Mục Lục Quyển Hạ.
Phần Thứ 1.
Phần Thứ 2.
Phần Thứ 3.

 
.
NHỮNG ĐOÁ HOA THIỀN
Dịch gỉa: Dương Đình Hỷ
Phước Quế Publications, Arlington, USA 2003
Mục Lục.
Quyển Thượng.
Quyển Trung.
Quyển Hạ.
Quyển Chung.
NHỮNG ĐOÁ HOA THIỀN
禪 之 花
QUYỂN HẠ 

1201.  Cha mẹ ở trong đám cỏ dậm.
Có ông tăng hỏi Thạch Thất:
-  Thầy có qua Ngũ Đài Sơn không?
- Có qua.
- Vậy thầy có gặp Văn Thù không?
- Có gặp.
- Bồ tát Văn Thù có nói với thầy Phật pháp cao diệu gì không?
- Văn Thù nói “cha mẹ ngươi đều nằm trong mộ, dưới đám cỏ dậm.”
                                  (Bồ Đề linh quang)
Thiền không tìm thâm ảo, huyền bí, bình thường là đại đạo.

1202.  Một phiến đá trước am.
Tuyết Phong Nghĩa Tồn đến tham học Đầu Tử Đại Đồng. Đầu Tử chỉ phiến đá trước am:
- Quá khứ, hiện tại, vị lai, tam thế chư Phật đều giảng pháp ở phiến đá này.
- Có nhiều vị Phật không giảng pháp ở phiến đá này mà giảng ở chỗ khác.
                         (Bồ đề linh quang)
Phật ở khắp mọi nơi, mọi thời, mọi sự vật đều ẩn tàng Đạo, nếu nói tại chỗ này thì chỉ là ngộ ở một tầng cảnh giới.

1203.  Mang trà lại.
Một ông tăng hỏi Linh Tham:
- Một hạt hoàn đơn có thể điểm sắt thành vàng; một câu chí lý có thể chuyển phàm thành thánh. Đệ tử đến đây xin thầy điểm.
- Không điểm
- Sao không điểm?
- Sợ ngươi rơi vào tâm phân biệt phàm thánh.
- Xin thầy chỉ thị.
- Thị giả! Mang trà ra.
                                             (Bồ đề linh quang)
Đắc đạo thành Phật là do minh tâm kiến tánh, toàn là nhờ mình tự ngộ. Đối với người chưa ngộ, không có cách nào điểm, chỉ có thể mang trà ra tống khách, đợi lần khác đến sẽ chỉ thị thiền cơ.

1204.  Đánh thành một phiến.
Hương Lâm trụ trì Hương Lâm viện 40 năm, đến năm 80 tuổi thì viên tịch. Ông từng nói:
- Ta 40 năm qua đã đánh thành một phiến.
                                          (Bồ đề linh quang)
Đánh thành một phiến là chỉ đã chân chính trở về khuôn mặt xưa nay; từ đầu đến cuối trung thành ‘thủ nhất’. Các vị cao tăng thường thận trọng giữ gìn chánh niệm, chuyên nhất hộ đạo; thường sống ẩn cư; đoạn tuyệt mọi trần duyên. ‘Chỉ tại trong núi này, mây dầy không biết ở đâu’. Người từ tự nhiên tới, lại trở về tự nhiên. Quá trình tham thiền là quá trình trở về.

1205.  Một, Hai, Ba, Bốn, Năm, đủ số.
Có ông tăng hỏi Bản Tịch:
- Cổ nhân nói người người đều có; đệ tử sống trong thế tục có không?
- Đưa tay ta coi.
Ông tăng duỗi tay ra, thiền sư chỉ ngón tay đếm:
- 1, 2, 3, 4, 5, đủ số!
                                                (Bồ đề linh quang)
Điều kiện để thành Phật cũng như ngón tay ai ai cũng đều có đủ.

1206.  Ăn cơm đi.
Một hôm trong giờ ăn, Đạo U vào nhà ăn bạch chúng cáo thị:
- Có lời với đại chúng.
Chư tăng ngẩng đầu lên nghe.
- Ăn cơm đi!
                                                    (Bồ đề linh quang)
Ăn cơm cũng đang ở trong thiền đạo, người thường không để ý nên Đạo U bạch chúng chỉ cơ.

1207.  Phòng ngủ không người.
Có ông tăng hỏi Giáp Sơn:
- Làm sao đạt được cảnh giới Niết Bàn tịch tĩnh?
- Như trong phòng ngủ rộng lớn không người.
                                               (Bồ đề linh quang)
Niết Bàn là cảnh giới vô nhân, vô ngã; nếu suy nghĩ làm sao để vào thì không bao giờ vào được.

1208.  Khách chưa về, nhớ cố hương.
Nhân Dõng thượng đường nói:
- Từng trận gió thu thổi qua rặng thông, khách chưa về, nhớ cố hương. Ai là khách chưa về? Chỗ nào là cố hương?
                                        (Bồ đề linh quang)
Bản tâm là cố hương là chỗ thiền khách trở về.

1209.  Văn Thù và Phổ Hiền.
Động Sơn Thủ Sơ là cao đồ của Vân Môn. Một lần có một ông tăng hỏi:
- Lão thiền sư đã tu hành tới trình độ cao thâm; giả như các bồ tát.
Văn Thù và Phổ hiền đến thỉnh giáo thì thầy làm sao?
- Ta coi họ như trâu, lùa vào chuồng!
                                            (Bồ đề linh quang)
Cầu Phật, bồ tát là vọng niệm, vọng tưởng, phải đối trị như chăn trâu; coi sóc kỹ lưỡng.

1210.  Ngoảnh mặt về Nam nhìn Bắc Đẩu.
Có ông tăng hỏi Huệ Thanh:
- Thế nào là tự thân, tự tâm?
- Ngoảnh mặt về Nam nhìn Bắc Đẩu.
                                                    (Bồ đề linh quang)
Tự thân, tự tâm chỉ có tự nghiệm, tự giác mới triệt ngộ. Huệ Thanh bảo ông tăng hướng về Nam quay đầu nhìn về Bắc thể ngộ tự thân, tự tâm.
“Hồi đầu tức thị: là phản quán tự tánh.

1211.  Về phòng sưởi ấm.
Trùng Hiển thượng đường nói:
- Giả sử nói đến kinh thiên động địa, trời rải hoa xuống cũng chẳng bằng về phòng sưởi ấm.
                                      (Bồ đề linh quang)
Ngôn ngữ văn tự chỉ trói buộc thiền. Nhiều lời càng dễ bị mê chấp, chẳng bằng về phòng hơ lửa sưởi ấm, điềm nhiên tự tại lại còn gần thiền cảnh hơn.

1212.  Coi chừng chó dữ.
Ở pháp hội Lâm Tế, 2 ông tăng đến tham kiến, vừa giở mành lên thiền sư bèn hét lớn:
- Coi chừng chó dữ!
Hai ông tăng xoay đầu lại tìm kiếm, thiền sư bèn trở về phương trượng.
                                (Bồ đề linh quang)
Tiếng hét của thiền sư khiến 2 ông tăng quay đầu lại tìm kiếm, tự ngộ tự tánh.

1213.  Sinh tử đến.
Một ông tăng hỏi Vân Môn:
- Lúc sinh tử đến, làm sao để thoát?
Vân Môn đưa hai tay ra:
- Đưa sinh tử cho ta.
                                               (Bồ đề linh quang)
Người chưa ngộ hay thích nói về sinh tử, đối với thiền giả chân chính thì không có gì gọi là sinh tử.

1214.  Cây nhà nào chẳng đón xuân.
Một cư sĩ hỏi Cư Nhân:
- Người tục gia có thể lãnh hội Phật pháp không?
- Tảng đá nào trăng không chiếu? Cây nhà nào chẳng đón xuân.
                                             (Bồ đề linh quang)
Phật quang chiếu khắp nơi, Phật tánh ở khắp chỗ.

1215.  Phật tánh vốn tự đầy đủ.
Có ông tăng hỏi Mã Tổ:
- Phải lý giải thế nào để được đạo?
- Tự tánh vốn tự đầy đủ, chỉ cần trong thiện ác không bị dính líu thì đó là người tu. Giữ thiện, bỏ ác, tâm quán không tịnh, thần nhập vào định. Cứ thế mà làm. Còn như hướng ra bên ngoài mà tìm thì càng lúc càng xa đạo. 
                                                 (Bồ đề linh quang)
Thiền ở trong tâm, đạo ngay dưới chân.

1216. Thị giả thuyết pháp.
Khi thiền sư Nhân Dũng thượng đường, thị giả đang thắp hương; thiền sư chỉ thị thị giả nói:
- Thị giả đã giảng pháp cho đại chúng rồi!
                                                 (Bồ đề linh quang)
Thị giả thắp hương chính là tự tánh tự dụng. Có thể thể ngộ tự tánh thì đắc đạo thành Phật, không khác gì hiện thân thuyết pháp.

1217.  Thế nào là Đạo?
Trần Tôn Túc hỏi một cụ tú tài:
- Tiền bối nghiên cứu kinh điển gì?
- Ta chuyên nghiên cứu kinh Dịch.
- Kinh Dịch nói “bá tánh dùng hàng ngày mà không biết”, cụ nói coi bá tánh không biết cái gì?
- Bá tánh không biết đạo vận hành của trời đất.
- Cái đạo ấy là thế nào?
Lão tú tài không lời đáp lại.
                                                       (Bồ đề linh quang)
Sinh hoạt bản thân chính là Đạo. Lão tú tài “bất thức Lư Sơn chân diện mục, chỉ duyên thân tại thử sơn trung”.

1218.  Đi tới chỗ không biến đổi.
Tào Sơn là cao đồ của Động Sơn, sau khi đắc pháp rồi bèn hướng sư phụ từ biệt. Động Sơn hỏi:
- Ngươi định đi đâu?
- Con tới chỗ không biến đổi.
- Nơi không biến đổi lại có đến, đi sao?
- Đến đến, đi đi chẳng có ảnh hưởng gì đến sự tồn tại của không biến đổi.
                                                    (Bồ đề linh quang)
Trong tĩnh có động, trong động có tĩnh; lấy bất biến ứng vạn biến. Thiền cảnh là cảnh giới động tĩnh là một.

1219.  Người trong mật thất.
Một ông tăng hỏi một lão thiền sư:
- Tình cảnh của người ẩn trong mật thất thế nào?
- Người ẩn trong mật thất không muốn người ta biết, sợ khách đến nên không lên tiếng. Tình cảnh của ông ta trừ ông ta ra thì chẳng ai biết.
                                              (Bồ đề linh quang)
Chúng ta có phải là người trong mật thất không? Hay trong tâm chúng ta có người trong mật thất? Nếu là vậy xin đừng lên tiếng.

1220.  Cho ta một đồng.
Bố Đại đứng bên đường, có ông tăng hỏi:
- Hòa thượng đứng đây làm gì?
- Đợi một người.
- Đến rồi! đến rồi!
- Ngươi không phải là người đó.
- Phải làm sao mới là người đó?
- Cho ta một đồng.
                                                      (Bồ đề linh quang)
Bố Đại nói đợi một người là chỉ cơ. Ông tăng tâm hãy còn mê chấp, phân biệt nên hòa thượng chỉ còn cách xin tiền để khai thị ông.

1221.  Rồng trong nước sống.
Thiền sư Lương Sơn Duyên Quán là người đời Tống, trú ở núi Lương Sơn tỉnh Hồ Nam; phó pháp cho Đại Dương Cảnh Huyền. Ông có làm bài kệ:

梁 山 一 曲 歌
Lương Sơn nhất khúc ca
格 外 人 難 和
Các ngoại nhân nan hòa
十 載 訪 知 音
Thập tải phỏng tri âm
未 嘗 逢 一 個
Vị thường phùng nhất cá
 

Lương Sơn một khúc ca
Người ngoài khó biết hòa
Tri âm nếu muốn kiếm
Một người cũng chẳng ra.

Một hôm một học tăng thỉnh thị:
- Tri âm khó gập là một điều đáng tiếc, nhưng gia tặc khó đề phòng mới là mối lo của con. Xin sư phụ cho một lời.
- Nhận biết, hiểu thấu, biến hóa, vận dụng nó, cần gì phải đề phòng?
- Gia binh, gia tướng dễ xử dụng, nhưng gia tặc làm sao dụng?
- Mời nó ở vô sinh quốc.
- Chẳng lẽ chỗ ẩn thân lập mạng cũng không có sao?
- Rồng không ẩn ở nước chết.
- Thế nào là rồng ở nước sống?
- Mây nổi chẳng phà sương.
- Bỗng gặp mây nổi rồi mưa thì sao?
- Đừng để ướt cà sa lão tăng.
                                                        (Tinh vân thiền thoại)
Vương Dương Minh là một tay cao thủ trong nhà Thiền. Ông nói:
- Đề phòng cướp ở trong núi dễ; đề phòng cướp ở trong tâm khó. 
Và:
- Tâm như quốc vương có thể ra lệnh; tâm như oan gia thật khó đề phòng.
Khi chưa đạt được thiền tâm thì vọng tâm thật khó đề phòng. Câu nói của Duyên Quán rất hay, giống như Gia Cát Lượng bẩy lần bắt, bẩy lần tha Mạnh Hoạch, mới có thể dứt tuyệt hậu hoạn.
Tâm trụ ở đâu mới tốt? Ở chỗ không trụ mà trụ. Tâm không có an trú tại ngũ uẩn của thân hoặc lục trần ở cảnh vì đó là nước chết không chứa được rồng. Rồng thật nổi mây rồi mưa. Không làm ướt áo cà sa của lão tăng, ý là căn tính lợi lạc không bị nhiễm nước bùn. Mặt trời có mọc, lặn; mặt trăng có tròn, khuyết. Chúng ta nên từ trong sinh diệt biết an trú ở chân tâm  không sinh diệt.

1222.  Chỉ trời, chỉ đất.
Một ông tăng đến bái phỏng Đạo Khâm, thưa:
- Đệ tử mới vào thiền viện xin thầy khai thị.
- Một tay chỉ trời, một tay chỉ đất.
                                            (Bồ đề linh quang)
Thiền sư dẫn tích Phật đản sinh (xem công án 60, 72, 507) để chỉ cho ông tăng tự phát hiện tự tánh.

1223.  Không thể hiểu.
Một ông tăng hỏi Vân Môn:
- Thế nào là chỗ tu hành của người xuất gia chân chính?
- Là chỗ không người hiểu được.
- Làm sao mọi người không hiểu được?
- Vậy ngươi hãy cố tìm hiểu cái không hiểu được.
                                             (Bồ đề linh quang)
Mọi nhận thức đều từ bất nhận thức mà ra. Trở về cái bất nhận thức (tức Không) chính là cái thiền cảnh “Không” mà ta muốn tìm.

1224.  Một phiến đá trong không.
Có ông tăng hỏi Thạch Sương:
- Ý tổ sư từ Tây qua là gì?
- Giống như một tảng đá từ không bay tới.
Ông tăng lạy tạ, thiền sư hỏi:
- Ngươi hiểu ý này không?
- Con không hiểu.
- May mà ngươi không hiểu nếu không đã bị tảng đá đập bể đầu rồi.
                                                  (Bồ đề linh quang)
Hễ có một niệm thì niệm niệm theo nhau không cùng. Đó không phải là thiền cảnh. Phải nên “ nhấc lên được, cũng bỏ xuống được” thì sẽ không bị tảng đá trong không làm tâm mê, ý  loạn, vỡ đầu chẩy máu.

1225.  Ở bên bờ sông mà chết khát.
Tuyết Phong Nghĩa Tồn bảo đại chúng:
- Các ngươi ngày ngày học Phật, tham thiền phải nhớ rằng có người ngồi ngay bên cạnh mâm cơm mà chết đói, có người đến bên bờ sông nước chẩy cuồn cuộn mà chết khát. Đây chẳng phải là chuyện đùa.
                                                   (Bồ đề linh quang)
Chúng ta mọi lúc đều ở trong Đạo, nhưng vẫn có người không biết điều đó, thậm chí còn đi ngược lại Đạo. Chúng ta hàng ngày chìm đắm trong sinh hoạt, có người bị sinh hoạt làm rối loạn thậm chí uổng phí cả một kiếp người không phải sao?

1226.  Dùng nèo chỉ cơ.
Hòa thượng Bí Ma Nham ở Ngũ Đài Sơn tay thường cầm một cái nèo, thấy ông tăng nào đến lạy liền dùng nèo móc vào cổ hỏi:
- Ma quỷ nào bảo ngươi xuất gia? Ma quỷ nào bảo ngươi hành cước?  Đáp được hay không đều chết dưới cây nèo này, nói mau! Nói mau!
Học tăng ít người trả lời được.
                                               (Bồ đề linh quang)
Trực tâm là Đạo, cứ vươn thẳng cổ ra để thiền sư móc.

1227.  Cơ ngữ qua sông.
Lương Giới cùng Mật sư bá cùng qua sông. Lương Giới hỏi:
- Qua sông thế nào?
- Không làm ướt chân.
- Sư bá già rồi còn nói vậy!
- Còn ngươi thì nói sao?
- Chân không bị ướt.
                                                       (Bồ đề linh quang)
Nói điên đảo làm lộ ra “ngã” chủ thể. Thật là chân ngộ vậy.

1228.  Có khác gì khóc.
Ngưỡng Sơn lúc còn là chú tiểu, tụng kinh tiếng rất vang. Nhũ Nguyên la:
- Chú này đọc kinh như khóc.
- Đúng vậy, còn hòa thượng thì sao?
Nhũ Nguyên nhìn quanh không hiểu.
- Nều thầy như vậy thì có gì khác với khóc đâu?
                           (Bồ đề linh quang)
Bản tánh tự nhiên, không bó buộc theo một cách nào cả.

1229.  Tường Đông đánh tường Tây.
Một ông tăng hỏi Quy Nhân:
- Sinh hoạt của Linh Tuyền (pháp hiệu của Quy Nhân) thế nào?
- Tường Đông đánh tường Tây.
- Vậy làm sao qua ngày?
- Nồi không chân, lửa không khói.
- Sáng tối hai thời làm sao cúng dường?
- Ông lão quê thổi cơm không có gạo, buổi họp mặt bên bờ suối không có người đến dự.
                                    (Bồ đề linh quang)
Cách sinh hoạt của Linh Tuyền là tứ đại giai không.

1230.  Đánh vỡ đáy thùng.
Lâm Tế từng nói:
- Khi ta chưa khai ngộ, thấy quanh mình đều là sơn đen, giống như bị cấm cố trong một cái thùng vậy.
                                           (Bồ đề linh quang)
Người sau nhân đó khi giải thoát được mê vọng hoát nhiên tỉnh ngộ gọi là phá vỡ đáy thùng. Bàn Khuê cũng có một câu kệ:
Đáy thùng cổ vỡ rồi
Cả một vòng đất trời!
Đáy thùng vỡ rồi, phía dưới là một vòng tròn, trời đất đều ở trong đó.

1231.  Bao dung.
Có 2 chú tiểu tranh cãi, không ai nhường ai; chỉ còn cách tìm sư phụ làm trọng tài. Chú thứ nhất trình sư phụ lý do của mình. Sư phụ nghe rồi bảo:
- Ngươi đúng!
Chú ta nghe rồi vui vẻ đi ra.
Chú thứ hai trình ý kiến của mình, sư phụ nghe rồi bảo:
- Ngươi cũng rất đúng!
Chú này rất cao hứng đi ra.
Thị giả đứng hầu một bên, ngạc nhiên hỏi:
- Sư phụ bảo chú này đúng, chú kia cũng đúng, vậy thì ai sai?
Thiền sư cuời bảo thị giả:
- Ngươi cũng đúng!
                                              (Hảo tuyết phiến phiến)
Có thị phi là có đối đãi, không khế hợp với Đạo. Thiền tâm là bao dung. Kinh Hoa Nghiêm nói nếu trụ ở phân biệt sẽ làm hỏng mất thanh tịnh, ngu si tà kiến tăng, vĩnh viễn không thấy được chư Phật. Đối với người mới tu, bao dung là một loại học tập; còn đối với người khai ngộ, đã thấy được thực tướng của vạn pháp, biết Phật tánh của mọi người đều bình đẳng thì sự bao dung là lý đương nhiên.

1232.  Phật là thế nào?
Có một ông tăng hỏi Diên Chiểu:
- Thế nào là Phật?
- Thế nào là không Phật?
Ông tăng thưa:
- Con không rõ lời huyền diệu, xin thầy trực tiếp chỉ thị.
- Nhà ở bờ biển Đông, mặt trời lên sẽ được chiếu sáng trước.
                                                    (Bồ đề linh quang)
Phật ở mọi thời, mọi nơi, phản chiếu tự tâm sẽ thấy.

1233.  Nở đã lâu rồi.
Một ông tăng hỏi thiền sư:
- Cây nở hoa không?
- Đã nở lâu rồi.
- Còn kết quả không?
- Đêm qua sương xuống làm rụng rồi!
                                                (Bồ đề linh quang)
Nở hoa, kết quả là bản tánh của cây. Chấp vào kết quả là còn mê vọng.

1234.  Hoa sen nở trên đá.
Có ông tăng hỏi thiền sư Uẩn:
- Thế nào là thiền?
- Hoa sen trên đá, nước suối trong lò lửa.
- Thế nào là Đạo?
- Một cọng cỏ trên đỉnh Lăng Già.
- Thiền và Đạo khác biệt thế nào?
- Người bùn xuống nước, người gỗ mò tìm.
                                                     (Bồ đề linh quang)
Thiền là ngộ ở trong tâm, ở bên ngoài nhìn không thấy, sờ không được.

1235.  Chuyện cây bách có tặc cơ.
Đức Sơn Sơ Kỳ, Ẩn Nguyên sang Nhật Bản truyền giáo. Đây là một sự kiện trọng đại. Kể từ đời Liêm Thương Thiền từ Trung Quốc truyền sang Nhật Bản, ít có cao tăng đến Nhật. Chư Tăng Nhật Bản rất kính trọng mời ông trụ trì Bản Sơn Diệu Tâm Tự. Ẩn Nguyên có lần đến Hoa Viên Diệu Tâm Tự ở kinh đô hỏi:
- Khai sơn tổ sư của quý tự có để lại ngữ lục gì không?
- Không có ngữ lục, nhưng có để lại một câu “Chuyện cây bách có tặc cơ” (Xem công án 786)
Ẩn Nguyên kinh ngạc, kính phục thiền học của Quan Sơn hướng về tháp Quan Sơn mà vái lạy.
                                                     (Bồ đề linh quang)
Chữ tặc trong tặc cơ chỉ người mạnh lấy đi vật của người khác. Ở đây chỉ thiền giả lấy đi vọng tưởng phiền não, khiến thiền sinh thấy được khuôn mặt xưa nay.

1236.  Mười phương thế giới là tâm ngươi.
Có ông tăng hỏi Trường Sa Cảnh Sầm:
- Tâm con có dạng thức gì?
- Chính mười phương thế giới là tâm ngươi.
- Nếu tâm con rộng lớn như thế thì thân thể con ở đâu? Chẳng lẽ không có chỗ để thân sao?
- Đó chính là chỗ để thân ngươi.
                                                           (Bồ đề linh quang)
Tâm và thế giới hợp nhất tức là thiền cảnh.

1237.  Tùy xứ an nhàn.
Hoa Nghiêm hỏi Thạch Môn:
- Cổ nhân nói: “Một người có thể làm tâm an ninh nhàn dật thì tự nhiên cùng Đạo hợp nhất”.  Điều này có phải là chân lý không và cứ thế mà làm thì có đúng không? Xin thầy giải thích.
- Nếu hiểu đạo lý này có thể tùy xứ an ninh, bình hòa giống như một người ở thành thị nghe được chuyện lạ vẫn bình tĩnh. Không hiểu đạo lý này tâm cũng có thể an ninh, bình hòa nhưng giống như một người ở làng quê nghe được chuyện lạ thì kinh dị đi loan truyền khắp nơi.
Hoa Nghiêm nghe rồi có chút lãnh hội.
                                               (Bồ đề linh quang)
Tâm bình thường là Đạo, như người ngồi thuyền gặp sóng gió, nếu coi tất cả đều không thì dù có gập biến cũng không sợ hãi.

1238.  Vô tâm gõ vô tâm.
Có một ông quan chỉ cái mõ hỏi Hồng Nhân:
- Cái này là cái gì?
- Vật để cảnh tỉnh người buồn ngủ.
- May tới chốn này!
- Thật là (người) vô tâm gõ (vật) vô tâm.
                                                        (Bồ đề linh quang).
Khoảng không trong mõ là “vô tâm”. Người vô tâm là không vọng niệm. Vô tâm gõ vô tâm mới là vào thẳng cửa không.

1239.  Trời sáng gà gáy.
Một ông tăng hỏi Nguyệt Luân:
- Phải tu hành thế nào để thấy khuôn mặt xưa nay?
- Không cần phải treo gương đá, hễ trời sáng là gà gáy.
                                                  (Bồ đề linh quang)
Thấy khuôn mặt xưa nay là chỉ minh tâm kiến tánh, treo gương đá chỉ cầu Phật là hư vọng. Câu của thiền sư có nghĩa là ngộ rồi thì có thể kiến tánh thành Phật.

1240.  Khởi công từ chỗ nào?
Triệu Châu và thủ tọa cùng đi thăm cầu đá Triệu Châu, Triệu Châu hỏi:
- Cầu này ai xây?
- Lý Dung thiết kế và xây.
- Xây từ chỗ nào?
Thủ tọa không lời đối lại, Triệu Châu bảo:
- Bình thời ngươi nói về cầu đá Triệu Châu rành rẽ lắm, sao hỏi ngươi chỗ hạ thủ lại không biết?
                                                      (Bồ đề linh quang)
Chỗ nào là chỉ không gian. Trong Phật giáo chỗ nào chính là chỗ này; tất cả đều bắt đầu từ đây. Khởi điểm của Thiền ở đây, bây giờ, tự mình. Nếu lìa chúng thì thiền đạo cũng không tồn tại.

1241.  Không chấp tướng.
Thiền sư Cảnh Sầm người Trường Sa là đệ tử của thiền sư Nam Tuyền, đàm thiền luận đạo, cơ phong mẫn tiệp; đồng đạo đều tôn xưng là hổ hòa thượng. Một tết trung thu, Cảnh Sầm và Ngưỡng Sơn cùng thưởng nguyệt.  Ngưỡng Sơn chỉ trời nói:
- Cái này mọi người đều có, chỉ vì vô minh nên không sử dụng được.
Cảnh Sầm không cho là phải:
- Nếu mọi người đều có, làm sao không có ai sử dụng được? May hôm nay cơ duyên hội hợp; vầng trăng sáng này chờ ngươi sử dụng. hãy thử xem nào!
- Dùng trăng sáng rất thú vị, mời pháp tọa dùng thử trước.
Cảnh Sầm không khách khí đạp ngã Ngưỡng Sơn. Ngưỡng Sơn không giận còn tán thán “Thật giống hổ”. Vì thế về sau mọi người đều gọi ông là Sầm Đại Trùng.
                                                         (Tinh Vân Thiền Thoại)
Ngưỡng Sơn nói trăng sáng bị mây che lấp tương tự tâm chúng ta bị vô minh, phiền não che lấp. Cảnh Sầm thì cho rằng chỉ cần có thiền thì mây tan trăng lộ. Đạp ngã Ngưỡng Sơn chỉ dưới ánh trăng thiền còn cần gì ngươi nói nhiều? Câu tán thán của Ngưỡng Sơn có nghĩa là thiền có thể tĩnh, có thể động, thiền lực như sư tử, hổ báo. 

1242.  Chặt giun làm hai.
Đời mạt Đường, một ông tăng hỏi Diên Khánh:
- Một con giun bị chặt đôi, hai đầu đều động đậy, không biết Phật tánh ở đầu nào?
Diên Khánh không đáp, chỉ dang hai tay ra.
                                              (Bồ đề linh quang)
Diên Khánh dùng tay để diễn  ý hai tay đều động, Phật tánh ở đâu? Phật tánh ở tâm, không đâu không có  (Xem thêm công án 1954).

1243.  Ngày nay, ngày mai.
Có ông tăng hỏi thiền sư Diễn Giáo:
- Ý  tổ sư từ Tây sang là gì?
- Ngày nay, ngày mai. 
                                                     (Bồ đề linh quang) 
Ngày nay, ngày mai đều bình thường. Bình thường là Thiền. Người không ngộ nói nhiều vô ích, người lãnh hội ngày ngày  đều ở trong Đạo.

1244.  Trăng khuyết, trăng tròn.
Thạch Thất và Ngưỡng Sơn cùng thưởng nguyệt. Ngưỡng Sơn hỏi:
- Khi trăng khuyết thì trăng tròn đi đâu? Khi trăng tròn thì trăng khuyết đi đâu?
- Khi trăng tròn thì trăng khuyết ẩn, khi trăng khuyết thì trăng tròn ẩn.
                                                        (Bồ đề linh quang)
Cảnh trăng là cảnh thiền. Trong tròn có khuyết, trong khuyết có tròn (Xem thêm công án 346).

1245.  Trú xứ của chân Phật.
Có ông tăng hỏi Quang Dũng:
- Chân Phật trú ở đâu?
- Tức thời không hình trạng, cũng không ở chỗ nào khác.
                                                             (Bồ đề linh quang)
Chân Phật ở tự tánh cho nên nói không hình trạng, cũng không ở chỗ nào khác (vì ở khắp mọi chỗ).

1246.  Không phải là Phật thì là ai?
Một lần, có vài pháp sư đến tham kiến Huệ Hải. Một ông hỏi:
- Muốn hỏi một vấn đề, thiền sư có chịu trả lời không?
- Bóng trăng dưới ao sâu, tùy ý nắm bắt.
- Thế nào là Phật?
- Đối mặt ao trong chẳng phải Phật thì là ai?
                                                (Bồ đề linh quang)
Ý thiền sư là trước mặt ta người người đều có tự tâm là Phật.

1247.  Phật cũng là bụi.
Có ông tăng hỏi Vân Môn:
- Khi con quét sạch bụi trần, phiền não, thấy Phật rồi thì sao?
- Lúc đó ngươi thấy Phật cũng là bụi, là phiền não, cũng phải quét đi.
                                          (Bồ đề linh quang)
Có thấy là không phải chân không, cho nên chưa thấy chân Phật. 

1248.  Bảo Phúc.
Có ông tăng hỏi Bảo Phúc:
- Thế nào là gia phong của hòa thượng?
- Mây trên trời xanh, nước trong bình.
                                              (Thiền ngoại thuyết thiền)
Bảo Phúc dùng lại câu nói của Dược Sơn (Xin xem công án 1021).

1249.  Hưng Giáo.
Có ông tăng hỏi Hưng Giáo:
- Thế nào là Đạo?
- Cạo đầu vào chỗ hoang vu.
- Thế nào là người trong Đạo?
- Que cứt khô.
                                              (Thiền ngoại thuyết thiền)
Hưng Giáo dùng lại câu nói của Vân Môn (Xem công án 199).

1250.  Phàm và thánh.
Có ông tăng hỏi Đức Sơn Tuyên Giám:
- Phàm và thánh khác nhau nhiều ít?
Đức Sơn bèn hét lớn.
                                               (Thiền sư  khải ngộ pháp)
Phàm là chỉ cảnh giới của người đời, cũng là hiện tượng giới. Thánh là cảnh giới sau khi ngộ, cũng là bản thể giới. Đối với người kiến tánh thì phàm và thánh chỉ là một vì lìa hiện tượng thì không có bản thể. Câu ông tăng hỏi xuất phát từ tâm phân biệt. Đức Sơn hét lớn để cắt đứt vọng niệm của ông tăng.

1251.  Đại ý Phật pháp.
Một ông tăng hỏi Cảnh Như:
- Đại ý Phật pháp là thế nào?
Thiền sư hét lớn.
                                                   (Thiền sư khải ngộ pháp)
Lời giảng cũng tượng tự công án trên.

1252.  Hừ!
Mỗi khi có thiền sinh nào hỏi về pháp, về thiền, về Đạo, Toàn Hoát đều hét lên:
- Hừ!
                                               (Thiền sư khải ngộ pháp)
Tiếng hừ trong đời thường có hàm ý cấm đoán, thiền sư ám chỉ câu của ngươi hỏi phát xuất từ vọng tâm chỉ làm trở ngại sự kiến tánh.

1253.  Vô niệm.
Đại Châu nói:
- Vô niệm là ở tất cả mọi nơi đều vô tâm, không mong cầu đối với mọi cảnh giới không động niệm.
                                                      (Thiền sư khải ngộ pháp) 
Đối với Đại Châu vô niệm là không bị ngoại cảnh hạn chế, không có tình thức quyến luyến, đối với ngoại cảnh hoàn toàn khách quan, không bị khích động. Cảnh giới này không thể dùng phương thức lý giải của thế giới nhị nguyên mà giải thích được.

1254.  Nghiệp thức mang mang.
Quy Sơn hỏi Ngưỡng Sơn:
- Chúng sinh nhân vì tâm bị ô nhiễm quá nghiêm trọng không biết tự kỷ Phật tánh, ngươi có biện pháp nào để biết nghiệp thức của họ ở đâu không?
- Con đương nhiên có biện pháp.
Chính lúc đó có một ông tăng đi qua. Ngưỡng Sơn kêu ông ta một tiếng,  ông tăng ngoảnh đầu lại. Ngưỡng Sơn thưa:
- Thầy coi!  Đấy là nghiệp thức mang mang không chỗ nắm bắt.
                                                               (Bồ đề linh quang)
Trong cõi hồng trần, người người đều là cố nhân. Chỉ cần thức ngã, biết ngã, quên ngã, không bị ngã trói buộc thì mới chính thức vượt ra  ngoài tam giới.

1255.  Rõ mình, ngộ ngay trước mắt.
Tổ Tâm thượng đường bảo đại chúng:
- Chỉ rõ mình mà không lãnh ngộ sự trước mắt là người có mắt không  chân. Lãnh ngộ sự trước mắt mà không rõ mình là người có chân không mắt. Hai loại người này thường có một vật để trong lòng. Có vật trong lòng thì trước mắt thường hiện ra tướng bất an, mọi chỗ đều trở ngại, không thông làm sao an ổn? Chư tổ đã chẳng nói qua sao “Chấp vào được mất là đi vào tà đạo. Cứ bỏ xuống hết, thuận theo tự nhiên thì chẳng có hơi thở đến, đi sai biệt”.
                                                      (Bồ đề linh quang)
Mắt thấy hãy còn là hư, chân đạp là thật. Đối với thiền giả mắt và chân đều trọng, bước đi trong đạo.

1256.  Ca Diếp múa.
Càn Đạt Bà Vương tấu nhạc, sơn hà đại địa đều vang tiếng đàn, Ca Diếp liền múa. Vương hỏi Thế Tôn:
- Ca Diếp là A La hán các lậu đều hết, sao hãy còn dư tập?
Thế Tôn đáp:
- Thật không còn dư tập, ngươi đừng báng pháp.
Vương lại đánh đàn ba lượt, Ca Diếp lại múa ba lần. Vương lại hỏi:
- Chẳng phải Ca Diếp múa sao?
- Thật không múa.
- Sao Thế Tôn lại vọng ngữ?
- Không vọng ngữ. Khi ngươi đánh đàn, sơn hà đại địa cỏ cây đều vang tiếng nhạc, chẳng phải sao?
- Dạ phải.
- Ca Diếp cũng vậy! Thật không có múa.
                                              (Thiền thất dữ công án đích áo bí)
Diệu nhạc của Càn Đạt Bà Vương là đại lực của cảnh giới Bồ tát. Do đó sơn hà đại địa, cỏ cây đều vang tiếng nhạc và Ca Diếp thì múa. Vương tuy phát tâm thâm viễn nhưng trí tuệ chưa hoàn toàn thông suốt ngay trí tuệ của mình, cũng chưa rõ nên không hiểu Ca Diếp vô tâm mà múa. Lúc đó đáng nhẽ Thế Tôn phải đánh cho ông 30 gậy. Đây là cảnh giới động tĩnh là một, múa mà không múa.

1257.  Dùng tay.
1-   Một ông tăng hỏi Hương Nghiêm:
- Thế nào là ý tổ sư từ Tây sang?
Hương Nghiêm thu tay vào lòng rồi dang hai tay ra.

2-  Một ông tăng hỏi Lạc Kinh Hắc Giản:
- Thế nào là người trong mật thất?
Lạc Kinh lấy tay đấm ngực.
                                                          (Thiền sư khải ngộ pháp)
Câu hỏi của hai ông tăng trên đều là hỏi về tự tánh. Hương Nghiêm và Lạc Kinh đều dùng động tác để trả lời. Động tác là chỉ bản thân biểu hiện, nhưng đây không phải là toàn bộ sinh mạng. Nếu chấp vào động tác là lạc vào hiện tượng giới, không hiểu được tự tánh là gì .

1258.  Cơ kêu mổ.
Một ông tăng hỏi Giang Tây Lư Sơn Song Khê Điền Đạo Giả:
- Thế nào là cơ kêu mổ?
Sư lấy tay ra dấu mổ.
                                                        (Thiền sư khải ngộ pháp)
Gà mẹ ấp trứng 21 ngày. Gà con từ trong kêu, gà mẹ mổ, gà con từ trong vỏ chui ra. Kêu mổ phải đồng thời. ông tăng hỏi dụng của cơ kêu mổ. Thiền sư dùng tay ra dấu mổ là chỉ thị, nếu ông tăng chưa siêu việt hiện tượng giới thì đây là sự trợ giúp rất tốt khiến ông thoát khỏi mê đắm mà thấy tự tánh (Xem công án 125).

1259.  Mèo bắt chuột.
Hối Đường hỏi Thảo Đường:
- Trong Đàn kinh có công án gió động, cờ động ngươi giải thích thế nào?
- Con một điểm nhập thủ cũng chẳng có, xin thiền sư chỉ điểm.
- Ngươi có xem mèo bắt chuột không? Khi rình chuột mắt nó không chớp, bốn chân quỳ trên đất đợi cơ hội hành động. Mắt, tai, mũi đều để ý đến chuột, đầu đuôi đều cùng một hướng. Từ đầu đến cuối chỉ một mục đích. Do đó, trăm lần vồ trăm lần trúng. Nếu ngươi làm được như vậy tâm không tưởng gì khác: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý tự nhiên thanh tịnh, tự mình thể hội. Bảo đảm trăm lần không sai.
Thảo Đường cứ y thế mà làm, qua một năm cuối cùng đại ngộ.
                                                                     (Bồ đề linh quang)
Thành hay bại là do “toàn thần quán chú” và “tâm viên ý mã”. Nhập thiền cũng không ngoại lệ.

1260.  Phật tánh của hòa thượng.
Có ông tăng hỏi Ứng Thiên:
- Mọi người đều có Phật tánh, Phật tánh của hòa thượng ở đâu?
- Ngươi bảo cái gì là Phật tánh?
- Vậy hòa thượng là người không có Phật tánh.
- Chính là thế đó! Ta khoái quá.
                                      (Bồ đề linh quang)
Tất cả đều không; Phật tánh thường tương tùy.

1261. Ô, guốc ở đâu?
Một hôm Thiên Vương đến thăm Nam Ẩn, gập lúc trời mưa không ngớt. Khi chào hỏi xong, Nam Ẩn hỏi:
- Ta biết ông để guốc ở ngoài hành lang nhưng ta không biết ông để cái ô ở bên phải hay bên phải hay bên trái đôi guốc?
Thiên Vương không trả lời được, rất mắc cỡ bèn bái Nam Ẩn làm thầy.
                                                    (Nhất vị thiền: quyển Phong)
Sau sáu năm theo thấy cuối cùng Thiên Vương đã đạt được yêu cầu của Nam Ẩn niệm niệm đều thiền.

1262.  Một cọng cỏ.
Đức Phật và chúng đệ tử tản bộ ở nơi điền dã, thấy phong cảnh đẹp đẽ, chỉ một khoảng đất bảo:
- Chỗ này nên xây chùa.
Thiên đế thuận tay ngắt một cọng cỏ cắm xuống đất:
- Bạch Thế Tôn, chùa đã xây xong.
Đức Phật gật đầu mỉm cười.
                                             (Hảo tuyết phiến phiến)
Một cọng cỏ là một tòa Phật điện trang nghiêm chẳng trách Triệu Châu nói lão tăng lấy một cọng cỏ làm gậy kim cương; lấy gậy kim cương làm một cọng cỏ. Các bậc tu hành nói 3 ngàn uy nghi, 8 vạn tế hạnh đều từ cái ‘một’ này mà bắt đầu. Phải nên quý một cọng cỏ, một hạt gạo, một bát cháo. Nên biết nước trong thiên hạ đều từ một giọt nước Tào Khê mà ra.

1263.  Cư sĩ có nhà không?
Thiên Nhiên đến thăm Bàng Uẩn, thấy một thiếu nữ đang ngồi nhặt rau ngoài cổng (Đó là Linh Chiếu, con gái Bàng Uẩn). Thiên Nhiên hỏi:
- Cư sĩ có nhà không?
Linh Chiếu bỏ rổ rau xuống, đứng dậy . Thiên Nhiên lại hỏi:
- Cư sĩ có nhà không?
Linh Chiếu nhấc rổ rau lên, bỏ đi.
                                                         (Thiền cơ)
Câu hỏi ‘Cư sĩ có nhà không?’ lần thứ nhất hàm ý: ‘cư sĩ có thể ở nhà, có thể không ở nhà’. Lần thứ hai có nghĩa là cư sĩ (chỉ tự tánh) không chỗ nào là không ở.

1264. Từ phương Nam tới.
Viên Quang hỏi một ông tăng mới tới:
- Ngươi từ phương Bắc hay phương Nam tới?
- Từ phương Nam.
- Không rơi vào ngôn ngữ, nói đi!
- Con người Phước Kiến.
- Tham thiền đi!
                                                          (Thiền cơ)
Không rơi vào ngôn ngữ ám chỉ vào thẳng tự tánh.

1265.  Đệ tử có bệnh.
Một ông tăng thưa với Hoàng Thông:
- Đệ tử có bệnh, thỉnh thầy chữa!
- Mang bệnh ra đây ta chữa cho.
- Mời thầy chữa.
- Trả tiền thuốc đi!
                                                            (Thiền cơ)
“Trả tiền thuốc đi” là ám chỉ ông tăng có phàm bệnh thiền sư sẽ cho thánh dược, ông tăng có thánh bệnh thiền sư sẽ cho phàm dược.

1266.  Thầy của Chư Phật.
Thúy Vi ở Chung Nam Sơn hỏi Đơn Hà:
- Thế nào là thầy của Chư Phật?
- Thật đáng thương, cầm chổi để làm gì?
                                               (Thiền sư khải ngộ pháp)
Đơn Hà mắng Thúy Vi còn muốn người phục dịch cái gì, khiến Thúy Vi thể ngộ được pháp giới nhất như của tự tánh.

1267.  Gánh Vác.
Huyền Sa và Đại Phổ chuyện trò với nhau. Huyền Sa nói:
- Chỉ dẫn cho một người hiểu rõ Đạo sinh hoạt thật khó.
- Đúng vậy, thật là khó!
- Khó ở chỗ nào?
- Ỡ chỗ hắn không chịu gánh vác.
                                                 (Thiền sinh mạng đích vi tiếu)
Vì không chịu gánh vác nên không có khả năng tham dự vào sinh hoạt. Do đó làm sao mà khoái lạc được? Khoái lạc là một loại sinh hoạt thực tiễn không phải tìm cầu mà được.

1268.  Trí Tạng và Lý Cao.
Thượng thư Lý Cao hỏi một ông tăng:
- Mã đại sư có lời dạy gì?
- Đại sư hoặc nói “Tức tâm tức Phật” hoặc nói “Phi tâm phi Phật”.
- Chưa quá bên này.
Lý Cao lại hỏi Trí Tạng . Trí Tạng gọi lớn:
- Lý Cao !
- Dạ!
- Cổ giác động.
                                                    (Thiền sư khải ngộ pháp)
Bên này là chỉ cảnh phàm. Công án có thể có 2 giải thích:
Lý Cao nhận rằng ông tăng đối với lời dạy của Mã Tổ chỉ lý giải chứ chưa thể ngộ, cho nên nói ông hãy còn ở trong cảnh phàm.
Lý Cao nhận mình chưa liễu giải.
Cổ giác:cổ là cái trống, giác là tù và, là những dụng cụ trong quân đội để báo giờ. Trí Tạng dùng cổ giác để chỉ tác dụng của tự tánh. Vì tự tánh vô hình vô tướng nên lời nói không thể dùng để tả nhưng có thể dùng để chỉ đạo cho thiền sinh ngộ nhập tự tánh.

1269.  Không rời pháp đường.
Dược Sơn hỏi Đạo Ngô:
- Ngươi từ đâu tới?
- Đi chơi núi tới.
- Không rời pháp đường, nói mau!
- Trên núi chim trắng như tuyết, dưới khe cá lội tung tăng.
                                               (Thiền ngộ dữ thực hiện)
Câu hỏi của Dược Sơn là song quan ngữ (một mặt chỉ tự tánh, một mặt chỉ pháp đường), nếu ngươi không rời pháp đường làm sao du sơn ngoạn thủy? Đạo Ngô không bị mắc bẫy rơi vào văn tự và trí giải, dùng cảnh sắc mà trả lời.

1270.  Làm sao để thành Phật.
Một ông tăng hỏi Huệ Trung:
- Làm sao mới thành Phật?
- Tâm là Phật.
- Tâm này có phiền não không?
- Phiền não tự nhiên không khởi.
- Vậy là phải cắt đứt phiền não?
- Nếu cắt đứt phiền não thì là nhị thừa, phải không sinh phiền não thì mới là đại Niết Bàn.
                                      (Thiền Ngộ Dữ Thực Hiện)
Niết Bàn là chỉ tâm đạt tới cảnh giới thanh tịnh, tròn đầy không còn phiền não.

1271.  Chánh pháp nhãn tạng.
Lâm Tế sắp di hóa bảo chúng đệ tử:
- Ta mất rồi, không được làm mất chánh pháp nhãn tạng của ta.
Đệ tử Tam Thánh bước ra thưa:
- Không dám làm mất đâu.
- Về sau có người hỏi ngươi, ngươi sẽ trả lời làm sao?
Tam Thánh lập tức hét to.
- Không ngờ chánh pháp nhãn tạng của ta bị mất bởi con lừa mù này!
Lâm Tế nói rồi nhắm mắt an tọa, ly khai nhân thế.
                                              (Nhất vi thiền: quyển Nguyệt)
Chánh pháp nhãn tạng còn được gọi là thanh tịnh pháp nhãn. Chánh là trung chánh, không nghiêng về một bên; pháp là cái tâm thể trung chánh hiển hiện; nhãn là có thể chiếu soi mọi vật; tạng là tâm chứa mọi thiện pháp. Chúng ta tập quán dùng mắt thịt mà coi vạn tượng thế gian, rồi dùng thường thức mà phán đoán. Do nhiều nguyên nhân cá biệt, mỗi người đều có cái nhìn khác nhau. Nếu dùng chánh pháp nhãn tạng thì phải có tâm nhãn thanh tịnh, vô nhiễm, lấy tâm vô phân biệt mà quán sát sự vật. Chúng ta phải đóng con mắt thường, mở con mắt huệ, đứng trên quan điểm duyên khởi, tánh không mà quan sát sự vật thì mới xem thấy đước thực tướng của vạn vật.

1272.  Một khúc tiêu thiền.
Giác A là người Nhật bản đầu tiên đến Trung Quốc học thiền đã được truyền chánh pháp. Sau đó ông cũng không đi khắp nơi du sơn ngoạn thủy, chỉ tìm chỗ thâm sơn cùng cốc mà ngồi tham thiền nhập định. Nếu có người tìm đến học hỏi ông chỉ lược thuyết vài câu. Sau đó ông lại dời đi chỗ khác, không để lại tung tích. Sau nhiều năm tham thiền ở Trung quốc, ông trở về nước. Thiên Hoàng nghe tiếng ông, mời ông vào Hoàng cung giảng pháp. Ông đứng yên lặng trước mặt Thiên Hoàng rồi rút ở trong tay áo ra một một ống tiêu. Ông thổi một điệu tiêu sau đó cung kính vái chào bỏ đi.
                                                     (Nhất vị Thiền: Quyển Phong)
Giác A chỉ thổi một điệu tiêu thôi, không biểu thị gì khác. Do đó, mọi người không nhận ông đã đem thiền vào Nhật Bản, nhưng mỗi khi nghe tiếng chim hót ríu rít, tiếng suối róc rách, tiếng gió thổi qua lá rì rào . . . thì tiếng tiêu đó như phảng phất bên tai chúng ta.

1273.  Trong rừng vắng.
Một hôm, Đức Phật ngồi thiền trong rừng vắng. Trừ tiếng gió thổi qua lá ra không có tiếng động nào khác; có khi ngay cả tiếng gió cũng không có nữa. Tất cả đều im lặng. Đột nhiên Ngài nghe có tiếng tranh cãi của một đôi nam nữ từ xa vọng lại. Không lâu thấy một thiếu nữ hoảng hốt chạy qua, không biết có Đức Phật đang ngồi thiền dưới bóng cây. Lại một lát sau, một chàng thanh niên chạy tới, trông thấy Đức Phật bèn hỏi:
- Ông có thấy một thiếu nữ chạy qua đây không? Cô ta đã trộm tiền của tôi.
- Đi tìm người thiếu nữ và đi tìm chính mình, điều nào quan trọng hơn?
Chàng thanh niên kinh ngạc, trong sát na đó như người tỉnh mộng.
                                          (Nhất vị Thiền: Quyển Phong)
Đánh mất chính mình để đi tìm vật dục thật là ngu xuẩn.

1274.  Xuống giường đứng.
Một ông tăng hỏi Triệu Châu:
- Thế nào là ý tổ sư từ Tây sang?
Triệu Châu xuống giường đứng yên.
- Có phải lão sư chỉ như vậy không?
- Ta còn chưa nói mà.
                                         (Thiền sư khải ngộ pháp)
Triệu Châu xuống giường đứng là dùng động tác để chỉ thị. Ông tăng không hiểu nên hỏi lại tự tánh có phải là như thầy chỉ không? Tự tánh không có phạm vi, giới hạn, chỉ có mình tự thể nghiệm mà biết thôi, không thể phân biệt. Câu đáp của Triệu Châu có nghĩa là ta không có gì để chỉ điểm cả, bác bỏ kiến giải của ông tăng.

1275.  Đào đất tìm trời.
Có ông tăng hỏi Thiện Chiêu:
- Đại đạo lúc bắt đầu thế nào?
- Đào đất bùn tìm trời xanh.
- Như vậy sao được?
- Hãy nhận thức lý u huyền!
                                                  (Bồ đề linh quang)
Tìm ngược về khởi nguyên của Đạo là chấp mê, giống như đào đất mà tìm trời xanh.

1276.  Xúc mục Bồ đề.
Một ông tăng hỏi Tuyền Châu:
- Thế nào là xúc mục Bồ đề? 
Sư lấy gậy đánh đưổi đi.
                                                 (Thiền sư khải ngộ pháp)
“Xúc mục Bồ đề” là chỉ những gì mắt nhìn, không gì không là Bồ đề. Trong sinh hoạt hàng ngày không có gì không phải là do tự tánh biểu lộ; nhưng điều này phải do chính mình thể ngộ, không thể do người khác bảo cho biết vì những gì người khác nói hay chỉ đều là lý niệm không phải là thể nghiệm. Trong công án này Tuyền Châu lấy gậy đuổi ông tăng đi, nếu ông ngộ thì đó là đáp án của thiền sư, nếu ông không ngộ thì động tác của thiền sư có ý nghĩa là hãy bỏ vọng niệm đi.
 

1277.  Huệ Minh nhấc bát.
Viễn Châu Mông Sơn Huệ Minh, đuổi theo Lư hành giả tới Đại Dữu Lãnh. Huệ Năng để y bát trên tảng đá, sư nhấc lên không được bèn thưa:
- Tôi đến vì pháp, không vì y bát, xin hành giả khai thị.
- Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, ngay lúc đó cái gì là khuôn mặt xưa nay của Minh thượng tọa?
Sư nghe rồi ngộ.
                                                (Thiền Thất dữ công án đích áo bí)
Huệ Minh và Huệ Năng cùng là đệ tử của Hoằng Nhẫn. Một người thô tục chỉ muốn đạt danh vị, còn một người là bậc chân tu. Khi Huệ Minh truy sát Huệ Năng, Huệ Năng để y bát lên trên tảng đá, Huệ Minh đến nhấc lên không được mới nói “Tôi đến vì pháp không vì y bát. Xin hành giả khai thị.” Đó là hồi đầu chuyển xứ. Chính sự hồi đầu này là cơ duyên khai ngộ. Có người ở tình cảnh này không chịu ngừng bước nên không có cơ hội mà tham ngộ. cũng giống như tên cướp Ưng Quật Ma La cầm dao bức Phật. Phật bảo “Ta đã ngừng rồi, sao ngươi còn chưa ngưng?”. Tên cướp đột nhiên ngộ đến sự khốn quẫn của thân mình, không hướng ngoại bôn ba mà hướng nội phản chiếu do đó giác ngộ.

1278.  Mã Tổ gửi thư.
Mã Tổ sai người đem thư cho Quốc Nhất Đạo Khâm. Đạo Khâm mở thư ra chỉ thấy trong thư vẽ một vòng tròn. Đạo Khâm chấm vào vòng tròn một điểm, rối gửi trả lại. Trung quốc sư nghe được chuyện này phê bình:
- Khâm sư hãy còn bị Mã sư mê hoặc.
                                (Thiền Thất dữ công án đích áo bí)
Mã Tổ thích đùa cợt người. Ông vẽ một vòng tròn gửi cho Đạo Khâm là đạo lý gì? Kỳ thực chẳng có đạo lý gì; chỉ là bình thường vẽ một cảnh giới tròn đầy cho Quốc Nhất. Quốc Nhất không ngờ đó là cái bẫy nên bị rơi vào. Ông Chấm 1 điểm vào vòng tròn là công phu của ông là chiếu cả bản lai diện mục. Nhưng điểm của ông còn bị vòng tròn bao vây. Ông chỉ chiếu chứ không thể hoạt. Trung quốc sư là người sáng mắt lợi khẩu nên bảo Khâm sư bị Mã sư mê hoặc. Thực ra cái bẫy của Mã sư đã bị Khâm sư khám phá, nhưng vẫn bị rơi vào. Trung quốc sư cũng vậy cũng ở trong bẫy nốt. Vòng tròn của Mã sư vẽ thiên vẽ địa, bất cứ ai cũng ở trong đó cả. nhưng ở trong đó đâu có sao? Chỉ cần thanh tịnh là được.

1279.  Phùng trường tác hý.
Khắc Cần lên giảng đường nói:
- Lửa, chẳng chờ mặt trời mọc mới nóng; gió chẳng đợi trăng lên mới mát, chân hạc dài, chân vịt ngắn, thiên nga trắng, quạ thì đen, mọi sự đều hiển lộ. Nếu lãnh hội ở mọi nơi đều làm chủ, gập cơ duyên đều là thiền chỉ, giống như nghệ sĩ giang hồ có mang theo gậy trúc phùng trường tác hý. Có  hạng người ấy chăng?
                                                         (Bồ đề linh quang)
Vạn vật đều hàm thiền chỉ; mọi sự mọi nơi, mọi thời đều có thể tham ngộ; chỉ là nghệ sĩ giang hồ phùng trường tác hý ít thấy thôi.

1280.  Gương cổ và thế giới.
Tuyết Phong bảo đại chúng:
- Các ngươi biết không, nhận thức và đối tượng khế hợp nhau; nếu thế giới vuông tròn một thước thì gương cổ cũng vuông tròn một thước. Nếu thế giới vuông tròn một trượng thì gương cổ cũng vuông tròn một trượng.
Huyền Sa Sư Bị chỉ lò lửa hỏi:
- Cái này lớn chừng nào?
- Gương cổ cũng lớn cùng cỡ.
                                                            (Bồ đề linh quang)
Gương cổ (chỉ sự nhận thức) phản chiếu thế giới. Vạn sự vạn vật đều ở trong gương cổ.

1281.  Phá chấp.
Bắc Dã là vị trụ trì ở Vĩnh Bình Tự, lúc trẻ thích vân du bốn phương. Năm 20 tuổi trên đường hành cước ông gặp một người hút thuốc, 2 người kết bạn vượt qua đường núi. Đến một gốc cây 2 người ngồi nghỉ mệt. Người bạn đồng hành đưa điếu thuốc thuốc cho ông. Vừa mệt, vừa đói, Bắc Dã nhận lấy và hút vài hơi. Sau đó ông khen vị thuốc rất ngon. Người kia bèn tặng luôn ống điếu và một ít thuốc cho ông. Sau khi người bạn đồng hành đi khỏi, Bắc Dã nghĩ bụng “Hút thuốc thích thật nhưng sẽ làm trở ngại thiền định, ta phải ngưng ngay để khỏi tích ác thành tập”. Do đó ông ném bỏ ống điếu và thuốc hút. Ba năm sau, ông bắt đầu nghiên cứu kinh Dịch. Lúc đó vào mùa đông, ông rất cần áo ấm, bèn viết thư nhờ người mang đến lão sư ở cách xa cả trăm dậm. Mùa đông đã qua gần hết mà áo ấm vẫn chưa nhận được, cũng chẳng có thư tín gì cả. Bắc Dã bèn bói một quẻ thì biết thư mình chưa đến. Quả nhiên không lâu nhận được thư của sư phụ, trong thư không hề đề cập đến chuyện áo ấm. Bắc Dã kinh dị nghĩ bụng “Nếu Dịch học có tác dụng như thế sẽ hủy hoại khóa trình thiền học của ta.” Do đó ông lại bỏ sự nghiên cứu kinh Dịch. Năm 28 tuổi ông lại thích thư pháp và làm thơ, ngày càng tiến bộ và được lão sư khen ngợi. Ông lại nghĩ: “Nếu ta không đình chỉ ngay ta sẽ thành một nhà thi họa, hay một thi sĩ chứ không phải là một thiền sư nữa.”
                                                        (Nhất vị Thiền: Quyển Phong)
Bắc Dã viên tịch năm 1433 thọ 92 tuổi, suốt đời nỗ lực phá chấp tất cả mọi sự việc.

1282.  Thiền gần.
Huyện lệnh Thành Đô là Phạm Mỗ nghe nói Viên Ngộ Khắc Cần đến Thành Đô trú ở Chiêu Giác Tự, bèn đến xin thiền sư chỉ con đường Đạo. Viên Ngộ bảo ông tham câu của Mã Tổ  “Không phải là tâm, không phải là Phật, không phải là vật” là ý nghĩa gì?
Phạm Mỗ tham cứu rất lâu nhưng chẳng được gì, khóc thưa với Viên Ngộ:
- Xin thầy phương tiện chỉ cho con đường nào khiến con hiểu được Thiền.
- Ở đây ta có một cách rất giản tiện ngươi chỉ cần nghĩ nó là cái gì, không là cái gì?
Phạm Mỗ cuối cùng khai ngộ thưa:
- Nguyên lai Thiền không ngăn cách chút nào, ở ngay bên cạnh.
                                                          (Bồ đề linh quang)
Thiền nói xa thì xa, nói gần thì gần. người cho là huyễn thì xa vạn lý, người biết bình thường thì ở ngay tâm.

1283.  Chèo quậy sóng xanh, khó gập cá vàng.
Một hôm Thuyền Tử dừng thuyền ở bờ, ngồi chơi. Có một vị quan nhân hỏi:
- Việc hàng ngày của hòa thượng là gì?
Thuyền Tử giơ mái chèo lên hỏi:
- Hiểu không?
- Không hiểu.
- Dùng mái chèo quậy sóng xanh, khó gập cá vàng.
                                                           (Bồ đề linh quang)
Chấp mê khó thấy chân Đạo, ngồi chơi (vô tâm) lại gần thiền cảnh.

1284.  Báo danh khế ngộ.
Lương Toại đến thăm Ma Cốc. Ma Cốc thấy ông tới giơ cuốc lên cuốc cỏ. Lương Toại đến chỗ cuốc cỏ. Ma Cốc không thèm nhìn ông trở về phòng phương trượng, đóng cửa lại. Ngày hôm sau Lương Toại lại đến. Ma Cốc vẫn đóng cửa. Lương Toại gõ cửa. Ma Cốc hỏi:
- Ai?
- Lương Toại.
Vừa báo danh xong, Lương Toại hốt nhiên lãnh ngộ, thưa:
- Hòa thượng đừng lừa con, nếu con không đến bái phỏng hòa thượng thì đã bị Phật điển, kinh luận lừa dối một đời rồi. 
Ma Cốc mở cửa tiếp kiến.
Lương Toại về giảng xá nói với đại chúng:
- Những gì các ngươi biết ta đều biết, cái ta biết các ngươi không biết.
                                                          (Bồ đề linh quang)
Tự báo danh, đột nhiên phát hiện tự ngã, nhận thức tự ngã dẫn đến đốn ngộ.

1285.  Con chó có Phật tánh không?
 Trong công án “Con chó có Phật tánh không?” (Xem công án 1020), Vô Môn có bài kệ:

狗 子 佛 性
Cẩu tử Phật tánh
全 提 正 命
Toàn đề chánh mạng
才 涉 有 無
Tài thiệp hữu vô
喪 身 失 命
Táng thân thất mạng

Con chó Phật tánh
Nêu trọn chánh lệnh
Vừa nói có không
Vùi thây mất mạng.
                                    (Hân Mẫn dịch)
- Chữ vô giống như kiếm sắc chặt đứt hai bên (hữu, vô) siêu việt chân không diệu hữu xuyên suốt 48 tắc công án (trong Vô Môn Quan), như là lệnh bài vô tự, như quan tướng quân (Quan Vân trường) qua 5 ải chém 6 tướng, không qua thì không ngừng. 
     (Dương Tân Anh)
- Con chó, Phật tánh, vô là một. Khi trả lời vô, Triệu Châu đã vượt lên khỏi thế giới nhị nguyên của khái niệm. 
(Yamada)

1286.  Đầu sào trăm trượng.
1- Một ông tăng hỏi thiền sư về công án “Đầu sào trămtrượng’ làm sao bước được bước nữa? (Xem công án 275), thiền sư kêu:
- A!
Ông tăng tức thời khai ngộ.
2- Một ông tăng được thiền sư cho công án ‘Đầu sào trăm trượng, làm sao bước bước nữa? Ông tham cứu 3 năm vẫn chưa ngộ. một hôm cưỡi lừa đi ngang 1 cây cầu độc mộc, không để ý, người và lừa đều rơi xuống sông. Do đó mà ông ngộ: 
- A! Nguyên lai đầu sào trăm trượng làm sao bước bước nữa là vậy!
                                                                   (Sinh hoạt thiền)
Trèo được 99 trượng rồi lên đến 100 trượng không phải là dễ. Lên đến nơi rồi không chịu buông tay mà nắm chắc lấy đầu sào làm sao bước bước nữa? Phải buông bỏ tất cả, ngay cả sinh mạng thì mới bước được bước nữa. Có ông tăng hỏi sư phụ:
- Thế nào là đại ý Phật pháp?
- Là chỗ ngươi bỏ thân mạng.
Là cũng ý này: tất cả đều là không, không được chấp bất cứ một cái gì dù cái chấp đó là mạng sống, là Phật, là pháp thì mới được hoàn toàn giải thoát.

1287.  Lưỡi người sống trong miệng người chết.
Có ông tăng hỏi Quy  Nhân:
- Không nêu lên câu hỏi mà tự nói, làm sao lý giải?
- Lưỡi người sống trong miệng người chết.
- Không biết người nào có thể lãnh hội.
- Con trâu không sừng.
                                                 (Bồ đề linh quang)
Người nói có miệng nhưng vô tâm, người ngộ hỗn nhiên viên dung.

1288.  Nhà ngươi tự có con cháu.
Lúc Pháp Đăng là trụ trì Lam Viện, Đạo Tề là chủ quản kinh tạng. Một hôm Đạo tề đứng hầu một bên, Pháp Đăng bảo ông:
- Tạng chủ, công án ‘Ý tổ sư từ Tây sang’ ngươi hiểu sao?
- Chẳng Đông, chẳng Tây.
- Còn chưa thấm tới bờ.
- Con chỉ hiểu vậy, còn hòa thượng thì sao?
- Nhà ngươi tự có con cháu.
Đạo Tề ngộ ngay ý chỉ.
                                                              (Bồ đề linh quang)
Nhà ngươi tự có con cháu, nhà mình (tâm) phải nên coi sóc.

1289.  Con lừa.
Ích Châu Tông Mục thượng đường, có một ông tăng giơ tay nói:
- Hòa thượng là một con lừa.
- Ta bị ngươi cưỡi.
                                                      (Thiền ngoại thuyết thiền)
Tâm cảnh đã triệt để an nhiên kiên cố như thành lũy thì không có ngoại lực nào có thể công phá được.

1290.  Bốn lời nguyện lớn.
Bạch Vân Thủ Đoan thượng đường nói:
- Ông già Thích ca có 4 lời nguyện lớn: “Chúng sinh vô biên thề nguyện độ, phiền não vô biên thề nguyện đoạn, pháp môn vô biên thề nguyện học, Phật Đạo vô biên thề nguyện thành.” Pháp Hoa cũng có 4 lời nguyện lớn: “Đói thì ăn, mệt thì ngủ, lạnh mặc thêm áo, nóng thích gió mát thổi”.
                                                    (Thiền ngoại thuyết thiền)
Người xuất gia phải giữ giới luật. Sinh hoạt hàng ngày bị câu thúc như cử chỉ phải nghiêm trang v . v  . Đó là giai đoạn còn đang tu Thấy núi chỉ là núi. Khi đã ngộ rồi thấy núi lại là núi, sinh hoạt cứ tùy duyên không bị vật ngoại nhiễu loạn, tự do vô ngại.

1291.  Thiền của Lão bà.
Ma Cốc, Bảo triệt, Nam Tuyền cùng hai ba người nữa đến yết kiến Kinh Sơn Đạo Khâm. Trên đường gập một bà lão. Ma Cốc hỏi:
- Đến Kinh Sơn đi lối nào?
- Cứ đi thẳng.
- Phía trước nước sâu có qua được không?
- Chân chẳng ướt nước.
- Sao bờ trên lúa tốt, bờ dưới lúa xấu vậy?
- Đều bị cua ăn hết.
                                             (Thiền ngoại thuyết thiền)
Học Thiền phải chuyên cần tinh tấn đừng sợ này sợ nọ thì mới có hy vọng thành công. Ở đây bà lão là một tác gia, bà dùng lối chơi chữ để ngụ ý. Trong tiếng Tầu con cua là “bàng giãi”. Tiếng đồng âm của bàng là bàng vụ là bị cảnh nhiễu loạn, của giãi là giãi đãi là lười, sợ khó mà lui.

1292.  Pháp thân thanh tịnh.
                                                           (Đàn Kinh)
Vạn sự, vạn vật đều do tự tánh mà sinh. Nếu nghĩ thiện thì làm điều thiện; nghĩ ác thì làm điều ác. Nhưng tự tánh vốn thanh tịnh như mặt trời bị mây đen che đi; bên trên là sáng, bên dưới là tối. Chỉ cần gió thổi mây tan: mặt trời lại hiện ra chói lọi. Mặt trời là tự tánh thanh tịnh, mây đen là vọng niệm, gió là trí huệ.

1293.  Hư không không so sánh được.
Có ông tăng hỏi Cảnh Huyền:
- Người thông ngộ triệt để thì thế nào?
- Hư không không so sánh được.
- Thế nào là pháp thân thanh tịnh?
- Trâu trắng phà ra tuyết, gà ác cưỡi ngựa ô.
                                            (Bồ đề linh quang)
Đối với người triệt ngộ tất cả đều viên dung, trắng, đen đều thông suốt.

1294.  Xem múa rối.
Một hôm ngũ tổ Pháp Diễn bảo đại chúng:
- Hôm qua lão tăng vào thành thấy đám múa rối bèn lại xem, thấy các con múa rối diễn rất sinh động. Quan sát kỹ mới biết có người ở sau màn giật giây. Lão tăng không nhịn được cười hỏi:
- Trưởng sử tánh gì?
Không ngờ ông ta nói:
- Lão hòa thượng xem kịch thì cứ việc xem, còn hỏi tánh làm gì?
Lão tăng bị câu nói này không lời đáp lại được. Các ngươi có thể đáp thay cho ta không? Hôm qua ta ở đó bị thua thiệt hôm nay ở đây bù lại được rồi.
                                                              (Bồ đề linh quang)
Người sau màn chỉ tự tánh. Mọi hành động của con người đều như con rối, do tự tánh điều khiển. Tự tánh phải thể nhận, không thể dùng lời mà tả được.

1295.  Cuốn chiếu.
Một hôm Mã Tổ Đạo Nhất thăng đường. Đại chúng tụ lại để nghe pháp. Bách Trượng cuốn chiếu. Mã Tổ bèn xuống tòa giảng.
                                             (Thiền ngoại thuyết thiền)
Đại Đạo lìa ngôn ngữ, văn tự cho nên không cần phải nói.

1296.  Ta không phải là ống loa.
Có một học tăng đến bái phỏng Thiết Chu, yêu cầu Thiết Chu giảng cho ông nghe Lâm Tế Lục .
- Ngươi tìm lầm người rồi, muốn nghe Lâm Tế Lục, tốt nhất là hãy đến Viên Giác Tự kiếm Hồng Xuyên.
- Không, con đã nghe Hồng Xuyên giảng rồi. Nghe nói thầy là truyền nhân của Trích Thủy hòa thượng, con muốn nghe thầy giảng. Thiết Chu chối từ hai ba lần không được đành dẫn học tăng ra luyện võ trường cùng luyện võ. Hai người luyện đến đổ mồ hôi hột mới ngưng. Thiết Chu dẫn ông tăng trở lại pháp đường.
- Thế nào ta giảng Lâm Tế Lục ra sao?
Ông tăng ngạc nhiên không thốt ra lời. Thiết Chu nhắc lại câu hỏi, ông tăng bất đắc dĩ đáp:
- Lâm Tế Lục của thầy chỉ là một bản kiếm phổ sao?
- Ta là kiếm khách, do đó ta chỉ đề xướng kiếm đạo. Ta tuy cùng Trích Thủy học Thiền nhưng ta không phải là ống loa.
- Nói vậy thì chư tổ xưa nay truyền pháp truyền tâm đều là ống loa cả sao?
- Truyền pháp, truyền tâm là truyền pháp truyền tâm, truyền loa là truyền loa.
                                                  (Tinh Vân thiền thoại)
Không phải là loa truyền, đó là phong cách đặc biệt của thiền sư. Nói đi nói lại chỉ là thiền vẹt không phải là truyền pháp truyền tâm. Phàm học thiền lý phải tự mình tiêu hóa trước, sau đó mới nói ra lời.

1297.  Chân không diệu hữu.
Ngọc Tuyền theo học lâu ngày với Viên Ngộ Khắc Cần cùng Đại Huệ Tông cảo là đồng môn; tự nhận mình đã khai ngộ, không còn nghi hoặc nữa. Do đó bắt đầu giảng dạy Phật pháp. Các học tăng đổ xô tới tham học rất đông. Đại Huệ biết ông chưa triệt ngộ sợ ông chỉ lầm cho người sau, bèn viết thư bảo ông đến gập. ngọc Tuyền do dự được mất, không vội trả lời ngay. Đại Huệ bèn viết bảng ngoài cửa  bảo cho tứ chúng hay. Ngọc Tuyền bất đắc dĩ phải đến gập Đại Huệ. Sau khi khảo nghiệm bèn trách:
- Kiến giải của ông như vậy mà dám xưng  là pháp từ của lão sư Viên ngộ sao?
Ngọc Tuyền do đó trở về phòng tham cứu. Một hôm đến tham Đại Huệ, Đại Huệ hỏi:
- Ta muốn có một người không hiểu thiền làm quốc sư.
- Đệ có thể làm quốc sư.
Đại Huệ hét lớn đuổi ra. Sau đó, không lâu Đại Huệ bảo ông:
- Chỗ ngộ cũa Hương Nghiêm không phải ở nơi hòn đá văng vào gốc tre, chỗ ngộ của Câu Chi không phải ở đầu ngón tay .
Ngọc Tuyền nghe rồi, hốt nhiên thông đạt thiền pháp, lúc đó mới là triệt ngộ.
Một hôm, Đại Huệ lên toà giảng nêu lên công án Vân Môn giơ gậy lên thị chúng. Bỗng giơ gậy lên bảo: 
- Gậy không thuộc hữu, không thuộc vô, không thuộc ảo, không thuộc không. Dộng gậy xuống một cái, nói tiếp:
- Phàm phu, nhị thừa, duyên giác, Bồ tát đều hướng về chỗ đó, tùy theo căn tánh mình mà có thọ dụng, còn đối với nạp tăng muốn làm, không thể làm. Muốn tọa không thể tọa tiến lên một bước bị gậy làm lạc đường; lùi lại một bước bị gậy xuyên qua lỗ mũi. Hãy cùng gậy tương kiến nếu không sang năm lại có gậy khác làm náo loạn gió xuân, chính lúc đó phải làm sao?
Nói rồi xuống tòa bảo Ngọc Tuyền lên tòa giảng khai thị cho đại chúng.
Ngọc Tuyền nói:
- Lời hoà thượng vừa nói giống như cá mắc trong đầm, chim bệnh trong khóm lau, còn ta không như vậy.
Nói rồi giơ gậy lên:
- Gậy có thể Hữu, có thể Vô, có thể Ảo, có thể Không, phàm phu, nhị thừa, duyên giác, Bồ tát (dộng gậy xuống) hướng về chỗ đó. Còn như nạp tăng như rồng gặp nước, như hổ tựa non, muốn đi là đi, muốn ngồi là ngồi, tiến một bước thì càn khôn chấn động, lùi một bước thì cỏ rạp gió đi, nên nói không tiến, không lui làm gì?
Rất lâu lại thêm:
- Lúc nhàn, cầm kinh đứng dưới gốc tùng, cười hỏi khách tử đâu tới?
                                               (Nhất vị Thiền: Quyển Nguyệt)
Hai đoạn pháp trên, Đại Huệ giảng chân không, Ngọc Tuyền  giảng diệu hữu. Đại Huệ không thể không lau mắt cho vị đầu sào trăm trượng Ngọc Tuyền. Chưa ngộ mà nói ngộ, nếu không phải là ngu si thì là tự cao tự đại. người sáng mắt chỉ cần hai ba lời là hồ ly đã lòi đuôi cáo. Ngọc Tuyền do Đại Huệ chỉ thị nhận thức lại chính mình nên đã giác ngộ.

1298.  Gia Cảnh.
Một ông tăng hỏi Hoằng Thông:
- Gia cảnh thầy thế nào?
- Cả người không đáng 5 phân tiền.
- Thật nghèo quá.
- Đời xưa đều vậy.
- Làm sao tiếp dẫn người học?
- Thấy gia cảnh giầu có còn là nghèo.
                                             (Bồ đề linh quang)
Nghèo chỉ  tánh “Không”.

1299. Nhàn thần dã quỷ.
Phần Dương Thiện Chiêu một hôm bảo chư tăng:
- Hôm qua ta nằm mộng thấy cha mẹ đã qua đời muốn ta cúng vàng mã và rượu thịt. Ta thấy khó chịu đành phải theo phong tục mà mua đồ cúng tế. 
Cúng tế xong Phần Dương một mình, một chiếu uống rượu ăn thịt không coi ai vào đâu. Chư tăng coi không được chỉ trích:
- Hôm nay chúng tôi mới biết nguyên lai ông chỉ là một hòa thượng rượu thịt, làm sao có tư cách làm đạo sư chúng tôi.
Nói rồi cả bọn thu dọn hành trang bỏ đi. Chỉ còn lại 6, 7 người như Thạch Sương Sở Viên, Đại Ngu Thủ Chi v . v . là không đi. Bọn họ sau này đều trở thành những đại thiền sư.
Phần Dương cảm khái than:
- Chỉ tốn chút rượu thịt, vàng mã đã đuổi đi bao nhiêu nhàn thần dã qủy.
                                                            (Bồ đề linh quang)
Thiền không giảng cứu hình thức. Nếu bị cành lá che khuất mà không thấy cây lớn thì làm sao vào thiền.

1300.  Ý chỉ Hoàng Mai.
Có ông tăng hỏi Lục tổ:
- Người nào nhận được ý chỉ của Hoàng Mai?
- Người hiểu Phật pháp.
- Hòa thượng nhận được không?
- Ta không được.
- Vì sao hòa thượng không được?
- Ta không hiểu Phật pháp.
                                              (Thiền thất dữ công án đích áo bí)
Ý chỉ Hoàng Mai là chỉ sự truyền pháp. Ai cũng biết y bát đã được Hoàng Nhẫn trao cho Huệ Năng. Ý chỉ Hoàng Mai đương nhiên là Lục tổ thể hội. Câu hỏi của ông tăng là một cái bẫy, Lục tổ thuận mồm chỉ thẳng, hiện tiền viên mãn, không chỗ quái ngại. Chỉ cần hiểu Phật pháp là được ý chỉ Hoàng Mai. Thiền là hiện thành, hiện tiền, không có gì là bí mật cả như mọi người đều được hưởng ánh mặt trời. Câu “Ta không hiểu Phật pháp” thật là cao minh. Có người hiểu Phật pháp liền bị rơi vào Phật pháp. Thích Ca Mâu Ni giảng pháp 49 năm nhưng không nói một lời. Lục tổ lấy Phật pháp đánh răng, xúc miệng, ngày ngày đều dùng há chẳng hiểu Phật pháp? Không có diệu pháp nào để được thì mới được A Nậu Đa la Tam Miệu Tam Bồ Đề. Muốn được cảnh giới đó thì phải có chỗ khẳng định. Do đó Lục tổ nói không có diệu pháp nào để được, ta không hiểu Phật pháp.

1301.   Gió nhẹ thổi qua rặng tùng.
            Lại gần nghe mới rõ.
                                                    (Hàn Sơn Thi)
Đối với người thường thì người nghe (chủ thể ) và gió nhẹ (đối tượng) là hai, nhưng đối với thiền giả thì chỉ là một. Vì vậy ‘lại gần’ là chủ thể sáp lại đối tượng cho đến khi hòa với nó làm một. Đó là quá trình vô tâm tự nhiên. Lấy vô tâm mà nghe, tiếng gió chính là tự kỷ. Đó là tự tha bất nhị vậy. Phương thức ‘lại gần’ này trong thiền học gọi là ‘sự tùng vấn tùng, sự cúc thính cúc’.

1302.  Chân tâm bất muội.
Mộng Song quốc sư từng làm thầy của 7 triều Hoàng đế. Thọ nhiều ân điển của triều đình, cũng được tín đồ và dân chúng ngưỡng mộ. Trên đường vào kinh đi ngang Diệu Tâm Tự liền vào bái phỏng Quan Sơn. Quan Sơn nghe tin Mộng Song tới vội khoác chiếc cà sa rách nát chạy vội ra cửa nghinh đón. Hai người chuyện trò rất cao hứng. Tự viện của Quan Sơn rất nghèo không có gì để tiếp đãi quốc sư. Quan Sơn bất đắc dĩ lấy mấy phân tiền kêu thị giả mua vài cái bánh nướng cung dưỡng quốc sư. Quốc sư cảm kích tâm ý của Quan sơn không khách khí ăn hết bánh rồi đi. Bình thường Mộng Song vào cung đều có nhiều tùy tòng theo hầu. Một hôm, trong cung có chiếu mời, Mộng Song đi kiệu ngang qua Diệu Tâm Tự, thấy Quan Sơn đang cầm chổi quét lá, gom lại một đống để dành để nấu bếp, liền bảo thị giả:
- Tông môn ta bị Quan Sơn đoạt mất rồi.
Quan Sơn mỗi khi đến bái phỏng Mộng Song đều tại khe suối trước cổng chùa rửa chân cẩn thận để khỏi làm lấm bẩn Thiên Long Tự. Về sau Mộng Song sai các học tăng để một tảng đá bằng phẳng ở bên bờ suối để cho Quan Sơn dễ dàng rửa chân. Quan Sơn biết chuyện này than rằng:
- Quốc sư quả thật là quốc sư, tông phong của ông so với tảng đá này còn cứng hơn nhiều.
Hiện tảng đá này còn được giữ ở Đại Long Viện ở Diệu Tâm Sơn.
                                                      (Tinh vân thiền thoại)
Phật pháp phải cung kính mà cầu, trong sinh hoạt mà tu. Quan Sơn thi hành triệt để, tự mình quét sân chùa, dùng lá quét để thổi nấu là tiếc phúc, khi bái phỏng đều rửa chân sạch sẽ là tôn kính chẳng trách được quốc sư khen ngợi.

1303.  Lãnh hội học nhân.
Có ông tăng hỏi Duyên Đức:
- Thế nào là tâm của cổ Phật?
- Nước, chim, cây, rừng.
- Học nhân chẳng lãnh hội.
- Vậy, hãy lãnh hội học nhân đi!
                                             (Bồ đề linh quang)
Thiền sư coi ‘tâm của cổ Phật’ cũng giống như nước, chim cây, rừng, đều là hư ảo, chỉ có người học tự ngộ mới thật sự là Thiền đạo

1304.  Một giọt cũng không hưởng được.
Trí Thường và Nam Tuyền cùng hành cước. Một hôm định chia tay, đun trà rồi Nam Tuyền hỏi:
- Lúc trước cùng sư huynh thương lượng, ngữ cú đều đã biết. Về sau nếu có người hỏi ngộ đạo chuyện lớn làm sao đáp?
- Khoảng đất này nên cất am.
- Chuyện cất am sau này sẽ nói, còn chuyện lớn ngộ đạo phải làm sao?
Trí Thường đạp đổ siêu trà đứng dậy. Nam Tuyền hỏi:
- Sư huynh đã uống trà, đệ còn chưa uống mà?
- Nếu nói vậy, một giọt trà cũng không hưởng được.
                                                (Bồ đề linh quang)
Xét sự lý đến cùng chỉ là dung tục, càng uống trà lại càng hồ đồ.

1305.  Hãy còn một quyết.
Liễu Đường Chân Giác là người kinh đô Đại Hòa. 17 tuổi xuất gia. 23 tuổi tham học Đại nguyên Tông Chân mà đại ngộ. 40 tuổi đi thuyền sang Trung Quốc tham học. Thuyền đi chưa được bao lâu, khi ra đến biển lớn bỗng nhiên gập sóng to gió mạnh. Mọi người trên thuyền đều thất kinh rối loạn, chỉ riêng có Liễu Đường bình tĩnh đoan tọa niệm danh hiệu Quán Thế Âm. Tiếng niệm Phật của Liễu Đường làm mọi người bình tĩnh trở lại, nhiều người cùng niệm với ông; tiếng niệm Phật át cả tiếng sóng gió. Khi thuyền bình yên cập bến, mọi người trên thuyền đều tôn ông là Phật sống. Liễu Đường tiếp dẫn học nhân thường dùng câu ‘Vạn pháp trở về một, một trở về đâu’ làm cơ dụng (Xem công án 1040).  Một hôm một học tăng hỏi về Động Sơn ngũ vị quyết (Xem công án 505). Liễu Đường giảng cặn kẽ, rồi hỏi:
- Hiểu rõ chưa?
- Con hiểu rồi!
- Tốt lắm! Nhưng ngoài ngũ vị quyết ra còn một quyết ngươi có hiểu không?
Ông tăng không biết làm sao trả lời. Liễu Đường bảo:
- Quyết này ngươi phải ghi nhớ, khi đến mọi nơi tham học không thể bảo cho người biết ngươi nghe giảng ngũ vị quyết ở nơi ta.
                                                 (Tinh vân thiền thoại)
Chẳng nên tùy tiện lấy ống loa là một quyết để chỉ sự sử sự.  Ngạn ngữ cũng có câu ‘thị phi chỉ là do lắm mồm’.  Người ăn mật, ngọt nhạt thế nào chỉ mình biết, không thể dùng lời diễn hết ý.

1306.  Uy đức và chiết phúc.
Thời Nam Bắc Triều, Tăng Trù trú ở Tung Sơn. Trong chùa tăng chúng khoảng trăm người hàng này thường dùng nước suối từ một hốc đá phun ra. Một hôm có một người đàn bà mặc quần áo rách rưới, hôi hám, tay cầm một cái chổi ngồi trên tảng đá trên suối nước, nghe tăng chúng tụng kinh. Mọi người coi bà ta là người phong cùi đồng hô đuổi bà ta đi. Bà ta thấy vậy rất tức giận dùng chân đạp vào suối nước. Suối nước lập tức khô cạn, bà ta cũng không thấy đâu nữa. Lúc đó mọi người đều kinh sợ, biết đã gây họa rồi, bèn đem sự tình kể cho Tăng Trù nghe. Tăng Trù mặt lộ tươi cười ra ngoài chùa miệng hô lớn tiếng ba lần:
- Ưu bà di! Ưu bà Di! Ưu bà di! (người phụ nữ học Phật tại gia)
Nguời đàn bà bèn xuất hiện. Thiền sư bảo bà ta:
- Chư tăng đang hành đạo, bà nên hộ trì, đừng gây rối.
Người đàn bà sẽ đạp chân vào suối, suối lại tuôn nước ra. Lúc đó đại chúng đều cảm kích uy đức thần dị của thiền sư. Về sau Tề Văn Tuyên Đế mỗi khi làm xong quốc sự đều dẫn vài vệ sĩ đến gập thiền sư hỏi đạo. Thiền sư cứ mặc Tuyên Đế đến đến, đi đi không hề đưa đón một lần. Chúng đệ tử hỏi:
- Bạch thầy, bệ hạ mỗi lần giáng lâm lễ Phật, đối với việc hoằng dương Phật pháp đều rất lợi ích. Thầy không đưa đón sợ người ta dị nghị.
- Lúc trước Tân Đầu Lư đón vua 7 bước, làm cho vua bị thọ nạn 7 năm. Ta tuy đức không dám sánh với người khác nhưng cũng không thể chiết phúc của Hoàng thượng.
                                                     (Tinh vân thiền thoại)
Lấy con mắt phàm mà nhìn thì Tuyên đế là quốc vương, nhưng ở chân lý thì Tăng Trù là pháp vương đương thời. Quốc vương và Pháp vương ai đáng quý hơn? Trước Tăng Trù không lâu Đông Tán Huệ Viễn đề xuất ‘Sa môn chẳng kính Vương giả’. Ông lý luận ‘cà sa không phải là phẩm phục của triều đình, y bát chẳng phải là dụng cụ của nhà chùa sao?’
Tăng Trù không đưa đón vua cũng là ý đó.

1307.  Ý Tổ Sư.
1- Một ông tăng hỏi Tam Bình:
- Tam thừa thập nhị phần giáo con không nghe, nhưng thế nào là ý tổ sư từ Tây sang?
- Phất tử lông rùa, trụ trượng sừng thỏ, đại đức chứa ở đâu?

2- Một ông tăng hỏi Phục Long:
- Ý tổ sư từ Tây sang là sao?
- Sao ngươi không thấy ngứa vậy?

3- Một ông tăng hỏi Long Vân:
- Ý tổ sư từ Tây sang là sao:
- Đêm qua mất trâu trong chuồng.

4-  Một ông tăng hỏi Triệu Châu:
- Ý tổ sư từ Tây sang là sao?
Triệu Châu gõ vào chân thiền sàng.
                                               (Thiền ngoại thuyết thiền)
1308.  Ý Tào Khê.
Có ông tăng hỏi Mục Châu Trần Tôn Túc:
- Ý Tào Khê là gì?
- Lão tăng thích sân, không thích hỷ.
                                                    (Thiền ngoại thuyết thiền)

1309.  Đại ý Phật pháp.
1- Có ông tăng hỏi Thần Đăng:
- Thế nào là đại ý Phật pháp?
- Ngồi thuyền sắt trên không, sóng bủa quanh đỉnh núi.

2- Có ông tăng hỏi Linh Vân Chí Cần:
- Đại ý của Phật pháp là gì?
- Việc lừa chưa đi, việc ngựa đã tới.
- Con không hiểu.
- Ban ngày khó gập tinh linh.
                                                   (Thiền ngoại thuyết thiền)

1310.  Đệ nhất nghĩa.
Có ông tăng hỏi Nam Thiền Khế Phiên:
- Thế nào là đệ nhất nghĩa?
- Sao không hỏi đệ nhất nghĩa?
                                                      (Thiền ngoại thuyết thiền)

1311.  Chư Tổ truyền gì?
1- Có ông tăng hỏi Sơn Huy:
- Tổ tổ tương truyền, họ truyền cái gì?
- Ngươi hỏi ta, ta hỏi ngươi

2- Có ông tăng hỏi Nam Tuyền:
- Tổ tổ tương truyền, họ truyền cái gì?
- Một, hai, ba, bốn, năm.
                                               (Thiền ngoại thuyết thiền)

1312.  Đường đi lên.
Có ông tăng hỏi Trường Sa:
- Thỉnh thầy chỉ cho con đường đi lên.
- Một lỗ kim, 3 thước chỉ.
- Làm sao hiểu đây?
- Vải Ích Châu, lụa Dương Châu.
                                                      (Thiền ngoại thuyết thiền)

1313.  Vì người.
Một ông tăng hỏi Kim Luân Khả Quán:
- Theo tông thừa làm sao để vì người?
- Hôm nay ta chưa uống trà.
                                                      (Thiền ngoại thuyết thiền)

1314.  Chính mình.
Có ông tăng hỏi Phúc Khê:
- Thế nào là chính mình?
- Ngươi hỏi gì?
                                                          (Thiền ngoại thuyết thiền)

1315.  Căn nguyên của pháp.
Một ông tăng hỏi Tuyết Nhạc:
- Thế nào là căn nguyên của Pháp?
- Tạ ơn chỉ thị.
                                                         (Thiền ngoại thuyết thiền)
Từ 1307 đến 1315: các câu đáp đều không ăn khớp với câu hỏi. Hỏi một đằng, trả lời một nẻo, mục đích là để phá trừ tri kiến.

1316.  Tham thiền pháp khí.
Pháp Viễn Viên Giám lúc chưa chứng ngộ cùng Thiên Y Nghĩa Hoài nghe nói thiền phong của thiền sư Quy Tỉnh rất cao, cùng chúng bạn tất cả 8 người đến tham phỏng Quy Tĩnh. Lúc đó là mùa đông, tuyết rơi tơi bời. Quy Tĩnh vừa gập mặt là chửi rủa đuổi đi. Mọi người không chịu đi. Quy Tĩnh bèn lấy nước tạt, quần áo mọi người đều bị ướt. 6 người trong bọn không nhịn được, đều tức giận bỏ đi, chỉ có Pháp Viễn và nghĩa Hoài là quỳ mãi không đi. Không lâu Quy Tĩnh lại ra hét lớn:
- Các ngươi sao còn chưa đi? Chẳng lẽ đợi ta đánh cho vài gậy?
Pháp Viễn thành khẩn thưa:
- Chúng con 2 người từ ngàn dậm lại tham học, há vì một gáo nước tạt mà đi sao? Cho dù có dùng gậy đánh chúng con cũng không đi.
Quy Tĩnh bất đắc dĩ nói:
- Nếu thật đến tham thiền thì hãy đi quải đơn đi (quải đơn hay quải đáp là treo áo và túi đựng bát ở góc tăng phòng; ý là chấp nhận cho tạm trú).
Pháp Viễn quải đơn rồi từng giữ chức Điển tọa (nấu cơm). Có một lần chưa bẩm báo đã nấu cháo ngũ vị cung dưỡng đại chúng. Quy Tĩnh khi biết chuyện này rất tức giận:
- Lấy đồ của thường trú mà tư cúng đại chúng, ngoài việc phạt đánh đòn còn phải bồi hoàn phí dụng.
Nói rồi đánh Pháp Viễn 30 gậy, tịch thu y bát để trừ vào tổn thất. Sau đó đuổi Pháp Viễn ra khỏi chùa. Pháp Viễn tuy bị đuổi ra khỏi chùa nhưng không đi, mỗi ngày đều ngủ ở hành lang. Quy Tĩnh biết chuyện lại bảo:
- Hành lang cũng là công sở của thường trú, ngươi ngủ ở đó cũng phải trả tiền.
Nói rồi sai người tính tiền phòng. Pháp Viễn vẫn không tỏ vẻ khó chịu, vào phố tụng kinh cho người để kiếm tiền trả. Sau đó không lâu, Quy Tĩnh bảo đại chúng:
- Pháp Viễn quả thật là tham thiền pháp khí.
Bèn sai thị giả mời Pháp Viễn vào pháp đường, trước mặt đại chúng trao cho pháp y, đặt hiệu là Viên Giám.
                                                    (Tinh Vân thiền thoại)
Phù Sơn Pháp Viễn, chỗ đắc lực một đời là vì pháp nhẫn nại. Quy Tĩnh không cho ông quải đơn, mắng ông, đánh ông, lấy nước lạnh tạt ông, thậm chí bắt ông bán áo, mền để bồi thường, dù ngủ ở hành lang cũng bị tính tiền, đều không làm ông bỏ tâm nguyện, cho nên không lạ gì sau đó Quy Tĩnh tán thán ông.
Các học giả ngày nay gọi là tham học, nếu đãi ngộ ăn ở không tốt liền tức khắc bỏ đi, nếu không đủ lễ lạc liền phẫn hận bỏ đi, nếu so với Pháp Viễn thật đáng hổ thẹn.

1317.  Hoành Trí Chính Giác.
Hoành Trí chủ trương Mặc chiếu thiền. Năm 7 tuổi ông có thể đọc cả ngàn câu kinh, 11 tuổi xuất gia, 14 tuổi thọ cụ túc giới, 18 tuổi đi tham học các nơi, ông hướng tổ phụ thưa:
- Nếu con không phát minh đại sự, nguyện không trở về.
Ông đến Hà Nam yết kiến Khô Mộc Pháp Thành ở Hương Sơn. Khi gập mặt Khô Mộc rất coi trọng ông. Một hôm ông nghe các hòa thượng tụng kinh Diệu Pháp Liên Hoa tới câu “phụ mẫu sở sinh nhẫn, tất kiến tam thiên giới” bỗng nhiên tỉnh ngộ, lập tức vào phòng phương trượng trình sở ngộ. Khô Mộc chỉ hộp hương hỏi ông:
- Trong đó là vật gì?
- Là tâm hạnh gì?
- Ngươi ngộ cái gì?
Hoành Trí dùng tay vẽ một vòng tròn trình lên rồi lại ném về sau.
- Gã nghịch bùn bao giờ mới thôi?
- Sai.
- Chớ thấy người mới được!
- Dạ, dạ.
Hoành Trí lại đến tham Đơn Hà. Đơn Hà hỏi:
- Trước không kiếp, tự kỷ là thế nào?
- Ếch đáy giếng uống trăng, canh ba chẳng dùng mành.
Hoành Trí yên lặng suy nghĩ, Đơn Hà đánh cho một phất tử:
- Nói lại không sai.
Hoành Trí bái tạ. Đơn Hà bảo:
- Sao không nói một câu:
- Hôm nay con mất tiền lại tạo tội.
- Ta không rảnh đánh ngươi, đi ra!
Hoành Trí từ nhỏ đã thông mẫn hơn người, khi khai ngộ mới 23 tuổi. Ông chủ trương Mặc chiếu thiền, ảnh hưởng rất cao xa. Trước khi mất ông có để lại một bài kệ:

夢 幻 空 花
Mộng ảo Không hoa
六 十 七 年
Lục thập thất niên
百 鳥 煙 沒
Bạch điểu yên một
秋 水 連 天
Thu thủy liên thiên

Không hoa, mộng ảo
Sáu mươi bẩy rồi 
Chim bay không vết
Nước thu liền trời.
                          (Nhất vị thiền: Quyển Nguyệt)
Bài kệ diễn tả cảnh giới thiền bao la, tịch tĩnh, thống nhất.

1318.  Nam phương có cái này không?
Vô Trước lúc còn trẻ, tại ngũ Đài Sơn cùng luận thiền với Bồ tát Văn Thù. Văn Thù đưa một tách trà bằng pha lê rất tinh xảo cho Vô Trước và hỏi:
- Nam phương có cái này không?
- Không.
Vậy sao? Người phương Nam dùng gì để uống trà?
Vô Trước biết Văn Thù không chỉ hỏi chuyện uống trà nên không đáp được, trong lòng bất an không có lòng thưởng trà, bèn từ biệt mà đi. Ra khỏi cửa Vô Trước hỏi đồng tử:
- Sư phụ ông nói trước 33 sau 33, vậy là bao nhiêu?
Đồng tử hô:
- Hòa thượng!
- Dạ!
- Tiếng ông đáp lại là mấy tiếng?
Vô Trước liền ngộ.
                                                      (Bồ đề linh quang)
Một là ba. Một là trời đất, một là thiền tâm.

1319.  Liễu tâm.
Đại nhân Lưu Thị Ngự đến bái phỏng Ngưỡng Sơn, hỏi:
- Liễu tâm, trừ bỏ vọng niệm, minh tâm kiến tánh, thầy có thể chỉ cho con đạo lý này không?
- Nếu muốn liễu tâm, trừ bỏ vọng niệm, minh tâm kiến tánh thì phải vô  tâm mới được. Lúc đó không có vọng niệm để trừ, không có tâm để minh, không có tánh để kiến. Đó mới thực là trừ bỏ vọng niệm, chính thực minh tâm kiến tánh.
                                                  (Bồ đề linh quang)
Tâm có thể dung nạp vạn sự, vạn vật, cũng là một phiến không gian yên lặng, trong trẻo.

1320.  Hai cách nhìn.
Có lần Long nha viết một bài kệ:

學 道 如 鑽 火
Học Đạo như toàn hỏa
逢 煙 未 可 休
Phùng yên vị khả hưu
直 待 金 星 現
Trực đãi kim tinh hiện
歸 家 始 到 頭
Quy gia thủy đáo đầu

Học đạo như bật lửa
Thấy khói chưa thể ngưng
Chỉ đến khi lửa sáng
Tới nhà thì mới dừng. 

Thần Đỉnh đọc được bài kệ trên bèn làm 1 bài kệ, phản bác như sau:

學 道 如 鑽 火
Học Đạo như toàn hỏa
逢 煙 便 可 休
Phùng yên tiện khả hưu
莫 待 金 星 現
Mạc đãi kim tinh hiện
燒 額 又 燒 頭
Thiêu Ngạch hựu thiêu đầu

Học đạo như bật lửa
Thấy khói có thể ngưng
Chớ đợi khi lửa sáng
Đầu cổ đã cháy bùng.
                                                     (Sinh hoạt thiền)
Bài kệ của Long Nha ý là người học đạo tham thiền thấy khói không thể ngưng. Phải tiếp tục cố gắng cho tới khi có lửa. Lúc đó mới được coi là công phu đã về tới nhà. Rõ ràng là thiền cảnh này chỉ mới tới cửa chứ chưa vào được nhà; hãy còn tu,  chưa được giải thoát. Do đó Thần Đỉnh nói phản bác. Bài kệ của ông có ý là: đừng chấp vào một cái gì, ngay cả thiện pháp nếu không nó sẽ trở thành ác pháp. Thí dụ thuốc là một thiện pháp đối với người có bệnh, nhưng đối với người không bệnh nó sẽ trở thành ác pháp.

1321.  Thi kệ luận đạo.
Một hôm Chứng Ngộ đến thăm Am Nguyên. Buổi tối trong lúc nói chuyện, Chứng Ngộ đề cập đến bài kệ của Tô Đông Pha (Xem công án 440) và khen ngợi:
- Không dễ gì đạt tới cảnh giới này.
Am Nguyên không đồng ý:
- Loại thuyết pháp này còn chưa thấy đường, nói gì đạt tới đích?
- Nếu không đạt tới cảnh giới đó làm sao viết được 2 câu:
Mầu sắc núi chính thân thanh tịnh
Tiếng suối reo chính lưỡi rộng dài.
như vậy, tin tức ấy từ đâu ra?
- Chỉ là gã ở ngoài cửa.
- Xin thầy chỉ điểm.
- Nên từ chỗ này dụng công tham có thể biết bản mạng ở đâu.
Chứng Ngộ cả đêm suy nghĩ, không sao ngủ được,bất tri bất giác trời đã sáng, bỗng nghe tiếng chuông, hoảng nhiên đại ngộ bèn làm bài kệ:

東 坡 居 士 太 饒 舌
Đông Pha cư sĩ thái nhiêu thiệt
聲 色 關 中 欲 透 身
Thanh Sắc quan trung dục thấu thân
溪 若 是 聲 山 是 色
Khê nhược thị thanh sơn thị sắc
無 山 無 水 好 愁 人
Vô sơn vô thủy hảo sầu nhân

Cư sĩ Đông Pha thật lắm lời
Ở trong thanh sắc muốn ra chơi
Nếu suối là thanh, non là sắc
Chẳng non, chẳng nước khéo  buồn người.

Sau đó trình lên Am Nguyên. Am Nguyên bảo:
- Nói với ngươi là gã ở ngoài cửa.
                                                    (Tinh Vân thiền thoại)
Thiền không thể dùng lời, không thể dùng chữ mà tả được, cũng không thể nghĩ, chỉ có ngộ rồi mới thể nhận được. Chứng ngộ sau một đêm thâm tư, tiếng chuông sớm đã mở ra cánh cửa tâm ông. Cảnh giới của ông và của Tô Đông Pha bất đồng.

1322.  Chó Thu Điền.
Chó Thu Điền là một loài chó quý của Nhật Bản. Sản địa là huyện Thu Điền ở miền Đông Bắc nước Nhật. Ngoài ngoại hình đẹp đẽ còn thông minh, đáng yêu. Bát Công là một con chó Thu Điền từ nhỏ đã được giao cho một vị giáo sư ở đại học Đông Kinh nuôi dưỡng. Vị giáo sư này là một người rất từ ái. Ông thường nói với vợ con:
- Người có nhân cách, chó cũng có khuyển cách, vì vậy các người nên tôn trọng khuyển cách của Bát Công.Cho thấy ông đầy lòng nhân đạo. Ông chăm sóc Bát Công rất cẩn thận. Ông thường bắt rận cho Bát Công, lại cùng tắm với nó nữa. Đêm nào trời mưa, ông đều thức dậy đi xem Bát Công có bị ướt không và lau khô rồi cùng ngủ với nó ở trường kỷ. Do đó vợ con thường than phiền là giáo sư quý Bát Công hơn cả vợ con. Để đáp lại khi giáo sư đi làm, Bát Công đưa ra tận bến xe, tới giờ tan sở Bát Công lại ra tận bến xe nghênh đón. Một ngày hè năm Đại Chính 14 sau khi đưa giáo sư ra bến xe, trở về nhà Bát Công trông có vẻ bồn chồn sủa lên những tiếng thảm thiết. Chính ngày hôm đó giáo sư đang diễn giảng thì bị tai biến mạch máu não mà qua đời. Thời gian tụ hội của giáo sư và Bát Công chỉ hơn một năm; nhưng Bát Công vẫn như trước, ngày ngày đều ra bến xe đợi giáo sư. Do nhiều duyên cớ, không ai chăm sóc, Bát Công trở thành chó hoang. Nhưng nó không rời bỏ khu giáo sư trú ngụ. Ban ngày nó đi quanh quẩn những nơi mà giáo sư đã dẫn nó đi. Đến chiều nó lại ra bến xe đứng đợi cho đến khi bến xe đóng cửa mới thôi. Quá 10 năm trời ngày nào cũng vậy Bát Công đều ra bến xe đợi chủ nhân vĩnh viễn không trở lại. 10 năm đối với loài chó cũng coi là già. Năm Chiêu Hòa thứ 10 người ta thấy Bát Công nằm chết cóng ở trước bến xe. Đến chết nó vẫn đợi chủ nhân trở về.
                                               (Nhất vị thiền: Quyển Phong)
Tuy là chó nhưng Bát Công có một trái tim Phật.

1323.  Hiểu để làm gì?
Một học tăng hỏi Cảnh Sầm:
- Con phải đi hướng nào?
Cảnh Sầm đọc cho một bài kệ:

不 識 金 剛 體
Bất thức kim cương thể
卻 喚 作 緣 生
Khước hoán tác duyên sinh
十 方 真 寂 滅
Thập phương chân tịch diệt
誰 在 復 誰 桁
Thùy tại phục thùy hành

Chẳng biết kim cương thể
Tạo duyên sinh mà chi
Mười phương thật tịch diệt
Ai ở, lại ai đi?

- Đầu sào trăm trượng làm sao bước bước nữa?
- Núi Lương Châu, sông Phong Châu.
- Con không hiểu.
- Tứ hải, ngũ hồ đều là đất của nhà vua.
- Thế nào là tâm con?
- Thập phương thế giới là tâm ngươi.
- Vậy sao? Thế thì thân con ở đâu?
- Ở chỗ thân ngươi ở.
- Thân làm sao ở?
  - Nước biển lớn, sâu lại càng sâu.
- Không hiểu.
- Cá, rồng ra vào mặc lên xuống.
- Như lời thầy, thập phương thế giới là một hạt minh châu, con làm sao hiểu?
- Hiểu để làm gì?
                                                          (Tinh Vân thiền thoại)
Qua vấn đáp của Cảnh Sầm và học tăng cho thấy thiền sư rất từ bi khai thị “Đầu sào trăm trượng làm sao bước nữa?” Núi Lương Châu, sông Phong Châu, cả thiên hạ, có chỗ nào cấm ngươi bước bước nữa? Nếu như ngươi hiểu được thì 4 biển, năm hồ chỗ nào mà chẳng ngao du được? Nếu hiểu được 10 phương thế giới đều ở tâm ngươi thì sao có thể nói thân không có chỗ ở? Học tăng hỏi làm sao hiểu? Cảnh sầm hỏi ngược lại Thiền để làm gì? Thiền không phải ở chỗ  hiểu hay không hiểu mà là ngộ. Thế giới đều thuộc về ngươi, cần gì phải bước thêm bước nữa?

1324.  Cho Phật A Di Đà ở tạm.
 Thiền sư Khiêu Thủy là trụ trì Thiền Lâm Tự, nhưng ông thường vân du bên ngoài, sinh hoạt như một vân thủy tăng. Mọi người đều gọi ông là Khiếu hóa tử Khiêu Thủy. Có một lần ông đến kinh thành dựng một gian nhà tranh ở bên cạnh nhà để xe của một phú ông, bán giép cỏ để mưu sinh. Phía bên kia đường là một người phu đánh xe ngựa. Một hôm, người phu xe chạy sang bảo:
- Hôm qua con đánh xe, đưa một tín đồ đến chùa lễ Phật. Tri khách sư cho con một bức tranh Phật A Di Đà, con xin tặng lại thầy để kết duyên.
- Cám ơn ý tốt của ông.
Khiêu Thủy rất cao hứng treo bức tranh lên vách và lấy bút đề một bài tán:

雖 嫌 斗 室 小 如 窩
Tuy hiềm đẩu thất tiểu như oa
借 住 與 你 阿 彌 陀
Tá trú dữ nễ A Di Đà
他 日 我 若 到 你 處
Tha nhật ngã nhược đáo nễ xứ
望 借 蓮 台 作 我 窩
Vọng tá liên đài tác ngã oa

Tuy rằng căn phòng con
Cho Di Đà tạm trú
Ngày nào tới Tây Phương
Mượn lại đài sen ngụ.

Nghe tin Đại Đăng quốc sư sắp mất, ông mang bức tranh đến cho:
- Nghe nói thầy sắp vãng sinh Phật quốc, không biết thầy có nhận biết chủ nhân Tịnh Độ không. Do đó đem tặng tranh để khi gập mặt khỏi bỡ ngỡ.
- Ngươi hãy giữ lấy làm kỷ niệm, tịnh độ ở trong tâm ta, Di Đà ở trong tánh. Ngươi chẳng nghe qua duy tâm Tịnh Độ, tự tánh Di Đà sao?
Khiêu Thủy nghe rồi cười vui vẻ:
- Hãy để Phật Di Đà tạm trú ở phòng ta. Chúng ta hãy kiến lập Tịnh Độ trong tâm, Di Đà trong tánh.
Đại Đăng cũng cười mà mất.
                                                      (Tinh Vân thiền thoại)
Khiêu Thủy ẩn mình trong đám ăn mày để tham thiền. Ông treo tranh  là cho Phật ở nhờ chứ không cúng dường. Mỗi người phải có tịnh độ của mình, Di Đà của mình. Như Đại Đăng biểu thị chỉ tự trú ở tâm tánh, không trú ở sự tướng, cho nên không nhận tranh tặng. Hai vị thiền sư cùng thở một lỗ mũi, do đó đều ha hả cả cười.

1325.  Thùng phân lớn nhỏ.
Người hiện tại rất kính ngưỡng Kim Sơn hoạt Phật tức thiền sư Diệu Thiện, mất năm Dân quốc 22 tại Miến Điện. Hành tích thần dị, lại từ bi hỉ xả. Mọi nơi đều lưu truyền những việc khó làm, khó chịu đựng của ông. Bên cạnh Kim Sơn Tự, có một con hẻm nhỏ, có 2 mẹ con một bà lão sống bần cùng khốn khổ. Đứa con rất ngỗ nghịch thường mắng chửi mẹ. Diệu Thiện biết chuyện thường đến an ủi bà lão, cùng bà nói chuyện nhân quả luân hồi. Nghịch tử rất ghét thiền sư đến nhà; một hôm khởi ác niệm dấu một thùng phân ngoài cửa, đợi thiền sư tới bèn đổ lên đầu. Phẩn và nước tiểu thấm ướt khắp người thiền sư. Ông không tỏ vẻ giận dữ, đội thùng phân lên đầu ra bờ sông ở trước cửa chùa mới từ từ đặt thùng phân xuống. Mọi người chứng kiến đều cười sặc sụa. Diệu Thiện cũng không ngại bảo:
- Chuyện này có gì là đáng cười? Thân thể con người cũng là một thùng phân lớn, trên thùng phân lớn đặt một thùng phân nhỏ có gì là lạ?
Có người hỏi:
- Thầy không cảm thấy khó chịu sao?
- Không khó chịu chút nào, con trai bà cụ từ bi với ta, cho ta đề hồ quán đỉnh, ta thấy rất tự tại.
Về sau đứa nghịch tử bị lòng từ bi của thiền sư làm cảm động, ăn năn sám hối với thiền sư. Ông khai thị:
- Ơn dưỡng dục của cha mẹ nặng như núi, sâu như biển, đã không hiếu dưỡng lại còn đánh chửi thật là bất hiếu, sao có thể làm người?
Nghịch tử hối hận, trở thành hiếu thuận với mẹ, làng xóm đều hay.
                                                    (Tinh Vân thiền thoại)
Diệu Thiện là một nhân vật kỳ lạ trong thiền môn cận đại. ông khám bệnh nhưng không cho thuốc, cứu người khỏi ách nạn nhưng không dùng thần dị. Ông đưa cho một chén nước nói đó là canh Bát Nhã uống vào sẽ khỏi bệnh. Ông tát cho một bạt tai, tai nạn sẽ qua khỏi. Ông cũng tương tự như Tế Điên hòa thượng đời Tống. Ông coi thân người ta là thùng phân lớn, thêm một thùng phân nhỏ thì có gì là kỳ quái. Kỳ thực thùng phân đối với ông không hôi hám vì đạo đức từ bi, nhân cách trí tuệ của ông rất thơm tho.

1326.  Khoái hoạt liệt hán.
Tánh Không người Hán Châu, xuất gia rồi tự hiệu Diệu Phổ Am Chủ, kết am ở Thanh Long Sơn. Thường ngày trừ lúc tu tập thiền định ra, thường thổi tiêu làm vui. Năm Kiến Nguyên, Dư Minh cử binh làm phản, binh biến làm chết nhiều người, bá tánh trốn chạy. Tánh Không cảm khái:
- Ta không thể không cứu!
Bèn vác trượng đến dinh giặc, tên đầu lãnh hét lớn:
- Ngươi là ai? định đi đâu?
- Ta là người xuất gia, đến sào huyệt bọn ngươi!
Tên thủ lãnh nổi giận, hạ lệnh chém đầu. Tánh Không không sợ hãi bảo tên đầu lãnh:
- Muốn chém đầu thì cứ chém, việc gì phải nổi giận. Nhưng ta còn chưa ăn cơm, chẳng nên để ta thành quỷ đói. Cho ta ăn một bữa cuối được không?
Đầu lãnh sai người đưa cơm, thịt heo và rau ra. Ông tụng niệm theo đúng nghi thức ở chùa, rồi ăn. Bọn giặc đứng bên coi đều cười. Ông lại bảo tên đầu lãnh:
- Ai viết văn tế cho ta? Nếu không có thì cho ta giấy bút để ta tự viết.
Bọn giặc mang giấy bút ra. Ông viết văn tế rồi đọc lên một lượt, sau đó lại nhắc đũa lên ăn tiếp. Ăn xong ông bảo đầu lãnh:
- Kiếp số tao ngộ ly loạn, ta là một khoái hoạt hán, nay chính là lúc cho ta một nhát đao. Chém! Chém! Chém!
Đầu lãnh thấy ông anh dũng không những không giết ông mà còn chắp tay tạ tội, sai người đưa ông về núi. Một giải Ô Trấn do đó thoát nạn. Đạo tục gần xa đều coi trọng ông.
                                                          (Tinh Vân thiền thoại)
Thiền biểu hiện ở phương diện tuệ giải dễ, nhưng ở phương diện từ bi thì khó.

1327.  Nói hay không đều bị đánh.
Một hôm Đức sơn nói:
- Để trả lời câu hỏi Đạo là gì? Nếu có người đáp thế nào là Đạo ta sẽ đánh hắn 30 gậy, nếu không đáp được ta cũng đánh hắn 30 gậy.
                                                  (Sinh hoạt thiền)
Đáp được là không đúng, đáp không được cũng là không đúng, bởi  vì chân lý tuyệt đối không thể nói được. Vì không thể nói được nên chỉ có thể dùng phương thức mâu thuẫn; tỷ như kinh Kim Cương nói:”Thế giới phi thế giới mới gọi là thế giới”. Kinh Phật thường dùng thí dụ con của Thạch nữ để giải thích. Nói con của Thạch nữ rất anh tuấn, hay con của Thạch nữ không anh tuấn đều sai vì Thạch nữ là người phụ nữ không thể mang thai. Nói cách khác Giáp (nói được) và phi Giáp (nói không được) đều sai, đều đáng đánh 30 gậy. Thiền dùng phương thức mâu thuẫn này để biểu đạt không tánh.

1328.  Đuổi đến thiên đường.
Nhất Hưu trên đường hành cước, gập trời tối bèn tá túc ở một nông trại. Đêm khuya bỗng bị tiếng than khóc làm tỉnh giấc, thì ra chủ nhân nhà hàng xóm bị bệnh qua đời. Nhất Hưu tự nhủ:
- Thật bất hạnh, ta phải đi tụng kinh cho ông ta.
Vì người chết lúc sinh tiền bắt cá, săn chim cho nên lúc bị bệnh thường bị sát nghiệp làm cho lo lắng chẳng an. Gia quyến mong Nhất Hưu siêu độ khiến người chết được lên thiên đường. Nhất Hưu tụng kinh xong viết chữ lên một mảnh giấy để vào tay người chết, bảo thân nhân:
- Tốt, người chết nhất định được lên thiên đường, quý vị đừng lo!
Mọi người rất cảm động thấy Nhất Hưu quan tâm, nhưng cũng hiếu kỳ muốn biết Nhất Hưu viết gì trên giấy, bèn mở ra đọc: Người này phạm tội sát sanh nặng như núi Tu Di, e rằng sổ trước bạ của Diêm Vương cũng không đủ chỗ để ghi.” 
Vợ người chết xem rồi hỏi Nhất Hưu vì sao trêu ghẹo mọi người?
- Thưa bà, ông nhà tạo sát nghiệp có nặng như núi Tu Di không?
- Con thừa nhận, nhưng không biết có cách nào siêu độ cho nhà con?
- Ta đã tụng kinh để tiêu tội, giải nghiệp cho ông ta rồi, sở dĩ ta viết thư cho Diêm vương là do lời yêu cầu của bà. Tội đại ác như vậy đáng đuổi lên thiên đường khiến cho Diêm vương khỏi nhọc công chép tội. Ông nhà mang thư này nhất định sẽ lên thiên đường.
                                            (Tinh Vân thiền thoại)
Lời của Nhất Hưu thật là một lời giáo dục hay cho người đời.

1329.  Gương cổ của bầy khỉ.
Một lần, Tuyết Phong và chúng đệ tử xuất hành trên đường gập một bầy khỉ. Tuyết Phong nói:
- Các người đừng coi thường chúng, mỗi con đều mang trên lưng một gương cổ, đều có linh tính. Các ngươi coi chúng ăn ngũ cốc của chùa mẫn cán biết bao?
Có ông tăng hỏi:
- Những súc sanh này không có trí tuệ của con người, giả sử có cũng là súc sanh, sao sư phụ nói chúng có gương cổ (trí tuệ của Phật)?
- Nếu nói vậy gương cổ của ngươi đã phủ đầy bụi.
- Thầy không đáp vào câu hỏi, ngay câu hỏi của con thầy cũng chẳng rõ.
- Thật xin lỗi, coi như ta sai có được không?
                                               (Bồ đề linh quang)
Vạn vật đều có Phật tánh. Phật tánh ở ngã, trí, mê, người bên cạnh không thể thâm nhập. Ông tăng này gương cổ bị bụi phủ, chỉ có thể để ông ta tự mình phủi đi mà thôi.

1330.  Kéo tai.
Thiền sư Bố Đại người thời Ngũ Đại, ứng hóa ở huyện Phụng Hóa tỉnh Chiết Giang. Tự nhận trên khế hợp lý chư Phật, dưới khế cơ chúng sinh vì vậy xưng là Khế Thử, ngoại hiệu Trương Thinh Tử. ngày ngày Bố Đại phanh ngực lộ bụng, nói năng lung tung, vai vác túi vải (bố đại) tay cầm niệm châu du hóa bốn phương, gập người liền xin. Nhận được bất cứ vật gì đều thồn vào trong túi vải. người đời đều gọi là hoà thượng túi vải. Có một lần, vào giờ thọ trai ở Thiên Đồng Tự, tăng chúng xếp hàng vào phòng ngồi. Không biết Bố Đại từ đâu đi vào, cười cười ngồi ngay vào chỗ của phương trượng. Củ soát sư (ông tăng coi việc kiểm soát) hét lớn bảo ông đi xuống. Bố Đại mắc kệ. Hành đường sư cũng yêu cầu ông đi xuống, ông vẫn không động. Thấy phương trượng sắp tới, Củ soát sư vội chạy tới chỗ Bố Đại nắm tai ông kéo xuống. Nào ngờ Củ soát sưkéo tai ông lôi ra đến cửa trai phòng, tai thì dài ra nhưng ông vẫn ngồi yên tại chỗ bất động. Đại chúng thấy vậy đều trợn mắt nhìn, không thốt được ra lời. Trụ trì thấy tình cảnh ấy bảo củ soát sư:
- Cứ để ông ta ngồi ở thượng tọa, ta ngồi sau ông ấy được rồi!
Từ đó về sau, đến giờ độ trai, Bố Đại không khách khì đều ngồi ở thượng tọa.
Vào năm Lương Trinh Minh thứ 3, Bố Đại ngồi kết già trước điện Nhạc Lâm Tự thị tịch. Ông có để lại một bài kệ:

彌 勒 眞 彌 勒
Di Lặc chân Di Lặc
分 身 千 百 億
Phân thân thiên bách ức
時 時 示 時 人
Thời thời thị thời nhân
時 人 自 不 識
Thời nhân tự bất thức

Di Lặc thực Di Lặc
Phân thân trăm ngàn ức
Luôn luôn chỉ người đời
Người đời chẳng tự thức.
                                            (Tinh Vân thiền thoại)
Thiền sư Bố Đại du hí nhân gian, do bài kệ của ông mọi người đều nhận ông là Di Lặc. Bố Đại người mập mạp thường mỉm cười nên người đời cũng gọi ông là Hoan Hỉ Phật.

1331.  Sơn đầu hỏa.
Sơn Đầu Hỏa là một thiền sư cận đại. Ông là một thi sĩ làm thơ bài cú tự do. Lúc còn nhỏ ông bị ám ảnh bởi bà mẹ tự sát, lớn lên em ông cũng tự sát, rồi các thi hữu thân thiết cũng qua đời. Ông cũng uống thuốc độc nhưng không chết. Không có nhà để trở về ông được phương trượng Báo Ân Tự thu nạp. Ông tự trách là người vô dụng xin trụ trì cứu. Trụ trì bảo ông:
- Chỉ có học tọa thiền mới có thể cứu được, nhưng tọa thiền cũng vô dụng.
- Nếu đã vô dụng sao còn tọa thiền?
- Vì vô dụng nên mới cần tọa thiền.
Ông hơi tỉnh ngộ, chết không đáng sợ bất tất cầu chết, sự hoàn tất bèn đi. Ông chưa đi vì sự chưa hoàn tất. Việc trong đời này của ông là sáng tác Bài cú. Từ đó ông vân du bốn phương sáng tác vô số những Bài  cú mỹ lệ. Trích một vài bài cú của ông:
- Trong khoảng sinh tử, tuyết chẳng ngừng rơi.
- Già nhưng chưa chết nên cắt móng tay.
- Tiếng ve kêu, có phải là tìm chỗ chết?
- Côn trùng càng rỉ rả càng đoản mạng.
Bài cú cuối cùng của ông là:
- Đi thẳng về chỗ mây tuôn.
                                       (Nhất vị thiền:Quyển Phong)
Nhiều người không biết những Bài cú đẹp đẽ của ông là do ông đã thăng hoa những đau khổ của đời ông vậy.

1332. Đầu  đồng, cổ sắt.
Có ông tăng hỏi Huệ Giác:
- Phật là thế nào?
- Vươn đầu đồng, cổ sắt.
- Là ý gì?
- Chim giơ mỏ, cá phùng mang.
                                             (Bồ đề linh quang)
Thiền sư dùng phản ngữ phản kích ông tăng khiến ông lãnh ngộ. Phật như người thường, ai ai cũng có thể thành Phật.

1333.  Bài kệ của Thanh Tùng.

摩 訶 般 若
Ma ha Bát Nhã
非 取 非 捨
Phi thủ phi xả
若 人 不 會
Nhược nhân bất hội
風 寒 雪 下
Phong hàn tuyết hạ

Ma ha Bát Nhã
Không nắm, không lơi
Nếu người chẳng hiểu, 
Gió lạnh tuyết rơi. 
                                (Thiền ngộ dữ thực hiện)
Đại trí tuệ (ma ha Bát Nhã) không nắm cũng không buông, không phân biệt. Nếu không hiểu điều này thì trong sinh hoạt sẽ cảm thấy lạnh lẽo. Nếu cứ lấy tâm bình thường mà coi thế sự thì sẽ được an nhiên tự tại.

1334.  Không có tướng nam nữ.
Có ông tăng hỏi Hoàng Long:
- Thế nào là mật thất?
- Chỗ không mở.
- Người trong mật thất thì sao?
- Không có tướng nam nữ.
                                                   (Công án thiền cơ)
Mật thất là chỗ tối tăm, khó mở, Ai ở trong đó? Là người không có tướng nam nữ. Người ở trong mật thất chỉ tự tánh, còn mật thất chỉ mê vọng trói buộc tự tánh. Vì tự tánh vô sắc, vô hình, vô tướng nênlàm gì có phân biệt nam nữ. 

1335.  Vô lậu công đức.
Đại Điên hỏi Thạch Đầu:
- Cổ nhân nói có, nói không đều là phỉ báng, thỉnh thầy trừ.
- Một vật cũng không thì trừ cái gì?
                                                 (Công án thiền cơ)
Nói không là không có, nói có là giả có vì mọi vật đều do nhân duyên giả hợp mà thành, khi duyên tán thì lại trở về không. Nói có nói không đều là không cả, không có một vật nào cả vậy thì trừ cái gì?

1336.  Mật truyền.
Có ông tăng hỏi Huyền Ngộ:
- Thế là mật truyền tâm?
Thiền sư im lặng hồi lâu.
- Con vểnh tai để nghe sao thầy không nói?
- Đốt đèn lên.
                                                 (Công án thiền cơ)
Bản tánh là không, không có vật gì, lời gì để truyền. Do đó thiền sư im lặng. Cùng một thể tánh là không thì cần gì phải truyền? Đã là không thì làm gì có một tâm ấn và một tâm để ấn? Vì khi có một hình tướng thì đều không phải là chân. Ông tăng không hiểu thiền cơ. Thiền sư có giảng cũng vô dụng, vì vậy thiền sư không lý đến ông, kêu thị giả thắp đèn.

1337.  Trời xanh.
Nam Tuyền đến tham phỏng Hoàn Trung ở Đại Từ sơn (Hàng Châu), hỏi:
- Am chủ là thế nào?
- Trời xanh! trời xanh!
- Hãy tạm gác trời xanh qua một bên, am chủ là thế nào?
- Hiểu liền hiểu ngay! Đừng lo!
Nam Tuyền phất tay áo mà ra.
                                               (Công án thiền cơ)
Câu hỏi của Nam Tuyền là hỏi về tự tánh. Hoàn Trung đáp trời xanh là dụ cho hư không. Nam Tuyền không hiểu hỏi lại. Hoàn Trung đành phải nói hiểu liền hiểu ngay, không hiểu là không hiểu, chỉ rằng ông đã bảo am chủ, trời xanh đều là không, không khác. Nam Tuyền lúc đó còn chưa ngộ nên bỏ đi.

1338.  Duy ngã độc tôn.
Có ông tăng hỏi Tòng Ỷ:
- Phật là thế nào?
- Không chỉ trời, không chỉ đất.
Tại sao không chỉ?
- Duy ngã độc tôn.
                                      (Công án thiền cơ)
Câu hỏi của ông tăng là hỏi về bản thể giới. Phật là người đã giác ngộ, giác ngộ cái gì? Giác ngộ rằng mọi pháp đều do nhân duyên sanh, có khả năng dùng thể tánh không chiếu mọi cảnh. Tuy đối cảnh mà không khởi mê tình. Không chỉ trời, không chỉ đất vì Phật ở khắp nơi không thuộc vào tam giới. ông tăng lại thắc mắc vạn vật vốn đồng một thể, trời đất cùng một căn tại sao không chỉ? Ngộ vô vi chư pháp nbình đẳng, biết Phật tánh là chân ngã, siêu việt thế gian, có thể chiếu mọi cảnh nhưng không bị cảnh trói buộc. Chúng sanh mê vọng, chấp trước nên bị mê tình mà trôi lăn trong vòng ba giới.

1339.  Hữu tánh vô ngôn.
Có ông tăng hỏi Trung Độ:
- Thỉnh hòa thượng lìa thanh sắc mà đáp.
- Người gỗ thường nói còn hữu tánh không thể nói .
(Công án thiền cơ)
Tất cả trần cảnh đều không thể lìa sắc, thanh, hương, vị, xúc. Do đó ý của ông tăng là hòa thượng đừng tại hiện tượng giới, hãy lấy bản thể giới mà đáp. Người gỗ ở đây là chỉ người chưa chứng bản tánh rất thích giảng giải, những lời ông ta nói chưa đúng nghĩa, chỉ khiến tạo khẩu nghiệp. Người đã kiến tánh ngộ thể không, không thích và không thể nói. Đó là tâm cảnh “Một lần chết lớn” người đó bất cứ làm gì cũng không thấy hứng thú. Nhưng đó vẫn còn ở trình độ tiểu thừa hãy còn chấp pháp. Đó là “đao giết người” (dùng đao chặt đứt hiện nghiệp lưu thức) phải vượt qua để đạt tới “Kiếm cứu người” là làm tâm sống lại, nghĩa là đối với ngoại cảnh cũng biểu lộ hỷ nộ . . . như mọi người thường nhưng vì nội tâm đã giải thoát nên cảnh hiện đó, quên đó, không ghi nhớ, không phiền não.

1340.  Rận từ đâu ra.
Một hôm, Tô Đông Pha và Trần Thiếu Du cùng ăn cơm. Hai người đều tài hoa, thường hay tranh luận. Hôm đó đang ăn, bỗng có một người đi ngang qua. Người ấy vì lâu ngày không tắm rửa, chí rận bò lổm ngổm. Tô Đông Pha bảo:
- Người này hôi quá, cáu ghét trên người đều sinh chấy rận cả. 
Trần Thiếu Du không cho là phải.
- Chẳng phái chấy rận từ bông sợi sinh ra sao?
Hai người đều cho mình là đúng, không ai nhường ai, tranh cãi không thôi. Sau đồng ý là nhờ Phật Ấn phân xử, ai thua phải đãi tiệc.
Tô Đông Pha háo thắng chạy tới Phật Ấn nhờ giúp, Trần Thiếu Du cũng tìm đến Phật Ấn nhờ giúp. Phật Ấn đều đáp ứng. Hai người yên tri, chờ Phật Ấn bình phẩm. Kết quả Phật Ấn nói:
- Con rận, đầu do cáu ghét sinh ra, còn chân do bông sợi sinh ra.
Thiền sư đã dàn hòa tuyệt hảo, có thơ rằng:

一 樹 春 風 有 兩 般
Nhất thụ xuân phong hữu lưỡng bàn
南 枝 向 暖 北 枝 寒
Nam chi hướng noãn Bắc chi hàn
現 前 一 段 西 來 意
Hiện tiền nhất đoạn Tây lai ý
一 片 西 飛 一 片 東
Nhất phiến Tây phi nhất phiến Đông

Một cây hướng gió có hai cành
Hướng Nam ấm cúng, hướng Bắc hàn
Trước mặt một đoạn Tây lai ý
Một phiến về Tây, một phiến Đông.
(Tinh Vân thiền thoại)
Bài thi này bảo chúng ta cái gì? Đó là vật ngã hợp nhất. Vật ngã là một thể. Ngoại tướng của sơn hà đại địa là nội tại của sơn hà đại địa. Đại thiên thế giới là nội tâm thế giới,. Giữa vật và ngã  không có phân biệt, chẳng hạn như cùng tiếp thụ không khí, ánh nắng, nước, nhưng các lá đều có sinh cơ riêng, đều vô ngại cộng tồn trên cây.

1341.  Kiếp phù sinh.
Đại thi hào Bạch Cư Dị rất kính ngưỡng đạo hạnh của Điều Sào thiền sư. Một lần đến tham phỏng, đọc một bài thơ hỏi đạo:

特 入 空 門 問 苦 空
Đặc nhập không môn vấn khổ không
敢 將 禪 事 問 禪 翁
Cảm tương thiền sự vấn thiền ông
爲 當 夢 是 浮 生 事
Vi đương mộng thị phù sinh sự
爲 復 浮 生 是 夢 中
Vi phục phù sinh thị mộng trung

Vào chốn  không môn hỏi khổ, không
Dám đem thiền sự hỏi thiền ông
Nằm mộng chính là phù sinh sự
Phù sinh có phải là mộng không.

Điểu Sào thiền sư cũng đọc một bài thơ đáp lại:

來 時 無 跡 去 無 蹤
Lai thời vô tích khứ vô tung
去 與 來 時 事 一 同
Khứ dữ lai thời sự nhất đồng
何 須 更 問 浮 生 事
Hà tu cánh vấn phù sinh sự
只 此 浮 生 是 夢 中
Chỉ thử phù sinh thị mộng trung

Lúc đến không dấu, đi không vết
Đến và đi chuyện đó vốn đồng
Cần chi phải hỏi phù sinh sự
Phù sinh là mộng biết hay không?

Đời người như ảo như hóa, ngắn ngủi phù du, nhưng nếu thể ngộ được “vô sinh”, vượt lên đến và đi, đối đãi hạn chế thì sẽ cảm nhận được trong cõi bao la vô cùng và thời gian vô tận, sinh mạng là bất sinh bất diệt. Bạch Cư Dị về sau tìm được chỗ an thân, lập mạng trong Phật giáo, trở thành tại gia Phật tử, thường đi tham phỏng các vị cao tăng. Về già ông ăn chay trường, biến nhà thành chùa đặt tên là Hương Sơn Tự, tự gọi mình là Hương Sơn cư sĩ, lại say mê niệm Phật.
(Tinh Vân thiền thoại)
Đọc thơ Bạch Cư Dị chúng ta còn thấy ông có ý tưởng sẽ làm tăng trong kiếp lai sinh. Ông có bài thơ tả tâm cảnh:

余 年 近 七 十
Dư niên cận thất thập
不 復 事 吟 哦
Bất phục sự ngâm nga
看 經 費 眼 力
Khán kinh phí nhãn lực
作 福 畏 奔 波
Tác phúc úy bôn ba
何 以 慰 心 眼
Hà dĩ úy tâm nhãn
一 句 阿 彌 陀
Nhất cú A Di Đà
朝 也 阿 彌 陀
Triêu dã A Di Đà
晚 也 阿 彌 陀
Vãn dã A Di Đà
縱 饒 忙 似 箭
Túng nhiên mang tự tiễn
不 離 阿 彌 陀
Bất ly A Di Đà
達 人 應 笑 我
Đạt nhân ưng tiến ngã
多 却 阿 彌 陀
Đa khước A Di Đà
達 也 作 麼 生
Đạt dã tác ma kinh
不 達 又 如 何
Bất đạt hựu như hà
普 權 法 界 眾
Phổ quyền pháp  giới chúng
同 念 阿 彌 陀
Đồng niệm A Di Đà

Ta nay gần bẩy chục
Chẳng thích sự ngâm nga
Xem kinh ngại mỏi mắt
Tạo phúc sợ bôn ba
Để vỗ về tâm nhãn
Một câu A Di Đà
Sáng cũng A Di Đà
Chiều cũng A Di Đà
Dù rằng rất bận rộn
Chẳng lìa A Di Đà
Đạt nhân dù cười ta
Chẳng bỏ A Di Đà
Đạt rồi thì làm sao?
Không đạt lại thế nào?
Phổ quyền khắp pháp giới
Cùng niệm A Di Đà.

Bạch Cư Dị mới đầu tu Thiền, sau đó tu Tịnh, cuối cùng là Thiền Tịnh song tu. Sinh hoạt của ông thật phong phú.

1342. Thần xạ.
Thời chiến quốc có một người bắn tên rất giỏi tên là Kỷ Xương, ông lập chí làm Thần Xạ giỏi nhất thiên hạ. Khi ông biết người bắn tên giỏi nhất là Phi Vệ, ông liền vượt bao sông núi đến bái Phi Vệ làm thầy. Phi Vệ bảo ông:
- Trước hết ngươi hãy học không chớp mắt.
Ông về nhà nằm dưới khung cửi của vợ, nhìn con thoi qua lại không chớp mắt. Luyện tập 2 năm, ngay cả khi đi ngủ cũng không nhắm mắt. Thành công rồi Phi Vệ lại bảo ông:
- Ngươi hãy tập nhìn nhỏ thành to.
Trở về nhà, ông tìm một côn trùng nhỏ để lên lá cỏ treo ở thư phòng ngày ngày tập luyện. Ba tháng sau ông nhìn thấy con côn trùng to bằng con tằm, 3 năm sau ông thấy nó bằng cái bánh xe. Lúc đó ông lấy một cái kim nhỏ để vào cung mà bắn. Kim găm trúng ngực con côn trùng mà lá cỏ không hề rung động. Kỷ Xương vui mừng đến gập sư phụ. Phi Vệ bảo ông đã học hết áo bí rồi. Ông không những bắn bách phát bách trúng như sư phụ, mà ngoài trăm bước còn có thể bắn xuyên lá liễu. Thậm chí khi về nhà, vợ ông nói chuyện thao thao bất tuyệt. Ông lấy một lông đuôi gà để vào cung bắn rụng 3 sợi lông mày mà bà vợ không hề hay biết, vẫn không ngừng nói chuyện. Kỷ Xương rất cao hứng nghĩ rằng mình đã trở thành cao thủ đệ nhất thiên hạ, nhưng ông chợt nhớ rằng còn có một người cao minh hơn ông đó là sư phụ ông: Phi Vệ, nếu không trừ khử sư phụ làm sao ông có thể xưng là đệ nhất xạ thủ? Một hôm Kỷ Xương đi tản bộ nơi điền dã, từ xa thấy Phi Vệ đi tới. Không chậm trễ Kỷ Xương giương cung bắn. Phi Vệ cũng cảnh giác bắn cùng một lúc, 2 mũi tên chạm nhau trên không cùng rơi xuống đất. Cuối cùng Phi Vệ hết tên, Kỷ Xương còn một mũi. Kỷ Xương kêu to:
- Hãy nhận mạng!
Tiếng kêu chưa dứt tên đã bay ra, nhưng Phi Vệ đã nhanh tay bẻ một cành cây đưa ra trước ngực gạt mũi tên của Kỷ xương. Kỷ Xương đỏ mặt, cúi gầm đầu, không biết làm sao nhìn mặt sư phụ. Phi Vệ không trách ông còn bảo:
- Kỹ thuật bắn tên của ta và ngươi không phân hơn kém. Nếu ngươi muốn tiến thêm bước nữa hãy kiếm sư phụ ta là Cam Dăng lão nhân, người là xạ thủ vĩ đại nhất. Thuật xạ tiễn của chúng ta so với người chỉ là trò con nít. 
Kỷ Xương bái biệt sư phụ đi tìm Cam Dăng. Sau nhiều tháng cuối cùng ông đã gập Cam dăng ở đỉnh Hoắc Sơn. Khi thấy mặt ông rất thất vọng vì thấy đó là một cụ già tóc bạc phơ, lưng còng không có vẻ gì là một xạ thủ cả. Để trổ tài bắn tên của mình, Kỷ Xương giơ cung lên nhắm đàn nhạn bay qua, 5 con nhạn bị tên xuyên thành một xâu rơi xuống đất. Cam Dăng bảo ông:
- Tài nghệ ngươi cũng khá, nhưng chỉ dùng cung tên bắn chim thì hãy còn là sơ bộ của tiễn pháp, ngươi còn chưa học qua bắn mà không bắn của Tiễn Đạo.
- Bắn mà không bắn nghĩa là sao?
Cam Dăng dẫn ông tới một phiến đá dài nơi đỉnh núi.
- Ngươi hãy đến đây bắn tên cho ta coi!
Kỷ Xương bước lên phiến đá, nhìn xuống dưới phiến đá là một dòng nước chẩy cực mạnh, cảm nhận được phiến đá rung chuyển dưới chân, sợ đến chân phát run, không bắn tên được. Lúc đó một con chim nhỏ bay qua. Cam Dăng bảo:
- Ta cho ngươi thấy thế nào là tiễn đạo chân chính!
Lão nhân chỉ liếc mắt một cái, con chim liền rơi ngay xuống đất.
Kỷ Xương trợn mắt há mồm không nói ra lời, sau đó theo Cam dăng học tập 9 năm. Năm thứ 10 thì xuống núi, không hề nhắc đến chuyện bắn tên nữa. Mọi người chờ đợi ông trổ tài nhưng ông hầu như đã quên cả cung tên rồi. Có người hỏi ông:
- Sao không bắn tên nữa?
- Động đến cực điểm thì bất động, nói đến cùng thì không lời, bắn tên đến cực điểm thì không bắn.
Sau khi xuống núi 14 năm Kỷ Xương qua đời. Không ai thấy ông xử dụng cung tên. Truyền thuyết còn nói rằng có  môt lần có một người bạn đến thăm ông mang theo cung tên để xuống bàn. Kỷ xương hỏi:
- Vật để trên bàn là cái gì? Dùng để làm chi?
Người bạn cười lớn tưởng Kỷ Xương nói diễu, nhưng khi Kỷ Xương nhắc lại câu hỏi 3 lần thì ông cảm thấy kính phục:
- Bây giờ ông thật là đệ nhất thần xạ trong thiên hạ. Chỉ có bậc đại sư như ông mới chân chính quên hết danh tướng và xử dụng.
(Hương Thủy Hải)
Đây là một chuyện chép trong sách Liệt Tử. Chuyện này khiến chúng ta liên tưởng đến chuyện bắn tên của Mã Tổ và Tuệ Tạng (Xem công án 391).  Đệ nhất xạ thủ trong thiên hạ nguyên lai là một người có thể bắn xuyên phiền não, háo thắng, phân biệt của chính mình.

1343.  Có đem theo lửa không?
Một hôm Quy Sơn theo Bách Trượng vào núi lao tác. Bách Trượng hỏi:
- Ngươi có mang theo lửa không?
- Có mang theo.
- Để ở đâu?
Quy Sơn nhặt một thanh củi, thổi phù phù 2 lần rồi trao cho Bách Trượng. Bách Trượng vui vẻ hỏi:
- Như con mọt đục gỗ, ngẫu nhiên thành chữ.
(Tinh Vân thiền thoại)
Lửa ở đây tượng trưng cho tự tánh. Bách trượng muốn Quy Sơn bới tro tìm lửa là muốn chỉ Quy Sơn phải tự mình giác ngộ tự tánh (Xem công án 1062). Chuyện này đâu có dễ, do đó Bách Trượng tự bới tro, bới sâu mới tìm được lửa. Thậm chí trong khi lao động cũng khuyến khích Quy Sơn đừng quên tự tánh. Câu nói “Ngươi có mang theo lửa không?” thật là từ bi, trí tuệ biết bao. Sinh hoạt thiền là như vậy.

1344.  Đi tắm.
Một hôm Bách Trượng đi tản bộ thấy ông tăng chấp sự phòng tắm đang đun nước, liền thuận miệng bảo:
- Nước sôi rồi, đừng quên gọi trâu tắm nhé!
Nước sôi rồi, ông tăng chạy tới phương trượng mời Bách Trượng đi tắm, chưa kịp mở mồm Bách Trượng đã hỏi:
- Ngươi đến đây làm gì?
- Mời trâu đi tắm.
- Có mang theo giây thừng không?
Ông tăng không trả lời được.
(Tinh Vân thiền thoại)
Từ cổ các thiền sư không cần làm Phật, chỉ cần khai ngộ, đó là chỗ vĩ đại của các thiền sư vậy.

1345.  Uống trà đi!
Có hai ông tăng đến tham Triệu Châu. Triệu Châu hỏi:
- Ngươi đi thuyền đến hay đi bộ đến?
- Đi thuyền đến.
- Uống trà đi!
Triệu Châu lại hỏi ông tăng thứ hai:
- Ngươi đi thuyền đến hay đi bộ đến?
- Đi bộ đến.
- Uống trà đi!
Viện chủ thấy lạ hỏi:
- Tại sao đi bộ đến, đi thuyền đến đều mời uống trà?
Triệu Châu gọi:
- Viện chủ!
- Dạ
- Uống trà đi!
                  (Trung Hoa thiền phong để diễn biến)
Lục Tượng Sơn có để lại một câu “Thiên hạ vấn vô sự, người thường tự rối loạn”.
Vốn chẳng có chuyện gì, uống trà nóng là tốt rồi. Công án này là một thoại khác của công án số 1000, chi tiết có thay đổi đôi chút nhưng ý nghĩa thì đồng.

1346.  Cảnh Thanh hôm nay thất lợi.
1- Một ông tăng đến tham Cảnh Thanh, Cảnh Thanh giơ phất tử lên. Ông tăng nói:
- Từ lâu nghe tiếng Cảnh Thanh nên đến bái phỏng nào ngờ thầy còn thủ đoạn này.
- Hôm nay ta thất lợi.

2- Một lần Cảnh Thanh hỏi Hà Ngọc:
- Ngươi từ đâu tới?
- Núi Thiên Thai.
- Ai bảo ngươi đến Thiên Thai?
- Thực là đầu hổ, đuôi rắn.
- Hôm nay ta thất lợi.

3- Một lần Cảnh Thanh im lặng đọc kinh, một ông tăng hỏi:
- Thầy đọc kinh gì?
- Ta học cổ nhân trừ trăm cỏ, ngươi biết chơi không?
- Trò này từ nhỏ con đã chơi qua.
- Hiện nay thì sao?
Ông tăng giơ nắm đấm lên, Cảnh Thanh nói:
- Hôm nay ta thua rồi.

4- Có ông tăng hỏi Cảnh Thanh:
- Đầu năm có Phật pháp không?
- Có.
- Phật pháp đầu năm là thế nào?
- Ngày Nguyên đán mọi việc đều mới.
- Tạ ơn thầy chỉ giáo.
- Hôm nay Cảnh Thanh thất lợi.

5- Cảnh Thanh thượng đường ném gậy xuống đất bảo đại chúng:
- Chạm hay không chạm đến gậy đều bị ăn 20 gậy.
Một ông tăng lượm cây gậy đội lên đầu đi ra
- Hôm nay Cảnh Thanh thất lợi.

6- Cảnh Thanh thấy ông tăng đọc sách bèn hỏi:
- Ngươi đọc sách gì?
- Mời thầy xem.
- Một điểm chưa phân  đã phân 3 rồi.
- Hôm nay vừa giống như gập vừa giống như chẳng gập người.
- Hôm nay Cảnh Thanh thất lợi.
(Bồ đề linh quang)
Lùi lại một bước, trời cao đất rộng, trong đó ẩn hàm thiền cơ sắc bén.

1347.  Thể của Bát Nhã.
Triệu Châu hỏi Đại Từ Hoàn Trung:
- Bát Nhã lấy gì làm thể?
- Bát Nhã lấy gì làm thể?
(Thiền ngoại thuyết thiền)

1348.  Sự hướng thượng.
Có ông tăng hỏi Thúy Nham Lịnh Tham:
- Phàm có lời nói đều là ô nhiễm, thế nào là sự hướng thượng?
- Phàm có lời nói đều là ô nhiễm.
(Thiền ngoại thuyết thiền)

1349.  Phương tiện.
Có ông tăng hỏi Cảnh Thanh:
- Thế nào là phương tiện nhanh và dễ thành tựu?
- Nhanh và dễ thành tựu.
(Thiền ngoại thuyết thiền)

1350.  Đại ý Phật pháp.
Đạo Ngộ hỏi Thạch Đầu:
- Thế nào làđại ý Phật pháp?
- Chẳng được, chẳng biết.
(Thiền ngoại thuyết thiền)

1351.  Một câu vì người.
Có ông tăng hỏi Ba Tiêu:
- Thế nào là môt câu vì người của Hòa thượng?
- Chỉ sự xà lê không dám hỏi.
(Thiền ngoại thuyết thiền)

1352.  Không gì để thấy.
Có ông tăng hỏi Đầu Tử Đại Đồng:
- Thế nào là không ra cửa, không thấy Phật?
- Không gì để thấy.
(Thiền ngoại thuyết thiền)
Từ 1347 đến 1352 ba công án trên các thiền sư nhắc lại câu hỏi, 3 công án dưới các thiền sư trả lời mà như không trả lời, tất cả đều ám chỉ lời nói không diễn tả được chân lý.

1353.  Quải Đơn.
Một ông tăng đến một chùa nọ xin quải đơn. Tri khách tăng hỏi:
- Ông đến bản tự quải đơn, có gì cúng dường?
Ông tăng không có tiền, cũng không có một vật gì, chỉ nói:
- Sư phụ, con chỉ có thân, khẩu, ý cúng dường thấy.
Tri khách tăng bước tới cho vài bạt tai, ông tăng xoa đầu. Tri khách tăng bảo:
- Xoa đầu cái gì? Ngươi chẳng đemthân, khẩu, ý cúng dường ta sao? Đầu ngươi là của ta, Xoa cái gì?
(Hương Thủy Hải)
Câu chuyện trên cho thấy tham học không phải là đơn giản; giác ngộ càng không đơn giản. Muốn ngộ phải nhẫn nại, buông bỏ tất cả, kể cả sinh mạng. 

1354.  Phải biết tiếc phúc.
Sâm Hằng Thái Lang là một vị thôn trưởng rất thích giúp đỡ mọi người. vào tuổi trung niên, mắt ông bị bệnh. Mặc dù đã chữa trị nhiều cách, nhưng cuối cùng cũng bị mù. Bị mù rồi Sâm Hằng cảm thấy mình trở thành vô dụng, không có khả năng giúp đỡ dân làng nữa. Lại sợ làm phiền đến mẹ, vợ và 2 đứa con gái cho nên ông quyết định tự sát để giải thoát. Một hôm ăn cơm trưa xong, ông quyết định tự sát ngay hôm đó. Khi ông vịn tay vào bàn để đứng dậy thì tay chạm vào một hạt cơm vãi trên mặt bàn. Ông thuận tay đưa hạt cơm vào mồm nhai. Ông bỗng nhớ lại khi còn nhỏ mẹ ông dậy trước khi ăn phải thành kính cám ơn rồi mới ăn, phải biết quý trọng từng hạt cơm. Ông tự hỏi:
- Tại sao phải quý trọng từng hạt cơm?
Và ông chợt tỉnh ngộ:
- Một hạt gạo tuy nhỏ, nhưng có thể sinh ra biết bao hạt gạo khác; có thể nuôi sống người. Ta nay chỉ bị mù, lại có ý tự sát để trốn tránh, thật không sánh bằng hạt gạo.
Nghĩ thông rồi, ông bỏ ý định tự sát, bôn ba khắp nơi giúp đỡ mọi người, được dân chúng rất ái mộ.
(Hương Thủy Hải)
Một hạt trong bát cơm tuy nhỏ, nhưng cả bát cơm là do một hạt mà nên. Một hạt đem trồng ngoài ruộng sẽ cho lúa đầy đồng.
Trong tùng lâm, từ cổ đã có bài kệ đề tỉnh các ông tăng phải tôn trọng thọ thực.

Hạt gạo của thí chủ
To bằng núi Tu Di
Nếu không chuyên tu Đạo
Sẽ đội sừng mang da.

1355.  Ngày nào cũng đẹp.
Tông Đán là truyền nhân đời thứ 3 của Trà Thánh Lợi Hưu. Ông lập một trà thất và thỉnh lão sư là hòa thượng Thanh Nham đến đặt tên. Đến ngày khai trương Tông Đán vì có việc gấp phải đi bèn viết lại vài chữ dặn đồ đệ chuyển lại cho thầy.
- Con xin lỗi, vì có chuyện gấp phải đi, xin để ngày mai gập
Thanh Nham đến không thấy Tông Đán bèn để lại một phong thư rồi đi. Thư vẻn vẹn có mấy chữ:
- Tỳ khưu lười, chẳng có ngày mai.
Khi Tông Đán trở về đọc thư xong vội chạy tới bái phỏng Thanh Nham tạ tội và viết một câu thơ:
- Niệm niệm ngày qua ngày, Ngày mai là ngày mai.
Kết quả là trà thất được đặt tên là Kim Nhật Am
(Nhất vị thiền:Quyển Phong)
Chúng ta nên biết rằng ngày hôm nay, giờ khắc này vĩnh viễn không trở lại. Chúng ta phải biết quý trọng giờ khắc này. Do đó “Niệm niệm ngày nay qua ngày nay” thì mới có thể thấy “Ngày nào trời cũng đẹp, dù mưa hay nắng, buồn hay vui, buông bỏ tất cả mọi tính toán, so đo.” Cát Xuyên Anh Trị có nói:
- Trời tạnh thích trời tạnh, trời mưa thích trời mưa. Có chuyện vui thì vui, không có chuyện vui cũng vui.
Đó là lời giải thích rất hay cho câu “Ngày nào cũng đẹp”

1356.  Chánh tà.
Có ông tăng hỏi Đại Châu:
- Làm chánh là sao?
- Tâm đuổi theo vật là tà, vật từ tâm ra là chánh.
(Thiền ngộ dữ thực hiện)
Khi “ngã” bị vật dục bao vây, bị vật cảnh chuyển thì “ngã” bị động. Nếu một người có thể từ bỏ được phân biệt thì chân ngã phát huy công năng, vật thành khách thể, ngã trở thành chủ thể, do đó có thể phát huy Bát Nhã chân quán.

1357.  Siêu việt.
Một hôm Quy Sơn hỏi Vân Nham:
- Bồ đề lấy gì làm nền?
- Lấy vô vi làm nền.
Vân Nham hỏi ngược lại Quy Sơn:
- Bồ đề lấy gì làm nền?
- Lấy “không” làm nền, ngươi nghĩ sao?
- Ngồi thì nghe ngồi, nằm thì nghe nằm. Có một người nằm không ngồi. Nói mau ! Nói mau!
(Thiền ngộ dữ thực hiện)
Siêu việt khiến chúng ta trong mọi hoàn cảnh nhận thức rõ ràng không bị sắc tướng làm mê hoặc, không làm nô tài cho vật dục, có năng lực nhận lãnh trách nhiệm.

1358.  Lễ như đàn bà.
Một ông tăng hỏi Đạo Ngô:
- Thế nào là chỗ sâu thẳm?
Đạo Ngô bước xuống thiền sàng vái như đàn bà.
- Ngươi từ xa tới, nhưng đáng tiếc ta không có câu trả lời cho ngươi.
(Zen and Zen classic)
Hành động và câu nói của Đạo Ngô là chỗ sâu thẳm.

1359.  Pháp đường đổ.
Dược Sơn lúc sắp mất kêu lớn:
- Pháp đường sắp đổ kìa!
Chư tăng vội chạy lại ôm giữ cột nhà.
Dược Sơn giơ hai tay lên trời than:
- Các ngươi chẳng có ai hiểu ý ta!
Nói rồi mất.
(Zen and Zen classic)
Ôm giữ vật đang rơi là điên, sao không đẩy cho nó rơi luôn.

1360.  Ý tổ sư.
Một ông tăng hỏi Thạch Sương:
- Ý tổ sư từ Tây sang là sao?
Thạch Sương nghiến răng. Ông tăng không hiểu. Sau khi Thạch Sương mất, ông tăng hỏi Cửu Phong:
- Thạch Sương nghiến răng là ý gì?
- Nếu là ta thì thà là cắt lưỡi còn hơn làm xấu hổ đất nước.
Ông tăng lại hỏi Vân Cái. Vân Cái nói:
- Ta là kẻ thù của Thạch Sương sao?
(Zen and Zen classic)
Nếu đã chứng ngộ thì nói hay không đều là diễn tả chân lý.

1361.  Giặt quần áo.
Nam Tuyền đang giặt quần áo, một ông tăng hỏi:
- Chẳng lẽ thầy còn chuyện tất yếu này?
Nam Tuyền giơ quần áo lên:
- Cái này biết làm sao?
(Thiền cơ)
Quần áo trỏ sự trói buộc, giặt quần áo là cởi trói.

1362.  Thạch Lâu không có tai.
Một ông tăng hỏi Thạch Lâu:
- Con chưa biết bản sinh, thỉnh thầy phương tiện chỉ thị.
- Thạch Lâu không có tai.
- Con tự biết không đúng.
- Chẳng lẽ lão tăng sai sao?
- Thầy sai ở chỗ nào?
- Sai ở chỗ ngươi không đúng.
(Thiền cơ)
Bản sinh chỉ khuôn mặt xưa nay. Thạch Lâu nói không có tai là ám chỉ ông tăng không nên hỏi; hỏi là dư thừa. Ông tăng hiểu điều đó nên nhận là mình không đúng. Câu ‘sai ở chỗ ngươi không đúng’ có nghĩa là đúng và sai đều là dư thừa.

1363.  Không trồng tạp chủng.
Một ông tăng hỏi Dược Sơn:
- Chuyện khẩn cấp của sinh mạng là gì?
- Không trồng tạp chủng.
(Thiền cơ)
Chuyện khẩn cấp chỉ khuôn mặt xưa nay, tạp chủng chỉ sự nhiễm trần.

1364.  Bố mẹ đều mất.
Có một ông tăng đến tham phỏng Tánh Không; thiền sư dang hai tay ra, ông tăng tiến lên rồi thối lui. Tánh Không hỏi:
- Cha mẹ đều mất mà mặt không biểu lộ chút cảm xúc nào sao?
Ông tăng cười ha hả.
- Tên ngốc giúp hòa thượng lo tang sự!
Ông tăng giở nón đi ra. Thiền sư kêu:
- Trời xanh! Trời xanh!
(Thiền cơ)
Thiền sư dang hai tay ra tỏ rằng tất cả đều minh bạch, tới tham phỏng làm gì?
Ông tăng bước tới rồi lại bước lui lại là biểu thị đã vượt lên phàm thánh. Cuối cùng thiền sư khuyên ông tăng phải nỗ lực tham thiền để đạt tới cảnh giới vô ngại.

1365.  Méo mồm.
Một hôm, trong buổi tham thiền Pháp Chân bỗng nhiên làm miệng méo như bị trúng gió rồi hỏi:
- Có ai chữa được mồm ta không?
Đại chúng tranh nhau đưa thuốc, dân chúng được tin cũng liên tục đưa thuốc đến tặng nhưng thiền sư đều không nhận. Bẩy hôm sau, thiền sư tự dùng tay vả vào mồm khiến mồm trở lại như cũ, bảochúng đệ tử:
- Mấy hôm nay mồm bị méo, đến giờ cũng không ai đủ sức chữa cho ta.
(Thiền cơ)
Mồm ám chỉ tự tánh, méo mồm là tự tánh bị duyên trần ô nhiễm. Thuốc của tha nhân làm sao chữa được, chỉ có tự mình.

1366.  Đập vỡ gương.
Trường Sinh hỏi Chí Cần:
- Thế nào là chân thường?
- Giống như gương luôn sáng.
- Còn có cảnh giới nào cao hơn không?
- Có.
Thế nào là cảnh giới cao hơn?
- Đập vỡ gương.
(Thiền cơ)
Chân thường, gương sáng là thánh cảnh, đập vỡ gương là trở về phàm.

1367.  Đầu rơi xuống đất.
Một ông tăng hỏi Lục Thông:
- Thế nào là một kiếm?
- Đừng ngăn mũi nhọn.
- Đầu rơi xuống đất rồi thì phải làm sao?
- Ta đã nói rồi, đừng ngăn mũi nhọn thì làm sao rơi đầu?
(Thiền cơ)
Một kiếm chỉ xuy mao kiếm chặt đứt căn trần nhưng không chặt tự tánh. Thiền sư bảo đừng ngăn mũi nhọn là bảo ông tăng tự chặt đứt căn trần. Ông tăng chưa hiểu nên hỏi “đầu rơi xuống đất phải làm sao?”. Ở đây “đầu” chỉ phàm cảnh, rơi xuống đất chỉ thánh cảnh. Câu đáp của thiền sư là đừng trú mãi ở “thánh” cảnh hãy trở về “phàm “ cảnh.

1368.  Cảnh giới Tung Sơn.
Một ông tăng hỏi Tung Sơn:
- Cảnh giới Tung Sơn là thế nào? (T)
- Mặt trời mọc từ phương Đông, mặt trăng lặn về phương Tây (P)
- Con không hiểu.
- Đông, Tây cũng không hiểu sao?
(Thiền cơ)

1369.  Nhẩy ra khỏi tam giới.
Một ông tăng hỏi Thiên Long:
- Làm sao nhẩy ra phỏi tam giới? (P)
- Ngươi nay ở đâu? (TP)
(Thiền cơ)

1370.  Chổi đuôi nai.
Một ông tăng hỏi Pháp Chân:
- Phật là gì?(T)
Thiền sư giơ chổi làm bằng đuôi nai lên hỏi:
- Hiểu không?
- Con không hiểu .
- Chổi đuôi nai!(P)
(Thiền cơ)

1371.  Dụng tâm liền sai.
Một ông tăng hỏi Thủy Lục:
- Con dụng tâm chỗ nào?
- Dụng tâm liền sai.
- Vậy nếu không khởi một niệm thì sao? (T)
- Là một gã vô dụng. (P)
(Thiền cơ)

1372.  Giữ mồm ăn cơm.
Một ông tăng hỏi Minh Chân:
- Đường đi lên, ngàn thánh chẳng truyền (T); không biết thầy truyền thế nào “
- Hãy giữ mồm mà ăn cơm. (P)
(Thiền cơ)

1373.  Mất một đấu gạo.
Một ông tăng hỏi Huyền Nột:
- Thế nào là xúc mục Bồ đề? (T)
- Hòa thượng mất nửa năm lương. (P)
- Tại sao?
- Chỉ vì tìm cầu một đấu gạo (T).
(Thiền cơ)

1374. Diện bích chín năm.
Một ông tăng hỏi Tùy Chân:
- Đạt Ma diện bích chín năm là ý gì? (T)
- Ngủ không được. (P)
(Thiền cơ)

1375.  Ngàn vạn núi.
Có ông tăng hỏi Long Tu:
- Trong ngàn vạn núi, núi nào là Long Tu? (T)
- Ngàn vạn núi. (P)
- Thế nào là người trong núi? (T)
- Đối diện ngàn dặm. (P)
(Thiền cơ)

1376.  Ném một mảnh ngói.
Phổ Nguyện đi ngang vườn rau thấy một ông tăng đang trồng rau (P) liền nhặt một mảnh ngói ném qua (T). Ông tăng ngoảnh đầu nhìn. Thiền sư liền giơ một chân lên (T). Ông tăng không nói một lời. Thiền sư trở về phòng phương trượng, ông tăng đi theo hỏi:
- Thầy ném mảnh ngói có phải là đề tỉnh con không?
- Ta giơ chân lên là ngụ ý gì?
(Thiền cơ)

1377.  Tám lõm, chín lồi.
Một ông tăng hỏi Tòng Y:
Thế nào là Thiên Bình? (T)
- Tám lõm, chín lồi. (P)
(Thiền cơ)

1378.  Lìa thanh sắc.
Một ông tăng hỏi Thiệu Tu:
- Lìa thanh sắc, thỉnh thiền sư chỉ thị (T).
- Hãy từ trong thanh sắc ra và hỏi lại (P).
(Thiền cơ)

1379.  Ăn rau đạo.
Một ông tăng hỏi Quế Sâm:
- Thế nào là thực phẩm chân chính của sa di? (T)
- Ngươi có thể ăn sao? (P)
- Muốn ăn rau đạo, thỉnh thầy phương tiện chỉ thị (T).
- Ngậm chặt mồm lại. (P)
(Thiền cơ)

1380.  Đãng tử về quê.
Một ông tăng hỏi Văn Ích:
- Đãng tử về quê thì sao? (T)
- Ngươi có gì cho hắn? (P)
- Không có gì cả (T).
- Sinh hoạt hàng ngày biết làm sao? (P)
(Thiền cơ)

1381. Người đá trong vò.
Một ông tăng hỏi Tông Huệ:
- Phật là thế nào? (T)
- Rõ rõ, ràng ràng (P)
Vạn duyên đều dứt thì sao? (T)
- Người đá trong vò (T), bán táo (P).
(Thiền cơ)

1382. Mất gối.
Một ông tăng hỏi Xứ Chân:
- Thế nào là chỗ chuyển thân của thầy? (T)
- Nửa đêm hôm qua mất cái gối! (P)
(Thiền cơ)

1383.  Ngồi không.
Thạch Đầu hỏi Dược Sơn đang ngồi thiền:
- Ngươi ở đây làm gì?
- Chẳng làm gì cả. (T)
- Vậy là ngồi không?
- Nếu nói là ngồi không là có làm.
- Ngươi nói không làm là không làm cái gì?
- Ngàn thánh cũng chẳng biết. (P)
(Thiền cơ)
(Xem thêm lời giảng ở công án 1500)

1384.  Hoa sen trong lửa.
Một ông tăng hỏi Chân Tịch:
- Thế nào là rồng kêu (P) trong cây khô (T)?  (TP)
- Hoa sen trong lửa (T).
- Thế nào là con mắt (P) trong đầu lâu (T)?
- Trâu bùn vào nước.
(Thiền cơ)
Trâu bùn vào nước: ám chỉ phải siêu phàm vượt thánh.

1385.  Đốt đèn.
Một ông tăng hỏi Quảng Pháp:
- Thế nào là trước khi đốt đèn? (P)
- Sau khi đốt đèn. (T)
Thế nào là sau khi đốt đèn? (T)
- Trước khi đốt đèn (P)
- Thế nào là ngay khi đốt đèn? 
- Uống trà đi.
(Thiền cơ)
Đèn chỉ tự tánh, đốt đèn chỉ sự giác ngộ.

1386.  Một ngụm nuốt hết.
Một ông tăng hỏi Vân Môn.
- Thế nào là một ngụm nuốt hết? (T)
- Ta ở trong bụng ngươi. (P)
- Sao thầy lại ở trong bụng con?
- Trả lời câu ta vừa hỏi.
- Nói làm sao đây?
- Đi ra!
(Thiền cơ)

1387.  Không biết đau.
Một ông tăng hỏi Truyền Sở:
- Thế nào là một câu lúc lâm cơ? (T)
- Ngươi nói thử coi? (P)
- Thỉnh thầy nói.
- Đầu lâu (T) bị xuyên mà chẳng đau (P).
(Thiền cơ)

1388.  Ăn gậy sắt.
Một ông tăng hỏi Nham Đầu:
- Thế nào là chủ nhân (T) của ba giới? (P)  (T)
- Ngươi còn biết ăn gậy sắt không? (P)
(Thiền cơ)

1389.  Vòng vàng chưa mở.
Một ông tăng hỏi Đầu Tử:
- Một pháp (T) thấm nhuần khắp chúng sanh, thế nào là một pháp?
- Trời mưa rồi! (P)
- Vòng vàng  (T) chưa mở thì sao?
- Mở rồi . (P)
(Thiền cơ)

1390.  Hôm nay phơi lúa mạch tốt.
Một ông tăng hỏi Viên Trí:
- Vạn dậm không mây chưa chắc đã là bản lai thiên, thế nào là bản lai thiên? (T)
- Hôm nay phơi lúa mạch tốt. (P)
(Thiền cơ)

1391.  Người khô hạc.
Bảo Phúc hỏi một ông tăng đến tham học:
- Ngươi  tên gì?
- Con tên Hàm Trạch (đầm đầy nước) (P)
- Bỗng nhiên gập người tên Khô Hạc (cạn hết) thì phải là sao? (T)
- Ai là người Khô Hạc?
- Là ta.
- Thầy đừng lừa dối người.
- Là ngươi lừa dối ta.
(Thiền cơ)

1392.  Mãnh liệt.
Hắc Thủy hỏi Hoàng Long:
- Tuyết rơi trên hoa lan thì thế nào? (T)
- Mãnh liệt. (P)
- Không mãnh liệt. (T)
- Mãnh liệt. (P)
- Không mãnh liệt. (T)
Hoàng Long bèn quơ gậy đánh, Hắc Thủy ngay đó đốn ngộ.
(Thiền cơ)

 1393.  Tuỳ duyên, tùy vận.
Văn Trục nói:
- Lão tăng bình sinh chẳng có kiến giải gì, ngày ngày chỉ vậy mà trú ở đây, tuỳ duyên, tùy vận. Các ngươi vì bản lai không hai dạng.
Một ông tăng hỏi:
- Con và bản lai không là hai sao? (T)
- Ngàn sai, vạn biệt. (P)
Ông tăng mở miệng định nói, thiền sư liền bảo:
- Được rồi! Được rồi! Đừng hỏi nữa, hãy thể nghiệm ngàn sai, vạn biệt.
(Thiền cơ)

1394.  Trời thu ấm áp.
La Sơn hỏi một ông tăng đến tham học:
- Ngươi từ đâu đến?
- Tứ Xuyên. Xin hỏi chuyện ngày nay phải làm sao? (T)
Thiền sư vung tay:
- Uống trà đi. (P)
Ông tăng không trả lời được, La Sơn bảo:
- Trời thu ấm áp. Đi ra!
(Thiền cơ)

1395.  Hôm nay gió lớn, trăng lạnh.
Một ông tăng hỏi Thủ Sơn:
- Có một người hết tận phóng đãng lúc trước, thầy có tiếp không? (T)
- Người đó là ai? (P)
- Hôm nay gió lớn, trăng lạnh. (T)
- Trong tăng đường có mấy người ngồi hoặc nằm?(P)
Ông tăng không trả lời được, thiền sư bảo ông:
- Thật là lừa chết lão tăng .
(Thiền cơ)

1396. Trần dép cỏ.
Trần Tôn Túc có ngoại hiệu là Trần Dép Cỏ, một hôm đang đứng ở hành lang, bỗng có một ông tăng chạy tới hỏi:
- Trần Tôn Túc ở phòng nào bên đó? (T)
Trần Tôn Túc tháo dép đập vào đầu ông tăng . (P) Ông tăng vội chạy trốn. Thiền sư gọi:
- Hòa thượng!
Ông tăng quay đầu lại, thiền sư giơ tay chỉ:
- Đi về bên đó!
(Thiền cơ)

1397.  Đập bát.
Triệu Châu giơ một cái bát lên bảo đại chúng:
- 30 năm sau nếu còn thấy lão tăng thì hãy cung dưỡng, còn nếu không thấy thì đập bát đi.
Một ông tăng thưa:
- 30 năm sau con dám nói là thấy lão  sư. (T)
Triệu Châu bèn đập bát. (P)
(Thiền cơ)

1398.  Tháng thứ hai.
Một ông tăng hỏi Tào Sơn:
- Ai là người chìm nổi trong bể sanh tử? (P)
- Tháng thứ hai. (PT)
- Còn muốn ra khỏi không?
- Còn muốn ra nhưng không có đường.
- Khi ra khỏi được ai tiếp đãi?
- Người mang cùm sắt.
(Thiền cơ)
Tháng 1 chỉ bản thể giới, tháng 2 chỉ hiện tượng giới. Ở đây tháng 2 chỉ phàm phu. Ra khỏi phàm là vào thánh. Cùm sắt chỉ sự ô nhiễm. Không có đường vì chỉ ỷ lại vào người khác. Nếu thấy rằng mình đang mang cùm sắt (ô nhiễm) thì có thể do một niệm mà tiến vào thắng cảnh.

1399.  Trâu đất rống.
Một ông tăng hỏi Vân Môn:
- Thế nào là trâu đất ở Tuyết Lãnh rống?
- Trời đất tối đen.
- Thế nào là ngựa gỗ Vân Môn hí?
- Sông núi chạy.
- Từ chuyện trên thỉnh thầy chỉ thị. (T)
- Sáng nhìn Đông- Nam, chiều xem Tây- Bắc. (P)
- Cứ thế mà lãnh hội thì thế nào? 
- Nhà bên Đông đốt đèn, nhà bên tây ngồi trong tối.
(Thiền cơ)
Trâu đất, ngựa gỗ chỉ tự tánh.
 

c

Nguồn: www.quangduc.com

Về danh mục

vài suy nghĩ về mùa lễ hội vào trong huyễn mộng dung thể ma con ngan can ta hanh phuc Ăn bông cải xanh để ngăn chặn ung thư tong quan ve quan dinh phan 1 vạn vật hữu linh vậy ăn chay có ích dù 寺院 thiện 因地不真 果招迂曲 giữ giới là con đường tươi sáng cho 四十八願 nấu trai tim bat diet cua bo tat thich quang duc hien Tiếng chim mầu nhiệm Tưởng niệm lần thứ 48 Thánh tử đạo ト妥 anh sang va tu tai 心經 診療 佛頂尊勝陀羅尼 thú hòa thượng thích trí thủ 法鼓山聖嚴法師教學 tạm thien đau từ 曹洞宗 盛岡 多い理由 lá Ÿ Về chùa hoÃ Æ ho quynh huong an chay va ngoi thien giup toi dep TP Nhớ cẩn Doi Chùa Pháp Hoa b瓊o Ngoại Đừng trách mùa đông ni sinh viet nam dat thu khoa tot nghiep dai hoc lã æ Vì sao bạn mất ngủ về đêm thong dong truoc tam ngon gio doi 哪能多如意 嫖妓 Long