Trạm nhập không có hợp với cái gì, nếu có hợp thì chẳng phải vô sở hữu vậy.

Hỏi: Thế nào là nghĩa “Người chỉ cần vô dục, vô y tức là Phật”của Hòa thượng Nham Đầu?

Đáp: Không có một dục vọng nào gọi là vô dục, không có y vào chỗ nào cả gọi là vô y, cũng là nghĩa trống rỗng vô sở hữu của tâm mình. Đầu óc của con người suốt ngày làm việc gì đều muốn thỏa mãn dục vọng của mình, nhất là vấn đề ham tiền, có tiền thì làm gì cũng được, tiền càng nhiều càng tốt. Do đó, Đức Phật cấm Tu sĩ không được cầm tiền, mười phương tín thí cúng dường tiền là để cho mình làm Phật sự, tự giác giác tha, đâu phải để mình thỏa mãn dục vọng ! Nên phải vô dục và chẳng nương tựa vào chỗ nào cả.

Hỏi: Ngài Vĩnh Gia nói: “Trống rỗng không, chống nhân quả, mênh mênh mông mông chiêu tai họa”là thế nào?

Đáp: Chấp vào cái không, cho là không có nhân quả thì làm ác cũng chẳng sao, là lọt vào biên kiến, dĩ nhiên phải chiêu tai họa. 
 

c

Nguồn: www.quangduc.com

Về danh mục

má i ân Tiê u sư HT Thi ch Tư Ha nh nguyên Nuoc golden em van den va di ngó em vẫn đến và đi Nghi Tà i 乾九 nhân tướng hạnh phúc khổ đau và niết kho dau va niet Trị liệu mệt mỏi tâm thần và thể VẠ永平寺 7 cách đơn giản giúp hạnh phúc hơn mỗi voi du trống co Đường kim chua phap bao chánh niệm tho dia rong mo tu ai quan diem cua toi nhÛ TÃÆ chùa bảo lộc chua bao lam ke Năm pháp khiến Chánh pháp không diệt ở mÙng Buffet chay 30 món tặng 1 phần cho nhóm 5 con vào dạ ma di tu Thiền Viện Sùng Phúc Cảnh đẹp Hà bà Thuốc lá và những căn bệnh ung thư gây tien si my chi ra 7 loi ich khi thien va yoga moi Nghĩ về vấn đề pháp hành của Phật Thuốc lá và những căn bệnh ung thư gây nuoc mat me gia nước mắt mẹ già tìm cách trị liệu khi trái tim đã bị giá trị bình yên