Mục Lục Quyển Hạ.
Phần Thứ 1.
Phần Thứ 2.
Phần Thứ 3.
.
NHỮNG ĐOÁ HOA THIỀN
Dịch gỉa: Dương Đình Hỷ
Phước Quế Publications, Arlington, USA 2003
Mục Lục.
Quyển Thượng.
Quyển Trung.
Quyển Hạ.
Quyển Chung.
NHỮNG ĐOÁ HOA THIỀN
禪 之 花
QUYỂN HẠ 

1400. Thấy Bát Nhã rồi.
Một ông tăng hỏi Đức Thiều:
- Có người thấy Bát Nhã, bị Bát Nhã buộc (T), có người không thấy Bát Nhã cũng bị Bát Nhã trói (P). Nếu đã thấy Bát Nhã sao còn bị Bát Nhã trói?
- Ngươi thấy Bát Nhã gì?
- Không thấy Bát Nhã sao vẫn bị Bát Nhã trói?
- Ngươi không thấy Bát Nhã ở đâu?
(Thiền cơ)

Từ 1368 đến 1400: các công án trên đều có cùng một cơ chế, thiền sinh hỏi phàm (P), thiền sư đáp thánh (T); thiền sinh hỏi thánh (T), thiền sư đáp phàm (P). tất cả đều nhằm mục đích giúp thiền sinh siêu việt phàm thánh. Nếu thiền sinh đang ở thánh, thiền sư kêu ông trở về phàm để ma luyện. Vì nếu thiền sinh cứ trú ở thánh thì bị thánh trói buộc không tiến lên được.
Thiền môn có 3 cửa mà người học phải vượt qua, sơ lược như sau:

Tại phàm              Vào thánh                Về phàm           Đại tự tại 
Sơ quan               Trùng quan              Lao quan
Hiện tượng giới     Bản thể giới            Bản thể hiện      Bản thể hiện
                                                          tượng giới        tượng vô ngại giới
   1                        2                        3                         4

1- Hiện tượng giới
Hiện tượng giới nằm ở:
- thời gian: quá khứ + hiện tại + tương lai .
- không gian: trước sau, phải trái, trên dưới, Đông, Tây, Nam, Bắc.
- con người: 3 duyên
*ngoại duyên   :  6 trần
*nội duyên       :  6 căn 
*trung duyên    :  6 thức

Các yếu tố này thúc đẩy nhau, hỗ tương duyên khởi tạo thành hiện tượng giới. Hiện tượng giới có các tính chất:
- hữu hạn
- sai biệt
- đối lập
- dục vọng thúc đẩy ý chí.
Dục vọng không được thỏa mãn trở thành phiền não, do đó sinh ra trăm kế, ngàn mưu để truy cầu. Dù được rồi sẽ hóa chán ngay. Từ sinh đến tử con người ở hiện tượng giới tự tìm phiền não mà không tự biết. Có phiền não thì hãy còn là phàm phu.

2-  Bản thể giới.
Bản thể thể giới đứng ngoải: - thời gian
                                                - không gian
                                                - 3 duyên.
Nếu có thể một niệm siêu thoát liền vào Bản thể giới, kiến tự tánh. Tự tánh ai cũng có đầy đủ. Tự tánh từ xưa đến nay không sinh không diệt, không xanh không vàng, không hình không tướng, không thuộc Hữu Vô, không kể cũ mới, không dài không ngắn, không to không nhỏ, vượt qua mọi hạn lượng, danh ngôn, tung tích, đối đãi. Đương thể tức là, động niệm liền sai. Giống như hư không không có giới hạn, không thể đo lường. Vì “vốn không một vật” nên nó có thể sinh ra vạn vật. Không chỗ nào là không có, có thể lớn, có thể nhỏ, có thể vuông, có thể tròn. Tất cả đều hiện thành. Lại giống như trăng trong nước. Chỗ nào có nước đều được phổ chiếu. Lại giống như giọt thủy ngân khi phân tán ra nhiều giọt, giọt nào cũng tròn. Cho nên tự tánh ai cũng có không hề thiếu chỉ vì bị hiện tượng giới che dấu; cũng như một hạt minh châu trong nước bị gió tạo thành sóng khiến không thấy. Thiền sư phải làm sao cho học tăng thấy? Đối với cái không thể nói thường là các thiền sư dùng phương pháp không nói mà nói. Nếu bất đắc dĩ phải nói thì từ những sinh hoạt thường ngày, mượn những cảm giác cụ thể của sự vật mà hình dung đến tự tánh không thể cảm giác, không thể nghĩ bàn. Nếu học tăng ngay đó tự ngộ tự tánh liền thấy tánh, phá được sơ quan, vào Bản thể giới.

Tự tánh có nhiều tên do ứng duyên mà lập:
- kinh Bồ tát giới gọi là Tâm Địa vì vạn thiện từ đó mà ra.
- kinh Bát Nhã gọi là Bồ Đề vì lấy giác làm thể, còn gọi là Niết Bàn vì đó là chỗ về của chư Thánh.
- kinh Kim Cương gọi là Như Lai vì không từ đâu đến.
- kinh Kim Quang Minh gọi là Như Như vì chân thường bất biến.
- kinh Tịnh Danh gọi là Pháp Thân vì báo, hóa thân nương dựa vào.
- luận Khởi Tín gọi là Chân Như vì bất sanh, bất diệt.
- kinh Niết Bàn gọi là Phật Tánh vì là thể của 3 thân.
- kinh Viên Giác gọi là Tổng Trì vì lưu xuất công đức.
- kinh Thắng Ứng gọi là Như Lai Tạng vì ẩn phục, hàm nhiếp.
- kinh Liễu Nghĩa gọi là Viên Giác vì phá tôi, độc chiếu.
Trong Thiền Tông có lúc gọi là:
- Diệu tâm vì hư linh, độc chiếu
- Vô đề bát vì tùy xứ sinh nhai.
- Xuy Mao Kiếm vì chặt đứt căn trần.
- Mâu ni châu vì giúp đỡ bần cùng.
- Chủ nhân ông . . . 

3-  Bản thể hiện tượng giới.
Tức là ra thánh về phàm. Hiện tượng giới giống như vỏ trứng, thiền sinh phải tự mình mổ vỡ là phá được Sơ  Quan, vào bản thể giới. Nhưng thiền sinh phải trở lại phàm để ma luyện. Nếu cứ trụ ở thánh thì sẽ bị “nước chết sát hại”. Do đó, thiền sư dùng phương pháp đánh, hét khiến thiền sinh ‘Tuyệt hậu tái tô” phát đại cơ, đại dụng “mai già hoàn hồn”. Đó là thiền sinh đã phá được Trùng Quan.

4-  Bản thể hiện tượng vô ngại giới.
 Phá được Trùng Quan rồi hãy còn phàm thánh, ngộ mê, lý sự, thể dụng, không sắc, vô hữu, tối sáng, tâm cảnh, bồ đề phiền não, như lai chúng sinh . . . Do “đầu gậy trăm trượng bước bước nữa”, không ngừng tham chứng cho đến khi không thấy Phật, không thấy chúng sinh, trong ngoài thông suốt. Vào sắc giới  không bị mắt mê hoặc, vào thanh giới không bị tai mê hoặc . . . là thiền sinh đã phá được Lao Quan nhận được tâm ấn.

1401.  Giác ngộ.
Động Sơn hỏi thủ tọa một câu, thủ tọa trả lời nhiều lần nhưng đều không được chấp nhận. sau cùng đến lần thứ 96. Động Sơn bảo:
- Sao trước ngươi không nói thế “
Một ông tăng nọ, được nghe 95 câu trả lời của thủ tọa nhưng câu cuối cùng lại không nghe được. Mỗi lần gập trong nhà tắm ông đều năn nỉ thủ tọa nói cho ông nghe câu nói đó nhưng đều bi từ chối. Ba năm sau, thủ tọa bị ốm nặng. Ông tăng mang dao đến bảo thủ tọa:
- Ba năm qua, tôi năn nỉ ông nói, ông đều từ chối. nếu bây giờ ông vẫn không bảo cho tôi biết, tôi sẽ giết ông.
- Được rồi! Đợi một chút! Nhưng tôi bảo cho ông biết dù tôi có nói thì cũng chả có ích lợi gì cho ông.
Ông tăng lạy thủ tọa đi ra.
(Zen and Zen classic)
Khi ông tăng nhận được lời hứa sẽ được thỏa mãn điều ông muốn thì ông không còn muốn nữa: Ông đã giác ngộ. Giác ngộ là không còn muốn giác ngộ nữa.

1402.  Tháp vô phùng.
Một ông tăng hỏi Thủ Sơ:
- Thế nào là tháp vô phùng? (Xem công án    )
- Sư tử đá ở ngã tư đường.
(Zen and Zen classic)
Thủ Sơ muốn ông tăng vượt lên phàm, thánh.

1403.  Người đánh xe.
Một ông tăng hỏi Thủ Sơ:
- Khi xe ngừng mà bò không ngừng thì sao?
- Sao không dùng người đánh xe?
(Zen and Zen classic)
Người đánh xe chỉ tự tánh.

1404.  Chấp lời.
Một ông tăng hỏi Thiệu thiền sư:
- Môi, họng không động làm sao nói?
- Đợi ngươi bừa hết Càn Tử Sơn ta sẽ bảo cho ngươi biết.
(Thiền ngoại thuyết thiền)
Thiền sư phá cái chấp vào lời nói của ông tăng.

1405.  Diệt lục căn.
Một ông tăng hỏi Quảng Trừng:
- Làm sao diệt hết lục căn?
- Vụt kiếm vào không, không làm thương vật.
(Thiềng ngoại thuyết thiền)
Dùng kiếm trí tuệ chặt đứt mọi trói buộc.

1406. Tâm của cổ Phật.
Một ông tăng hỏi Triệu Châu:
- Thế nào là tâm của cổ Phật?
- Ba người đàn bà xếp hàng lạy.
(Thiền ngoại thuyết thiền)

1407.  Đại ý Phật pháp.
Một ông tăng hỏi Phụng thiền sư:
- Thế nào là đại ý Phật pháp?
- Thíc Ca là quỷ đầu trâu, tổ sư là qủy mặt ngựa.
- Thế nào là ý Tây sang?
- Tường Đông đánh tường Tây!
(Thiền ngoại thuyết thiền)

1408.  Ý tổ sư.
Một ông tăng hỏi Đạo Ân:
- Ý tổ sư từ Tây sang là sao?
- Năm Phổ Thông thứ 8 gập Lương Quái, cho đến nay vẫn chưa có tuyết.
(Thiền ngoại thuyết thiền)
Từ 1406 đến 1408: Các câu đáp đều ly kỳ không ngoài mục đích là cắt đứt sự suy nghĩ của người hỏi.

1409.  Thạch Sương.
Thạch Sương đến thăm Đạo Ngô hỏi:
- Một trăm năm sau, nếu có người hỏi về tự tánh, con phải trả lời sao?
- Đạo Ngô gọi thị giả:
- Sa di!.
- Dạ!
- Đổ thêm nước vào tịnh bình.
Đạo Ngô quay lại hỏi Thạch Sương:
- Vừa rồi ông hỏi gì?
Thạch Sương nhắc lại câu hỏi, Đạo Ngô trở về phương trượng. Thạch Sương giác ngộ ngay đó.
(Zen and Zen classic)
Thành, trụ, hoại, diệt của vạn vật được thấy trong sự đổ thêm nước vào tịnh bình, trong sự nhắc lại câu hỏi, trong sự trở về phòng. Những động tác này người thường làm với sự vô ý thức, còn Đạo Ngô làm với sự tỉnh thức, chẳng trách Thạch Sương giác ngộ.

1410.  Đừng tìm trong kinh.
Một ông tăng hỏi Thạch Sương:
- Ý tổ sư từ Tây sang có trong Phật giáo không?
- Có.
- Ý đó là sao?
- Đừng tìm trong kinh.
(Zen and Zen classic)
Câu trả lời thật hay và rõ ràng. Chân lý trong kinh, nhưng đừng đọc kinh để tìm chân lý trong đó.

1411.  Bện dép cỏ.
Động sơn hỏi một ông tăng:
- Ngươi từ đâu tới?
- Từ nơi bện dép cỏ.
- Người tự mình bện hay phải nhờ người?
- Nhờ người.
Hắn có dạy ngươi không?
- Nếu cứ theo lời hắn thì sẽ bện được dép tốt.
(Động Sơn Lục)
 Hắn chỉ tự tánh.

1412.  Huyền Chi Hựu Huyền.
Một ông tăng hỏi Động Sơn:
- Thế nào là huyền chi hựu huyền?
- Lưỡi người chết.

1413.  Cỏ bờ bên kia.
Một ông tăng hỏi Động Sơn:
- Ở bờ bên kia là cỏ gì?
- Cỏ không mọc.
(Động Sơn Lục )
 “Cỏ không mọc” cùng với ý “vạn dậm không tấc cỏ” (Xem công án  668).

1414.  Chết rồi về đâu?
Một ông tăng hỏi Động Sơn:
- Khi một ông tăng qua đời, ông về đâu?
- Sau khi thiêu, chỉ còn lại một cọng rau dút.
(Động Sơn Lục)
Động Sơn ám chỉ ‘Chủ nhân ông” trở về không.

1415.  Phi lão hủ.
Động Sơn đến Kinh Triệu tham bái hòa thượng Hưng Bình. Hưng Bình bảo:
- Đừng lạy lão hủ.
- Lạy phi lão hủ.
- Phi lão hủ không nhận lạy.
- Phi lão hủ cũng không ngăn chận lạy.
(Động Sơn Lục)
Phi lão hủ chỉ tự tánh bất sinh bất diệt, bất tăng bất giảm.

1416.  Tâm của cổ Phật.
Động Sơn hỏi Hưng Bình;
- Thế nào là tâm của cổ Phật?
- Là tâm ngươi, không là gì khác.
- Mặc dầu vậy con còn nghi vấn.
- Nếu là thế,ngươi hãy đi hỏi người gỗ.
- Con có một câu không mượn lời chư thánh.
- Sao ngươi không nói thử coi!
- Không phải là việc của con.
(Động Sơn Lục)
Khi Hưng Bình nói là tâm ngươi, Động Sơn mới đầu nói là con còn nghi vấn, sau lại nói ‘không phải là việc của con’ là phủ định ngã mà trở thành tâm của cổ Phật.

1417.  Bó củi nặng bao nhiêu?
Có một lần Tuyết Phong mang một bó củi ném xuống trước mặt Động Sơn. Động Sơn hỏi:
- Bó củi nặng bao nhiêu?
- Người cả thiên hạ cũng không giở lên được.
- Vậy sao nó lại ở đây?
Tuyết Phong im lặng không nói.
(Động Sơn Lục)

Bó củi ám chỉ tự tánh.

1418.  Cuốc chết giun.
Một hôm Vân Cư đang làm ruộng vô ý cuốc chết một con giun. Động Sơn bảo:
- Ngươi phải cẩn thận.
- Con giun còn chưa chết.
- Việc nhị tổ về Nghiệp Thành ngươi nghĩ thế nào?
Vân Cư không trả lời.
(Động Sơn Lục)
‘Con giun còn chưa chết” chỉ túc nghiệp của con giun. Theo truyền thuyết Huệ Khả trước khi về Nghiệp Thành (tỉnh Hà Nam ngày nay) có nói là về để trả nợ. Ông về đó bị quan lại bắt bỏ ngục và sát hại. chuyện này ám chỉ bị hại là do trả quả tội nghiệp kiếp trước.

 1419. Ung Chính
Ung Chính được nhiều người công nhận là một vị hoàng đế đã khai ngộ. Ung Chính lên ngôi rồi đọc cuốn ngữ lục của Ngọc Lâm, vị thiền sư đã được tổ phụ ông là Thuận Trị sắc phong là quốc sư, thấy rằng Ngọc Lâm quả đã triệt ngộ. Ông bèn hạ  chiếu vời Triệt hành giả là truyền nhân của Ngọc Lâm vào cung. Triệt hành giả (về sau là Thiên Tuệ Triệt Tổ) lúc đó đang ở Cao Mân Tự tham thiền. Lúc đó ông còn chưa khai ngộ, bị quan sai tìm đến, đưa về Bắc Kinh.
Ung Chính gập mặt Triệt hành giả bèn hỏi:
- Mặt mũi xưa nay khi cha mẹ chưa sinh ra như thế nào?
Triệt hành giả trì nghi (vì tâm sợ hãi trước mặt hoàng đế) giơ một nắm đấm lên. Ung Chính không đồng ý, nhưng thấy Triệt hành giả tham thiền lâu năm muốn thành toàn cho ông nên bảo:
- Ngươi hỏi lại trẫm đi!
- Xin hỏi Hoàng thượng thế nào là mặt mũi xưa nay lúc cha mẹ chưa sinh ra?
Ung Chính giơ nắm đấm lên. Triệt hành giả hốt nhiên đại ngộ.
(Báo Mỹ Phật Tuệ Tấn số 86)

Một người đã thấy tánh thì không bị lợi hại uy hiếp, ảnh hưởng đến kiến địa của mình mà phải do dự. Ung Chính chỉ cho ông “chính là cái đó”. Triệt hành giả tham thiền nhiều năm, hoặc giả cho rằng chỉ tiểu dân mới là “cái đó” đột nhiên phát hiện Hoàng đế “cũng là cái đó” do vậy đại ngộ. Vậy giơ nắm đấm lên là chỉ kiến tánh ư? Hoàn toàn không phải vậy. Lịch sử không ghi chép Ung Chính giác ngộ như thế nào? Nhưng ông quả là một vị đại tông sư. Khi ông tthấy Triệt hành giả đối tự tánh hãy còn do dự chưa quyết định tin hay không tin ở sự giơ nắm đấm lên. Ung Chính giúp ông theo nước đẩy thuyền. Giơ nắm đấm lên, giống như sấm nổ bên tai khiến nghi tình của Triệt hành giả bị đánh tan., thấy được tự tánh. Hành giả hàng ngày tu tâm phải làm sao không bị ngoại cảnh ảnh hưởng. Nói thì dễ, nhưng làm thì sao đây? Chúng ta phải kiên nhẫn dùng trí tuệ và từ bi hỷ xả đối diện nghịch cảnh mà đào luyện tâm.
(Chu Hữu Đường)

1420.  Hai con quạ.
Một lần Động Sơn đang rửa bát thấy 2 con quạ đang tranh nhau ăn một con ếch. Một ông tăng cũng trông thấy hỏi:
- Tại sao lại đến tình trạng này?
- Chỉ lợi cho xà lê.
(Động Sơn lục)
Câu đáp của Động Sơn có nghĩa là ông tăng phải tự phản tỉnh.

1421.  Người làm mặt nạ.
Một hôm, Xá Lợi Phất gập một người bạn cũ trên đường. Sau khi chào hỏi xong, rất kinh ngạc bảo:
- Xin lỗi tôi nói thật, khí sắc ông sao xấu thế! Sắc mặt hung dữ khó coi quá! Ông hãy bảo trọng!
Người bạn này sau khi nghe lời khuyên của Xá Lợi Phất liền suy nghĩ tại sao tướng mạo mình lại biến thành hung ác? Suy đi tính  lại cuối cùng đã hiều: thì ra hàng ngày mình chế tạo các mặt nạ quỷ Dạ Xoa, La Sát, mặt xanh nanh vàng, không ngừng nghĩ đến những khuôn mặt khó coi không ngờ tướng mạo mình biến thành Dạ Xoa, La Sát. Thật đúng là tướng do tâm sanh, đáng sợ thật. Từ nay ta không làm mặt nạ Dạ Xoa, La Sát nữa mà sẽ điêu khắc các tượng Phật, Bồ Tát, ông quán tưởng Phật, Bồ Tát từ bi, thân thiết biết bao. Càng điêu khắc càng hoan hỉ, tướng mạo ông dần dần thanh thản.
Một hôm Xá Lợi Phất gập lại ông trên đường, không ngăn được hỏi:
- A! Tướng mạo ông làm sao lại biến thành từ bi, thanh thoát như vậy?
Bạn ông mỉm cười:
- Hiện nay, hàng ngày tôi điêu khắc tượng chư Phật và Bồ Tát đó!
(Báo Phổ Môn số 238)
Do đó, ta thấy tâm như một người nghệ sĩ có thể sáng tạo mọi vật.  Tướng mạo chúng ta là do tâm chúng ta  vì mọi người có thể chính mình là người sáng tạo. Khi tâm ta hoan hỉ từ bi tướng mạo ta sẽ thanh thản, khi chúng ta giận dữ tướng mạo sẽ hung ác. Vậy chúng ta nên tịnh hoá tâm linh để tâm trở thành thuần tịnh, thiện lương.
(Ma Già)

1422.  Bài kệ của Bố Đại hòa thượng.

我 有 一 布 袋
Ngã hữu nhất bố đại
虛 空 無 障 礙
Hư không vô chướng ngại
展 開 遍 十 方
Triển khai biến thập phương
如 實 觀 自 在
Như thật quán tự tại

Ta có một túi vải
Hư không chẳng quái ngại
Mở ra khắp mười phương
Như thật quán tự tại.
(Báo Mỹ Phật tuệ tấn số 44)
Túi vải chỉ tâm đã khai ngộ, đối ngoại mười phương không chướng ngại, đối nội tất cả đều tự tại.
Mười phương thế giới của chúng sinh đều ở trong tâm ta, tâm ta và chúng sinh đồng tại, không đối lập.
(Thánh Nghiêm)

1423.  Đại ý Phật pháp.
Có một lần, một ông tăng hỏi Bố Đại:
- Thế nào là đại ý Phật pháp?
Bố Đại không nói một lời, bỏ túi vải xuống, khoanh tay đứng.
- Chỉ là thế thôi hay còn đạo lý cao thâm nào nữa không?
Bố Đại vẫn không nói một lời, lại khoác túi vải lên lưng mà đi.
(Cao tăng truyện)
Bỏ túi vải xuống là chỉ khám phá thế tình bỏ xuống vạn duyên (có thể xuất thế)
Khoanh tay mà đứng: lấy con mắt lãnh đạm mà nhìn thế gian, giải thoát tự tại.
Lại khoác túi vải lên lưng: có thể nhấc lên (có thể nhập thế).
Không nói một lời: ngôn ngữ không thể diễn tả được chân lý.
Hoạt cảnh trên biểu thị không chấp tướng mới gánh vác được gia nghiệp của Như Lai, ngay đó đảm trách bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, bát nhã, thiền định (lục độ). Tự độ rồi độ tha. Không một chuyện gì là không đảm đương, cũng không chấp một tướng nào. Phàm phu có thể nhấc lên được (chấp tướng) nhưng không bỏ xuống được. Tiểu thừa bỏ xuống được (xuất thế) nhưng không nhấc lên được. Đại thừa bồ tát bỏ xuống được (xuất thế) cũng nhấc lên được (nhập thế) nhưng không chấp tướng. Bỏ xuống là không (chân đế) nhấc lên là Hữu (tục đế). Không hữu viên dung, chân tục bất nhị đó là Trung đạo đệ nhất nghĩa đế, không lời nào có thể diễn tả được cho nên Bố Đại không nói.
Câu đại ý Phật pháp:
Mọi điều ác không làm: là bỏ xuống.
Mọi điều thiện đều làm: là nhấc lên.
Ý tự thanh tịnh: là không chấp tướng.
Đó là lời dạy của chư Phật.
(Hùng Uyển )

1424.  Trên đường gập mãnh hổ.
Một ông tăng hỏi Thiệu Hóa:
- Trên đường gập mãnh hổ, phải làm sao?
- Ngàn vạn người chẳng gập sao lại nhè nhà ngươi mà gập?
(Công án thiền cơ)
Câu hỏi của ông tăng có nghĩa là hành giả khi gập duyên ứng duyên thì phải làm thế nào?
Ngàn vạn người là chỉ những người có tu, có chứng, tâm đã thanh tịnh thì gập hay không gập mãnh hổ cũng không thành vấn đề. Vì tâm ngươi còn ô nhiễm, còn phân biệt nên mới bị phiền não.
Mãnh hổ ở đây chỉ nghịch cảnh. 
Tâm ông tăng chưa thanh tịnh, còn phân biệt nên mới thấy hổ là mãnh thú và thấy sợ hãi bị ăn thịt. Nếu tâm ông tăng thanh tịnh thì ông không thấy hổ là mãnh hổ, nếu hổ là chủ nợ của một kiếp quá khứ thì dù mất sinh mạng cũng phải trả; còn không thì chẳng hề hấn gì?
Thí dụ Hỏa Bảo Long rất hung dữ, Đức Phật lấy lòng từ bi nhập từ bi tam muội đã chiết phục được nó. 

1425.  Đến tăng đường.
Động Sơn thượng đường bảo đại chúng:
- Có một người ở trong đám ngàn vạn người, không xoay lưng hoặc đối diện với một người nào, các ngươi nói mặt mũi hắn thế nào?
Vân Cư bước ra thưa:
- Hiện giờ con muốn đến tăng đường.
  (Động Sơn lục)
Câu của Động Sơn có nghĩa là phải siêu việt trước, sau.
Vân Cư nói là muốn đến tăng đường nhưng thực ra là không đến tăng đường.
Hai thầy trò đồng ý: tự tánh không lệ thuộc vào không gian.

1426.  Hỏi, đáp không đúng cách.
Một ông tăng hỏi Động Sơn:
- Thế nào là hỏi, đáp đúng cách?
- Không từ miệng ra.
- Nếu có người hỏi, thầy có đáp không?
- Cho tới giờ chưa có người hỏi ta .
(Động Sơn lục)
Câu của Động Sơn có nghĩa là dùng không lời mà hỏi.

1427.  Thuyết pháp.
Một ông tăng hỏi Động Sơn:
- Từ khi thầy xuất gia, thuyết pháp có bao người tin phục.
- Không một người tin phục.
- Tại sao không ai tin phục thầy?
- Vì mọi người đều có kiến thức của bậc vương giả.
(Động Sơn lục)
Thuyết pháp giống như trị bệnh. Trên thế gian này không có một thứ tiên dược nào có thể trị bách bệnh, có khi bệnh tự lành.

1428.  Vì con mắc bệnh.
Một hôm khi chư tăng đều ra ngoài phổ thỉnh (lao tác), Động Sơn đi một vòng kiểm soát thấy một ông tăng còn ở tăng đường bèn hỏi:
- Sao ngươi không đi phổ thỉnh?
- Con mắc bệnh.
- Khi ngươi mạnh, có đi không?
(Động Sơn lục)
Phổ thỉnh không hạn chế ở việc làm ruộng. Ý của Động Sơn là không phải khi mạnh khỏe mới tu, vì người tu phải vượt lên các cảnh giới sinh, lão, bệnh, tử.

1429.  Tự tại.
Một ông tăng hỏi Tuệ Tông:
- Phía trước là vực thẳm vạn trượng, phía sau là hổ báo, sài lang, chính lúc đó phải làm sao?
- Tự tại!
(Công án thiền cơ)
Câu hỏi của ông tăng có ý là một người đã tu tập không, vô tướng, vô nguyện tam muội được chân chính giải thoát tri kiến là đã khai ngộ. Lúc đó linh tri, linh giác của tâm hành giả chiêu cảm nhiều nghiệp duyên tới khiến thân không tự chủ được còn tâm thì hoang loạn bất định. Trong khốn cảnh đó làm sao mở con đường máu để ra?
Tuệ Tông bảo ông trong quá trình tu tập khi chủng chủng nghiệp duyên tới, hành giả đối cảnh loạn tưởng là do tập khí còn chưa dứt tận. Hành giả phải lấy tâm không mà đối diện với cảnh. Cảnh thuận không chạy theo nắm giữ, cảnh nghịch không lẩn trốn. Tâm không khởi một niệm thì sẽ an nhiên tự tại. Điều kiện tiên quyết để tự tại là buông bỏ mọi chấp trước (Xem các công án 1, 461).

1430.  Phàm trần tục niệm.
Viện chủ đi thăm Thạch Thất trở về. Vân Nham hỏi:
- Ngươi đã đến Thạch Thất sao lại trở về tay không?
Viện chủ không trả lời được. Động Sơn đáp thay:
- Vì trong đó đã có người ở rồi.
- Vậy ngươi còn đến Thạch Thất làm gì?
- Không thể vì chặt đứt phàm trần tục niệm mà không đi.
(Động Sơn lục)
Chữ Thạch Thất ở đây là một song quan ngữ (có 2 nghĩa) Một là chỉ thiền sư Thạch Thất, một là chỉ động đá. Ở Du Huyện, Đàm Châu (tỉnh Hồ Nam ngày nay) có vô số thạch động. Những người sống trong các thạch động đều là các vị tu hành lánh xa trần thế, sống tự do. Ý của Động Sơn là chấp vào xa lánh trần thế cũng là mất tự do rồi.

1431.  Tất cả đều do tâm.
1- Đại sư Cưu Ma La Thập lúc lên bẩy, đến chùa chơi, thấy 1 quả chuông lớn đặt trên đất, bèn nhấc lên. Khi đặt chuông xuống thầm nghĩ “Ta mới có 7 tuổi, làm sao lại có sức mạnh như thế này? Lại thử nhấc chuông lên thì không sao nhấc lên được nữa.

2- Cổ thư có chép Lý Quảng đời Hán khi đi đánh trận thấy trong đám bụi rậm bên đường có một con hổ bèn trương cung bắn. Mũi tên liền xuyên qua con hổ. Ông xuống ngựa xem thì ra không phải là con hổ mà là một tảng đá. Ông tự nhủ:”Ta mạnh như thế sao?” Bèn giơ cung bắn một phát nữa, nhưng tên không cắm vào đá được, nói gì đến xuyên qua!
(Tĩnh Không thuyết cố sự)
Hai truyện trên chứng minh rằng người ta khi không có vọng niệm thì bản năng có năng lực vô hạn định. “Nhất thiết duy tâm tạo” là chỉ đạo lý này.

1432.  Đại  Trí.
Đại Trí từ nhỏ đã rất hứng thú với các nghi thức Phật giáo. Một hôm thưa với bố mẹ:
- Con muốn xuất gia, độ cha mẹ tới bờ bên kia.
Cha ông vui vẻ:
- Con định tu chùa nào?
- Chùa Đại Từ.
Lúc đó ông mới bẩy tuổi, tục danh là Vạn Thập. Cha ông dẫn ông đến gập thiền sư Nghĩa Doãn. Nghĩa Doãn nhận thấy đứa nhỏ này là một bậc tài trí bèn nói:
- Hoanh nghinh, hoan nghinh!
Và lấy một cái bánh bao trên bàn đưa cho, tự mình cũng lấy một cái vừa ăn, vừa hỏi:
- Ngươi tên chi?
- Con tên Vạn Thập.
Trong tiếng Nhật vạn thập đồng âm bới bánh bao. Do đấy Nghĩa Doãn cười bảo:
- Bánh bao ăn bánh bao là sao?
- Giống như rắn lớn nuốt rắn nhỏ.
- Ngươi rất thông minh, nếu xuất gia ta sẽ đặt tên là Tiểu Trí.
Vạn Thập không trả lời chỉ lắc đầu. Nghĩas Doãn hỏi:
- Sao ngươi không nói:
- Tiểu Trí làm trở ngại Bồ Đề, xin thầy ban danh Đại Trí.
Nghĩa Doãn rất khâm phục Vạn Thập còn nhỏ mà ứng đối được như vậy bèn xuống tóc cho Vạn Thập, lưu giữ bên mình để dạy dỗ. Năm năm sau Nghĩa Doãn viên tịch, Đại Trí quyết định vân du các nơi để tham học. Bẩy năm sau ông vượt biển tới Trung Hoa, thăm các danh lam thắng cảnh và tìm học các vị danh tăng. Tài trí ông khiến mọi người ca ngợi. Đại Trí ở Trung Quốc không tìm được điều ông mong muốn; ông có viết một bài kệ tặng các ông tăng Nhật Bản tới Trung Quốc du học:

冷 暖 分 明 只 自 知
Lãnh noãn phân minh chỉ tự tri
男 兒 豈 可 欺 人 哉
Nam nhi khởi khả khi nhân tai
以 日 本 眞 金 之 貴
Dĩ nhật bản chân kim chi quý
博 易 大 唐 鍮 子 歸
Bác dịch đại đường thâu tử quy

Nóng lạnh mình tự biết
Nam nhi há lừa ai
Đem vàng thật đất nước
Đổi về thau của người.

Ý  tưởng là cái mà mình định tìm kiếm kỳ thực là ở trong tâm mình.
Ông trở về nước, đến tham Doanh Sơn, Doanh Sơn hỏi:
- Khi đứa con trở về bên cha thì sao?
- Gương cổ chiếu gương cổ, không cần ánh sáng nào khác.
Đại Trí tu học với Doanh Sơn, sau cùng được khai ngộ.
(Thiền Tông dật sự)
Đối thoại của hai thầy trò có nghĩa là khi thầy và trò tương chiếu thì không phải là thầy chiếu trò hay trò chiếu thầy mà là ánh sáng giác ngộ của thầy trò hợp thành một thể phát sáng. Phật giáo do đó mà có truyền thừa.

1433.  Người không bệnh.
Động Sơn bị bệnh, một ông tăng hỏi:
- Còn có người không bị bệnh không?
- Có.
- Người không bị bệnh ấy có đến thăm sư phụ không?
- Lão tăng có phận thăm hắn.
- Không biết sư phụ thăm hắn làm sao?
- Khi thăm không thấy có bệnh.
Động Sơn hỏi ngược lại:
- Khi ngươi mất rồi gập ta ở đâu?
Ông tăng không đáp được, Động Sơn đọc cho bài kệ:

學 者 恒 沙 無 一 悟
Học giả hằng sa vô nhất ngộ
過 在 尋 他 舌 頭 路
Quá tại tầm tha thiệt đầu lộ
欲 得 忘 形 泯 蹤 跡
Dục đắc vong hình mẫn tung tích
努 力 殷 懃 空 裏 步
Nỗ lực ân cần không lý bộ

 Nhiều trò không một ngộ
Theo ngoài chẳng tìm trong
Muốn vong hình sạch vết
Thành khẩn bước trong không.
(Động Sơn lục)
Người không bệnh chỉ tự tánh (xem công án 649)
Ý nói sắc thân có bệnh có thể thấy, biết. Pháp thân không bệnh không thể thấy, biết.
(Tinh Vân)

1434. Ta có một câu nói.
Dược Sơn thượng đường bảo đại chúng:
- Ta có một câu chưa nói cho người!
Đạo Ngô thưa:
- Thầy đã tiết lộ rồi.
Về sau có ông tăng hỏi Dược Sơn:
- Làm sao nói “một câu”?
Dược Sơn đáp:
- Không dùng lời.
Đạo Ngô nói:
- Sớm đã nói rồi.
(Thiền Tông đích lịch sử dữ văn hóa)
“Một câu” của Dược Sơn chỉ cái biết “không biết” hoặc “không thể biết” là cứu cánh thật tướng, không phân biệt, không cách nào hình dung được. Không thể nói nó là cái này hoặc cái kia; là thiện hoặc ác; là thị hoặc phi. Nói ra là phủ định nó. Khi Dược Sơn mở mồm nói ra, bất luận là khẳng định hoặc phủ định “một câu” của ông đã không tồn tại rồi. Đạo Ngô nhận xét sư phụ đã mâu thuẫn rồi, nhưng nhân loại không thể tránh được mâu thuẫn này.

1435.  Thể lộ chân thường.
Đại Đăng (một thiền sư Nhật Bản) một hôm ngồi thiền một mình ở tăng đường, bỗng nghe tiếng người ở bên kia vách đọc câu nói của thiền sư Bách Trượng:
- Linh quang độc chiếu, hồi thoát căn trần, thể lộ chân thường, không chấp văn tự, tâm tánh bất thành, bản thân thành, lìa vọng duyên tức như, như Phật vậy. Ông hoát nhiên tỉnh ngộ bèn hướng sư phụ là Cao Phong trình kiến giải và được sư phụ chấp nhận.
(Hiện đại thiền nhập môn)
“Thể” trong câu “thể lộ chân thường” chỉ thế giới khách quan tự nhiên toàn thể. Khi tự mình biến thành “không” thì “thể” biến thành chính mình.

1436.  Đã từng gập qua.
Động Sơn đến tham Nam Nguyên, vào pháp đường Nam Nguyên bảo:
- Đã từng gập qua.
Động Sơn bỏ đi, hôm sau lại tới, hỏi:
- Hôm qua mông ơn hòa thượng từ bi chỉ thị, nhưng không biết hòa thượng và con gập nhau ở đâu?
- Tâm tâm không gián đoạn, đều chẩy vào bể tánh.
- Con cơ hồ lỡ cơ hội tốt này.
(Động Sơn lục)
Câu của Nam nguyên có nghĩa là tâm ngươi và chân tâm không khác.

1437.  Không bỏ một ai.
Động Sơn đến từ biệt Nam Nguyên, Nam Nguyên nói:
- Học nhiều Phật pháp, quảng thí ân trạch.
- Con không hỏi học nhiều Phật pháp, chỉ hỏi thế nào là quảng thí ân trạch?
- Không bỏ một ai.
(Động Sơn lục)
Ý của Nam Nguyên là khi có người học đặt câu hỏi phải hết sức trả lời.

1438.  Theo tánh chìm nổi.
Một ông tăng hỏi Phong Huyệt Diên Chiểu:
- Khi theo tánh chìm nổi thì thế nào?
- Dẫn trâu vào chuồng!
(Công án thiền cơ)
Câu hỏi của ông tăng có nghĩa là: Khi khai ngộ vì tập khí hãy còn; nếu tâm tùy duyên ứng duyên, theo cảnh mà chìm nổi thì phải làm sao?
Diên Chiểu bảo phải dẫn trâu vào chuồng. Trâu chỉ Thể của tự tánh. Trâu không chịu vào chuồng, muốn ở ngoài rong chơi là còn dã tánh (tập khí, vọng tưởng) phải điều phục nó. Bằng cách nào? Trước dùng giác để nhận biết tập khí, vọng tưởng, sau dùng quán để loại trừ chúng. Tập khí và vọng tưởng đã trừ rồi thì trâu sẽ ngoan ngoãn vào chuồng.

1439.  Ý Tây sang.
Vân Cư hỏi Động Sơn:
- Thế nào là ý tổ sư từ Tây sang?
- Sau này, xà lê có mái tranh che đầu, bỗng có người hỏi như vậy, thì trả lời sao?
- Con thực sai rồi!
(Động Sơn lục)
Ý của Động Sơn là nếu sau này ngươi không là viện chủ một tự viện lớn, chỉ là một am chủ ở một làng nhỏ. Ngươi không hỏi người mà bị người hỏi, ngươi có nghĩ đến chuyện này không? Bồ Đề Đạt Ma từ Tây phương xa xôi ngàn dặm đến Trung Thổ chỉ để thuyết giảng chân lý cho người, nhưng cái chân lý tuyệt đối này không thể dùng lời mà diễn tả ra, nên ta nói không được.

1440.  Trong cảnh khổ, không khổ.
Đời Đường có một vị thiền sư sống một mình trên núi. Vì không có dao kéo để hớt tóc nên đầu tóc bù xù, không có nhiều nước để tắm rửa, giặt giũ nên người ngợm cáu ghét, quần áo dơ bẩn. Có người gập mặt hỏi:
- Thiền sư, thầy việc gì phải tự làm khổ mình vậy?
- Ngươi thấy ta đầu tóc rối bù, nhưng phiền não ta đã đoạn tuyệt. Ngươi thấy ta bẩn thỉu, nhưng thân tâm ta đã thanh tịnh rồi. Ngươi thấy ta quần áo ty tiện, nhưng ta đã sớm khoác pháp y vô thượng để trang nghiêm sinh mạng rồi.
(Thanh tịnh lưu ly)
Trong sinh hoạt tuy thiếu thốn vật chất nhưng người ngộ thiền không thấy khổ não. Ở nơi khổ không thấy khổ; ở nơi vui không thấy vui, vì người ngộ đạo đã thấy được tính chất hư vọng của vui, khổ. Do vậy, dù ở đâu, lúc nào cũng tiêu dao, tự tại.

1441.  Thủy táng.
Đời Tống, thiền sư Tánh Không rất hâm mộ cách thủy táng của Thuyền Tử. Ông có làm một đoản khúc để ca ngợi:

船 子 當 年 返 故 鄕
Thuyền Tử đương niên phản cố hương
沒 踪 跡 處 好 商 量
Một tung tích xứ hảo thương lượng
真 風 遍 寄 知 音 者
Chân phong biến ký tri âm giả
鐵 笛 橫 吹 作 教 坊
Thiết địch hoành xuy tác giáo phường

Theo làn gió gởi bạn bốn phương
Vi vu tiếng sáo để làm gương
Chẳng còn vết tích nào để lại
Thuyền Tử năm đó về cố hương.

Khi muốn nhập diệt ông bước lên một cái thuyền thúng có đục lỗ ở đáy; ngồi trên thuyền thổi sáo chờ nước tràn vào nhận chìm cả người và thuyền. ông có để lại bài kệ:

坐 脫 立 亡
Tọa thoát lập vong
不 若 水 葬
Bất nhược thủy táng
一 省 柴 火
Nhất tỉnh sài hỏa
二 省 開 壙
Nhị tỉnh khai khoáng
撤 手 便 行
Triệt thủ tiện hành
不 妨 快 暢
Bất phương khoái sướng
誰 是 知 音
Thùy thị tri âm
船 子 和 尙
Thuyền Tử hòa thượng

Tọa thoát lập vong
Gì bằng thủy táng
Củi lửa không dùng
Bớt được khai khoáng (đào huyệt)
Đi chẳng bận tâm
Không ngại khoái sướng
Ai kẻ tri âm?
Thuyền Tử hòa thượng!
(Thanh tịnh lưu ly)

1442.  Bài kệ của Liên Trì đại sư.
Một hôm, một ông tăng hỏi Triệu Châu:
- Thời mạt kiếp cái đó còn không?
- Hoại.
- Cái đó bị hoại vậy chúng ta cũng theo nó sao?
- Theo nó đi.
Theo Phật giáo, thế giới của chúng ta cũng phải tuân theo định luật thành, trụ, hoại, không. Tới thời mạt kiếp, thế giới hoại còn tự tánh thì sao? Ông tăng thắc mắc, Triệu Châu trả lời rồi cũng không chắc là mình đúng hay không, trong lòng bất an nên đi tứ xứ để tham cứu vì vậy mới có câu “Nhất cú tùy tha khứ, thiên sơn tẩu nạp tăng” (chỉ vì một câu theo nó đi, mà nạp tăng phải đi tham phỏng khắp nơi). Bích Nham Lục lại gán cho Đại Từ (xem công án (162).
Đến triều Minh, Liên Trì đại sư đọc công án này viết bài thi như sau:

趙 州 八 十 猶 行 腳
Triệu Châu bát thập do hành cước
祇 爲 心 頭 未 消 然
Chi vi tâm đầu vị tiêu nhiên
及 至 歸 來 無 一 事
Cập chí quy lai vô nhất sự
始 知 空 費 草 鞋 錢
Thủy tri không phí thảo hài tiền

Triệu Châu tám chục còn vân du
Chỉ vì một niệm vẫn chưa rõ
Đến khi trở lại không được gì
Mới biết phí tiền mua dép cỏ.
(Thanh tịnh lưu ly)
Bài thơ diễn tả tình cảnh lúc đó Triệu Châu đã 80 tuổi, trong lòng còn một vấn đề chưa rõ; không quản ngại đường xá diệu vợi, cố tìm cho được đáp án. Trải nhiều năm, trở về không tìm được điều mình muốn tìm, mới biết bôn ba tìm kiếm bên ngoài chỉ là vô ích. Ý của bài thi này là gì? Đó là nói về Đạo. Đạo không ở bên ngoài mà tại tâm chúng ta. Nếu chúng ta, tâm trí mê man cũng như Triệu Châu tứ xứ tìm cầu chỉ là phí thời gian. Trong thiền học phải trải qua 3 giai đoạn: khám phá, phóng hạ, tự tại.

1443.  Bài kệ của Đàm Châu Long Sơn.

三 間 茅 屋 從 來 往
Tam gian mao ốc tòng lai  vãng
一 道 神 光 萬 境 閑
Nhất đạo thần quang vạn cảnh nhàn
莫 作 是 非 來 辨 我
Mạc tác thị phi lai biện ngã
浮 世 穿 鑿 不 相 關
Phù sinh xuyên tạc bất tương quan

Nhà tranh lui tới có ba gian
Một đạo thần quang vạn cảnh nhàn
Chớ đem thị phi làm rộn mỗ
Phù sinh xuyên tạc chẳng tương quan.
(Thanh tịnh lưu ly)
Bài kệ mô tả người ngộ đạo siêu nhiên vật ngoại. Tuy rằng sống trong căn nhà tranh nhỏ bé, ăn mặc thô sơ nhưng nếu biết dùng trí tuệ quán chiếu công danh lợi lộc, thiện ác thị phi: tất cả đều là giả tạm, hư vọng thì tâm được an định. Lúc đó nhà tranh biến thành lâu đài, vật thực tầm thường trở thành cao lương, mỹ vị, vì tâm đã khế hợp với đạo. Những chuyện tranh danh đoạt lợi chẳng còn ảnh hưởng gì đối với người tu nữa. Con người sống trong trần thế có 2 thái độ: một là túng dục, chỉ lo hưởng thụ, hai là cấm dục coi dục vọng như rắn độc. Cả 2 thái độ cực đoan này người tu đều không theo mà theo con đường trung đạo là tiết dục.

1444.  Bài kệ của Bàng bà.
Sau khi chôn cất mọi người trong gia đình (xem công án 279), Bàng phu nhân có lưu lại một bài kệ. Hành trạng của bà sau này ra sao thì không ai biết.

坐 臥 立 化 未 爲 奇
Tọa ngọa lập hóa vị vi kỳ
不 及 龐 婆 撤 手 歸
Bất cập Bàng bà triệt thủ quy
雙 手 撥 開 無 縫 石
Song thủ bát khai vô phùng thạch
不 留 踪 跡 與 人 知
Bất lưu tung tích dữ nhân tri

Ngồi, đứng, nằm, đi chẳng mấy kỳ!
Đâu bằng bà Uẩn ruỗi tay đi
Hai tay dang rộng không chạm đá
Tung tích tuyệt không để lại gì.
(Thanh tịnh lưu ly)

1445.  Con không có mồm.
Một ông tăng hỏi Lỗ Tổ:
- Làm sao nói mà không dùng lời?
- Mồm ngươi ở đâu?
- Con không có mồm.
- Vậy lấy gì ăn cơm?
Ông tăng không trả lời được, Động Sơn trả lời thay:
- Hắn no rồi, còn ăn cơm cái gì?
(Động Sơn lục)
Ông tăng hỏi ý Lão Tử khi nói “bất ngôn chi giáo”. Lỗ Tổ hỏi ngược lại “mồm ngươi ở đâu?” là hỏi nói hay không nói. Câu của Động Sơn có nghĩa là hắn đã thông suốt Phật pháp rồi, không còn nghi vấn gì nữa. (xem thêm công án 633)

1446.  Đi.
Một ông tăng hỏi Vân Môn:
- Thế nào là đạo?
- Đi.
(Nhất vị thiền: Quyển Nguyệt)
Ý của Vân Môn là ngươi cứ đi làm mọi việc cho tốt, nhưng đừng chấp vào phương pháp và kết quả.
(John C.H. Wu)

1447.  Chuyện chưa rõ.
Một ông tăng hỏi Dược Sơn:
- Con có chuyện chưa rõ, thỉnh thầy chỉ thị.
Dược Sơn im lặng một lát rồi bảo:
- Nay ta bảo cho ngươi một lời không khó, nhưng khi ta nói rồi ngươi phải thấy ngay, nếu ngươi suy nghĩ thì là lỗi của ta.
(Thiền tông lịch sử dữ văn hóa)
“Một lời” ở đây chỉ kinh nghiệm nội chứng, không dùng lời mà diễn tả được. Tại sao? Vì ngôn ngữ chỉ là phù hiệu không phải là bản thân sự vật, chỉ là phương tiện để truyền thông mà thôi. Các thiền sư chỉ dùng ngôn ngữ để gợi dậy kinh nghiệm nội tại của người học.

1448.  Truyền đăng.
Một hôm Huệ Khả bạch với tổ Đạt Ma:
- Con đã bặt hết mọi duyên rồi.
- Ngươi không đoạn diệt chứ?
- Không đoạn diệt.
- Lấy gì làm chứng.
- Con luôn tỉnh thức, không thể dùng lời mà nói được.
- Đó là sự truyền tâm của chư Phật, đừng nghi ngờ gì cả.
(Zen light)
Câu nói của Huệ Khả “con luôn tỉnh thức” chỉ rằng tâm ông luôn ở đây và bây giờ: nội tâm luôn thắp sáng. Lúc đó không có sự phân cách giữa chủ thể và đối tượng. Không có người truyền pháp và người nhận pháp, không có lời dạy (đăng) và không có sự giảng dạy (truyền đăng), chỉ có ánh sáng.

1449.  Mười sự khai thị.
Có học tăng hỏi Tịch Thất:
- Xin hỏi sư phụ, trong thiền môn phải có những điều kiện gì để có thể vào thiền đạo?
- Trong hang sư tử không có thú khác, đường voi đi không dấu vết hồ ly.
- Tham thiền và không tham thiền bất đồng như thế nào?
- Đường sinh tử ngươi tự coi, người sống ở trong người chết.
- Học thiền có ích gì?
- Đừng hiềm nhạt không có vị, ăn no rồi tiêu vạn kiếp tai nạn.
Học tăng nghe rồi tham thiền khởi lòng đại tín. Một hôm dẫn khoảng 10 người quỳ xin Tịch Thất chỉ thị tham thiền pháp yếu. Thiền sư thấy đại chúng thành tâm bèn khai thị:
- Người học thiền nên chú ý 10 sự sau:
1- Nên biết sinh tử là việc lớn, vô thường đến mau, không thể đánh mất chánh niệm.
2- Trong 4 oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi kiềm thúc thân tâm, không phạm luật nghi.
3- Không chấp, không kiến, không khoe mình, tinh tiến dũng cảm, không đọa tà đạo.
4- Nhiếp 6 căn, chánh niệm, im hay nói lìa xa vọng tưởng.
5- Nhiệt tâm cầu đạo, linh minh bất muội giáo hóa chư ma.
6- Bỏ ngủ quên ăn, đứng trên vách cao vạn trượng, thẳng lưng tiến bước.
7- Nghiên cứu ý Tây lai, người niệm Phật là ai, cái gì là bản lai diện mục?
8- Tham thoại đầu công phu miên mật, không cầu chứng thành.
9- Tâm an ổn, dù trải vạn kiếp cũng không nhị tâm.
10- Đại tâm không lùi bước, thấu suốt Bồ Đề, nêu cao Phật đạo.
10 đại sự trên các ngươi có hiểu không?
Chư tăng nghe rồi hoan hỉ, không ai không thệ nguyện phụng hành.
(Tinh Vân thiền thoại)
Mười điều khai thị của Tịch Thất hà chỉ dùng cho Thiền tông sao? Bất cứ pháp môn nào cũng đều nên như thế.

1450.  Ba lần bị đánh.
Lâm Tế họ Hình tên Nghĩa Huyền, người Nam Hoa, Tào Châu, từ nhỏ thông minh hơn người. Khi xuống tóc, thọ giới cụ túc, rất ham mộ Thiền tông. Theo học Hoàng Bá 3 năm, công phu cực thuần khiết.
Thủ tọa nói:
- Tuy là hậu sinh, cùng chúng chẳng đồng.
Lại hỏi:
- Ngươi ở đây bao lâu rồi?
- Ba năm rồi!
- Đã tham vấn chưa?
- Chưa, cũng chẳng biết hỏi gì?
- Sao ngươi không hỏi đại ý của Phật pháp là gì?
Lâm tế bèn đi hỏi, hỏi chưa dứt câu Hoàng Bá đã đánh. Khi trở lại Thủ tọa hỏi:
- Tham vấn thế nào?
- Hỏi chưa dứt lời, hòa thượng đã đánh, đệ tử không hiểu ý thế nào!
- Ngươi đi hòi nữa đi!
Lâm Tế lại đi hỏi, Hoàng Bá lại đánh. Như thế ba lần hỏi, ba lần bị đánh. Lâm Tế đến thưa với Thủ tọa:
- Nhờ lòng từ bi của thượng tọa, đệ tử ba lần đi hỏi, 3 lần đều bị đánh, tự hận chướng duyên, không lãnh hội được ý sâu của hòa thượng, nay đến từ biệt để đi.
- Trước khi ngươi đi, hãy đến giã từ hòa thượng.
Lâm Tế vái lạy mà lui. Thủ tọa bèn đến chỗ Hoàng Bá bạch rằng:
- Ông sư trẻ đến thỉnh giáo hòa thượng là một vị rất có căn cơ; khi hắn đến từ biệt xin sư phụ chỉ dạy, sau này hắn sẽ là một cây lớn, cấp bóng mát cho nhiều người.
Sư đến từ biệt, Hoàng Bá bảo:
- Ngươi chẳng cần đi đến nơi nào khác, chỉ cần tới Cao An chỗ ở của Đại Ngu hắn sẽ giảng cho ngươi.
Sư đến Đại ngu, Đại Ngu hỏi:
- Từ đâu đến?
- Từ Hoàng Bá.
- Hoàng Bá có câu gì chỉ dạy?
- Đệ tử 3 lần hỏi đại ý của Phật pháp là gì, cả 3 lần đều bị đánh, không biết có lỗi gì?
- Hoàng Bá thật là lão bà tâm thiết, mệt sức vì huấn luyện ngươi mà ngươi còn đến đây hỏi có lỗi hay không?
Nghe lời nói đó Lâm tế bỗng nhiên đại ngộ :
- Nguyên lai, thiền pháp của Hoàng Bá chỉ đơn giản như vậy.
Đại Ngu nắm lấy sư hỏi:
- Tên tiểu quỷ đái dầm này, lúc đến còn hỏi có lỗi, không lỗi, nay lại nói thiền pháp của Hoàng Bá chỉ đơn giản như vậy! ngươi thấy được đạo lý gì, nói mau! nói mau!
Sư đấm vào sườn Đại Ngu 3 đấm. Đại Ngu đẩy sư ra:
- Thầy ngươi là Hoàng Bá, không can dự gì đến ta.
Sư từ biệt Đại Ngu, trở lại Hoàng Bá. Hoàng Bá thấy sư đến bèn hỏi:
- Cái gã này đến đến, đi đi, bao giờ mới xong?
- Chỉ vì thầy là lão bà tâm thiết.
Chào hỏi xong bèn đứng hầu một bên. Hoàng Bá hỏi:
- Ngươi đi đâu?
- Theo lời khuyên từ bi của thầy, con đến tham Đại Ngu.
- Đại Ngu nói sao?
Sư kể lại đầu đuôi, Hoàng Bá bảo:
- Ta mà gập, thì sẽ cho hắn một trận.
- Việc gì phải đợi, cho ngay bây giờ.
Sư đánh Hoàng Bá một chưởng.
- Gã điên này dám đến đây mà nhổ râu cọp.
Sư hét lên, Hoàng Bá gọi:
- Thị giả! dẫn gã điên khùng này vào tham đường, mau!
Về sau Quy Sơn hỏi Ngưỡng Sơn:
- Lâm Tế được Đại Ngu dạy hay được Hoàng Bá dạy?
- Lâm tế không những cưỡi đầu cọp mà còn nắm đuôi cọp nữa.
(Lâm Tế lục)
Lúc học với Hoàng Bá, Lâm tế công phu rất thuần khiết, nghĩa là giữ giới luật rất nghiêm về thân, khẩu, ý. Do đó tâm đã không còn vướng mắc vào 18 giới, sẵn sáng để giác ngộ. Hoàng Bá 3 lần đánh Lâm tế để thúc đẩy sự giác ngộ đó, nhưng thất bại. Lâm tế đã ở vào trạng thái chín mùi “gậy trúc trăm trượng chỉ cần thêm một bước nữa”. Hoàng Bá đánh Lâm Tế ngụ ý: chân lý tuyệt đối không thể dùng lời mà diễn tả được và cái chân lý đó ngươi phải hướng vào trong mà tìm chứ không thể tìm ở phòng phương trượng.
Đánh mắng vốn là hành vi thô lỗ. Nhưng các vị thiền sư dùng để truyền đạt, thậm chí còn nói phương thức này là lão bà tâm thiết. Đánh lại thầy, thầy không những không nổi giận còn chấp nhận, đó là sự hồi báo ân tình. Theo cái nhìn thế tục thì đó là “yêu cho roi, cho vọt” của bà mẹ hiền. Thiền giả đã siêu việt hình tượng nên đó là sự biểu lộ thiền tâm.
(Tinh Vân)

1451.  Động Sơn tham Bách Nham.
Động Sơn cùng Mật sư bá (đệ tử Vân Nham) đến tham Bách Nham (đệ tử Dược Sơn). Bách Nham hỏi:
- Từ đâu tới?
- Hồ Nam.
- Quan sát sứ họ gì?
- Không biết họ.
- Tên gì?
- Không biết tên.
- Còn tại chức không?
- Còn.
- Còn đi tuần tra không?
- Không.
- Tại sao không?
Sư phất tay áo đi ra. Sáng sớm hôm sau Bách Nham thượng đường kêu 2 người lại:
- Hôm qua lão tăng đối xà lê ngữ chẳng đầu cơ, cả đêm không an. Giờ thỉnh xà lê hạ một chuyển ngữ, nếu hợp ý thì lão tăng xin mời các vị dùng cháo và cùng qua hạ.
- Thỉnh hòa thượng hỏi.
- Sao không tuần tra?
- Vì quá cao quý.
Bách Nham bèn mời 2 người dùng cháo và cùng kết hạ.
(Động Sơn lục)
Quan sát sứ là 1 viên quan do Trung ương ủy quyền đi tuần tra các địa phương; ở đây dùng để chỉ sự xuất nhập của pháp thân.

1452.  Duy Ma cật và Phó Đại Sĩ.
Lâm Tế thượng đường nói:
- Một người ở trên đỉnh núi không có đường đi; một người ở ngã mười đường không biết đi về hướng nào? Ai ở trước? Ai ở sau? Không làm Duy Ma Cật, không làm Phó Đại Sĩ. Các ngươi đứng đã lâu rồi, hãy bảo trọng.
(Lâm Tế lục)
Người trên đỉnh núi chỉ người tu hành, dứt bỏ mọi ràng buộc với thế gian. Người ở ngã mười đường chỉ bậc Bồ Tát ở cõi ta bà. Duy Ma Cật còn gọi là Tịnh Danh cư sĩ là cư sĩ Ấn Độ ưa sống ẩn dật. Phó Đại Sĩ còn gọi là Thiện Huệ đại sĩ, vốn tên Truyền Ông là cư sĩ Trung Hoa thời Nam Bắc Triều nổi tiếng về những hoạt động Phật sự. Câu nói của Lâm Tế là muốn dung hoà 2 cách sống.
(Paul Demiéville)

1453.  Ông tăng do dự.
Một ông tăng hỏi Lâm Tế:
- Thế nào là đại ý của Phật pháp?
Thiền sư hét lên, ông tăng bèn lạy. Thiền sư bảo:
- Ông tăng này có thể nói chuyện được đây.
Một ông tăng khác hỏi:
- Sư xướng gia khúc tông phong nào?
- Ta ở nơi Hoàng Bá 3 lần hỏi Phật pháp, 3 lần bị đánh.
Ông tăng do dự. Sư bèn hét, sau đó vừa đánh vừa nói:
- Chẳng lẽ đóng đinh vào hư không hay sao?
(Lâm Tế lục)
Ông tăng do dự chứng tỏ còn suy nghĩ, không tự tin. Câu trả lời phải ngay tức khắc. Câu nói của Lâm Tế có nghĩa là tất cả đều là không, những câu hỏi đều vô ích, nhất là từ một ông tăng do dự.
(Paul Demiéville)

1454.  Động Thủy chẩy ngược dòng.
Long Nha hỏi Động Sơn:
- Ý tổ sư từ Tây sang là sao?
- Đợi Động Thủy chẩy ngược, ta sẽ nói cho ngươi biết.
(Động Sơn lục)
Tự tánh không thể diễn tả bằng lời.

1455.  Hợp đạo.
Động Sơn thượng đường bảo:
- Đạo vô tâm hợp người, người vô tâm hợp đạo. Muốn hiểu ý này thì một người già, một người chẳng già.
Về sau có ông tăng hỏi Tào Sơn:
- Thế nào là một người già?
- Chẳng nuôi dưỡng.
- Thế nào là một người chẳng già?
- Cây khô.
Ông tăng lại đem chuyện này hỏi Tiêu Dao. Tiêu Dao đáp:
- Tam tòng, lục nghi.
(Động Sơn lục)
Câu nói của Động Sơn là chỉ sự liên quan giữa người và Đạo. Không nuôi dưỡng bề ngoài chỉ là một người vô dụng, nhưng thâm ý là chỉ một người có khả năng hoằng Đạo. Cây khô là chỉ lúc Đạo không được quảng bá đến mọi người. Tam tòng là chỉ tam tòng tứ đức của phụ nữ, lục nghi là 6 nghi thức mà các cung nữ đời Đường phải tuân theo.

1456.  Không khởi một niệm.
Một ông tăng hỏi Vân Môn:
- Khi không khởi một niệt niệm thì sao?
- Núi Tu Di.
(Zen and Zen classic)
Ý của Vân Môn là khi ta không khởi một niệm thì tâm ta đã lìa hiện tượng giới vào được bản thể giới. Núi Tu Di là trung tâm điểm của một tiểu vũ trụ. Trên đỉnh là trời Đế Thích, phía dưới là 4 Thiên vuơng, chung quanh bao bọc bởi 8 núi, 8 biển.

1457.  Một ngày ăn hết bao nhiêu.
Hoàng Bá nhân vào phòng bếp hỏi phạn đầu:
- Ngươi đang làm gì?
- Đương lựa gạo cho chư tăng.
- Một ngày ăn hết bao nhiêu?
- Hai thạch rưỡi (=149Kg)
- Có nhiều quá không?
- Sợ còn chẳng đủ.
Hoàng Bá bèn đánh phạn đầu.
(Lâm Tế lục)
Tự tánh vốn tự đầy đủ, không thừa cũng không thiếu.
(Paul Demiéville)

1458.  Bán gạo.
Lâm Tế hỏi:
- Viện chủ từ đâu về?
- Đi bán gạo vàng về.
- Bán hết không?
- Bán hết.
Lâm tế dùng gậy vạch một vạch trước mặt rồi hỏi:
- Cái này có bán được không?
Viện chủ hét lên, thiền sư bèn đánh. Không lâu Điển tọa đến. Thiền sư đem truyện trên ra kể. Điển tọa nói:
- Viện chủ không rõ ý sư phụ.
- Ý ngươi thì thế nào?
Điển tọa vái lạy, thiền sư cũng đánh.
(Lâm Tế lục)
Trong tự tánh không có trị giá (quý tiện, nhiều ít (Yanagida)
(Dẫn theo Paul Demiéville)

1459.  Văn Thù sống.
Lâm Tế thượng đường nói:
- Có một đám người học, đến Ngũ Đài Sơn để cầu thấy Văn Thù, sớm đã sai rồi. Ngũ Đài Sơn không có Văn Thù. Các ngươi muốn gập Văn Thù ư? Rất giản dị, ngay trước mắt. Nếu các ngươi đầu cuối không khác. Mọi chốn không ngại. Đó chính là Văn Thù sống vậy.
(Minh tâm kiến tánh thoại thiền tông)
Người hướng ngoại mà tìm Văn Thù không biết rằng người đang tìm Văn Thù chính là Văn Thù.

1460.  Thiền và Giáo.
Một ông tăng hỏi Tuyết Phong:
- Thế nào là Pháp thân?
- Ta vẫn biết nghiệp do khẩu sanh (khẩu nghiệp) nhưng tại sao ngươi lại phải nhai que cứt khô (càn thỉ quyết) vậy?
(Zen and Zen classics)
Ý của Tuyết Phong là câu hỏi này chỉ là giả đò, là lý luận, là hư ảo, không phải là Đạo. Pháp thân có thể phân làm tổng tướng và biệt tướng, thể và dụng; nhưng những chuyện này chỉ làm cho người lành mạnh sinh bệnh.

1461.  Ngọc thô.
Một ông tăng hỏi Huyền ngộ:
- Mang ngọc thô đến tham thầy thì sao?
- Không phải vật báu nhà mình.
- Vật báu nhà mình là gì?
- Không mài dũa không thành vật báu.
(Công án thiền cơ)
Ngọc thô là ngọc chưa mài dũa chỉ người tu, khi mài dũa xong thì trở thành ngọc quý chỉ người ngộ. người tu còn phiền não là tập khí và nghiệp thức. Trừ bỏ được phiền não thì tự tánh hiển hiện. Thể tánh của chúng ta không từ ngoài tới mà tự đầy đủ. Do đó đem một khối ngọc thô đến để làm gì? Khối ngọc thô đó hiển nhiên là ngoại tại, đại biểu cho tập khí, không phải là tự tánh bồ đề. Do đó thiền sư bảo không phải là vật báu nhà mình, vì vật mang đến mang đi không phải là chân tâm của ngươi. Chỉ có nội tâm mới là vật báu nhà mình. Nhưng trừ được phiền não mới là đi được nửa đường, mới thấy thể không còn chưa về đến nhà. Nếu ngưng trệ ở không thì vẫn còn bị trầm luân.

1462.  Biết ca vũ không?
Một ông tăng hỏi Linh Chiếu:
- Bọn trẻ vừa ca vừa múa trên đồng cỏ, nay còn không?
Linh Chiếu bước xuống tòa giảng vừa ca vừa múa, sau đó hỏi:
- Ngươi hiểu không?
- Con không hiểu?
- Ngay cả nhịp chân theo bài hát ngươi cũng không làm được sao?
(Công án thiền cơ)
Câu hỏi của thiền sư là ngươi đã phá được ngã chấp chưa? Ông tăng không ca, vũ theo thầy vì hoặc là ông ca không hay, múa không khéo . . . Nói tóm lại là ông sợ bị mất mặt. Sợ mất mặt là còn ngã chấp. Phá được ngã chấp rồi thì người, sự, vật ở ngoại cảnh không còn ảnh hưởng đến tự tâm nữa.

1464.  Lạy ông tăng này.
Trường Khánh thượng đường; đại chúng tụ tập lại để nghe pháp. Thiền sư lôi một ông tăng ra bảo đại chúng:
- Đại chúng hãy lạy ông tăng này!
Lại nói:
- Ông tăng này có chỗ nào tốt mà bảo đại chúng lạy?
Đại chúng không ai đáp được.
(Công án thiền cơ)
Thiền sư bảo đại chúng lạy ông tăng là hàm 2 ý:
1- Phá trừ cái tâm cống cao ngã mạn của đại chúng.
2- Trong tương lai ông tăng và đại chúng đều sẽ thành Phật.
Nhưng đại chúng không hiểu lý lẽ này. Người thường chỉ chấp tướng bên ngoài luôn phân biệt ta người, cao thấp, nhưng đối với người tu giải thoát thì phải lấy tứ vô lượng tâm (từ, bi, hỉ, xả) mà đối diện chúng sinh.

1465.  Nước sạch, bẩn.
Động Sơn lúc mới hành cước gập một bà lão gánh nước trên đường, ông xin nước uống. Bà lão bảo:
- Ta sẽ cho ông nước uống, nhưng trước hết hãy trả lời câu hỏi của ta: nước có bao nhiêu bụi?
- Vốn không có bụi.
- Đi, đi! Đừng làm bẩn nước của ta.
(Động Sơn lục)
Nước có bao nhiêu bụi? là bà lão nêu lên vấn đề đương thời  quan niệm thân người nữ có ngũ chướng không thể thành Phật được. Động Sơn trả lời “vốn không có bụi là ông viện dẫn quan điểm của Huệ Năng trong Pháp bảo đàn kinh: tự tánh vốn tự trong sạch thì làm gì có bụi. Câu nói của bà lão là chấp nhận quan điểm này.

1466.  Đệ nhất cú.
Một ông tăng hỏi Linh Chiếu:
- Thế nào là đệ nhất cú?
- Đừng lầm danh ngôn.
- Vậy thầy không có phương tiện sao?
- Con quạ nuôi sẻ nhỏ.
(Công án thiền cơ)
Cùng một câu hỏi, ông tăng Giáp hỏi, thiền sư đáp một cách, ông tăng Ất hỏi thiền sư lại đáp một cách khác. Đại khái đó là do trực giác của thiền sư nhận định ông tăng này học tập tới đâu, có những khuyết điểm gì, tập khí ra sao v . v . Nói tóm lại là nhận biết Thể tính của ông. Trong công án này ông tăng thích giảng giải, lấy quan niệm của mình phát biểu ý kiến. Do đó thiền sư mới khuyên ông “Đừng lầm danh ngôn”. Người tu, ở hiện tượng giới phải biết bảo hộ chính mình thì mới phát huy được linh tri, diệu dụng trả lời bất cứ câu hỏi nào của người. Trong quá khứ có nhiều tăng ni, đại đức thật tu, thật chứng dùng lời để diễn tả cảnh giới ấy lưu lại cho người sau tham chiếu. Nhưng nếu dùng lời lẽ đẹp đẽ nhưng nội dung không thật, tham nhiều ngày giờ cũng chẳng đạt được cảnh giới gì thì sao chỉ dạy cho người? Linh Chiếu đề tỉnh ông tăng, đối với ngươi mà nói thì “Đệ nhất cú” là đừng lầm danh ngôn, chưa đi hết đường đâu biết cứu cánh? Đừng cho là thế này, thế kia, đừng lầm danh cú. Thực tế, thiền sư đã mang tập khí của ông tăng ra giảng rồi, nhưng ông  tăng vẫn chưa vừa lòng, cho rằng câu đáp của thiền sư quá thô thiển nên mới hỏi thêm “Chẳng lẽ thầy không có pháp nào hé lộ một chút cho con sao? Sao lại đem câu “Đừng lầm danh ngôn” ra làm gì? Trong thiền tông, thiền sư nói một câu nếu học nhân không hiểu, thiền sư không có cách nào nói tiếp. Chúng ta biết người tu thiền chứng được không tướng là đi được nửa đường. Lúc đó hành giả phủ định tất cả mọi tướng đối với người, sự, vật của ngoại cảnh tâm không tương ứng đạt tới cảnh giới định. Hành giả trú ở cảnh giới không vọng tưởng nên chỉ một câu là giảng hết, không dùng tới câu thứ hai. Câu nói: “Con quạ nuôi sẻ nhỏ” có ý là ngươi còn chưa có tuệ giác, giống như sẻ nhỏ, thấy quạ đen lầm là tổ chim, vì vậy để quạ nuôi dưỡng.
Nhưng nếu cứ trú ở không thì sẽ dẫn tới đoạn diệt, vì vậy hành giả lại phải quay lại phàm. Lúc đó, hành giả đã có định lựcnên đối với người, sự, vật của ngoại cảnh có khởi pháp tương ứng nhưng không bị quái ngại. Đó mới chính là cảnh giới viên dung không hữu bất nhị vậy.

1467.  Pháp Dung và Tứ tổ.
Một ông tăng hỏi Đầu Tử Đại Đồng:
- Ngưu Đầu chưa gập Tứ tổ thì thế nào?
- Làm thầy người!
- Sau khi gập thì sao?
- Không làm thầy người.
(Công án thiền cơ)
Câu hỏi của ông tăng là muốn biết tình cảnh trước và sau khi ngộ; ông mượn tình cảnh của Ngưu Đầu để hỏi. Trong quá trình tu thiền, giai đoạn đầu tiên là phải ngộ không là vào thánh cảnh, sau đó lại phải trở lại phàm cảnh để chứng ngộ không hữu bất nhị thì mới được tự tại vô ngại. Ngưu Đầu lúc chưa gập Tứ tổ ông đã chứng được tự tánh không. Cảnh giới này không học từ bên ngoài mà do tự quán tâm, tự tâm ngộ không. Đối với người, sự, vật của ngoại cảnh không cảm thấy hứng thú. Có người đến tham phỏng cũng không đứng dậy chào hỏi, cho nên người ta đã gọi ông là Dung lười. Lúc đó, tuy ông đã phá được ngã chấp nhưng ông vẫn nghĩ rằng có một pháp để tu là tọa thiền, một quả để chứng là Định. Nhưng chân lý không ở tọa hay ở định mà là trong mọi sinh hoạt hàng ngày không đời định. Sau khi được Tứ tổ chỉ thị ông không trú ở không, trở lại phàm để chứng ngộ không hữu bất nhị. Ông hiểu rằng không có một pháp nào để tu vì còn một pháp là còn bị trói buộc, không được giải thoát. Nếu pháp đã không có thì đâu còn thầy nữa?

1468.  Bài kệ của Kim Bích Phong.

若 人 欲 拿 金 碧 峯
Nhược nhân dục nã Kim Bích Phong
除 非 鐵 鍊 鎖 虛 空
Trừ phi Thiết luyện tỏa hư không
虛 空 若 能 鎖 得 住
Hư không nhược năng tỏa đắc trụ
再 來 拿 我 金 碧 峯
Tái lai nả ngã Kim Bích Phong

Nếu người muốn bắt Kim Bích Phong
Trừ phi khóa sắt khóa hư không
Hư không có thể đem khóa lại
Lại đây, mà bắt Kim Bích Phong.
(Thanh tịnh lưu ly)
Xem công án 706.

1469.  Viết chữ lên quạt.
Động Sơn viết chữ Phật lên quạt. Vân Nham trông thấy bèn viết thêm chữ Bất. Động Sơn bèn sửa lại thành chữ Phi. Tuyết Phong thấy vậy bèn thu lấy quạt. Hưng Hóa đáp thay cho Động Sơn:
- Ta không như ngươi!
(Động Sơn lục)
Ý của Vân Nham là không viết, không tưởng tới Phật. Động Sơn chữa thành chữ Phi ý là không viết không tưởng đến chữ Bất. Câu của Hưng Hóa có nghĩa là Động Sơn khen ngợi hành động của Tuyết Phong.

1470.  Bó củi.
Một lần, Tuyết Phong vác một bó củi đến trước mặt Động Sơn, ném xuống.
Động Sơn hỏi:
- Nặng chừng nào?
- Toàn thế giới không ai nhắc lên được.
- Vậy sao ngươi lại vác được đến đây?
Tuyết Phong im lặng không trả lời.
(Động Sơn lục)
Bó củi ở đây ám chỉ tự tánh.

1471.  Cuồng tâm.
Một ông tăng hỏi Thụy Châu Đạo Kiền:
- Người người đều hết lời thỉnh ích, không biết thầy giúp đỡ cách nào?
- Ngươi nói coi Đại Nhạc còn cần thêm tấc đất nào nữa không?
- Vậy đi khắp bốn biển tham học là vì cái gì?
- Diễn Nhã điên đầu, tâm tự cuồng.
- Còn có người không cuồng chăng?
- Có.
- Thế nào là người không cuồng?
- Đường bỗng sáng mà mắt không mở.
(Công án thiền cơ)
Ông tăng hỏi có người trước và sau khi ngộ đến hỏi, thầy chỉ họ thế nào? Thiền sư chỉ trả lời trường hợp sau khi ngộ, Nếu có trí tuệ Bát nhã rồi, còn cần gì đi hỏi ai nữa? Nội tâm chính là đạo tràng, cần gì phải đi đâu xa? Ông tăng hỏi tiếp: Vậy sao còn đi tham phỏng? Ý là vì tập khí chưa hết, nhận thức chưa tinh nên cần chỉ điểm.
Thiền sư dẫn tích Diễn Nhã Đạt Đa soi gương không thấy lông mi trên mặt cho là ma quỷ trêu ghẹo, phát cuồng. Đầu dụ cho chân tâm, đầu trong gương dụ cho vọng tâm. Nhận vọng tâm làm chân, tự mình điên cuồng. Ông tăng hỏi tiếp làm thế nào để không điên cuồng? Thiền sư bảo ông đừng nhìn cảnh bên ngoài, xoay vào trong mà quán chiếu vọng tâm. Dùng trí tuệ Bát nhã mà phá những vọng tướng khởi lên từ vọng tâm.

1472.  Không phải là ngựa tốt.
Một ông tăng hỏi Linh Chiếu:
- Dưới gốc cây bồ đề, cứu độ chúng sinh, thế nào là cây Bồ đề?
- Giống cây khổ luyện.
- Vì sao giống cây khổ luyện?
- Không phải là ngựa tốt đâu cần bóng roi!
(Công án thiền cơ)
Mỗi vị Phật thường kết duyên với một loại cây. Phật Thích ca giác ngộ và thuyết pháp dưới gốc cây Bồ đề; trong tương lai Phật Di Lặc sẽ thuyết pháp dưới gốc cây Long Hoa.
Ông tăng không nhận biết cây Bồ đề nên đưa ra câu hỏi. Trong thế gian có nhiều người khi gập một chuyện gì không biết, cảm thấy phiền não muốn giải quyết ngay, không thể bỏ xuống được. Trái lại có người có thể bỏ xuống được; chờ cơ duyên đến có thể giải quyết được phiền não ấy. Trong thực tế cây Bồ đề và cây khổ luyện hình dáng rất khác nhau. Tại sao thiền sư lại bảo giống nhau? Ý của thiền sư là ở hiện tượng giới chúng ta vì chấp vào danh tướng nên thấy cây Bồ đề và cây khổ luyện khác nhau; nhưng ở bản thể giới chúng đều trở về không nên không khác. Trong thiền học phân biệt ba loại trí tuệ:
1- Trí tuệ thế gian: tức trí thông minh.
2- Trí tuệ xuất thế gian: ngộ được tánh không.
3- Trí tuệ xuất xuất thế gian: ngộ được không hữu bất nhị.
Câu nói của thiền sư có nghĩa là ông tăng còn chưa hiểu  (còn ở trong trí tuệ thế gian, chưa ngộ 2 loại trí tuệ kia) vì nếu là con ngựa tốt chỉ cần giơ roi lên là nó đã chạy rồi, còn ngựa ngu thì phải đánh đến chẩy máu nó mới chịu chạy.

1473.  Về nhà.
Một ông tăng hỏi Nguyên An:
- Con muốn về nhà thì sao?
- Nhà tan, người mất, ngươi về đâu?
- Vậy là không về?
- Mặt trời lên tuyết trước sân tan, bụi trong phòng ai quét?
(Công án thiền cơ)
Tiểu thừa quán pháp thấy pháp là do nhân duyên hòa hợp nên biết pháp là không, không có tự thể. Vì vậy phủ nhận tất cả mọi pháp. Đây là ngộ không mới đi được nửa đường. Đại thừa quán nhân duyên hòa hợp là không nên không phủ nhận sự tồn tại của pháp nhưng không bị pháp chuyển. Ông tăng nêu lên câu hỏi khi đã ngộ không nhưng những tập khí vi tế (về nhà) vẫn còn thì phải làm sao? Tuyết ngoài sân và bụi trong phòng là chỉ tập khí. Dùng trí tuệ (mặt trời) để trừ tập khí (tuyết ngoài sân). Nhưng ai quét bụi trong phòng? Chẳng tự mình làm còn nhờ cậy ai?

1474.  Duy Ma Cật.
Một ông tăng hỏi Thiệu Hóa:
- Duy Ma Cật có phải là Kim Lật như lai không?
- Phải.
- Vậy sao lại ngồi dưới nghe Thích ca thuyết pháp?
- Ông ấy không tranh ta người.
(Công án thiền cơ)
Duy Ma Cật là Phật bất động ở Diệu Hỷ thế giới, thị hiện ở cõi ta bà để giúp Phật Thích ca cứu độ quảng đại chúng sinh. Kim Lật như lai chỉ cho người học không trụ ở vô vi, hữu vi mặc nhiên nhập pháp môn bất nhị. Ông tăng hỏi thập phương thế giới vốn không có một pháp để thuyết, cư sĩ Duy Ma cật có pháp thân sao lại ngồi nghe pháp? Thiền sư đáp ngã chấp chưa phá thì mới có phân cao thấp. Nếu biết bản tánh là một, chúng sinh vốn đồng một thể, làm gì còn phân biệt ta (Duy Ma Cật) người (Thích ca)?

1475.  Thiền sư lạy đệ tử.
Một hành giả hỏi Cảnh Thông:
- Đại ý của Phật pháp là gì?
Cảnh Thông bèn lạy hành giả; Hành giả hỏi:
- Thiền sư vì sao lại lạy tục nhân?
- Ngươi không biết đạo tôn trọng đệ tử.
(Công án thiền cơ)
Hành giả hỏi thế nào là Phật pháp, Phật pháp dùng làm gì? Phật pháp bao gồm thiện pháp thế gian, xuất thế gian, xuất xuất thế gian. Phật pháp chân chính là giúp người đời ngộ pháp. Nếu đã ngộ rồi còn học Phật pháp làm gì? Người ngộ rồi vẫn phải học Phật pháp vì lợi ích chúng sinh. Chúng sinh có bệnh gì, biết dùng pháp nào để trị (có 8 vạn 4 ngàn pháp môn). Kinh nói “Phật thuyết nhất thiết pháp duy trị nhất thiết tâm”. Nếu chúng ta đã vô tâm thì đâu cần pháp nào nữa, nhưng đối với người đang tu để trừ tâm bệnh cần phải có món thuốc để trị.
Thiền sư lạy hành giả là để phá ngã chấp cho ông, khiến ông có thễ ngộ được bình đẳng tính trí. Ai cũng có Phật tánh, đệ tử cũng có khả năng thành Phật, đừng chấp ngã mà sinh cống cao ngã mạn.

1476.  Đổ tể cung dưỡng.
Một hôm có một đồ tể đến thỉnh Huyền Tố đến nhà để cung dưỡng. Thiền sư vui vẻ đi. Đại chúng đều kinh ngạc. Thiền sư bảo:
- Phật tánh bình đẳng, hiền ngu không khác, nếu có thể độ được, ta liền độ.
(Công án thiền cơ)
Phật và chúng sinh vốn không sai biệt, đều cùng một thể. Phật là người đã giác, chúng sinh là người còn mê. Chúng sinh vì vô minh mà tạo nghiệp; nghiệp lực che lấp tự tánh của chúng sinh. Đồ tể là người tạo sát nghiệp, là một ác nghiệp rất nặng. Muốn độ ông phải là một người có năng lực tương đương. Thiền sư là người này vì ông có đại nguyện từ bi độ tất cả mọi người có thể độ, không phân biệt nghiệp nặng hay nhẹ. Đồ tể muốn mời thiền sư về nhà để cung dưỡng là có một thiện niệm, từ đó sẽ khởi thiện tâm. Thiện niệm này không phải bỗng nhiên mà có mà là do túc nghiệp; trong quá khứ đồ tể đã gieo một nhân tốt. Đây là 1 cơ hội tốt để hướng về đạo.

1477.  Giơ lên, hạ xuống.
1- Đức Phật giơ tay lên hỏi A Nan:
- Tay ta thế nào?
- Thế Tôn giơ tay lên.
Đức Phật hạ tay xuống, hỏi:
- Hiện tại thì sao?
- Thế Tôn hạ tay xuống.
- Ngươi thật điên đảo.

2- Một ông tăng hỏi Linh Vân:
- Phật chưa xuất thế thì thế nào?
Thiền sư giơ phất tử lên.
- Phật xuất thề rồi thì sao?
Thiền sư giơ phất tử lên.
Ông tăng không hiểu về thuật lại cho Tuyết Phong. Tuyết Phong nói:
- Ngươi hỏi lại đi, ta bảo cho.
- Phật chưa xuất thế thì thế nào?
Tuyết Phong giơ phất tử lên.
- Phật xuất thế rồi thì sao?
Tuyết Phong hạ phất tử xuống.
Ông tăng lạy tạ, Tuyết Phong bèn đánh.
(Công án thiền cơ)
Rõ ràng chưa xuất thế và xuất thế rồi là hai sự kiện khác nhau sao Linh Vân lại cùng giơ phất tử lên? Linh Vân dạy ông tăng đừng khởi tâm phân biệt. Ông tăng không hiểu đi hỏi Tuyết Phong. Tuyết Phong giơ lên, hạ xuống hợp với ý của ông tăng nên lạy để tạ ơn. Tuyết Phong thấy ông quá chấp vào cảnh nên đánh cho ông tỉnh.

1478.  Không giơ phất tử.
Một ông tăng hỏi Tuyết Phong:
- Giơ trùy hay phất tử lên đều không phải là tông thừa, hòa thượng phải làm sao?
Tuyết Phong giơ phất tử lên.
Ông tăng cúi đầu đi ra.
(Công án thiền cơ)
Câu hỏi của ông tăng có nghĩa là giơ trùy hay phất tử lên không phải là tâm pháp của Thiền tông. Nếu bỏ phất tử đi, thiền sư lấy gì dạy người? Giơ phất tử lên là chỉ thiền cơ. Ông tăng không hiểu khởi tâm phân biệt vì hãy còn pháp chấp. Để phá cái chấp này cho ông, thiền sư lại giơ phất tử lên. Ông tăng hiểu cơ ý nên cúi đầu đi ra.

1479.  Không tu.
Lúc trước, có một ông tú tài, đọc vài quyển ngữ lục của chư tổ, cho rằng mình đã đại ngộ, đến tham Quy Tông nói mình đã đạt cảnh giới vô tu, vô đắc, vô chứng rồi. Tông chỉ mỉm cười. Khi tú tài cáo từ, Tông đưa ra đến cửa bảo:
- Áo bông của các hạ sao lại có chỗ rách ở lưng vậy?
Tú tài hoang mang hỏi:
- Ở đâu! ở đâu vậy?
- Đúng là một người không tu, không đắc, không chứng vậy!
Tú tài đỏ mặt, đi mất.
(Phật pháp tu chứng tâm yếu)
Có người nói “Thiền là ngộ, không phải là tu. Thiền là đốn, không phải là tiệm. Thiền gọi là thiền chỉ đến Lục tổ là ngưng, từ đó về sau chỉ là giáo không phải là thiền.” Vì giáo là tiệm tu, từng bước từng bước tiến lên có tu, có đắc, có chứng; mà thiền là ngộ rồi liền nghỉ, ở đâu, lúc nào chỉ tùy duyên phóng khoáng, nhậm vận tiêu dao. Câu nói này nghe qua rất cao diệu, nhưng trong thực tế, sợ rằng không phải. Vì có tông và giáo nên mới có phân biệt đốn, tiệm, ngộ, tu. Nghiên cứu giáo lý, thấy được bản tánh gọi là giáo, chỉ thẳng tâm người thấy tánh thành Phật gọi là tông. Cả hai đều cùng đạt mục đích không khác, cho nên cổ nhân có nói “giáo là thiền có tiếng, thiền là giáo không tiếng”. Nếu nói ngộ rồi liền nghỉ thì sao Lục tổ ngộ rồi còn phải ẩn tu hàng mười mấy năm trời?

1480.  Tu Bồ Đề giảng Bát Nhã.
Tu Bồ Đề ngồi thiền trong động vắng, trời Đế Thích rải hoa cúng dường. Tu Bồ Đề hỏi:
- Ai rải hoa?
- Tôi là trời Đế Thích kính trọng tôn giả giảng Bát Nhã hay nên rải hoa cúng dường.
- Tôi còn chưa nói pháp.
- Tôn giả không nói, tôi không nghe đó là chân Bát Nhã.
(Phật pháp tu chứng tâm yếu)
Câu truyện trên cho thấy không nói, không nghe mới là chân chính nói, nghe.

1481.  Không trú ở không.
Vân Tế đến tham Nam Tuyền, hỏi:
- Người không biết Ma Ni châu, nhưng Như Lai Tạng thâu được, thế nào là Như Lai Tạng?
- Cùng đến, đi với ngươi.
- Không đến, đi thì sao?
- Cũng vậy.
- Thế nào là châu?
Nam Tuyền gọi:
 - Vân Tế!
 - Dạ!
 - Đi, ngươi không hiểu lời ta.
(Phật pháp tu chứng tâm yếu)
Câu nói của Nam Tuyền “Cùng đến, đi với ngươi” là chỉ vọng niệm đến đi, không ngừng. Vân Tế hỏi nếu trụ ở không, không động thì sao? Nam Tuyền bảo cũng sai. Khi Nam Tuyền gọi, Vân Tế dạ, nhưng không hiểu người dạ là ai. Do đó, Nam Tuyền mắng, đuổi đi. Chỉ trú ở không mà không biết bản lai diện mục thì chỉ là châu, mà không phải là bảo châu. Muốn được châu thiệt thọ dụng phải biết bản lai diện mục, sau đó bảo nhiệm chu đáo trừ tận tập khí. Thường trú trong không chỉ luyện thành đất, gỗ, kim thạch, là nước chết trong hồ, là bệnh chứ không phải là Đạo.

1482.  Trăng tròn, trăng khuyết.
Một ông tăng hỏi Đầu Tử Đại Đồng:
- Khi trăng chưa tròn thì thế nào?
- Nuốt 2, 3 cái.
- Tròn rồi thì sao?
- Nhổ ra 7, 8 cái.
(Công án thiền cơ)
Trăng chỉ tự tánh. Ông tăng hỏi khi tự tánh không thanh tịnh, vọng thức hãy còn thì tình trạng thế nào? Thiền sư đáp nuốt 2, 3 cái. 2+3=5 là chỉ 5 căn. 5 căn không thanh tịnh hòa hợp với 5 trần và 5 thức khởi pháp tương ứng do đó phát sinh vô lượng phiền não, cần phải loại trừ. Tại sao thiền sư không đề cập đến thức thứ 6? 5 thức trên không thanh tịnh là bởi vì thức thứ 6 còn phân biệt. Nếu thức thứ 6 thanh tịnh thì 5 thức trên sẽ không tạo nghiệp nữa. Nhổ ra 7, 8 cái. 7, 8 chỉ thức thứ 7 và thức thứ 8. Khi thức thứ 7 thanh tịnh sẽ biến thành bình đẳng tính trí, phá được ngã chấp. Khi những chủng tử chưa chín của thức thứ 8 bị loại trừ hết thì thức thứ 8 sẽ biến thành đại viên cảnh trí, hành giả chứng được 3 thân, 4 trí, thành tựu Phật đạo (xem thêm công án 346)

1483.  Áo mẹ sanh.
Trời lạnh, ở Thiên Đồng Tự Mật Vân Ngộ thiền sư sai thị giả tặng áo bông cho các lão túc để tránh lạnh. Một lão túc bảo thị giả:
- Ta tự có áo mẹ sanh, không cần áo bông.
Thị giả về thưa lại với Mật Vân Ngộ. Ngộ bảo:
- Ông tăng này dường như có chỗ ngộ, chỉ sợ không thật, hãy thử coi.
Bèn sai thị giả đến hỏi:
- Trước khi mẹ sanh, mặc áo gì?
Ông tăng không trả lời được. Ngộ khuyên nên tham câu nói trên. Ba năm sau ông tăng viên tịch, vẫn chưa đáp được. Khi trà tỳ, xá lợi vô số. Đại chúng kinh ngạc tán thán. Ngộ nói:
- Cả chục đấu xá lợi chẳng bằng một chuyển ngữ, các ngươi thử đáp coi!
Đại chúng không đáp được.
(Phật pháp tu chứng tâm yếu)
Công án này cho thấy một câu tương tự không phải là chân ngộ, hỏa thiêu có xá lợi không phải là chứng đạo, cần phải tự thức bản tâm, tự thấy bản tánh.

1484.  Phật là thế nào?
1- Một ông tăng hỏi Quy Tông:
- Phật là thế nào?
- Chính là ngươi.

2- Một ông tăng hỏi Huệ hải:
- Phật là thế nào?
- Người nói chuyện trước mặt, không là Phật thì là ai?

3- Tụ đại phu hỏi Tố Ngọc:
- Phật là thế nào?
Tố Ngọc lên tiếng gọi:
- Đại phu!
- Dạ!
- Chính là thế đó, không là gì khác.
Tụ đại sư có chỗ tỉnh. Dược Sơn nghe được chuyện này bảo:
- Tụ đại phu bị chôn ở núi Tố Ngọc.
Đại phu nghe câu của Dược Sơn rất nghi hoặc bèn đến tham Dược Sơn. Dược Sơn bảo:
- Có nghi cứ hỏi .
- Phật là thế nào?
Dược Sơn lên tiếng gọi:
- Đại phu!
- Da!
- Là cái gì?
Đại phu liền đại ngộ.
(Phật pháp tu chứng tâm yếu)
Dược Sơn phủ nhận Tố Ngọc là để trắc nghiệm xem Tụ đại phu có để gót chân trên đất không? nếu là chân ngộ thì dù Phật xuất thế cũng không nghe, không thấy. Còn nếu không ngộ thì sẽ theo người mà chuyển gót. Thủ pháp của Tố Ngọc và Dược Sơn là một. Khi các thiền sư lên tiếng gọi, Tụ đại phu đều dạ, liền hiểu ngay người lên tiếng là Phật không là ai khác. Dược sơn lại thêm là cái gì? là xác nhận sự đáp ứng đó là Phật (tham khảo thêm các công án 253, 337, 708, 732, 736, 881, 918).

1485.  Méo mồm.
Có một vị cổ đức trúng gió, mồm bị méo. Thị giả cười bảo:
- Hòa thượng cả ngày mắng Phật, mắng tổ, hôm nay bị quả báo rồi.
- Ngươi theo ta hàng 10 năm rồi mà xem ta như vậy sao? Nên biết tất cả nghiệp chướng trên thân tổ sư như hoa trong không, như trăng trong nước. Tuy trả quả mà như không trả quả, muốn trả thì trả, muống không trả thì không trả.Ngươi thấy mồm  ta méo hay không méo?
Vừa nói vừa lấy tay vả vào mồm, mồm trở lại bình thường như cũ. Lại bảo:
- Ngươi chấp tướng chúng sinh, ở trong không tạo nghiệp chướng tưởng, ở không trả quả tạo trả quả tưởng. Đó là nghiệp chướng.
(Phật pháp tu chứng tâm yếu)
Do trên, ta có thể biết tất cả nghiệp chướng là do tâm. Tâm nếu là không thì không có gì gọi là chướng, không có gì gọi là trả quả, không trả quả. Có trả quả là do không trả quả.

1486.  Thần thông.
Ma Cốc và bạn đồng học sau khi ngộ Đạo rồi, cả bọn 5 người cùng đi hành cước tham phỏng. Trời nắng gắt 5 người khát nước bèn vào một quán trà bên đường, gọi 5 ly trà. Bà lão bán trà thấy 5 vị hòa thượng bèn hỏi:
- Các vị đi đâu?
- Đi tham thiện tri thức.
Bà già bưng trà ra rồi bảo:
- Trà ở đây chỉ người có thần thông mới uống được, người không thần thông không uống được.
5 vị thiền sư tuy đã đại ngộ nhưng thần thông chưa phát, nhìn nhau không dám nâng ly lên uống.
Bà già thấy vậy cười ha hả:
- 5 con chim ngốc này hãy coi bà bà trình thần thông uống trà!
Nói rồi nâng ly lên uống cạn một hơi.
5 người hoảng nhiên đại ngộ, cùng thưa:
- Hôm nay mới là ngày chúng tôi chân chính ngộ đạo; chúng tôi ở trong thần thông mà không biết thần thông, còn tìm bên ngoài. Hôm nay nếu không gập bà bà thì đã sai lầm một kiếp.
(Phật pháp tu chứng tâm yếu)
Tầm thường nhật dụng chính là thần thông diệu dụng.

1487.   Khai, thị, ngộ, nhập.
Thời mạt Thanh, Phát Tổ thuộc dòng Lâm Tế, đạo phong truyền xa. Các người có tên tuổi như Nguyệt Hà, Sở Tuyền đều mộ danh đến theo sư tham cứu. Một hôm sư thượng đường bảo chúng:
- Đây là nơi truyển Phật trường, đào luyện long tượng, không bảo các ngươi đến để ăn, ngủ, chợp mắt. Hôm nay ta muốn khảo sát các ngươi xem ai là bậc hào kiệt, anh tài. Yếu chỉ của kinh Pháp Hoa là khai thị ngộ nhập Phật tri kiến. Ý chỉ huyền ảo, lịch đại tổ sư đều tuyên dương như hoa như gấm. Mọi người đọc xong không ai là không tán thán. Nhưng đó là của các vị tổ sư, không phải là của các ngươi. Căn cứ vào những lời, những chữ trên để ngộ thì thật vô ích. Hôm nay ta muốn chính các ngươi từ trong lòng nói ra xem ai có chân tri kiến.
Nói rồi rút một thẻ điểm danh ra:
- Sở Tuyền! ngươi nói trước: “Khai” làm sao khai?
Tuyền không đáp được.
- Ngươi ở đây nhiều ngày làm cái gì? Tham thiền như thế chỉ là trò con nít, uổng phí thời gian, bao giờ mới xuất đầu lộ diện? Quỳ xuống! Tham!
Sư sai Duy Na đốt hương, đánh bảng bảo đại chúng tham. Quẻ hương cháy hết. Duy Na đánh bảng khai tĩnh. Sư hỏi  Sở Tuyền:
- Làm sao khai?
Tuyền vẫn không đáp được. Sư thở dài:
- Tham thiền như vậy, chừng nào mới được!
Lại ra lệnh quỳ tham tiếp.
Que hương thứ hai cháy hết, Tuyền vẫn không đáp được, sư vẫn không cho nghỉ, trách rằng:
- Hôm nay không đáp được, sẽ bảo ngươi quỳ ở đây tới chết.
Lại ra lệnh tiếp tục quỳ tham.
Đáng thương cho Sở Tuyền, tâm như lửa đốt, quỳ đến tê chân, mồ hôi rỏ giọt nhìn que hương thứ 3 đã cháy hết. Duy Na đánh bảng khai tĩnh. Sở Tuyền hốt nhiên tỉnh ngộ lớn tiếng thưa:
- Có rồi! Có rồi! Khai được rồi!
- Làm sao khai?
- “Khai” ra bản hữu.
- Thị?
- “Thị” ra bản vô
- Ngộ cái gì?
- Ngộ vô hữu vô.
- Là người gì?
- Vào ra vô ngại.
Sư nghe rồi khen ngợi:
- Tốt, rất sảng khoái. Nếu không buộc các ngươi dụng công thì bao giờ mới xong. Hôm nay không uổng công ngươi quỳ 3 que hương.
Tổ rất cao hứng, lại gọi:
- Nguyệt Hà, ngươi nói làm sao khai, thị, ngộ, nhập?
Hà không suy nghĩ, đáp ngay:
- Con xin mượn 4 câu của Sở huynh để trả lời.
- Mượn thế nào?
- “Khai” ra bản hữu là lý pháp giới, “thị” ra bản vô là sự pháp giới, “ngộ” vô hữu vô là lý sự vô ngại pháp giới, “Nhập” xuất vô ngại là sự sự vô ngại pháp giới.
Sư khen ngợi:
- Tốt lắm! So với Sở Tuyền còn hơn. Nơi đây không uổng là tuyển Phật đường. Hôm nay tuyển được 2 vị tôn Phật.
(Phật pháp tu chứng tâm yếu)
Đây chính là:
Chẳng phải một phen sương lạnh buốt
Hoa mai đâu dễ ngửi mùi hương.
Người xưa không ngại khó, ngại khổ cho nên mới có thành tựu.

1488.  Nghiệp chướng.
Một ông tăng hỏi một vị cổ đức:
- Nghiệp chướng là thế nào?
- Vốn không.
- Vốn không là thế nào?
- Nghiệp chướng .
(Phật pháp tu chứng tâm yếu)
Không ở đây không phải là ngoan không hoặc đoạn diệt không mà là tất cả sự việc. Tâm vốn thông linh vô ngại chỉ vì mê cảnh chấp tướng mà thành chướng, chấp tướng mà tạo nghiệp. Trải nhiều kiếp nghiệp tích thành tập khí. Nếu biết tướng vốn không thì chướng cũng không, nghiệp cũng không, nghiệp chướng cũng không nốt.

1489.  Tụng kinh.
Chi hòa thượng nghe nói có ông tăng hàng ngày tụng 100 bộ kinh Kim Cương bèn sai thị giả vời đến, hỏi:
- Nghe nói mỗi ngày ông tụng 100 bộ kinh Kim Cương có phải không?
- Dạ phải!
- Ông có tham ý kinh không? 
- Dạ không .
- Ông nên tụng mỗi ngày một bộ, tham cứu Phật ý; nếu ngộ được một câu thì như nếm một giọt nước biển, mà biết được vị của trăm sông.
Ông tăng nghe lời. Một hôm tụng đến câu “nên biết như thế, thấy như thế, tín giải như thế, chẳng sinh pháp tướng “ liền có chỗ ngộ.
(Phật pháp tu chứng tâm yếu) 
Nhiều người học Phật, thấy Phật nói tụng kinh công đức không thể nghĩ bàn, nghĩ rằng càng tụng nhiều công đức càng lớn. Công đức này tích tụ có thể dẫn đến khai ngộ. Không biết rằng tụng mà không hiểu ý thì khác gì con vẹt học nói tiếng người, làm sao mà khai tâm kiến tánh? Tụng nhiều chỉ là gieo thiện nhân, chờ quả phúc mà thôi.

1490.  Chư Phật không dối.
Hoàng Bá sau khi xuất gia rồi, nhận rằng phải buông bỏ mọi ân tình, đạt đến vô vi thì mới là chân chính báo ân. Do đó trong 30 năm tu học không hề về thăm nhà một lần. Nhưng trong thâm tâm ông rất nhớ thương mẹ già. Năm ông 50 tuổi trên đường đi tham phỏng, bất tri bất giác hướng về cố hương. Mẹ ông rất tưởng nhớ con đã xuất gia, nhưng chẳng có tin tức gì, thương nhớ khóc lóc khiến mắt bị mù luôn. Để tưởng niệm con bà lập một quán trà bên đường, chiêu đãi các vân thủy tăng, mời họ về nhà, rửa chân cho họ để tỏ lòng kính lễ. Ngoài ra còn một nguyên nhân nữa là chân trái của Hoàng Bá có một nốt ruồi lớn. Mắt bà đã bị mù nên hy vọng trong khi rửa chân, vạn nhất có thể nhận ra con chăng. Hôm đó Hoàng Bá tiếp thọ mẫu thân chiêu đãi. Một mặt để mẹ rửa chân, một mặt thuật sự tích Phật xuất gia, hy vọng mẹ sẽ khởi tín tâm. Hoàng Bá chỉ đưa chân phải cho mẹ rửa. Hoàng Bá 2 lần về nhà. Tuy thấy khó lìa bỏ nhưng ông cố nén đau thương lên đường hành cước. Hàng xóm không nhịn được mách cho bà mẹ biết người kể truyện Phật xuất gia chính là đứa con mà bà ngày đêm mong nhớ. Bà như phát cuồng nói:
- Chả trách tiếng nói giống tiếng con ta.
Nói rồi đuổi theo đến bờ sông, không may lúc đó Hoàng Bá đã lên thuyền và thuyền đã rời bến. Bà mẹ lỡ bước rơi xuống sông bất hạnh bị chết đuối.
Hoàng Bá đứng ở bờ bên kia  thấy mẹ lỡ bước bị chết đuối không nén được bi thương, khóc rằng:
Một con xuất gia, 9 tộc lên trời, nếu không được vậy chư Phật đã nói dối.
Bèn quay trở lại, làm lễ hỏa táng cho mẹ. Khi hỏa táng dân làng đều thấy hình ảnh của bà mẹ bay lên không.
(Tinh Vân thiền thoại)
Hoàng Bá Hy Vận người Phúc Kiến, xuất gia ở Giang Tây thọ pháp với Bách trượng Hoài Hải, nhưng giác ngộ và được ấn chứng ở nơi Nam Tuyền. Hoàng Bá không phải là không hiếu thuận. Gọi là hiếu có 3 bậc:
1- Tiểu hiếu: phụng dưỡng cha mẹ.
2- Trung hiếu: quang tông, diệu tổ
3- Đại hiếu: độ cho cha mẹ siêu thăng.
Hoàng Bá độ cho mẹ siêu thăng là đại hiếu vậy.

1491.  Thấy sắc là thấy tâm.
Một ông tăng hỏi Huệ Chân:
- Thấy sắc là thấy tâm, chư pháp vô hình làm sao thấy?
- Một nhà có chuyện, trăm nhà bận rộn.
- Con không hiểu, xin thầy chỉ thị.
- 3 ngày sau coi lại.
(Công án thiền cơ)
Công án này nêu lên 2 vấn đề:
1- Kiến sắc tức kiến tâm, nhưng tâm vô hình làm sao thấy?
2- Khi có phiền não làm sao giải quyết?
Khi ngoại cảnh có nhân duyên tới, ta khởi tâm tương ứng thì A lại da thức sẽ phản ánh cảnh bên ngoài (thí dụ một ngọn núi). A lại da thức có công năng y tha khởi tánh (do cảnh bên ngoài mà khởi tự tánh) ở trường hợp này là kiến tánh, nếu ở ngoại cảnh là âm thanh thì tự tánh sẽ là văn tánh. Nhờ kiến tánh mà ta nhận biết hình ảnh trong A lại da thức là ngọn núi. Tiếp đó thức thứ 7 sẽ trắc lượng nó to, nhỏ. Thức thứ 6 sẽ phân biệt nó với các ngọn núi khác. Do đó mà sinh tâm. Bởi vậy mới nói kiến sắc là kiến tâm.
Thiền sư nói một nhà có sự là chỉ căn trần thức hòa hợp; trăm nhà bận rộn là chỉ 18 xứ khởi tác dụng sẽ sinh ra chư pháp.
Vấn đề thứ hai nếu ta giải quyết ngay thì sẽ khó tránh được sai lầm. Thiền sư bảo để 3 ngày sau sẽ coi lại. Phiền não phát sinh là do một nhân ở trong quá khứ, ta không thể thay đổi được. Nhưng nó cần có trợ duyên thì mới sinh ra quả phiền não được. Nhưng ta biết duyên có thể thay đổi bởi thời gian, không gian. Nên 3 ngày sau trở lại thì duyên đã biến đổi có thể không tạo ra quả nữa, hoặc có tạo thì cũng là một quả mới không phải là quả cũ.

1492. Tham gần đừng tham xa.
Lúc trước, có một ông tăng tham thoại đầu “Mặt mũi lúc cha mẹ chưa sanh là thế nào?” Tham đã nhiều năm mà vẫn chưa khai ngộ. Về sau gập một vị đại đức bèn xin vị này từ bi chỉ thị phương tiện. Đại đức hỏi :
- Ông Tham thoại đầu nào?
- Tôi tham thoại đầu “Mặt mũi lúc cha mẹ chưa sanh là thế nào?”
- Ông tham quá xa, hãy tham gần hơn.
- Làm sao tham gần?
- Không cần biết mặt mũi lúc cha mẹ chưa sanh, hãy tham khi một niệm chưa sanh thì sao?
Ông tăng ngay đó đại ngộ.
(Phật pháp tu chứng tâm yếu)
Chúng ta thường coi Đạo là xa vời, ngộ đạo khó khăn. Đạo không ở đâu xa, ngay trước mắt. Khi ngôn ngữ chưa hình thành, một niệm còn chưa sanh chính tại lúc đó hồi quang “là cái gì?” nếu mãnh tỉnh, thì đó là ngộ đạo.

1493.  Kiếm sắc.
Một ông tăng hỏi Toàn Hoát:
- Kiếm sắc trảm thiên hạ, ai là người bị chém?
- Ám (tối tăm)
Ông tăng lại hỏi nhiều câu nữa. Thiền sư bảo:
- Tên độn căn này! Đi ra!
(Công án thiền cơ)
Ý của ông tăng là bát nhã chặt đứt những gì? Thiền sư trả lời ám, là chỉ những trần cấu trong tâm. Khi tâm đã trừ hết mọi tập khí rồi thì tự tánh sẽ hiển hiện. Thể của tự tánh là không, nó tự tại, vô ngại, đầy đủ công đức vô lậu, không tham, sân, si, mạn, nghi. Chúng ta phải làm sao để được minh tâm kiến tánh? Khi chùng ta không khởi một niệm (không nghĩ thiện, không nghĩ ác) còn có một cái giác tri, cái giác tri đó chính là tự tánh. Chúng ta nhận biết được cái giác tri đó thì gọi là kiến tánh.

1494.  Đạo thường.
Nghiêm Dương tôn giả trên đường gập một ông tăng, giơ gậy chống lên hỏi:
- Là cái gì?
- Không biết.
- Một cây gậy chống cũng không biết?
Nghiêm Dương hạ gậy xuống, chọc đất một hồi, lại hỏi:
 - Còn biết không?
- Không biết.
- Một lỗ đất cũng không biết.
Lại vác gậy lên vai, hỏi:
- Hiểu không?
- Không hiểu.
- Cầm ngang gậy cau đi vào nơi ngàn vạn núi.
(Thiền tông trí tuệ dữ phong tư)
Nếu đã không biết thường thì làm sao biết vật thường (gậy chống), sự thường (lỗ đất), thường hành (gánh). Nhưng một khi đã biết, thì tất cả đều quay về thường đạo.

1495.  Mạt hậu cú. 
Một hôm, một ông tăng đến thỉnh Ích Ngũ Tổ Diễn:
- Thế nào là mạt hậu cú? (câu nói sau cùng)
- Sư huynh ngươi hiểu “mạt hậu cú”, ngươi đi tìm hắn mà hỏi.
Ông tăng y lời đến gập sư huynh gập lúc sư huynh đi núi về đang rửa chân, bèn hỏi:
- Thế nào là “mạt hậu cú?”
Sư huynh vốc nước rửa chân, rửa mặt, hỏi:
- Mạt hậu cú cái gì?
Ông tăng trở lại vừa khóc, vừa mách tổ.
- Ta nói ngươi biết hắn biết mạt hậu cú!
Ông tăng ngay đó đại ngộ.
(Phật pháp tu chứng tâm yếu)
Ông tăng này không phải là một người thường. Ông là một bậc anh tài dám vuốt râu cọp, cùng đại tông sư pháp chiến. Từ công án trên chúng ta có thể rút ra mấy điểm sau:
1- Ngộ đạo không khó, chỉ cần coi tất cả cảnh vật như hoa trong không, như trăng trong nước, không thể nắm bắt. Tâm không, không ô nhiễm, không thủ, không xả.
2- Khi công phu tâm có thể thâu, có thể phóng. Trong sinh hoạt hàng ngày linh hoạt vận dụng, luôn phản tỉnh, phản chiếu.
3- Thấy Đạo rồi thì bảo nhiệm chu đáo, bảo nhiệm mà không trụ vào đâu phải như Quy Tông nói “như mắt có một hạt bụi, không hoa rơi loạn” (hạt bụi dụ cho bảo nhiệm) Còn chấp vào bảo nhiệm thì vẫn chưa được giải thoát.

1496.  Vật ngã bất nhị.
Cư sĩ Phùng Tế Xuyên thấy ở trên tường am Minh Nguyệt có họa một cái đầu lâu, bèn đề một bài kệ ở bên cạnh:

屍 在 這 裏
Thi tại giá lý
其 人 在 何
Kỳ nhân tại hà
乃 知 一 靈
Nãi tri nhất linh
不 居 皮 袋
Bất cư bì đại.

Nơi đây thây chết
Còn người đâu ta
Tánh linh nếu biết
Chẳng mặc áo da.

Thiền sư Đại Huệ tới am, trông thấy, không đồng ý bèn viết thêm một bài kệ nữa:

即 此 形 骸
Tức thử hình hài
卽 是 其 人
Tức thị kỳ nhân
一 靈 皮 袋
Nhất linh bì đại
皮 袋 一 靈
Bì đại nhất linh.

Chính đây hài cốt
Chính đây người ta
Áo da linh tánh
Linh tánh áo da.
(Phật pháp tu chứng tâm yếu)
Bài kệ 1: chỉ ngộ thường lý sắc thân không phải là chân ngã, tánh linh mới là chân ngã, thường trụ bất diệt, có thể lìa khỏi nhục thể, tự do đến đi, không bị nhục thể trói buộc cho nên mới nói “nếu biết tánh linh, chẳng mặc áo da”. Còn chưa ngộ vật ngã bất nhị, tánh tướng một thể.
Bài kệ 2: Người chân ngộ biết một là tất cả, tất cả là một. Không phân biệt tự tha, vật ngã.

1497.  Rồng kêu trong cây khô.
Một ông tăng hỏi Hương nghiêm:
- Thế nào là Đạo?
- Rồng kêu trong cây khô.
Thế nào là người trong Đạo?
- Con mắt trong đầu lâu.
Ông tăng không hiểu đi hỏi Thạch Sương:
- Rồng kêu trong cây khô là sao?
- Do còn vui.
- Con mắt trong đầu lâu là sao?
- Do còn thức.
Ông tăng vẫn chưa hiểu đi hỏi Tào Sơn:
- Rồng kêu trong cây khô là sao?
- Huyết mạch chẳng đoạn.
- Con mắt trong đầu lâu là sao?
- Trời bất tận.
- Người nào nghe được?
- Tận đại địa chưa có ai là không nghe.
- Không biết rồng kêu là ở điển tích nào?
Không biết ở điển tích nào, nhưng người nghe thẩy đều mất mạng.
Lại đọc cho một bài kệ:

枯 木 龍 吟 真 見 道
Khô mộc long ngâm chân kiến đạo
髑 髏 識 盡 眼 初 明
Độc lâu thức tận nhãn sơ minh
喜 識 盡 時 消 息 盡
Hỷ thức tận thời tiêu Tức tận
當 人 那 辨 濁 中 清
Đương nhân na biện trọc trung thanh

Rồng kêu là kiến Đạo
Con mắt là sơ minh
Hỷ, thức, tiêu tức, tận
Chẳng phân trọc trong thanh.
(Phật pháp tu chứng tâm yếu)
Rồng kêu trong cây khô và con mắt trong đầu lâu là chỉ chân không diệu hữu. Đại đạo không lời nhưng không có gì là không nói được; không biết nhưng không gì là không biết. Khi thức biến thành trí thì không còn phân biệt trọc và thanh nữa.

1498.  Tình và vô tình.
Hoàng Sơn Cốc hỏi Hối Đường:
- Hữu tình và vô tình cùng viên chủng trí, câu nói này có thật không?
- Câu nói này là thật nhưng từ miệng ông ra thì không thật.
- Tại sao vậy?
Hối Đường không trả lời, lấy một cái đũa đánh con chó đang nằm dưới gầm bàn. Con chó kêu oẳng một tiếng rồi chạy đi. Hối Đường lại lấy đũađánh xuống bàn một cái rồi nói:
- Chó là loài hữu tình, đánh một cái liền chạy. Bàn là vật vô tình mặc cho đánh vẫn ở lại. Tình và vô tình sao thành một thể?
Hoàng Sơn Cốc không biết làm sao trả lời. Hối Đường lại bảo: 
- Núi có thần núi, sông có thần sông, cây có thần cây, hoa có thần hoa. Sơn hà đại địa diệu dụng vô tận. Tạp trúc xanh xanh là bát nhã. Hoa vàng xum xuê là diệu đế. Do đó tình và vô tình cùng viên cảnh trí.
Nghe Hối Đường nói, Hoàng Sơn Cốc đầy bụng nghi ngờ vì thấy thiền sư trước sau mâu thuẫn. Hối Đường kết luận:
- Nếu có suy nghĩ thì không phải là thiền đạo, làm sao hiểu vạn vật là chính mình?
Hoàng Sơn Cốc cuối cùng khế ngộ.
(Tinh Vân thiền thoại)
Sinh công thuyết pháp đá cũng gật đầu. Đó là hữu tình thuyết pháp cho vô tình nghe. Ở cõi Tịnh độ, chim chóc, hoa lá cây rừng đều niệm Phật, niệm pháp, niệm tăng. Đó là vô tình thuyết pháp cho hữu tình nghe. Nhìn nước chẩy, hoa rụng, khiến chúng ta cảm thấy vô thường. Do đó, chúng ta không nên cảm thấy cô độc, phân biệt tình và vô tình. Chúng ta phải điều hợp vì tất cả đều là tự tánh lưu lộ. Hoa hương, điểu ngữ tất cả đều không dấu diếm gì. Tâm nhãn còn chưa mở sao?

1499.  Tu gì?
Một ông tăng đến tham Tề An. Tề An hỏi:
- Tọa chủ tu gì?
- Kinh Hoa Nghiêm.
- Kinh chỉ mấy loại pháp giới?
- Nói rộng thì vô tận pháp giới, nói tóm thì chỉ có 4 loại.
Tề An giơ phất tử lên:
- Đây thuộc loại pháp giới nào?
Ông tăng trầm ngâm suy nghĩ.
- Tư mà biết, lự mà giải chỉ là đồ quỷ. Dưới ánh mặt trời, đèn hết chiếu sáng.
(Thiền ngộ dữ thực hiện)
Ngộ là chuyện của riêng mình, tự mình tâm địa phát sáng, không phải do trí giải, nghe người khác nói chẳng ích lợi gì.

1500.  Ngồi không.
Một hôm Dược Sơn đang ngồi tĩnh tọa, lão sư là Thạch Đầu trông thấy bèn hỏi:
- Ngươi đang làm gì?
- Không làm gì cả.
- Vậy là ngươi ngồi không?
- Nếu ngồi không thì là đã làm.
- Ngươi nói không làm là không làm cái gì?
- Dù thánh nhân tới cũng trả lời không được.
Thạch Đầu rất tán thưởng.
(Thiền ngộ dữ thực hiện)
Xem đối thoại trên, chúng ta thấy trong sinh hoạt hàng ngày không thể chấp vào danh trạng, vì nó sẽ rơi vào phân biệt, dẫn tới đau khổ. Phân biệt là công cụ tốt để xử lý sinh hoạt hàng ngày; nhưng đó chỉ là xử lý sự vật, không thể xử lý sinh hoạt tánh linh. Vì có phân biệt nên luôn luôn có đối lập, tự tha, vật ngã. Cảnh chẳng bao giờ ngưng, ta luôn luôn ham muốn và phải tranh đấu để đạt được những dục vọng ấy. Đó là căn nguyên của bất an và thống khổ.

1501.  Sơn hà đại địa từ đâu ra?
Một ông tăng hỏi Vân Cư:
- Sơn hà đại địa từ đâu sinh ra?
- Từ vọng tưởng sinh ra.
- Vậy có thể từ vọng tưởng sinh ra một đính vàng không?
Vân Cư không thể trả lời được, muốn bỏ đi nhưng ông tăng không chịu muốn thiền sư giải đáp vấn đề này. Hai người tranh luận không thôi.
Đương thời Vân Môn Khuông Chân nghe được chuyện này bình luận:
- Chỉ là dây leo.
(Thiền thị thập ma)
Theo đạo lý mà nói câu trả lời của Vân Cư không sai vì sắc tức là không, không tức là sắc. Sơn hà đại địa là do nhân loại điên đảo vọng tưởng mà ra. Nhưng như ông tăng hỏi nếu cứ vọng tưởng có thể sinh ra một đính vàng thì trên thế giới này vàng không còn giá trị gì nữa. Câu bình luận của Khuông Chân có nghĩa là muốn biết sơn hà đại địa có phải là do vọng tưởng sinh ra không thì phải tự mình thể nghiệm và chứng thực, chứ không phải dùng lời tranh luận, chỉ là lọai dây leo. Tương tự hai người đứng bên cạnh một cái bàn, trên có đặt một chén nước. Một người nói chén nước này nóng, người kia nói chén nước lạnh. Hai người tranh luận không thôi, ai cũng nói mình đúng, người kia sai. Làm sao giải quyết? Thực tế rất giản dị, chỉ cần uống một ngụm nước là biết ngay nước nóng hay lạnh.

1502.  Là Cái gì?
Phật tổ đang ngồi, bỗng thấy có 2 người khiêng một cái đầu heo đi ngang qua, bèn chỉ cái đầu heo hỏi mọi người chung quanh:
- Cái này là cái gì?
Mọi người đều cười ồ cả lên, lại có người còn nói:
- Chẳng phải Phật là bậc có đầy đủ trí huệ sao, chẳng lẽ ngay cả cái đầu heo cũng không biết?
Nhưng Phật vẫn trịnh trọng nói:
- Cũng nên hỏi qua.
Trong lịch sử một ngàn năm cũng chỉ là một chớp mắt. Mã Tổ sau khi được Hòai Nhượng chỉ dẫn, khai ngộ và trở thành một vị đại tôn sư, trụ trì ở Khai Nguyên Tự, Giang Tây. Đương thời người bốn phương tụ lại để nghe vị thiền sư ở phương Nam thuyết pháp có gì xảo diệu không? Nhưng mọi người lấy làm ngạc nhiên cả 3 năm trời Mã Tổ rất ít khi giảng kinh thuyết pháp; nhưng mỗi khi thị giả mang cơm chay tới, Mã Tổ đều giơ cái bánh nướng lên hỏi đại chúng:
- Là cái gì?
Đại chúng đều cảm thấy lạ. Bánh nướng ai chẳng biết, sao mỗi ngày Mã Tổ đều hỏi? Chẳng lẽ có hàm ý gì? Chẳng lẽ giơ cái bánh nướng lên là thuyết pháp? Mà thuyết pháp gì? Mọi người đều nghĩ không ra .
(Thiền thị thập ma)
Từ câu hỏi “Là cái gì?” giúp chúng ta phản quán tất cả mọi hiện tượng mà tìm ra căn nguyên, do tướng vào thể, do văn vào nghĩa, lãnh hội chân nghĩa của Phật pháp.

1503. Trà vẫn vậy, nhưng người đã khác.
Có một hàn sĩ lên kinh ứng thí. Trong khi chờ đợi, ra ngoại ô du ngoạn để tiêu khiển. Mải xem phong cảnh, chiều xuống lúc nào không hay. Vừa mệt vừa khát nhìn phía trước ông thấy một ngôi chùa nhỏ, bèn vào xin tá túc qua đêm. Hàn huyên xong, vị trụ trì bưng ra mời khách một chén trà xanh. Vị hàn sĩ uống một hơi cạn chén trà, cảm thấy vị trà như cam lộ, trên thế gian này không có thức uống nào bằng. Về sau vị hàn sĩ thi đậu, được bổ làm quan to. Tuy ông đã thưởng thức rất nhiều danh trà, nhưng không có loại trà nào bằng vị trà nơi chùa cũ. Một hôm, không nhịn được, ông dẫn vài tùy tùng quay trở lại chốn xưa. Sau khi cảm tạ vị trụ trì, ông nâng chén trà lên uống. Ông phát giác vị trà đã biến đổi, không còn thơm ngọt như cũ. Ông lấy làm lạ bèn hỏi trụ trì. Vị trụ trì bảo ông:
- Trà vẫn vậy, nhưng người đã khác.
(Thiền thị thập ma)
Tuy cùng uống một loại trà, nhưng tâm cảnh đã khác. Lần thứ nhất là một vị hàn sĩ, vừa mệt vừa khát đương nhiên chén trà xanh phổ thông cũng trở thành cam lồ. Lần thứ hai, đã là một vị quan to, ăn toàn cao lương, uống toàn danh trà, cho nên trà xanh phổ thông sẽ thành vô vị. Trên thế gian này nhiều sự tình cũng đều như vậy: xấu, tốt; đúng, sai; đẹp, xấu trong mọi tình huống đều chỉ vì tâm cảnh bất đồng tạo thành phân biệt. Chỉ cần bảo trì được một loại tâm bình hòa thì thế giới trước mắt chúng ta sẽ dần dần hiển hiện bộ mặt chân thật.

1504.  Tọa thiền.
- Đạo do tâm ngộ há ở ngồi sao?
(Thiền thị thập ma)
Đối với nhiều người tu thiền là tĩnh tọa. do đó tham thiền trong khi tĩnh tọa gọi là tọa thiền. Quan niệm này có đúng không? Trong công án 1011, Hoài Nhượng hỏi Mã Tổ:
- Khi xe không đi, ngươi đánh xe hay đánh bò?
Câu trả lời rất giản dị, ai cũng biết là phải đánh bò. Ở đây bò chỉ tâm, cái xe là chỉ tọa thiền. Nếu muốn ngộ sự bí ảo của thiền phải bắt đầu từ chỗ sâu thẳm của tự tâm tức là con bò, chứ không phải là từ cái xe. Trong xã hội ngày nay nhiều người chỉ chú trọng đến hình thức mà không để ý gì đến nội dung. Thậm chí có người coi nhập định quán hơi thở là tham thiền. Nếu tâm không ngộ không thông hiểu ý nghĩa ảo diệu của thiền, dù nhập định chỉ tức lâu bao nhiêu đi nữa cũng chỉ là khô mộc thiền, không có lợi ích gì. Tỷ dụ như trong công án trên, xe không đi đánh xe bao lâu cũng vô ích.

1505.  Không cách.
Tuyết Phong 3 lần đến Đầu Tử, 9 lần đến Động Sơn, đắc pháp nơi Đức Sơn, sau thành đạo ở Ngao Sơn trấn, đệ tử có 1.500 người. Thiền tông có 5 tông thì 2 tông Vân Môn và Pháp Nhãn là tử tôn của Tuyết Phong. Một hôm ông hỏi một ông tăng:
- Từ đâu đến?
- Vừa rời Chiết Trung.
- Đi thuyền hay đi bộ đến?
- Cả 2 đều không dùng.
- Sao tới được đây?
- Có gì ngăn cách?
Tuyết Phong giơ gậy đánh, ông tăng bỏ chạy; mười năm sau trở lại; Tuyết Phong lại hỏi:
- Từ đâu đến?
- Hồ Nam.
- Từ Hồ Nam đến đây bao xa?
- Không cách.
Tuyết Phong giơ gậy lên hỏi:
- Có cách cái này không?
- Nếu cách tức là không đến đây được.
Tuyết Phong cũng đánh, ông tăng bỏ chạy. Ông tăng này sau đó ngồi ở đạo trường mắng chửi Tuyết Phong. Một ông tăng đồng tham hỏi ông:
- Tuyết Phong có câu gì mà ông mắng chửi vậy?
Ông tăng bèn thuật lại câu chuyện trên. Bạn đồng tu bèn chỉ cho ông chổ sai lầm. ông tăng đó về sau thường bi thống, rơi lệ hướng về đạo trường của Tuyết Phong sám hối.
(Phật pháp tu chứng tâm yếu)
Tông chỉ của thiền là một pháp chẳng lập. Học nhân bất tri bất giác rơi vào khái niệm là có gián cách là có phân biệt cho nên mới nói là còn mang một sợi tơ là chưa được giải thoát. Ông tăng trong công án trên vẫn còn chấp vào không cách mà không tự biết.

1506.  Phật tánh.
Khi Triệu Châu đã ngoài trăm tuổi, một hôm Triệu Vương và Yến Vương đến tham phỏng. Triệu Châu ngồi yên không đứng dậy. Yến Vương hỏi:
- Nhân Vương đáng tôn quý hay Pháp Vương đáng tôn quý?
- Ở Nhân Vương thì Nhân Vương tôn, ở Pháp Vương thì Pháp Vương tôn.
Hai vương thán phục, bái Triệu Châu làm thầy.
(Phật pháp tu chứng tâm yếu)
Yến Vương muốn đánh Triệu Vương để cướp địa bàn, nhưng có người biết coi thiên tượng bảo Yến Vương:
- Triệu Châu có thánh nhân cư trú, nếu đánh sẽ thua.
Yến Vương nghe lời bèn hòa với Triệu Vương, lại hỏi Triệu Vương:
- Ở Triệu Châu có vị thánh nhân nào chăng?
- Cách đây 120 dậm ở Quán Âm Viện có vị lão thiền sư có minh nhãn.
Hai người cùng đến xem thử.
Câu đáp của Triệu Châu biểu thị chân như Phật tánh, vô tướng pháp thân ở Nhân Vương tối tôn quý, ở Pháp Vương cũng tối tôn quý.

1507.  Đánh thành một phiến.
Hương Lâm Trừng Viễn thiền sư khi được 80 tuổi bảo viên tri phủ sở tại:
- Lão tăng sẽ đi hành cước.
Một viên quan đứng cạnh nói:
- Vị lão tăng này điên rồi! 80 tuổi mà đi hành cước, đi đâu chứ?
Mọi người đều nghi hoặc; khi trở về chùa thiền sư bảo đại chúng:
- Lão tăng 40 năm mới đánh thành một phiến.
Nói rồi viên tịch.
(Thìền thị thập ma)
Câu chuyện trên cho thấy tham thiền công phu cao thâm như Hương Lâm Trừng Viễn mà cũng phải mất 40 năm trời mới đánh thành một phiến cho thấy tu hành không phải là dễ. Do đó, ngộ rồi là phải bảo nhiệm tức là đánh thành một phiến.

1508. Không gián đoạn.
Đồng An hỏi Động Sơn:
- Chư vị thánh nhân có pháp gì để an thân lập mạng?
- Giữ tâm niệm không gián đoạn.
- Còn có pháp nào cao hơn không?
- Có.
- Là công phu gì?
- Tâm niệm không theo gián đoạn.
(Thiền thị thập ma)
Đối với một số người tâm niệm không gián đoạn và tâm niệm không theo gián đoạn là đồng nghĩa. Nhưng nếu nghĩ kỹ lại thì không gián đoạn bao hàm ý phải tu hành, còn không theo gián đoạn là mặc nhiên đạt được cảnh giới không gián đoạn.

1509.  Uống trà đi.
Một ông tăng hỏi Triệu Châu:
- Thế nào là Đạo?
- Uống trà đi!
(Thiền thị thập ma)
Lịch sử ghi lại chuyện này là Triệu Châu trà, về sau biến thành trà thiền nhất vị; còn ảnh hưởng trực tiếp đến trà đạo của Nhật Bản. Như chúng ta thấy uống trà là một chuyện bình thường, phổ thông chẳng lẽ trong đó có hàm chứa thiền lý thâm ảo gì chăng? Từ xưa đến nay có biết bao người uống trà, nhưng ngộ đạo thì có mấy người? Ý của Triệu Châu là dùng tâm bình thường mà uống trà thì đó là Đạo. Nhưng thế nào là tâm bình thường? Có phải là tâm thái chúng ta trong sinh hoạt thường ngày không? Không phải. Tâm bình thường là tâm không tìm kiếm huyền ảo, kỳ đặc, nhưng ở trong đơn giản, phác thực của sự sinh hoạt hàng ngày thể nhận được chân tướng của tâm.
Mã Tổ Đạo Nhất đã giảng rất rõ:
- Tâm bình thường là tâm không tạo tác, không thị phi, không thủ xả, không đoạn thường, không phàm, không thánh.
Như vậy tâm bình thường không có ở điên đảo, phiền não, vọng tưởng, si mê, cũng không có ở thiền định tu tâm thần kỳ mà ở tại sinh hoạt bình thường.

1510. Thư mẹ.
Thiền sư Huệ Tâm, lúc 15 tuổi còn là một tiểu sa di, vì thông minh lanh lợi, được Hoàng đế triều kiến và ban nhiều tặng phẩm. Ông gửi tặng phẩm vua ban về quê tặng lại mẹ để tỏ lòng hiếu kính. Mẹ ông gửi cho ông một lá thư, trong viết: “Con gửi cho mẹ những phẩm vật Hoàng Đế ban cho con. Mẹ đương nhiên rất vui, nhưng khi mẹ cho con xuất gia làm tăng là mong con trở thành một thiền nhân có tu, có chứng chứ không phải mong con sống trong trường danh lợi. Nếu con chỉ ham hư vinh thì đã trái với nguyện vọng của mẹ. Mẹ hy vọng khi con nhận được thư này hãy ghi nhớ trong lòng thế nào là chân tham, thật học.” Sa di Huệ Tâm nhận được thư mẹ, lập chí làm một vị hoằng pháp độ chúng học theo kinh Hoa nghiêm.”nguyện vì chúng sinh lìa khổ, chẳng màng sự an lạc của chính mình”, không truy cầu danh lợi nữa.
Huệ Tâm được mẫu thân làm cho cảm động, nhờ người nhắn mẹ năm tới sẽ xin phép sư phụ về quê thăm viếng. Không lâu, mẹ ông lại gửi cho ông một lá thư nữa: “Mẹ cho con xuất gia, nhập đạo; con đã thuộc về Phật môn, thuộc về chúng sinh, con không thuộc về riêng mẹ nữa. Từ nay trở đi con phải là Phật tử, hiếu kính sư trưởng, thân cận tam bảo, không chỉ nghĩ đến mẹ. Năm tới về thăm mẹ, con phải nhớ như vậy.
(Tinh Vân thiền thoại)
Huệ Tâm được mẹ dạy dỗ hai lần, tinh cần học đạo, phát tâm lập nguyện sau trở thành một vị tăng bảo chân chính.

1511.  Lão bán dầu.
Một hôm Triệu Châu đến Đầu Tử Sơn ở Thư Châu thăm Đầu Tử. Hai người gập nhau trên đường. Triệu Châu hỏi:
- Ông có phải là Đầu Tử sơn chủ?
- Muối, trà, dầu, tùy ý mua.
Triệu Châu không ngó tới, đi về chùa, Đầu Tử tay cầm một bình dầu theo sau. Triệu Châu trách:
- Nghe danh Đại Đồng đã lâu, gập mặt chỉ là một gã bán dầu.
- Ông chỉ thấy gã bán dầu, không thấy Đầu Tử. Nghe danh Triệu Châu đã lâu nguyên lai chỉ là một tục nhân.
- Ta là gã tục nhân sao? và thế nào là Đầu Tử?
Đầu Tử giơ bình dầu lên:
- Dầu, dầu.
(Tinh Vân thiền thoại)
Đầu Tử trước khi mất có nói:
- Nếu tháp của ta có mầu hồng, ta sẽ trở lại.
Một trăm năm sau, khi các tín đồ tu sửa tháp thấy xá lợi có mầu hồng mã não, gập lúc Nghĩa Thanh đến quải đơn. Mọi người đều nói thiền sư Đại đồng đã trở lại. nghĩa Thanh có làm một bài tụng:

白 雲 鎖 不 住
Bạch vân  tỏa bất trú
青 峯 以 何 收
Thanh  phong dĩ hà  thâu
月 色 籠 寒 塔
Nguyệt sắc lung hàn tháp
松 聲 半 夜 秋
Tùng thanh bán dạ thu.

Mây trắng chẳng thể khóa
Núi xanh lấy gì thu
Ánh trăng rải tháp lạnh
Thông reo giữa đêm thu.
Thế nào là Đầu Tử? Dầu, củi, gạo, muối trong sinh hoạt hàng ngày là pháp mạch trôi chẩy của Đầu Tử.

1512.  Mặc kệ nó.
Nơi một chùa kia, có một đứa nhỏ con nhà nghèo khổ, được vị trụ trì từ bi thâu nhận, cho làm việc trong vườn rau. Nhiều năm trôi qua, đứa nhỏ lớn lên và trở thành viên đầu (ông tăng coi việc trồng rau). Một hôm ông bảo một vị sư huynh:
- Đệ thấy các sư huynh mỗi ngày đều tham thiền nhập định; đệ cũng muốn tập không biết có được không, xin sư huynh trình với sư phụ.
Vị sư huynh này trình lại cho sư phụ hay.
Vị trụ trì thấy khó quá vì ông tăng không biết chữ, chẳng đọc qua một quyển kinh nào, lại còn phải bận rộn chăm sóc vườn rau đâu có lúc nào rảnh để ngồi thiền tĩnh tu, bèn thuận miệng bảo:
- Mặc kệ nó.
Nào ngờ vị viên đầu nghe được câu này rất phấn khởi. Mỗi ngày khi làm việc đều niệm thầm câu này chẳng kể trời mưa, trời nắng, khi ăn, khi ngủ. Về sau ông cảm thấy dù không niệm tâm tánh cũng tự nhiên yên tĩnh. Mỗi khi gặp phiền não hay vọng tưởng ông lại niệm “Mặc kệ nó “. Vài năm sau, một hôm ông đang tưới rau, bình tưới bỗng vỡ làm ướt cả người. ông bỗng nhiên ha hả cười lớn vì ông cảm thấy thân tâm thanh tịnh như hư không, các tâm niệm điên đảo vọng tưởng biến mất không còn tung tích.
(Thiền thị thập ma)
Chỉ cần mặc kệ vọng tưởng, mặc kệ phân biệt, tự tánh quang minh tự nhiên hiển lộ.

1513.  Cầu độc mộc.
Thần Sơn bảo Động Sơn:
- Dù đến nơi đâu, nếu có bạn tốt thì không bị lạc. Thỉnh sư cho một lời.
- Sư huynh có thái độ ấy sao thành công được?
Câu Động Sơn khải thị khiến Thần Sơn tỉnh ngộ, từ đó lời nói khác thường. Khi 2 người gập cây cầu độc mộc; Động Sơn qua rồi, nhấc mộc kiều lên gọi:
- Qua mau! Qua mau!
- Giới xà lê!
Động Sơn bèn hạ mộc kiều xuống.
(Động Sơn lục)
Bạn tốt ở đây chỉ thiện trí thức, dù bạn tốt cách nào cũng không được nhờ cậy mà phải trông vào chính mình. Động Sơn nhấc mộc kiều lên là hỏi không có mộc kiều làm sao qua?

1514.  Tâm bất biến.
Một hôm trời rất nóng, có một văn sĩ đến chùa thăm một vị thiền sư. Vào đến phòng thiền sư cảm thấy nóng bức đến toát mồ hôi, bèn hỏi:
- Thiền sư, sao phòng nóng quá vậy?
- Tâm tĩnh tự nhiên mát.
(Thiền thi thập ma)
Trong đời sống: sinh, lão, bệnh, tử, biệt ly, địa vị thăng trầm, của cải trồi sụt và chủng chủng phiền não đều là do tâm có sai biệt. nếu ta nắm lấy then chốt của vấn đề là cảnh chuyển mà tâm không chuyển thì tất cả mọi phiền não đều bị tiêu diệt.

1515.  Cao Phong.
Một hôm Tổ Khâm hỏi Cao Phong:
- Ban ngày ngươi có làm chủ được không?
- Làm được.
- Trong mộng có làm chủ được không?
- Làm được.
- Không mộng, không tưởng, không thấy, không nghe, chủ ở đâu?
Cao Phong không trả lời được bèn đến Lâm An tu hành. Một hôm bạn đồng tu làm gối đầu rơi xuống đất phát ra tiếng. Cao Phong hoát nhiên đại ngộ bèn làm một bài kệ, trong đó có 2 câu:
Nguyên lai chỉ là người lúc trước
Nếu không đổi lúc trước làm sao trở về.
(Thiền thị thập ma)
Làm chủ là giữ được tâm bình thường. Khi không nghe, không thấy là không khởi một niệm làm sao bảo nhiệm tâm bình thường? Sách thiền không ghi chép cao Phong ngộ gì. Nhưng từ tâm bình thường chúng ta có thể suy đoán ông đã ngộ “Mộng tỉnh là một, ngủ và định là một” nên đã thấy được bản lai diện mục.

1516. Phật Di Lặc.
Động Sơn kể cho vân Cư chuyện Nam Tuyền hỏi ông tăng nghiên cứu kinh Di Lặc Hạ Sanh..
- Di Lặc bao giờ hạ sanh.
- Trên trời không có Di Lặc, dưới đất cũng không có Di Lặc.
Vân Cư theo đó hỏi:
- Nếu trên trời không Di Lặc, dưới đất không Di Lặc, không biết ai đặt tên Di Lặc?
Động Sơn bị hỏi khiến thiền sàng rúng động, bảo:
- Ưng xà lê, khi ta ở nơi Vân Nham từng hỏi lão sư; khiến hỏa lò chấn động. Hôm nay bị ngươi hỏi cả mình toát mồ hôi.
(Động Sơn lục)
Di Lặc ở đây chỉ tâm.

1517.  Pha tương.
Động Sơn hỏi Vân Cư:
- Ngươi làm gì đó?
Pha tương.
- Dùng bao nhiêu muối?
- Liên tục cho vào từng chút.
- Vị thế nào?
- Được lắm.
(Động Sơn lục)
Ý của Vân Cư là tu hành thì phải chuyên cần tinh tấn.

1518.  Nhập định.
Khâm sơn, Nham Đầu, Tuyết Phong cùng ngồi thiền. Động Sơn bưng trà ra. Khâm Sơn nhắm mắt lại. Động Sơn hỏi:
- Ngươi đi đâu?
- Nhập định.
- Định vốn không cửa, từ chỗ nào vào?
(Động Sơn lục)
Định chân chính không ra, không vào, không tĩnh, không loạn.

1519. Sự kỳ lạ.
Một hôm A Nan bạch Phật:
- Hôm nay vào thành con thấy một sự kỳ lạ.
- Sự kỳ lạ gì?
- Khi vào thành con thấy một đám người vui vẻ nhẩy múa,khi ra thành thì thấy vô thường.
- Hôm qua ta vào thành cũng thấy một sự kỳ lạ.
- Là sự kỳ lạ gì?
- Ta thấy một đám người vui vẻ nhẩy múa, khi ra thành cũng thấy một đám người vui vẻ nhẩy múa.
(Chỉ nguyệt lục)
Phật giáo cho rằng tất cả mọi sự vật trên thế gian đều không cố định, đều ở trong tiến trình: thành, trụ, hoại, không.

1520. Bài kệ phó pháp của Ca Diếp.
Sau khi kết tập kinh điển xong, Tôn giả Ca Diếp cảm thấy mình già yếu, định đến núi Kê Túc sơn nhập định để đợi Phật Di Lặc. Tôn giả vời ngài A Nan lại bảo:
- Tôi không còn  trụ thế lâu nữa, nay đem chánh pháp giao cho ông, ông phải giữ gìn cho khéo. Hãy nghe bài kệ của tôi:

法 法 本 來 法
Pháp pháp bản lai pháp
無 法 無 非 法
Vô pháp vô phi pháp
何 於 一 法 中
Hà ư nhất pháp trung
有 法 有 不 法
Hữu pháp hữu bất pháp.

Bản lai pháp mỗi pháp
Không pháp khôngphi pháp
Trong một pháp mà sao
Có pháp có không pháp.
(Chỉ nguyệt lục)
Câu 1: Học pháp phải học bản lai pháp.
Câu 2: Không có pháp cũng không có gì không là pháp
Câu 3: Hà tất trong một pháp
Câu 4: Phân ra cái này là pháp, cái kia là phi pháp.

1521.  Đốt Bích Nham Lục.
Đại Huệ Tông Cảo người chủ xướng tham thoại đầu là một vị thiền sư trứ danh đời Tống. Từ nhỏ ông đã tỏ ra thông minh mẫn tiệp. 13 tuổi học ở trường làng, một hôm cùng bạn đùa nghịch ném nghiên mực qua cửa sổ, chẳng may trúng vào mũ thầy, chỉ còn cách bồi thường và về nhà tự học. Thủa thiếu thời ông nói: “Đọc sách thế gian chẳng bằng đọc sách xuất thế gian”. Bèn xin xuất gia ở Huệ Vân Viện. Năm 17 tuổi xuống tóc, rất thích đọc các bộ ngữ lục của Thiền tông. Ông thường nghi ngờ tại sao thiền từ một người truyền pháp là tổ Đạt Ma, tại sao lại phân thành 5 tông”. Năm 19 tuổi vân du tham phỏng chư thiền đức, sau gập Viên Ngộ Khắc Cần. Viên Ngộ bảo ông tham câu  “Núi Đông đi trên nước.”Ông trình 49 đáp án đều không được Viên Ngộ chấp nhận. Một hôm Viên Ngộ thượng đường bảo đại chúng:
- Nếu có người hỏi ta về công án “Núi Đông đi trên nước” thì ta sẽ đáp “Gió thơm từ phương Nam tới, điện các đều mát mẻ.
Đại Huệ nghe câu nói trên có chỗ sở ngộ, bèn trình lên Viên Ngộ. Viên Ngộ bảo:
- Ông đạt được cảnh giới này không phải là dễ, nhưng tiếc là còn chết đi nhưng chưa sống lại. Đó là đại bệnh.
- Con được thế này cũng là khoái hoạt, không mong muốn được gì nữa.
Viên Ngộ bảo ông trú ở Mộc đường sinh hoạt cùng với các vị cư sĩ. Ngày ngày cùng mọi người nói chuyện gia thường và đều vào phòng sư phụ độc tham không dười 3, bốn lần. Mỗi lần Viên Ngộ đều đưa câu hỏi hữu cú vô cú ra. Đại Huệ vừa mở miệng, Viên Ngộ đều bảo không phải. Như vậy được nửa năm, tâm đại Huệ không còn vọng niệm. Một hôm ăn cơm, giơ đũa lên mà không và. Viên Ngộ cười bảo :
- Gã này đã được Hoàng dương một thiền.
- Đạo lý này giống như con chó đứng trước chảo mỡ nóng., muốn liếm không được, bỏ đi cũng không được.
- Thí dụ của ông rất hay
Đại Huệ vẫn chưa triệt ngộ. lại nửa năm nữa trôi qua, một hôm ông lại hỏi Viên Ngộ:
- Nghe nói lúc trước Hòa thượng có hỏi Ngũ Tổ Pháp Diễn về hữu cú, vô cú. Không biết Ngũ Tổ trả lời ra so?
Viên ngộ chỉ cười không trả lời.
- Hòa thượng thường trả lời  mọi người, sao nay không nói?
- Ta hỏi “hữu cú,vô cú như dây leo cây ý là thế nào?” Ngũ Tổ đáp “Theo nhau vậy”.
- Con hiểu rồi!
Viên Ngộ bèn đặt nhiều câu hỏi để khảo nghiệm, Đại Huệ đều trả lời trôi chảy, không ngần ngại.
- Ông đã biết ta không lừa dối ông.
Không lâu, phân tọa mời Đại Huệ thuyết pháp.
Về sau khi Viên Ngộ đã viên tịch, Đại Huệ một hôm đem bản khắc để in Bích Nham Lục của sư phụ ra hỏa thiêu. Đây là 1 việc làm chấn động thiền giới. Đối với người thường thì đây là một hành động phản nghịch, khi sư diệt tổ.
(Nhất vị thiền:Quyển Nguyệt)
Đại Huệ có nỗi khổ tâm khi phải đem đốt bản khắc Bích Nham Lục của sư phụ. Mặc dầu thiền chủ trương bất lập văn tự, nhưng lúc đó những người học thiền chỉ chúi đầu vào đọc những sách thiền như Bích Nham Lục, cố tìm những bí ẩn, những lý giải trong các câu nói của các thiền sư, hoặc nghiên cứu những động tác, hành động của các thiền sư coi đó như một loại văn tự, mà chẳng chú trọng đến sự thực sự tu hành. Đại Huệ đốt bản khắc là để phá cái chấp tệ hại đó.
(200 năm sau người ta thu thập những tài liệu còn sót lại để tái tạo bộ Bích Nham lục mà chúng ta được đọc ngày nay.)

1522.  Không tướng nhân, ngã.
Pháp Hội Linh Thứu có 500 tỳ khưu có đầy đủ 5 thần thông, nhưng chưa đắc pháp nhẫn. Vì có túc mạng thông nên họ đều thấy trong quá khứ mình đã giết cha, hại mẹ, cùng phạm những trọng tội khác; nội tâm hoài nghi mình không thể chứng được pháp thậm thâm. Do đó, Văn Thù, theo thần lực của Phật, tay cầm kiếm sắc bức Thế Tôn. Thế Tôn nói:
- Ngưng! Ngưng! Không được phản nghịch, không được hại ta. Nếu ta bị hại là do thiện mà bị hại. Văn Thù! Xưa nay vốn không ngã nhân. Nếu nội tâm thấy có ngã nhân thì ta tất bị hại.
Do hoạt cảnh trên, 500 tỳ khưu ngộ bản tâm như mộng, như ảo, trong mộng ảo không có tướng nhân, ngã, không có phụ mẫu. 500 vị đồng thanh tán thán Văn Thù:
- Văn Thù đại sĩ thâm đạt đến tận nguồn gốc, tự tay cầm kiếm sắc bức Phật. Kiếm, Phật một tướng không hai, không tướng, không sinh làm sao có giết?
(Thiền thất dữ công án đích áo bí)
Do sự chỉ điểm của Văn Thù, 500 vị tỳ khưu hiểu rằng không có tướng nhân, ngã thì làm gi có người làm hại, người bị hại và vật làm hại; do đó chứng được vô sinh pháp nhẫn.

1523.  Khâm Sơn.
Khâm Sơn đến tham Động Sơn. Động Sơn hỏi:
- Từ đâu đến?
- Từ Đại Từ đến.
- Còn thấy Đại Từ không?
- Thấy.
- Thấy trước “sắc” hay sau “sắc”?
- Thấy phi trước sau.
Động Sơn im lặng. Về sau Khâm Sơn bảo mọi người:
- Ta lìa sư phụ quá sớm, không hiểu hết ý người.
(Động Sơn lục)
 “Sắc” ở đây dẫn từ kinh Kim Cương:
“Nếu lấy sắc cầu ta, 
Lấy âm thanh cầu ta, 
Đó là hành tà đạo, 
Không thể thấy Như Lai”.
Khâm Sơn trả lời đúng nên Động Sơn im lặng chấp nhận.

1524.  Hoa Nghiêm Hưu Tĩnh
Hoa Nghiêm Hưu Tĩnh đến bái phỏng Động Sơn, hỏi:
- Con không có lý lộ, bị vọng niệm lừa dối.
- Ngươi nghĩ có đường ấy sao?
- Con thừa nhận chưa khai ngộ.
- Ngươi vọng tưởng ở đâu?
- Đó là điều con muốn hỏi.
- Vậy ngươi hãy hướng nơi vạn dậm không tấc cỏ mà đi.
- Con nên đến đó sao?
- Bất luận đi đâu, ngươi đều nên đi.
(Động Sơn lục)
Hoa Nghiêm hỏi Động Sơn làm sao trừ vọng niệm, Động Sơn bảo ông hãy trụ ở tự tánh (vạn dậm không tấc cỏ, xem công án 668).

1525.  Tứ ân, tam hữu.
Động Sơn thượng đường bảo đại chúng:
- Trong các ngươi có ai không đáp ứng tứ ân, tam hữu không?
Đại chúng không ai trả lời.
- Nếu không theo tôn chỉ này thì không thể giải thoát khỏi thống khổ của sanh tử. Bất luận đi đâu, mọi thời khắc tâm đều không xúc vật, thường không gián đoạn, sẽ được tương ứng. Phải nỗ lực, đừng nhàn nhã qua ngày.
(Động Sơn lục)
Tứ ân là “ân cha mẹ, ân đất nước, ân tam bảo, ân chúng sanh; tam hữu là tam giới: dục giới, sắc giới, vô sắc giới. Trên báo tứ ân, dưới cứu 3 giới là lý tưởng của con nhà Phật.

1526.  Ngựa Ích Châu ăn cỏ, bò Mục Châu no.
(Thanh tịnh lưu ly)
Theo thường lý, câu nói này vô lý vì Ích Châu và Mục Châu là 2 địa phương khác nhau sao có thể dung hợp làm một?Do vì chúng ta đối với sự tướng có quan niệm đối đãi, cá biệt không thể dung hợp hóa, chỉnh thể hóa mà quán chiếu toàn thể. Do đó mà trước mắt chúng ta l2 chủng chủng chướng ngại. Nhưng đối với người giác ngộ có thể đem thời, không mâu thuẫn chướng ngại điều hòa lại những sai biệt ta người, vật ngã thì thấy thế giới là viên dung, thống nhất.

1527.  Không vọng tâm.
Vương cư sĩ là một người giữ gìn giới luật rất nghiêm khắc, lời nói, hành động đều rất thận trọng; ai nấy đều kính ngưỡng. Nhưng về sau có một bạn đồng tu phát hiện có khi chiều xuống là cư sĩ đi đến chỗ yên hoa, liễu ngõ. Chẳng lẽ Vương cư sĩ cũng không thoát khỏi nữ sắc? Mọi người bàn tán sau lưng cư sĩ. Có một người háo sự, lén đi theo cư sĩ để coi hư thực ra sao. Quanh co qua nhiều ngõ hẻm cuối cùng đến một căn nhà Thuý Hoa Viên, nhiều cô nương xinh đẹp thấy Vương cư sĩ đều thỏ thẻ tiếng oanh ân cần chào hỏi, dẫn cư sĩ lên lầu. Bạn đồng tu cũng len lén theo sau, tới nơi ông thấy một cảnh tượng làm kính sợ. nguyên lai bầy cô nương huyên náo cười cợt lúc nãy người người đều ngồi ngay ngắn trước Phật đường trang nghiêm im lặng nghe Vương cư sĩ nói pháp.
(Thanh tịnh lưu ly)
Vương cư sĩ ở trong bùn mà không nhơ, trong lửa đỏ mà trồng sen thanh tịnh, biến dục não thành mát mẻ; trong vọng cảnh mà định lực không dao động. Thật là một vị thiền giả tùy duyên phóng khoáng, nhậm vận tiêu dao.

1528.  Vô dư Niết Bàn.
Tôn giả Phạm Chí chứng đắc thần thông, có thể biết túc mạng của mọi người; chẳng hạn chỉ xương cốt của một người nào đó cho ông, ông có thể nói cho biết ngay người đó là ai, chết vào năm, tháng nào. Một hôm, Phật chỉ một bộ xương bảo ông xác nhận. Phạm Chí ngưng thần coi xét rất lâu trên trời, dưới đất, 10 phương 3 thế mà không biết là ai, cũng không biết trú ở đâu. Phật khai thị cho ông:
- Đây là một người đã chứng ngộ Niết Bàn, tinh thần ông đã đến chỗ vô thủy, vô chung, vô nội, vô ngoại, quang minh thế giới; có thể vô sinh, vô tử; khế cơ, khế lý quảng biến 10 phương, quán thông pháp giới. Do đó ông không có cách nào từ hài cốt của ông ta mà nhận ra vì ông ta chính là Đông phương Thế giới, Phổ Hương Sơn, Nam Ưu Đà Diên tỳ khưu.
(Thanh tịnh lưu ly)
Câu chuyện trên cho thấy các vị A La Hán chứng đắc Vô Dư Niết Bàn không thể từ nhục thân sinh diệt mà nhận ra được, vì họ đã nghiệp tận, báo tức không còn bị phàm thân quái ngại nữa.

1529.  Xá Lợi Phất.
Xá Lợi Phất khi mới ngộ đạo gập Mục Kiền Liên ở trên đưởng. Mục Kiền Liên hỏi:
- Xá Lợi Phấy! có phải ông đã tìm được con đường thoát vòng sinh tử không? Sao tướng mạo ông trang nghiêm như một bông sen vậy?
- Không sai.
Về sau Xá Lợi Phất về quê nhà nhập diệt. Đệ tử ông là Quân Đầu đem hài cốt đến gập Phật khóc lóc thảm thiết. Phật khai thị ông:
- Quân Đầu, sư phụ ngươi nhập Diệt, công đức vô lậu giới định và trí huệ thâm sâu của ông ấy có bị tiêu diệt không?
- Dạ không!
- Nếu tất cả thống khổ đều diệt, tất cả công đức thanh tịnh đều không mất, vậy ngươi còn khóc làm gì?
Quân Đầu nghĩ lại bèn ngưng khóc.
(Thanh tịnh lưu ly.)
Sinh mạng của chúng ta ở thế gian này không quan trọng; quan trọng là ở công đức giới định huệ và bồ đề thiện căn. Hữu dư sinh mạng có tận nhưng vô dư huệ mạng thì thường còn.

1530.  Bài thi của Mã Tổ Đạo Nhất.

爲 道 莫 還 鄉
Vi đạo mạc hoàn hương
還 鄉 道 不 成
Hoàn hương đạo bất thành
溪 邊 老 婆 子
Khê biên lão bà tử
喚 我 舊 時 名
Hoán ngã cựu thời danh

Mải Đạo quên quê cũ
Về quê Đạo chẳng thành
Bên suối một bà cụ
Gọi tên lúc tuổi xanh.
(Thanh tịnh lưu ly)
Mã Tổ ngộ đạo rồi, trở về cố hương, thân bằng cố lý đều lại thăm. Có một bà cụ sau khi gặp mặt nói:
- Thì ra là thằng nhỏ nhà họ Mã đã trở về.
Bà cụ là hàng xóm, đã thấy Mã Tổ từ nhỏ cho đến khi trưởng thành. Tuy bây giờ đã là một vị thiền sư nhưng dưới mắt bà cụ thì vẫn chỉ là đứa nhỏ nhà họ Mã. Thiền sư nhân đó cảm khái viết bài thi trên. Bài thi khải thị chúng ta không nên chìm đắm trong quá khứ êm đềm, đừng hạn chế tâm thức trong không gian nhỏ hẹp như ếch ngồi đáy giếng, phải mở rộng tầm con mắt. Đại trượng phu chí ở bốn phương, bốn bể đều là huynh đệ tu hành, không chỉ hạn chế ở quê hương.

1531.  Bài kệ của Thần Chiếu Bản Như.

處 處 逢 歸 路
Xứ xứ phùng quy lộ
頭 頭 達 故 鄉
Đầu đầu đạt cố hương
本 來 現 成 事
Bản lai hiện thành sự
何 必 待 思 量
Hà tất đãi tư lương.
神 照 本 如
Thần Chiếu Bản Như

Đường về khắp mọi chốn
Nơi nơi đều cố hương
Xưa giờ tự hiển hiện
Cần gì đợi tư lương.
(Thiền môn khai ngộ thi)
Tự tánh ở khắp mọi nơi, mọi sự việc đều là tự tánh hiển lộ, không cần phải suy tư để tìm ra nó.

1532. Tâm bất sinh.
Có một người bị bệnh cùi muốn xuất gia, xin Bàn Khuê xuống tóc. Thiền sư đồng ý và tự mình cử hành nghi thức thế độ. Lúc đó, viên quan lại được Lãnh chúa sai đến phụ giúp Bàn Khuê tỏ ý bất mãn sao một vị cao tăng tôn quý lại tiếp xúc với một người bệnh không tinh khiết như vậy. Bàn Khuê bảo ông:
- Ta thấy tâm ông còn bẩn hơn người này!
(Thiền dữ nhân sinh)
Có sự phân biết sạch bẩn, giầu nghèo, sang hèn, v . v . là còn ở trong thế giới hiện tượng của nhị nguyên đối đãi. Nếu có thể trở về cái tâm lúc chưa phân biệt, thì đó là cái tâm chưa bị ô nhiễm. Cái tâm ấy, Bàn Khuê gọi là tâm bất sinh.

1533.  Người thợ lò rèn.
Có một người thợ lò rèn vì nuôi dưỡng gia đình, phải gắng sức làm việc mỗi ngày, cảm thấy rất khổ sở. Một hôm có một vị cao tăng đến hóa duyên, ông thuận mồm hỏi vị cao tăng này con đường thoát khổ. Vị cao tăng chỉ cho ông pháp môn niệm Phật: hễ mỗi lần dùng búa nện xuống thanh sắt lại niệm một tiếng Phật, mỗi động tác kéo bễ lại niệm một tiếng Phật. Từ đó người thợ rèn cảm thấy sinh hoạt rất có ý nghĩa, ngày ngày làm việc rất vui vẻ. Vài năm sau tâm ông đã đạt tới tịnh độ pháp giới. Một hôm ông đọc bài kệ:

叮 叮 噹 噹
Đinh đinh đang đang
百 煉 成 鋼
Bách luyện thành cương
太 平 將 至
Thái bình tương chí
我 往 西 方
Ngã vãng Tây phương

Đinh đinh! Đang đang!
Luyện mãi thành gang
Bình an sẽ đến
Ta về tây phương.

Nói xong liền mất.
(Thiền ngữ không nhân tâm)
Sự chứng ngộ không phải do suy nghĩ, hoặc dưỡng tĩnh mà là ở trong thực hiện sinh hoạt mà không bị sinh hoạt kháng chế. Đó là tĩnh tâm, là chân không diệu hữu nhập vô sinh pháp nhẫn vậy.

1534.  Nguy hiểm.
Đời Đường, một hôm thi sĩ Bạch Cư Dị đến bái phỏng Điểu sào thiền sư, thấy thiền sư trú ở trên cây, bèn nói:
- Chỗ ở của thiền sư rất nguy hiểm.
- Nếu so sánh thì chỗ ở của thái thú còn nguy hiểm hơn.
- Chỗ ở của đệ tử có gì nguy hiểm?
- Tự mình không ngừng khởi tâm động niệm, nơi nơi bị cảnh chuyển, giống như củi để gần lửa, khiến cho mình lo lắng không tự tại, lại không nguy hiểm sao?
(Thiền ngữ không nhân tâm)
Tự tại là chân chính tỉnh giác, chân chính tự do, chân chính từ trong hư ảo mà giải thoát.

1535.  Cây bách thành Phật.
Có ông tăng hỏi Triệu Châu:
- Ý tổ sư từ Tây sang là sao?
- Cây bách trước sân.
Nhiều ông tăng hỏi câu hỏi này nhiều lần, Triệu Châu đều lập lại câu trả lời. Một hôm, một ông tăng hỏi:
- Cây bách có Phật tánh không?
- Có.
- Vậy cây bách lúc nào thành Phật?
- Đợi hư không rơi xuống đất, sẽ thành Phật.
- Hư không lúc nào rơi xuống đất?
- Lúc cây bách thành Phật.
(Thiền ngữ không nhân tâm)
Câu đáp của Triệu Châu “Đợi hư khôngrơi xuống đất sẽ thành Phật” là khẳng định cây bách cũng là khẳng định tự kỷ. Vấn đề này không cần truy vấn thêm vì chỉ tạo tranh luận không khế hợp với Đạo. Dưới con mắt thiền giả một cái cây, một cọng cỏ đều khẳng định sự tồn tại của nó. Thái độ trọng tự nhiên của người xưa thực người ngày nay khó theo kịp. Thiền giả coi chủng chủng hiện tượng của khí thế giới là một loại thần tánh tự mình khẳng định. Tuy chúng là một vật vô tình, nhưng có thể thuyết pháp cho hữu tình nghe; tương đối hỗ tương khẳng định sự tồn tại của nhau. Do đó biểu hiện ra tinh thần đại từ, đại bi không còn khởi tâm phân biệt vô tình và hữu tình.

1536.  Giáo pháp.
Một ông tăng hỏi Pháp Nhãn:
- Thế nào là giáo pháp chân chính?
- Giáo là tâm.
- Tâm con còn phiền muộn làm sao liễu ngộ để giải thoát?
- Gió cuốn mây phiền, thái hư vắng lặng.
- Làm sao triệt ngộ thanh tịnh?
- Một vầng hạo khiết chiếu sáng vạn dậm.
(Thiền ngữ không nhân tâm)
Hãy bỏ xuống tất cả lợi hại, được mất, thân thế, địa vị v . v . thì tâm sẽ được an nhiên tự tại.

1537.  Mê.
Triều Đường, thiền sư Vô Nghiệp nói:

迷 者 不 了
Mê giả bất liễu
即 爲 境 惑
Tức vi cảnh hoặc
一 爲 境 惑
Nhất vi cảnh hoặc
流 轉 不 窮
Lưu chuyển bất cùng.

Bị cảnh mê hoặc
Người mê không xong
Một khi mê hoặc
Trôi hoài chẳng ngưng.
(Thiền ngộ không nhân tâm) 
Một khi đã bị mê thì càng mời gọi nhiều phiền não tới, không bao giờ được yên. Để đối trị chúng ta nên dùng lòng từ bi làm cơ sở tu hành, trên báo tứ ân, dưới độ tam đồ.

1538.  Bài thi của Hà Sơn Thủ Thần.

終 日 看 天 不 舉 頭
Chung nhật khán thiên bất cử đầu
桃 花 爛 漫 始 抬 蛑
Đào hoa lạn mạn thủy đài mâu
饒 君 更 有 遮 天 網
Nhiêu quân cánh hữu già thiên võng
秀 得 牢 關 即 便 休
Tú đắc lao quan tức tiện hưu.

Cả ngày nhìn trời, đầu chẳng ngửng
Thấy đào tươi thắm,ngó coi chơi
Dù có che trời bằng thiên võng
Rõ được lao quan rồi mới thôi.
(Thiền môn khai ngộ thi)
Lao quan là cửa thứ 3 mà người tu phải vượt qua.

1539.  Sơn thần thọ giới.
Đời Đường Tung Nhạc nguyên Khuê là một vị cao tăng, sau kết am cỏ ở phía nam Tung Nhạc. Một hôm có một vị Sơn thần đến xin thọ giới. Thiền sư bảo:
- Ngươi cầu giới, tức đã được giới.
- Nhưng con vẫn muốn thiền sư chính thức truyền giới, thâu con làm đệ tử.
- Được, khi ta truyền ngũ giới cho ngươi, giới nào ngươi giữ được thì nói giữ được.Giới nào không giữ được thì nói không giữ được.
Ngươi có giới dâm được không?
- Con đã có vợ, phải làm sao?
- Không phải ý này, mà là không tà dâm.
- Giữ được.
- Ngươi có thể giữ được giới không trộm cắp không?
- Con là Sơn thần tài vật không thiếu, cần chi phải trộm cắp?
- Không phải ý này, mà là nếu ngươi tốt gập người xấu ngươi cũng có thể tha thứ; nếu ngươi không tốt gập người tốt ngươi cũng có thể làm hại.
- Giữ được.
- Ngươi có thể giữ giới không giết không?
- Con nắm quyền bính xử phạt không thể không giết sao?
- Không phải ý này, mà là không có đức hiếu sinh.
- Giữ được.
- Ngươi có giữ được giới không uống rượu không?
- Giữ được.
Lễ truyền thọ ngũ giới đã hoàn tất.
(Thiền giới không nhân tâm)
Qua công án trên chúng ta thấy giới là để bồi dưỡng Tĩnh. Có thể Tĩnh thì không giả, là vô tâm. Tâm vô tâm là chân tâm. Lúc đó sẽ có óc sáng tạo, tự do, giải thoát.

1540.  Một ông tăng lanh lợi.
Đời Đường, Nam Tuyền trú ở am cỏ. Một hôm có một ông tăng đến tham phỏng. Nam Tuyền bảo:
- Ta phải lên núi làm việc, đến bữa ngươi cứ tự nhiên thổi cơm ăn và mang cho ta một phần.
Đến bữa ông tăng thổi cơm ăn, rồi lên giường nằm ngủ một giấc. Nam Tuyền không thấy ông tăng mang cơm tới bèn trở về am. Thấy ông tăng đang ngủ ngáy khò khò; Nam Tuyền cười cười leo lên giường ngả mình bên cạnh ông tăng. Được một lúc, ông tăng tỉnh giấc. nam Tuyền bảo:
- Lúc trước ta có gặp một ông tăng lanh lợi, hoạt bát, cho đến nay chưa gặp lại.
Nói rồi giơ phất tử vẩy vẩy trước mặt ông tăng:
- Ông tăng lanh lợi ấy có giống cái này không?
- Không giống.
- Sao biết? Ngươi gập hắn ở đâu?
- Nếu thầy muốn biết con gặp hắn ở đâu thì hãy bỏ phất tử xuống.
- Ta chứng thực ngươi có cặp mắt trí tuệ.
(Thiền ngữ không tâm nhân)
Câu chuyện trên cho chúng ta thấy nếu chúng ta không tự tại thì liền mất tự do. Ông tăng trên là một người lanh lợi, không sợ hãi, tự do tự tại nên mới tự nhiên thỉnh thiền sư bỏ phất tử xuống.
(Đây là một thoại khác của công án 241)

1541.  Địa ngục.
Để trả lời câu hỏi của một ông tăng về địa ngục. Triệu Châu bảo:
- Ta không vào, thì ai vào mà cứu ngươi?
(Thiền thú 60)
(Xem công án 71) Triệu Châu là một vị thiền sư rất khôi hài, lưu lại không biết bao nhiêu là chuyện thú vị. Phật có 10 danh hiệu, mỗi danh hiệu biểu hiện một đức tính. Nếu là hiện đại, Phật cũng nên có thêm một danh hiệu nữa là khôi hài đại sư thì mới khế hợp với người hiện đại tự do, tự tại. Dưới con mắt nhà thiền, vạn pháp đều do tâm tạo. Những gì tâm tạo đều là ảo tướng. Người bình thường chấp ảo là thật nên mới cho là có thiên đường, địa ngục thật, vì vậy mới có vấn đề đặt ra câu hỏi:
- Thiền sư là bậc cao tăng sao vào địa ngục được?
Nhưng trong tâm thiền sư ngay khái niệm về địa ngục còn không có thì làm gì có vấn đề vào hay không vào? người chấp có địa ngục sẽ tự sáng tạo ra những cảnh thân bị dìm dưới nước sâu, bị lửa đốt. Vì vậy, Triệu Châu mới khôi hài:
- Ta không vào thì ai vào cứu ngươi?

1542.  Tỷ thí.
Triệu Châu sau khi tranh luận với Văn Viễn, thừa nhận:
- Được! Ta thua rồi, mang bánh trái ra đây .
(Thiền thú 60)
Văn Viễn là thị giả của Triệu Châu. Triệu Châu rất thích đùa cợt với ông. Có một lần Triệu Châu đi nhà cầu, thấy Văn Viễn đi ngang bèn gọi:
- Văn Viễn!
- Dạ.
Văn Viễn định chạy lại, Triệu Châu bảo:
- Không thể thuyết pháp cho ngươi ở nhà cầu.
Khiến Văn Viễn cười suýt bể bụng.
Trong công án này (xem công án 1074) khi Triệu Châu nói:
- Ta là con lừa!
Và Văn Viễn nói:
- Con là con nhặng!
Hai người không phải chỉ nói khơi khơi mà thực sự họ đã chứng ngộ vật ngã là một, chủ khách đồng thời dung hợp vô ngã không tính. Cuối cùng, Triệu Châu phục Văn Viễn đã khéo nghĩ “Con ở trong đó độ hạ” bèn nhận là mình thua. Thực ra thắng hay thua có gì phân biệt? Cổ nhân nói thắng cũng vui, thua cũng thích. Vì vậy người thua được ăn bánh. Người thường coi phân là bẩn, là thối; nhưng đối với con nhặng không có những quan niệm về sạch bẩn, thơm thối thì đó là kho lương thực, là nơi tiêu dao khoái lạc.

1543.  Ngươi rất khỏe.
Mã Tổ bảo ông tăng đến tham Thạch Đầu:
- Ngươi rất khỏe có thể vác một đống củi từ Nam Nhạc về Đây.
(Thiền thú 60)
 (Xem công án 888) Ông tăng trên đường đi, tâm không bỏđống củi xuống được nên Mã Tổ mới cười ông là rất khỏe. Trong công án trên khi Thạch đầu bảo:
- Mã đại sư có giống đống củi này không?
Là ám chỉ pháp thân bình đẳng, tạo cơ hội cho ông tăng bầy tỏ kiến địa của mình. Rất tiếc ông tăng tâm như đống củi đã hạnh phụ tâm ý của Thạch Đầu.

1544.  Giết trâu.
Buổi tiểu tham đêm Trừ tịch, Bắc Thiền bảo đại chúng:
- Năm cùng, tháng tận chẳng có gì cho các ngươi lão tăng thổi cơm nấu canh, thịt một con trâu trắng; đốt củi sưởi ấm; đại chúng cùng ăn, cùng hát dân ca.
Nói rồi xuống tòa giảng, đi về phòng phương trượng.
Tới khuya, Duy Na vào phòng phương trượng thưa:
Lính huyện đến bắt hòa thượng. –Tại sao?
- Hòa thượng giết trâu mà không nộp thuế.
Thiền sư ném mũ xuống đất, nhẩy xuống thiền sàng, ôm chặt Duy Na la lớn:
- Có trộm, có trộm.
Duy Na nhặt mũ đội lại lên  đầu thiền sư:
Trời lạnh, trả lại hòa thượng.
Thiền sư ha hả cười lớn. Duy Na đi ra.
(Thiền thú 60)
Thiền giả giống như con nít chơi trò diễn kịch. Bắc Thiền có lòng từ bi muốn mọi người cùng ăn thịt trâu trắng. Đáng tiếc thịt trâu trắng chỉ có thể tự ăn. Phật tánh phải tự kiến, tự ngộ. Sư phụ có lòng đem ngộ kiến tặng đồ đệ  cũng không thể làm được. Vì trâu trắng chỉ có thể tự giết, tự nấu, tự ăn nên Duy Na chạy đến phòng phương trượng vấn tội nói lính huyện đến bắt vì tự giết trâu mà không nộp thuế. Hai người náo loạn một lúc rồi sao? độc giả hãy tự thể hội?

1545. Ăn xong, uống trà.
Có người hỏi Thể Ẩn:
- 12 giờ một ngày làm sao tu?
- Mặc áo, ăn cơm.
- Còn việc nào khác không?
- Có.
- Là việc gì?
- Ăn xong, xin một chén trà.
(Thiền thú 60)
Tu hành là mặc áo, ăn cơm; lại nữa đừng quên ăn xong uống một chén trà. Đó là “Tâm bình thường là Đạo” của thiền tông Trung Hoa. Đây là giai đoạn đã ngộ. nếu ngay từ đầu đã nói mặc áo, ăn cơm là đạo thì là dối người. người ngộ đạo thưởng trăng, ngắm hoa, du sơn ngoạn thủy .  .  . đều là đạo. Đối với người chưa ngộ thì tụng kinh, lễ Phật, tọa thiền, trì giới .  .  . mới là Đạo. 2 hạng người trên như trâu và ngựa chẳng hợp.
Có một người tiều phu mang một ít dưa lên núi kiếm củi. Ông mang dưa ra ăn. Cắn một miếng thấy không ngọt bèn vứt ngay xuống đất. Lại thử quả thứ hai, thứ 3 .  .  . đều không vừa ý, vứt cả xuống đất. ông than:
- Chẳng có quả nào ăn được!
Ông bắt đầu đốn củi. một lúc sau mồ hôi ra ướt cả lưng, khát không thể nhịn được, lại không có nước uống đành nhặt một quả dưa đã vứt xuống đất lên ăn tạm .
- Cũng không đến nỗi!
Chiều tới, khi tiều phu xuống núi, những quả dưa vứt trên đất đã chui hết vào bụng.
Tu hành cũng vậy từ “Không có quả nào ăn được” tiến hóa đến “quả này cũng không đến nỗi” . . . “đại khái cũng được “ . . .

1546.  Phật pháp.
Thị giả Hội Thông một hôm muốn từ biệt ra đi. Điểu Sào thiền sư hỏi:
- Ngươi định đi đâu?
- Hội Thông này vì pháp xuất gia, chẳng được hòa thượng từ huấn, nay đi khắp nơi để học hỏi Phật pháp.
- Nếu là Phật pháp thì ở đây ta cũng có chút ít.
- Phật pháp của hòa thượng là gì?
Thiền sư rút một sợi tơ từ trong áo ra thổi phù. Hội Thông tức khắc lãnh ngộ huyền chỉ.
(Thiền thú 60)
Công án này là một thoại khác của công án 89 .  Phật pháp được coi là chân lý tối cao, là tâm pháp giải thoát. Điểu Sào thiền sư chưa hề đối mặt Hội Thông nói qua. Hội Thông là một người có đạo tâm, vì Điểu Sào thiền sư không bảo cho ông nên ông chỉ còn cách đi nơi khác tìm minh sư. Không ngờ khi Hội Thông đã tuyệt vọng lại nghe Điểu sào thiền sư nói: “Nơi đây ta cũng có chút Phật pháp” khiến ông lại hy vọng lại còn háo kỳ: tại sao thiền sư lại bảo có một chút Phật pháp? Do vậy Hội Thông để hết tinh thần quán chú. Ai ngờ Điểu Sào thiền sư không nói gì chỉ rút một sợi tơ từ  trong áo giơ lên thổi phù một cái. Tiếng thổi tuy nhỏ nhưng đối với Hội Thông thì như tiếng sấm đập vào tâm ông: nguyên lai, Phật pháp không xa, ở ngay cạnh mình, nơi nơi đều có. Cổ nhân nói: “Đại đạo ở ngay trước mắt”. Điểu Sào thiền sư từ trước vốn không nói Phật pháp nhưng trong sinh hoạt mỗi cảnh, mỗi vật, mỗi lời, mỗi hành động không gì không là chỉ bầy Phật pháp.

1547.  Đừng kêu loạn.
Vân Môn đến tham phỏng Sơ Sơn Nhân. Nhân hỏi:
- Ở chỗ đắc lực, hãy nói một câu.
- Nói to lên.
Nhân lớn tiếng hỏi lại:
- Hôm nay đã ăn cháo chưa?
- Ăn rồi.
- Đã ăn rồi còn kêu loạn lên làm gì?
(Thiền thú 60)
Vân Môn Văn Yển là sáng tổ của dòng thiền vân Môn, là một thiền sư có khẩu tài. Trong công án này Sơ Sơn muốn Vân Môn nói ra ngộ kiến của mình. Nếu Vân Môn mở cái hộp nói của mình ra thì nói 3 ngày đêm cũng chưa hết ý. Nhưng ông dùng một phương pháp cao minh hơn không đáp mà đáp. Hỏi ngộ kiến của người khác thì cũng giống như lớn tiếng kêu loạn. Để trả lời Sơ Sơn có nhiều cách:
1.- Trả lời thẳng vào câu hỏi như: các pháp đều không.
2.- Dùng thể ngữ trả lời: như giơ một ngón tay lên, hay vẽ một vòng tròn.
3.- Dùng 1 câu vô ý thức để diễn tả, không thể dùng lời nói như 3 cân gai, cây bách trước sân . . .

1548.  Sư tử gỗ cắn người.
Vân Môn đút tay vào miệng sư tử gỗ, kêu lên:
- Cắn chết ta! Cứu mạng!
(Thiền thú 60)
Công án này tình tiết rất ngắn nhưng đầy kịch tính. Con sư tử bằng gỗ này là toàn thể vũ trụ cụ thể hiển hiện, là tam thế, thập phương chư Phật, là vô tận trí tuệ, vô tận chân lý. Con sư tử gỗ của Vân Môn dũng mãnh vô tỷ cắn chết người thiên hạ; cũng như Vân Môn bị nó cắn một miếng, một đời dùng hoài không hết, trước khi chết còn không nhịn được cười: “Cắn tốt lắm!”

1549.  Mời uống trà.
Để trả lời ông tăng mới đến, ông tăng đã đến và Viện chủ Triệu Châu đều bảo:
- Mời uống trà.
(Thiền thú 60)
Xem chi tiết công án 1000. Trà có công dụng làm tỉnh người. uống trà là một chuyện bình thường, nhưng từ miệng Triệu Châu nói ra nó có một hàm ý: uống trà là trở về thân cận và không xa lìa bản lai diện mục; đó mới là chân chính làm tỉnh người. Đương nhiên các học tăng khi gặp Triệu Châu vị tất đã hiểu ý này. Cũng chẳng sao vì Triệu Châu đợi xem phản ứng của họ để biết trình độ của họ. Trong công án này, 2 ông tăng trên là 2 ông phàm tăng không nghi và cũng không khởi nghi tình, theo lời thiền sư giăm giắp đi uống trà. Đó là những người thật thà thiền sư không nỡ đùa tiếp. Đến viện chủ thì đặc biệt hơn, ông hé thấy mật ý của Triệu Châu liền khởi nghi tình nên mới đặt câu hỏi. Triệu Châu thấy ông có tư cách để đùa bèn lên tiếng gọi:
- Viện chủ!
- Dạ!
Viện chủ ứng tiếng dạ, rõ ràng là chỉ cho viện chủ Phật tánh ở nơi này, cái ông hỏi chính là cái này. Về sau Triệu Châu lại nói :
- Mời uống trà.
Đó là thiền sư khôi hài,tin chắc 2 người sẽ nhìn nhau mà cười lớn. Thực ra, Triệu Châu mời các ông tăng uống trà là tỏ lòng khiêm nhượng, thân thiết; vì chỉ cần nhìn ánh mắt, cử chỉ, khí độ, không cần đến lời nói, thiền sư đã có thể biết công phu thâm, thiển của họ rồi.
 
 

c

Nguồn: www.quangduc.com

Về danh mục

Chùa Sùng Phúc đứng dậy và tìm tương lai cho mình em hiểu học vム15 điều bạn không nên chấp nhận trong Tuổi đạo lý về nghiệp Vòng giïa tram mục đích cuộc đời là g ì Là 7 ac nghiep dung bao gio lam Vận động ket Bảo vien Sóc hai walk with me chÙa cuoc giới lo lý liên kiệt đã giác ngộ được ý cuộc sống đầy đủ các vấn đề chua benh hiem muon theo quan diem phat phap Ăn bÃn Thành thanh văn thừa thi hóa qua điệp khúc 118 Chạm Chùa Thiên Tôn nghiệp hoÃƒÆ cơm Tản CHÙA TĨNH LÂU thực tạp hạnh lắng nghe của bồ tát tám chuoi ngoc tran bao phap thi ngó thời khắc mà ta cảm thấy mình cần sap Tức Thiền định và khoa học thần kinh 5 tan o thai lan hòa 7 noi