Mục Lục Quyển Hạ.
Phần Thứ 1.
Phần Thứ 2.
Phần Thứ 3.
.
NHỮNG ĐOÁ HOA THIỀN
Dịch gỉa: Dương Đình Hỷ
Phước Quế Publications, Arlington, USA 2003
Mục Lục.
Quyển Thượng.
Quyển Trung.
Quyển Hạ.
Quyển Chung.
NHỮNG ĐOÁ HOA THIỀN
禪 之 花
QUYỂN HẠ 

1550.  Văn Thù cưỡi sư tử.
Có ông tăng đến tham Tỳ khưu ni Liễu Nhiên. Liễu Nhiên hỏi:
- Sao ngươi mặc áo rách vậy?
- Tuy vậy, nhưng là sư tử con.
- Là sư tử con sao bị Văn Thù cưỡi?
Ông tăng không trả lời được.
(Thiền thú 60)
Đây là một cuộc pháp chiến dùng cơ phong chuyển ngữ. Đương trường thiền sư tìm một lối ra; Đối phương dùng câu nói ấy mà chuyển ra ý nghĩa từ thủ trở thành công, trong công có thủ. Mục đích là hỗ tương ấn chứng kiến địa, đo lường hư thực. Một vị thiền sư giỏi không những có kiến địa tồt mà còn phải có năng lực, do được huấn luyện về cơ phong chuyển ngữ có thể lên võ đài. Cơ phong chuyển ngữ có khi thấy là vô nghĩa, phản nghĩa, có khi là tỷ dụ, hư hư thực thực, linh hoạt vô cùng. Trọng yếu là người nói và người đáp không chấp vào văn tự. Trong công án này, Liễu Nhiên dùng một câu hỏi, nhường đối phương đáp. Ông tăng trả lời rất hay. Sư tử tượng trưng cho trí tuệ quang minh vô lượng của Phất tánh không bị bề ngoài rách rưới ảnh hưởng. Liễu Nhiên đưa ra chuyển ngữ công kích bản lai Phật tánh dũng mãnh sao bị người cưỡi? ông tăng không đáp được. Chúng ta hãy thử đáp thay cho ông:
1.- Không phải đâu! là sư tử cưỡi Văn Thù.
Đó là đảo ngược chủ khách phá ngữ pháp của Liễu nguyên và hiển lộ Phật tánh.
Hoặc có thể chuyển ngữ pháp của Liễu Nhiên:
- Sư tử lớn cưỡi sư tử con thì có gì là lạ!
Đó là đem Văn Thù chuyển thành Phật tánh.
Hoặc:
- Sư tử của bà chạy đi đâu rồi?
Đó là chuyển ngữ thủ thành công.
Đây là do chúng ta suy nghĩ về sau. Còn đương trường câu trả lời phải như lửa xẹt, không có thì giờ suy nghĩ thì bại là cái chắc.

1551.  Làm sao thành Phật?
Một ông tăng hỏi huệ Trung:
- Làm sao để thành Phật?
- Bỏ cả Phật và chúng sanh xuống thì lập tức giải thoát.
- Bỏ cả xuống thì làm sao tương ứng với Phật?
- Không có thành kiến thiện, ác tự nhiên có thể thấy Phật tánh.
- Thấy  Phật tánh rồi làm sao chứng được Phật thân?
- Ngươi phải vào cảnh vực Tỳ Lô Giá Na.
- Làm sao tới được thanh tịnh Pháp thân?
- Không cầu thành Phật.
- Cứ như thầy nói thì Phật là gì?
- Tâm là Phật.
- Tâm có phiền não, làm sao thành Phật?
- Để phiền não tự nhiên đi.
- Cứ như thầy nói, chẳng là đoạn diệt thì là vô ký không sao?
- Nếu dùng  đoạn diệt trừ phiền não thì là nhị thừa, để phiền não không sanh mới là đại Niết Bàn.
(Thiền ngộ không nhân tâm)
Qua đoạn đối thoại trên chúng ta thấy không là bỏ xuống thành kiến, chấp trước, tham dục, chỉ trích của người khác về mình, oán hận, bất mãn khiến tâm linh chân chính phát xuất tự do, trí huệ. Đó là giác, là thiền, là con đường thành Phật.

1552.  Tránh nóng.
Tào Sơn bảo ông tăng đứng cạnh:
- Người ngộ đạo dù trời nóng đến đâu cũng không bị ảnh hưởng.
- Dạ phải.
- Nay nếu trời rất nóng, ngươi đi đâu để tránh?
- Vào trong vạc nước sôi trong lò để tránh.
- Như vậy làm sao tránh?
- Chúng khổ không thể tới đó.
Tào Sơn im lặng không nói nữa.
(Thiền thú 60)
Trong công án này nóng chỉ thống khổ, phiền não của người đời. Thống khổ và phiền não không thể tránh được. Phải vào thẳng trung tâm của nó để thấy rõ nó là sản phẩm do tâm tạo. Vạn pháp do tâm tạo, hiểu được đạo lý này thì nóng trở thành mát chỉ trong một niệm. người thể ngộ được điều này thì chúng khổ không thể tới được. Tào Sơn im lặng vì ông tăng nói đúng, không có chỗ nào sơ hở để đả kích. Tuy vậy, đây là kiến giải do ông tự chứng nghiệm hay chỉ là nói mồm; phải chờ quan sát rồi mới biết.

1553.  Đơn Hà đốt tượng.
Ở Huệ Lâm Tự, trời lạnh, Đơn Hà đem tượng Phật bằng gỗ ra đốt. đại chúng vặn hỏi, ông nói:
- Ta đốt để tìm xá lợi.
Tượng gỗ làm gì có xá lợi?
- Vậy, sao còn trách ta.
(Thiền thú 60)
Người thường lễ Phật để sám hối hay cầu xin. Nhà thiền không chú trọng đến việc lễ Phật mà nỗ lực tìm Phật tánh ở nội tâm. Vậy thiền giả không lễ Phật sao? Không phải vậy, đối với người đã thấy Phật tánh, nơi nơi đều thấy Phật, lễ tượng Phật nào có trở ngại gì. Nếu có lễ thì cũng là lễ với tâm không chấp, không cầu. Chỉ Đơn Hà mới có gan đem tượng Phật ra đốt. Chúng ta không thể bắt chước Đơn Hà nếu không cũng như chó con thấy sư tử nhẩy cũng nhẩy nếu không chôn thây mất mạng thì cũng trầy da tróc vẩy. Cũng đừng học theo Nam Tuyền chém mèo, hễ gập mèo đâu là giết đó. (Xem thêm công án 50)

1554.  Dưới núi có hổ.
- Dưới núi Đại Hùng có một con hổ, các ngươi phải cẩn thận, lão tăng hôm nay đã bị nó cắn một miếng đấy.
(Thiền thú 60)
Xem chi tiết công án 1012. Con hổ ở đây chỉ phiền não, vọng niệm, thành kiến. Con hổ ăn thịt người; phiền não, vọng niệm, thành kiến cũng có thể giết người. Hoàng Bá giả tiếng hổ gầm là nói con là hổ, là phiền não. Bách Trượng giả bộ giơ búa lên chém là bảo sao không chặt đứt phiền não đi? Hoàng Bá biết thầy thử mình bèn thoi lại một quả, ý nói sư phụ làm vậy sao được vì phiền não cũng là tự tánh hiển lộ. Bách trượng nhận được cú đấm rất vui và khen ngợi Hoàng Bá.

1555.  Lâm Tế ngủ.
Lâm Tế đang ngủ ở Tăng đường, Hoàng Bá vào trông thấy, lấy gậy gõ vào giường. Lâm Tế mở mắt ra thấy Hoàng Bá liền nhắm mắt lại ngủ. Hoàng Bá lại lấy gậy gõ vào giường một cái rồi sang phòng bên, thấy thủ tọa đang ngồi thiền, bèn nói:
- Ở gian trước gã tiểu tử đang ngồi thiền, còn ngươi ngồi đây vọng tưởng cái gì?
- Ông già này làm gì vậy?
Hoàng Bá lấy gậy gõ vào giường một cái rồi ra.
(Thiền thú 60)
Lâm Tế ngủ thì Hoàng Bá lại nói là đang thiền, thủ tọa thiền thì Hoàng Bá lại nói là đang vọng tưởng; thế có phải là điên đảo không? Câu trả lời là không. Thường thì người ta cho ngủ là trạng thái vô tri, vô giác, có thể tạo mộng. Còn thiền là tâm từ phù trầm tới tỉnh thức nhất tâm, nhất cảnh cho tới định vô tâm, vô niệm.
Lâm Tế là người đã đại ngộ, tỉnh và mộng là một. Tỉnh thì dĩ nhiên là tốt, nhưng hôn trầm cũng không sao. Người đại ngộ không thích tỉnh cũng không ghét hôn trầm; dù tỉnh hay mộng người đó đều có một loại thần chí thanh tỉnh gọi là Đạo Cộng Định xuyên suốt tỉnh mộng, khiến lúc nào cũng làm chủ được mình. Do đó khi Lâm Tế bị Hoàng Bá gọi tỉnh, lại nhắm mắt ngủ lại. Còn Thủ tọa ở đây có lẽ là Mục Châu Trần Tôn Túc, một cao đồ của Hoàng Bá. Hoàng Bá nói Lâm Tế đang tọa thiền sao ngươi lại ngồi đây vọng tưởng? là lừa dối Trần Tôn Túc. Cứ cho là Trần Tôn Túc ngồi thiền để trừ vọng tưởng đi. Vọng tưởng, niệm đầu cũng là Phật tánh phù trầm du hý, không có gì là không tốt. Câu nói của Hoàng bá là một ngữ bệnh, do đó Trần Tôn Túc nói thẳng:
- Ông già này nói bậy gì đó? 
Hoàng Bá không chiếm được tiện nghi chỉ còn cách gõ vào giường tỏ ý chấp nhận rồi ra.
Xem lại công án 552, lời bình của 2 tác giả khác hẳn nhau.

1556.  Viên Chân bảo Châu.
Thế Tôn giơ một viên bảo châu cho 5 vị thiên vương xem và hỏi có mầu gì? Năm vị thiên vương mỗi người nói một mầu khác nhau. Sau đó Thế Tôn cất viên bảo châu đi, xoè bàn tay không ra hỏi mầu gì? 5 vị thiên vương thưa:
- Trong tay Thế Tôn không có châu thì sao nói có mầu gì được?
- Sao các ngươi mê muội thế! Khi ta giơ viên bảo châu ra thì các ngươi nói xanh, vàng, đen, đỏ, trắng. Khi ta giơ viên chân bảo châu ra thì các ngươi lại không biết.
5 vị thiên vương hoảng nhiên đại ngộ.
(Thiền thú 60)
Nhìn viên bảo châu, mỗi thiên vương nói ra một mầu là tỷ dụ cho mọi người đều có cái nhìn khác nhau đối với một sự vật, chỉ thấy một cách hạn hẹp, cho đó là chân lý. Nói theo Thiền môn thì là mỗi người ở chỗ thể nghiệm của mình chỉ thấy một phần của Đạo, nhưng nghĩ là mình thấy được toàn phần, là cứu cánh rồi, còn những người khác là không đúng. Do đó mà sinh ra nhiều Tông, Phái. Khi Thế Tôn giơ bàn tay không ra nói là viên Chân bảo châu là chỉ Phật tánh ai ai cũng có, nó vô hình, vô tướng, gán cho nó một danh từ là chấp tướng, càng lìa xa nó.
Xem thêm công án 1017.

1557.  Không thiếu gì.
Thanh Nguyên Hành Tư hỏi Hy Thiên:
- Ngươi từ đâu tới?
- Tào Khê.
- Đem gì tới?
- Không đến Tào Khê cũng chẳng thiếu gì.
- Vậy đến Tào Khê làm gì?
- Nếu không đến thì làm sao biết không thiếu gì?
Hy Thiên hỏi lại Hành Tư:
- Tào Khê đại sư có nhận biết hòa thượng không?
- Nay ngươi có nhận biết ta không?
- Làm sao dùng nhận thức mà biết hòa thượng được?
- Trong đám vô số sừng, chỉ cần một con kỳ lân là đủ.
(Thiền thú 60)
Khi Lục tổ sắp viên tịch, Hy thiên mới 13 tuổi. Hy Thiên hỏi tổ:
- Hòa thượng qua đời rồi con biết nương tựa vào ai?
- Tầm tư.
Kết quả là sau khi Lục tổ mất, Hy Thiên thường tìm nơi vắng vẻ tọa thiền suy tư. Về sau có người hỏi:
- Ngươi ngốc tọa ở đây để làm gì?
- Khi Hòa thượng lâm chung có bảo tôi tầm tư.
- ngươi hiểu lầm rồi, tổ bảo ngươi đi tìm sư huynh Hành Tư đó!
Do đó Hy Thiên mới đến tìm Hành Tư.
Khi Hành Tư hỏi:
- Mang gì đến?
Hy Thiên hiểu là hỏi về tự tánh nên đáp: 
- Chưa đến Tào Khê cũng chẳng thiếu gì?
Biểu thị tự tánh vốn tự đầy đủ, vốn chưa mất bao giờ, không cần mang tới vì nó ở khắp càn khôn, vũ trụ.
- Nếu đã vậy, sao còn phải tới Tào Khê?
- Nếu không đến thì làm sao biết không thiếu gì?
Tuy tự tánh vốn tự đầy đủ nhưng người phàm tục bị vọng tưởng chấp trước che mất nên cần có minh sư chỉ cho biết sự tồn tại của nó.
Xem thêm công án 1060.

1558.  Ngón tay thần kỳ.
Có ông tăng hướng ngũ Phong Thường Quán từ biệt. Thường Quán hỏi:
- Ngươi định đi đâu?
- Ngũ Đài Sơn.
Thường Quán giơ một ngón tay lên bảo:
- Nếu ngươi gập văn Thù thì tới đầu ngón tay này gặp ta.
Ông tăng không biết đáp làm sao.
Lại một ông tăng khác đến từ biệt. Thường Quán bảo:
- Ngươi đến đạo tràng khác đừng hủy báng lão tăng, nói lão tăng ở đây.
- Con không nói Hòa thượng ở đây.
- Ngươi nói ta ở đâu?
Ông tăng giơ một ngón tay lên.
- Ngươi trả lời như vậy là sớm đã hủy báng lão tăng rồi.
(Thiền thú 60)
Thường Quán giơ một ngón tay lên là chỉ Phật tánh. Phật tánh ở khắp mọi nơi kể cả đầu ngón tay của Thường Quán. Do đó bất kể ông tăng thấy văn Thù ở đâu cũng không lìa đầu ngón tay này. Ông tăng có thể trả lời:
- Văn Thù ở trên đầu ngón tay này nhìn con mỉm cười.
Thấy Văn Thù là kiến Phật tánh. Nếu ông tăng giác ngộ thì đầu ngón tay có ngũ Đài Sơn, có Văn Thù giơ ngón tay lên . . .
 Ông tăng thứ nhì có truyện trước làm gương, biết ngón tay diệu dụng vô cùng, vì vậy khi Thường Quán hỏi:
- Ngươi nói ta ở đâu?
Bèn giơ ngón tay lên.
Đáng tiếc, ngón tay Thường Quán giơ lên là đúng, nhưng ông tăng giơ lên lại là họa hổ thành khuyển. Thiền thể ngộ phải từ tâm ra chứ không phải bắt chước từ bên ngoài. Ông tăng thứ hai mặc dầu rất mẫn tiệp nhưng cũng không thoát khỏi tội danh hủy báng. Thế nào là hủy báng? Đó là trên sự thật lại để thêm hư giả, chấp vào khái niệm làm ô nhiễm bản lai diện mục. Đó là hủy báng, Hủy báng lớn nhất của con người là chấp ngã. Từ chấp ngã mà trôi lăn vào hố cát lún rất khó tự thoát ra được.

1559.  Hạt châu huyền huyền.
Có ông tăng hỏi Phổ Thông Phổ Minh:
- Phật tánh là thế nào?
- Không cần hỏi, ngươi không có Phật tánh.
- Mọi sinh vật, ngay cả côn trùng cũng có, sao con lại không có?
- Vì ngươi chỉ tìm bên ngoài.
- Hạt châu huyền huyền là sao?
- Hạt châu huyền huyền của ngươi đã mất rồi.
(Thiền thú 60)
Hạt châu huyền huyền là chỉ Phật tánh. Khi một người chấp trước tưởng từ danh cú tìm ra tung tích của Phật tánh thì không thể thấy được. Vì vậy Phổ Minh bảo ông tăng đừng hỏi, nhưng ông tăng không nghe cứ hỏi tiếp. Vì vậy, Phổ Minh mới bảo thẳng ông:
- Hạt châu huyền huyền của ngươi đã mất rồi.
Ông tăng nhận rằng xuẩn động hàm linh đều có Phật tánh, đó là kiến thức đọc từ kinh điển mà ra chứ không phải tự chứng ngộ. ngay Phật tánh của mình còn chưa chứng ngộ mà nói xuẩn động hàm linh đều có Phật tánh chẳng là hoang đường sao?

1560.  Trâu tốt không cần người chăn.
Động Sơn tuần thị ngoài đồng gặp thượng tọa Lương đang dắt trâu. Động Sơn bảo:
- Phải để ý con trâu này, đừng để nó ăn lúa ruộng.
- Nếu là trâu tốt thì không ăn vụng lúa.
(Thiền thú 60)
Các thiền sư Trung Quốc phần lớn tham gia lao động, thậm chí  tự mình cầy cấy. người hiện tại, nhiều người bị bệnh tật như mắt hoa, đầu váng, mệt mỏi, mất ngủ, lo lắng, v . v . Nếu có thể cải biến sinh hoạt tham gia tác vụ chắc chắn không còn những bệnh trên. Chăn trâu là công việc bình thường của nhà nông, nhưng dưới con mắt của nhà Thiền thì đâu đâu cũng là thiền.
- Coi chừng trâu đừng để nó ăn vụng lúa.
Là chỉ phải coi sóc tâm, đừng để tâm viên ý mã, tác quái. Câu trả lời của thượng tọa Lương rất khí phách, rất có chất lượng. Một người đã thấy Phật tánh, đã thưởng qua thiền vị thì sẽ không bao giờ quên được. giả sử ngẫu nhĩ mê chạy theo vật, nhưng một khi phát hiện liền hồi quang phản chiếu cùng Phật tánh đánh thành một phiến. Công phu càng sâu thì ngay niệm đầu ăn cỏ còn không sinh thì hà tất phải lo.

1561.  Tùy chứng cho thuốc.
Văn Thù bảo Thiện Tài Đồng Tử:
- Hái bất cứ cái gì là thuốc đưa ra đây.
Thiện Tài Đồng Tữ hái một nhánh cỏ đưa ra, Văn Thù giơ lên bảo đại chúng:
- Cái này có thể giết người, cũng có thể cứu người.
(Thiền thú 60)
Thuốc dùng để trị bệnh, bệnh nào phải dùng thuốc nấy. Đối với bệnh nhân thì thuốc có tác dụng chữa bệnh, nhưng khi đã lành rồi nếu còn dùng nữa thì thuốc sẽ trở thành chất độc. Trong đời thường danh tiếng, tiền tài, quyền lực có thể cứu người nhưng cũng có thể giết người. Phật pháp cũng vậy nếu khéo xử dụng thì có thể giúp chúng sanh lìa khổ, được vui; nếu không biết xử dụng thì Phật dược sẽ trở thành Phật độc
Xem thêm công án 112.

1562.  Quốc sư bao nhiêu tuổi?
Quốc sư Huệ Trung họ Vệ, người Chi Giang, Kinh Châu, đắc pháp nơi ngũ Tổ Hoàng Mai. Tùy Dạng Đế, Đường Cao Tông đều hạ chiếu vời sư, nhưng sư không tới. Đến thời Võ hậu dùng sư lễ thỉnh, sư mới về kinh. Một hôm, Võ hậu thưa:
- Thiền sư bao nhiêu tuổi?
- Không nhớ.
- Tại sao lại không nhớ?
- Cái thân sanh tử tuần hoàn này chẳng biết khởi từ đâu, tận lúc nào, nhớ làm gì? Huống chi tâm này trôi hoài liên tục không gián cách, thấy vọng tưởng khởi diệt như bọt nước có đó rồi mất đó. Từ thức ban đầu đến động diệt tướng đều như vậy, biết năm tháng nào mà nhớ.
(Thiền tông đích lịch sử dữ văn hóa)
Võ hậu nghe rồi, cúi đầu tin nhận.

1563.  Con tên Huệ Nhiên.
Ngưỡng Sơn Huệ Tịch hỏi Tam Thánh Huệ Nhiên:
- Ngươi tên chi?
- Huệ Tịch.
- Huệ Tịch là tên lão nạp.
- Vậy sao, con tên Huệ Nhiên.
Ngưỡng Sơn ha hả cười lớn.
(Thiền thú 60)
Đối với thiền giả đã chứng ngộ, tâm không còn vấn đề nào tồn tại. Chú ý, khai ngộ không phải là kiếm được tất cả mọi đáp án, mà là tất cả mọi vấn đề đều biến mất không còn hình bóng.
- Ngươi tên chi?
Xin lỗi, đây không phải là vấn đề, nhưng thầy đã hỏi con tùy tiện mà đáp:
- Con tên Huệ Tịch.
Cái gì? ngươi nói Huệ Tịch là tên ngươi, vậy ngươi bảo ta đã đoạt tên ngươi sao? Nếu vậy ta không lấy nữa, nhường tên này cho ngươi.
- Vậy sao, con tên Huệ Nhiên.
Đã vậy, con tên Huệ Nhiên, nhiều người cũng gọi con vậy. Dù thầy có gọi con là chó con, mèo con, rùa đen, heo mập con cũng không phản đối. Thực ra, thầy gọi con là gì đối với con vô quan, ngay chính con cũng còn chưa tìm thấy con, còn ngại gì thầy đặt tên.
Xem thêm công án 51.

1564.  Trộm quả.
Có ông tăng mới đến tham học, vừa lễ xong Trần Tôn Túc hét lên:
- Xà lê, sao ngươi lại ăn trộm quả của thường trú.
- Con vừa tới, sao hòa thượng lại bảo con ăn trộm quả?
- Lại còn nói, tang vật rành rành.
(Thiền thú 60)
Rõ ràng là ông tăng không ăn trộm quả, nhưng Trần Tôn Túc gán một chuyện không có lên mình ông tăng là có thâm ý. Người thế gian coi mọi sự việc hư ảo: danh lợi, khoái lạc, thống khổ, v . v. là có thật. Xin hỏi tự biết mình không ăn trộm vì sao phải phân biện?
Thứ nhất là ông chấp ngã. Ngã bị ngộ nhận phải giải thích.
Thứ hai: ông thấy bị ngộ nhận là không tốt, không vui, ngã không thích cảm giác này.
Thứ ba: ông cho sự chỉ trích của trần Tôn Túc là thật nếu ông không giải thích thì bị mang danh ăn trộm.
Chỉ một câu nói, Trần Tôn Túc đã làm ông tăng lộ nguyên hình. Đợi ông nói xong, Trần Tôn Túc bảo: Tang vật rành rành, ý nói ngươi chưa giác ngộ, không đánh mà khai. Chắc ông tăng sau lần tham học này sẽ khắc cốt ghi tâm cảnh giác tự ngã. Sẽ có một ngày ông thấy rõ, lúc đó ông sẽ lớn tiếng:
- Đúng rồi, con là trộm, trộm quả để ăn.
Xem thêm công án 636.

1565.  Bí mật nơi ngươi.
Minh thượng tọa sau khi được Lục tổ khai thị, mồ hôi ra cùng mình, khóc lạy thưa rằng:
- Ngoài thiền môn tâm pháp này còn mật ý gì nữa không?
- Hôm nay ta nói cho ông thì chẳng phải là mật, ông tự phản chiếu tự tâm thì mật ở nơi ông.
(Thiền thú 60)
Đạo Minh lúc khai ngộ, toàn thân xuất mồ hôi. Đó là một sự kiện đáng lưu ý. Thân và tâm có quan hệ mật thiết, một thể lưỡng diện. Tâm khai ngộ là một sự kiện kinh thiên động địa, thân không thể không phản ứng. Nếu một người nói mình đã khai ngộ mà thân không có chút phản ứng thì đó chỉ là ý thức lướt qua, chưa hẳn là hoàn toàn khai ngộ, cần tinh tiến thêm. Như lời Lục tổ nói hãy tự phản quán tự tâm, tất cả ảo bí đều ở trong đó.

1566.  Đường Thạch Đầu trơn.
Đặng Ẩn Phong đến tham Thạch Đầu 2 lần. Đến nơi, hỏi tông chỉ của Thạch Đầu là gì? Lần thứ nhất Thạch đầu ngẩng đầu nhìn trời than:
- Trời xanh!
Lần thứ hai, Thạch Đầu hứ 2 tiếng.
Ẩn Phong không đáp được về trình Mã Tổ, Mã Tổ bảo:
- Ta đã chẳng bảo ngươi đường Thạch đầu trơn lắm sao?
(Thiền thú 60)
Trời xanh dụ cho hư không, chỉ tự tánh. Có một khoảng thời gian thiền gia ưa dùng từ giả tá này. Thạch Đầu dùng từ này lần đầu rất hoàn mỹ, nhưng nếu dùng lại lần thứ hai thì sẽ là chấp tướng. Do đó lần thứ hai Thạch Đầu không dùng mà chỉ hứ hai tiếng. Tiếng hứ vô nghĩa nhưng đồng âm với Hư nên cũng chỉ tự tánh.
Ẩn Phong sau hai lần thất bại này, trở về cố gắng tu tập, sau trở thành một vị thiền sư nổi tiếng.
Xem thêm công án 1019.

1567.  Cây bách trước sân.
Một ông tăng hỏi Triệu Châu:
- Thế nào là ý Tổ sư từ Tây sang?
- Cây bách trước sân
(Thiền phong để diễn biến)
Tại sao hỏi “ý Tây sang” mà lại đáp “cây bách trướic sân”? Câu đáp là toàn bộ pháp, cưa không được, cắn không đứt, có thể giải thích cho rõ không? Có thể. Cổ nhân không chịu giải thích vì cái đó đã hiện thành. Nếu hiểu đem Phật pháp nhân cách hóa thì không cần phải giải thích, đã không nghi thì sẽ không tái nghi. Có một chuyện cũ có thể giải thích công án cây bách trước sân. Đời Tống, có một lần một vị quan Đề Hình đến hỏi Phật pháp với ngũ tổ Diễn. Ngũ tổ Diễn hỏi:
- Đề Hình có đọc qua hai câu thơ Tiểu Diễm không?
- Là hai câu nào?
- Là hai câu này:
Cô nàng gọi mãi những vô ích
Chỉ thằng tốt mã nghe ra thôi.
Xem công án 293.
Thơ Tiểu diễm là một bài thơ tình, kể chuyện có một vị tiểu thư dắt một con a hoàn đi xem hội. Tiểu thư liếc thấy người yêu ở gần đó, bèn lớn tiếng gọi:
- Tiểu Ngọc! Tiểu Ngọc!
- Tiểu thư, có chuyện gì?
Tiểu thư không đáp. Có chuyện gì vậy? Chả có chuyện gì cả, chỉ là tiểu thư hy vọng tình lang nghe được tiếng và biết nàng đang ở đó. Chỉ là vậy thôi. Nếu còn chưa rõ thì xin kể thêm một chuyện nữa. Có một vị thiền sư mỗi lần giảng pháp xong, sắp bước xuống tòa giảng đều hỏi:
- Mọi người hiểu không?
Mọi người đều không trả lời, chỉ rằng không hiểu. Thiền sư gõ xuống bàn “cạch’ một tiếng. Tiếng “cạch’ đó và “cây bách trước sân” hoàn toàn giống nhau, chỉ là một loại âm thanh mà thôi.
Xem thêm công án 246.

1568.  Cưỡi lừa không chịu xuống.
Xưa có một ông tăng cưỡi lừa, hỏi chư tăng đi đâu? Chư tăng đáp:
- Tới đạo trường.
- Chỗ nào chẳng là đạo trường!
Chư tăng xúm lại đánh và mắng:
- Gã này chẳng có đạo lý gì cả, tới đạo trường mà còn cưỡi lừa.
(Thiền thú 60)
Chư tăng đánh ông tăng đó vì ông nói chỗ nào cũng là đạo trường còn đi đâu chứ. Nói vậy thì ngươi đang ở đạo trường mà còn cưỡi lừa là không lễ phép gì cả, đáng đánh. Cao thâm hơn thì là ông tăng cưỡi lừa biết cách cưỡi và cũng biết cách xuống; dùng đôi chân của mình mà đi. Đã biết chỗ nào cũng là đạo trường thì nơi chư tăng đến cũng là đạo trường; lời chẳng khế hợp với pháp. Cưỡi lừa không chịu xuống hình dung một người đối với một sự việc tốt nhưng vì chấp trước đã biến tốt thành xấu. Tỷ dụ như muốn thành tựu, bất kể là học nghiệp hay sự nghiệp, tự mình cố gắng đạt tới thành công, nhưng thành công rồi lại tự cao, tự đại. Đó là cưỡi lừa mà không chịu xuống. Đối với người tu đó là tình trạng tương đương ngộ cảnh không chịu ra khỏi. Vào được mà ra không được để phát huy đại cơ, đại dụng, không thể tiến lên cao hơn, đối với chúng sanh vô ích.

1569.  Hớp một ngụm cạn hết nước Tây Giang.
Bàng Uẩn hỏi Mã Tổ:
- Ai là người không cùng vạn pháp là bạn?
- Đợi ngươi hớp một ngụm cạn hết nước Tây Giang ta sẽ bảo.
(Thiền thú 60)
Câu trả lời của Mã Tổ có nghĩa là tự tánh không thể dùng lời mà nói được. Nhưng nói thẳng ra như thế thì không thú vị, không làm chấn động người nghe; phải nói như Mã Tổ mới có sức mạnh lôi cuốn. Xét kỹ thì một hớp cạn nước tây Giang không phải là không thể làm được vì Phật pháp có giảng hạt cải đựng núi Tu Di, đả phá sự chấp trước không gian có to, nhỏ của con người. Lục tổ cũng có nói ngờ đâu tự tánh vốn tự đầy đủ, có thề sinh ra vạn pháp. Tự tánh khi nhỏ thì không có gì ở trong, khi lớn thì không có gì ở ngoài nó. Sơn hà đại địa đều ở trong tự tánh. Do đó hớp một ngụm cạn hết nước tây Giang thì cũng chẳng có gì là lạ. Câu nói của Mã Tổ xét về phương diện phủ định thì tự tánh không thể dùng lời để diễn tả được, xét về phương diện khẳng định thì tự tánh là chân lý tuyệt đối không có lớn nhỏ sai biệt. Nhưng điều trọng yếu ở đây là câu nói của Mã Tổ  như ngón tay chỉ cho Bàng Uẩn thấy mặt trăng. Câu nói hợp thời, hợp chỗ khiến Bàng Uẩn khai ngộ. Nếu đem câu nói này dùng như một khẩu quyết khai ngộ đưa cho người khác ở chỗ khác, lúc khác thì chưa chắc đã làm cho họ giác ngộ. Thời tiết, nhân duyên là xử dụng đúng lúc, đúng sự, đúng lời, là kỹ năng cơ bản của thiền sư.
Xem thêm công án 988.

1570.  Vừa rồi là khóc, bây giờ lại cười.
Bách Trượng bị Mã Tổ bóp mũi trở về liêu phòng buông tiếng khóc lớn. bạn đồng môn hỏi có phải nhớ nhà hay bị ai mắng chửi gì không mà lại khóc. Bách Trượng bảo:
- Ta bị sư phụ bóp mũi đau quá.
- Giữa hai thầy trò có chuyện gì vậy?
- Ngươi đi mà hỏi sư phụ.
Ông tăng đi hỏi Mã Tổ, Mã Tổ bảo:
- Hắn biết mà, đi hỏi hắn sao lại hỏi ta?
Ông tăng trở lại kể cho Bách trượng. Bách Trượng cười ha hả. Ông tăng không hiểu hỏi:
- Vừa mới khóc, sao giờ lại cười?
- Vừa rồi là khóc, bây giờ là cười!
(Thiền thú 60)
Người vừa mới ngộ, khóc lớn là hiện tượng bình thường. Các nghi hoặc tích lũy áp chế giờ tiêu tan như sương buổi sớm. Lại có người sau khi ngộ lại cười như điên. Phương pháp tốt nhất là sau đó ngủ một giấc, tỉnh dậy nếu thấy ngộ kiến không còn thì đó là  giả ngộ, qua rồi thì thôi, không vì quá vui mà phát cuồng là tốt rồi; Chỉ cần còn núi xanh thì không sợ thiếu củi đốt. Nếu ngộ kiến còn thì đó là chân chánh khai ngộ. Đồng môn hỏi sao vừa mới khóc giờ lại cười? Bách trượng nói:
- Vừa rồi là khóc, bây giờ là cười!
Đó là câu hỏi vì câu hỏi., là câu trả lời tốt nhất. Nếu ông  tăng cảnh tỉnh thì ngay đó có thể khai ngộ. Thiền sư không phải là không có hỷ, nộ, ai, cụ mà là tình cảm đơn thuần, đến thì đến, đi thì đi do đó khóc rồi liền cười, không như người thường khóc rồi phải một thời gian sầu thảm không thể lập tức cười ngay được.
Tiến thêm một bước nữa, đau thì khóc, vui thì cười, tất cả đều tự nhiên không bị tập tục, lễ tiết, kinh nghiệm làm ô nhiễm chỉ là bình thường tâm là Đạo, đơn giản như vậy thôi.
Xem thêm công án 615.

1571.  Không phải, không phải, đều không phải.
Có ông tăng tham Đại Huệ Tông cảo, vừa bước vào phòng Đại Huệ bèn thét:
- Không phải! Đi ra!
Ông tăng nghe lời đi ra, Đại Huệ nói thêm:
- Thật là tên tiểu tử không có khí lượng, vì một câu nói đã bị người đuổi ra, là nô tài cho ngôn ngữ.
Ông tăng thứ nhì bước vô phòng:
- Không phải! Đi ra!
Ông tăng này rút kinh nghiệm từ ông tăng trước, không đi ra mà tiến lại gần Đại Huệ.
- Đã nói với ngươi không phải rồi, còn đến gần ta cầu gì?
Bèn giơ gậy lên đánh đuổi ra.
Ông tăng thứ ba biết chuyện hai ông tăng trên vừa bước vào phòng đã chủ động nói ngay:
- Hai ông tăng vừa rồi không rõ ý sư phụ.
Đại Huệ đổi chiêu thức mới, cúi đầu hư một tiếng. Ô ng tăng không biết nói sao. Đại Huệ lại giơ gậy vừa đánh vừa bảo:
- Ngươi còn nói ngươi rõ ý ta.
(Thiền thú 60)
Người ta hướng ông cầu đạo ông mắng đuổi ra, đánh đuổi ra, ông có từ bi không? Chính những hành động này biểu thị thủ đoạn cao minh, từ bi của tông cảo. Thiền không phải là nhét cho đầy não một số giáo tài cho thiền sinh là có thể cho họ tốt nghiệp. Thiền sư yêu cầu thiền sinh phải có tâm nhẫn nại. Chờ tới khi thiền sinh đã chuẩn bị đầy đủ rồi thiền sư mới châm ngòi dẫn hỏa. Một điều nữa là phải đợi đúng thời cơ, nếu ra tay sớm quá sẽ không có công hiệu. Trong công án trên chúng ta có thể thấy thủ đoạn linh hoạt của Đại Huệ Tông cảo. Khi thời cơ của thiền sinh chưa tới thì không cần phải nói nhiều. Điều cần yếu là gieo cho họ một chủng tử nghi tình, làm lay động nhận thức cương ngạnh của họ, đợi tới đúng lúc sẽ ra tay hành động.

1572.  Vịt trời bay đi rồi.
Bách Trượng là thị giả của Mã Tổ, một hôm cùng tản bộ với Mã Tổ, thấy một bầy vịt trời bay qua, Mã Tổ hỏi:
- Là con gì?
- Vịt trời.
- Bay đi đâu?
- Bay đi rồi.
Mã Tổ bỗng nhiên bóp mũi Bách Trượng. Bách Trượng bị đau kêu lên một tiếng.
- Ngươi còn nói bay qua rồi!
Bách Trượng lập tức khai ngộ.
(Thiền thú 60)
Đối với thiền sư mà nói không đâu không là thiền, trong bất cứ hoàn cảnh nào, trước một cảnh vật nào thiền sư cũng có thể chỉ thị thiền tâm cho đệ tử. Tương tự như tiểu thuyết kiếm hiệp, một đại kiếm sư không cần có kiếm trong tay, chỉ với một cọng cỏ cũng có thể lấy đầu kẻ địch giữa chốn thiên binh vạn mã. Mã Tổ há lại không biết vịt trời sao? Bách Trượng thiếu cảnh giác. Mã Tổ đã rút thiền kiếm ra rồi mà ông còn đáp là vịt trời, ngay thiền cơ cũng không biết. Nếu là pháp chiến Bách Trượng đã bị kiếm xuyên tâm rồi. Mã Tổ cầm sát nhân kiếm chính là muốn giết đi những chấp trước của đệ tử, khiến ông khai ngộ. Nhát kiếm của Mã Tổ như hư như thật; nếu như đối phương phản ứng lại thiền cơ. Mã Tổ sẽ cười lớn, chấp nhận ông có cơ cảnh thấy chiêu chiết chiêu. Mã Tổ lại đưa ra chiêu mới.
- Bay đi đâu?
- Bay đi rồi!
Đối với hiện tượng giới câu đáp của bách trượng là đúng. Nhưng câu hỏi của Mã Tổ hàm 2 ý: một là hỏi về hiện tượng, một là hỏi về bản thể. Vịt trời tượng trưng cho Phật tánh. Phật tánh lại bay tới bay đi ư?
Không, Phật tánh là như như bất động, nhưng vì người thường chấp vào hiện tượng nên đánh mất bản tánh. Câu hỏi của Mã Tổ có ý là Phật tánh đi đâu? nếu Bách Trượng đáp:
- Con ở đây.
Thì cũng đúng được 60%, nhưng còn chấp vào Văn tự. Nhưng nếu Bách Trượng lợi hại hơn, im lặng không nói chỉ nhìn Mã Tổ thì đạt được 70%. Nếu Bách Trượng lợi hại hơn nữa giơ tay đánh mã Tổ một đấm thì đó là tiên hạ thủ vi cường đạt được 80%, là kiến địa, là có khí phách. Đáng tiếc, lúc đó Bách Trượng còn chưa khai ngộ. Mã Tổ đột nhiên biến chiêu, bóp mũi Bách Trượng. Bị đau Bách Trượng tức khắc cảm thụ sự tồn tại của chính mình. Lúc đó Mã Tổ nói:
- Ngươi còn nói vịt trời bay đi rồi!
Ý nói Phật tánh chính ở đây, do đó ngươi mới cảm thấy đau.
Xem thêm công án 1041.

1573.  Thiền sư vô tình vô nghĩa.
Giản thiền sư lúc chưa khai ngộ. Có một lần ở bờ sông, trông sang bờ bên kia thấy Đức Sơn Tuyên Giám. Giản thiền sư chắp hai tay lại hướng Đức Sơn chào:
- Thiền sư mạnh giỏi!
Đức Sơn đang cầm một cái quạt trong tay, bèn giơ quạt lên vẫy vẫy. Giản thiền sư hốt nhiên khai ngộ, bèn xoay mình đi, cũng không ngoảnh đầu lại nhìn Đức Sơn một cái.
(Thiền thú 60)
Chuyện khai ngộ này thật thần kỳ khôn lường, giống như võ hiệp tiểu thuyết kể những võ công kỳ lạ. Cách một con sông, Đức Sơn chỉ giơ quạt vẫy vẫy khiến Giản thiền sư khai ngộ là sao? Thích Ca giơ cành hoa lên, Ca Diếp mỉm cười’ Mã Tổ bốn chữ tức tâm, tức Phật làm Đại Mai khai ngộ. Đó chẳng phải cũng thần kỳ sao? Nếu chúng ta giơ cành hoa lên, vẫy vẫy quạt, nói tức tâm, tức Phật để khai thị mọi người, nếu không bị mọi người gọi là điên thì cũng là may lắm rồi còn nói chi đến việc giúp mọi người khai ngộ. Câu nói tức tâm, tức Phật là một câu nói có công hiệu trác việt khi mọi người chưa biết đến nó, nó có một sức sống mới mẻ, mạnh mẽ, lại thêm sự quan sát giỏi của Mã Tổ về căn khí và thời tiết nhân duyên của đệ tử khiến nó trở thành phương tiện thù thắng. Nhưng khi nó trở thành tri thức phổ biến thì nó đã mất đi sô lực đặc biệt của nó. Các thiền sư cao minh không có một khẩu quyết bất biến, mà có thể từ những bình phàm hoặc những câu nói thông thường chuyển thành có ý nghĩa đặc biệt đối với đối tượng. nếu chấp có một khẩu quyết vạn năng có thể trị bất cứ bệnh gì, bất cứ Trương tam, Lý Tứ nào cũng giơ một ngón tay thiền lên thì chỉ là một thiền sư mù. Đức Sơn Tuyên Giám giỏi quan sát đệ tử, do đó chỉ vẫy quạt đã làm Giản thiền sư khai ngộ. Hành động này chỉ hữu dụng lúc đó, chỗ đó, người đó. Nếu tái sử dụng sẽ không có hiệu quả. Trong công án này Giản thiền sư khai ngộ rồi, xoay mình mà đi, không thèm ngó lại. Đối với người thường mà nói thật là vô tình, vô nghĩa, ngay một tiếng cám ơn cũng không có. Sai! Giữa thiền sư với nhau, những nghi thức thế tục có cũng tốt, không có cũng không sao. Hai người không có tri tâm, có đa lễ cũng chẳng ích lợi gì. Giản thiền sư xoay mình mà đi là chân chính báo đáp ơn khai ngộ của Đức Sơn vậy.

1574. Đều là hý luận.
Có vị ngoại đạo lại tham vấn Thế Tôn:
- Mọi sự tình đều là vĩnh hằng có phải không?
Thế Tôn im lặng.
- Vậy, mọi sự tình đều không vĩnh hằng có phải không?
Thế Tôn vẫn im lặng.
- Thế Tôn, ngài là bậc giác ngộ, chuyện gì ngài cũng biết, sao ngài không trả lời con?
- Vấn đề của ông toàn là hý luận, bảo tôi làm sao trả lời.
(Thiền thú 60)
Người đời không biết những lo lắng đều xuất phát từ vọng tưởng. Thường và vô thường là vấn đề hình nhi thượng. Đức Phật nhận rằng chỉ lo suy tư về hình nhi thượng thì đối với phiền não, thống khổ chẳng có ích lợi gì, hơn nữa đắm mình vào hình nhi thượng cũng là phiền não, thống khổ. Các pháp vốn không thường và vô thường; các pháp chỉ theo bản lai diện mục triển hiện trung thực. Nhưng con người khi nhận thức các pháp thường dùng thường và vô thường, lời nói, khái niệm gán vào, khiến nhân loại chỉ nhận thức lời nói, khái niệm đã tự cách biệt với bản lai diện mục.
Thế Tôn đối với loại vấn đề này im lặng không nói; kỳ thực ngài chỉ rất rõ ràng: hãy rời bỏ ngôn ngữ, khái niệm, trở về lúc nhân loại chưa có ngôn ngữ, khái nghiệm thì sẽ rõ không cần hỏi ta những hý luận trong không mà có. Đáng tiếc vị ngoại đạo không hiểu ý không lời của Thế Tôn, lại còn gắng hỏi: 
- Vì sao ngài không trả lời con?
- Vì câu ông hỏi chỉ là hý luận.
Con người sống trong hý luận, từ nhỏ đã học nói “ngã” là hý luận thứ nhất. Từ đó trên tất cả mọi sự vật đều an lập ngôn ngữ, như thêm nước vào cho cá nhưng cá không biết, như không biết tên loài hoa X nhưng bạn vẫn ngửi được mùi thơm của nó, không phải sao?

1575. Cách tiếp khách của Triệu Châu.
Một hôm Chân Định Súy Vương đến thăm, Triệu Châu ngồi yên trên thiền sàng hỏi:
Đại Vương hiểu không?
- Không hiểu.
- Lão nạp tử nhỏ ăn chay, nay không còn khí lực xuống thiền sàng.
Vương càng kính trọng. Hôm sau Vương sai một vị tướng quân đến truyền lời hỏi thăm. Triệu Châu xuống thiền sàng tiếp.
Thị giả hỏi:
- Hôm qua, Hòa thượng thấy Đại vương đến, không xuống thiền sàng, hôm nay tướng quân đến, tại sao lại xuống thiền sàng?
- Ngươi không biết đâu!Đệ nhất đẳng nhân đến,ta ở thiền sàng tiếp. Trung đẳng nhân đến, ta xuống thiền sàng tiếp. Mạt đẳng nhân đến, ta ra tận ngoài tam quan tiếp.
(Thiền thú 60)
Chân Định Súy Vương là huynh đệ của Hoàng đế, là một nhân vật cao quý, là mục tiêu cho nhiều người nịnh hót. Nhưng Triệu Châu vẫn lạnh lùng ngồi trên thiền sàng hỏi Vương có hiểu tại sao mình không xuống thiền sàng không? Chư pháp bất động, không đến không đi, không đi không đến, không trên không dưới. Đó là giáo huấn không lời của Triệu Châu. Đáng tiếc ý nghĩa quá cao, do đó Súy Vương không hiểu, do đó Triệu Châu phải hạ thấp xuống một tầng để Súy Vương hiểu. Đối với một người có địa vị cao như Súy Vương quen được mọi người kính trọng; Triệu Châu vì lòng từ bi đối đãi ngược lại mong chấn động được đối phương. Súy Vương đến cầu giáo, nên Triệu Châu chỉ Đạo. Tướng quân đến để truyền lời, nên Triệu Châu lấy lễ mà tiếp. Cuối cùng, Triệu Châu nói người hạ đẳng đến thì ra tận ngoài tam quan tiếp, chỉ là khôi hài.
Xem tiếp công án 481.

1576.  Một sợi cũng không.
Tĩnh Cư Ni Huyền Cơ tham Tuyết Phong. Phong hỏi:
- Từ đâu tới?
- Đại Nhật Sơn.
- Mặt trời đã mọc chưa?
- Nếu mọc đã tan tuyết núi.
- Cô tên chi?
- Huyền Cơ.
- Một ngày dệt được bao nhiêu?
- Một sợi cũng không.
Huyền Cơ lạy rồi ra, đi được ba bước Tuyết Phong bảo:
- Cà sa của cô lê đất kìa?
Huyền Cơ quay đầu lại nhìn, Tuyết Phong nói:
- Tốt lắm! Một sợi cũng không.
(Thiền thú 60)
Tuyết Phong trong công án này không phải là Tuyết Phong Nghĩa Tồn, lai lịch của ông còn chưa rõ, Huyền Cơ theo truyền thuyết là nữ đệ tử của Vĩnh Gia Huyền Giác. Tuyết Phong nhân Huyền Cơ ở núi Đại Nhật đến nên dùng lối chơi chữ mà hỏi:
- Mặt trời đã mọc chưa?
hàm ý đã thấy Phật tánh chưa?
Tĩnh cư ni đáp:
- Nếu mọc sẽ làm tan tuyết núi.
Câu đáp rất mẫn tiệp. Cô cũng dùng lối chơi chữ mà đáp lại vì tuyết núi là tên của Tuyết Phong, nên cô đã chiếm được thượng phong mặc dù hơi kiêu ngạo. Tuyết Phong lại dùng tên cô Huyền Cơ (máy dệt) để hỏi:
- Một ngày dệt được bao nhiêu?
là hỏi công phu của cô thế nào?
- Một sợi cũng không.
Là câu trả lời tuyệt diệu, một mũi tên hạ hai điêu, chứng tỏ cô rất có khẩu tài.
Nhưng khi Tuyết Phong bảo áo cô lê đất thì cô ngoảnh lại xem, tỏ rằng tâm cô hãy còn quái ngại không phải một sợi cũng không như lời cô nói.
Xem thêm công án 1069.

1577.  Ta là con lừa.
Tây Mục thượng đường. Một cư sĩ giơ tay nói:
- Hòa thượng là con lừa!
- Lão tăng bị ngươi cưỡi.
Cư sĩ im lặng bỏ đi. Ba hôm sau trở lại thưa:
- Ba hôm trước con làm giặc.
Tây Mục giơ gậy đuổi đi.
(Thiền thú 60)
Ta là con lừa, rồi sao? Nói ta là Hoàng đế, là vĩ nhân có ích lợi gì? Nói ta là tên ti tiện, tội đồ thiên cổ thì có tổn hại gì? Từ bản chất mà nói chư Phật vì chúng sanh cùng một Phật tánh. Từ đức Phật đến con kiến nhỏ cũng bình đẳng. Thiền sư không tham cầu được người khen ngợi. Gọi ta là con lừa, ta thuận nước đẩy thuyền, để ngươi cưỡi, có sao đâu? Con lừa là chỉ vô tâm, vô vi, nhậm vận, tự nhiên; cưỡi lừa là hữu tâm, hữu vi, tạo tác, nhân tạo. Tây Mục dùng gậy đuổi cư sĩ đi là bảo ông hãy giữ mồm, trở về tâm mà phản quán tự tánh.

1578.  Gương cổ của Tuyết Phong.
Tuyết Phong nói:
- Mọi người đều có gương cổ, con khỉ cũng có gương cổ.
Tam Thánh hỏi:
- Lịch kiếp tự tánh vốn vô sanh, sao hòa thượng lại gọi là gương cổ?
- Vì bị bẩn.
- Hòa thượng thoại đầu cũng chẳng biết.
- Tội lỗi! Lão tăng trụ trì bận rộn.
(Thiền thú 60)
Phật tánh không thể dùng lời nói được, thiền sư vì độ người không thể không nói. Không phải là Tuyết Phong không biết thoại đầu mà là từ bi độ chúng sanh. Sự thực Phật tánh không bẩn, sạch để miêu thuật quan niệm siêu việt. Nhưng ở hiện tượng giới Phật tánh của chúng sanh quả thật nhơ bẩn, cần phải lau chùi, như bài kệ của Thần Tú rất ích lợi cho người mới tu. Khi Tuyết Phong bảo:
- Mọi người đều có gương cổ, con khỉ cũng có gương cổ.
chẳng phải là bảo chúng sanh đều bình đẳng sao?

1579.  Chúng sanh vốn là Phật.
Bạch Ẩn nói:
- Chúng sanh vốn là Phật như nước và băng; lìa nước không băng, ngoài chúng sanh không có Phật. Không biết thân cận chúng sanh, tìm chi vô thường ở xa.
(Danh tăng trí tuệ ngữ lục)
Nếu tâm khởi một niệm từ bi, phải chú ý bồi dưỡng nó chẳng hạn như thích tụng kinh, lễ Phật v . v . đó là tác dụng của Phật Tâm. Phật chính ở trong tâm ta.

1580.  Học Phật là học chính mình.
Đạo Nguyên nói:
- Học Phật là học chính mình, học chính mình là quên chính mình, quên chính mình là chứng vạn pháp vậy.
(Danh tăng trí tuệ ngữ lục)
Con người đều có mê hoặc, khi phán đoán thị phi phải làm sao cùng nội tâm phối hợp. Chỉ cần nương Phật tâm chỉ dẫn là ra khỏi đường mê.

1581. Thiền định.
Nga Sơn nói:
- Phật pháp tuy nhiều nhưng không ngoài Giới, Định, Huệ. Người tu giới thiếu định và huệ. Người tu huệ thiếu định và giới. Người tu thiền định đủ cả giới, định, huệ.
(Danh tăng trí huệ ngự lục)
Thế Tôn từ trong thiền định mà lãnh ngộ chân lý, trừ bỏ được mọi tạp niệm. Cho nên tọa thiền là chánh truyền của Thế Tôn, có năng lực phổ độ chúng sanh.

1582. Kho báu nhà mình.
Đại Châu Huệ Hải mới đến Giang Tây tham Mã Tổ. Tổ hỏi:
- Từ đâu tới?
- Từ Việt Châu Đại Vân Tự tới.
- Đến có chuyện gì?
- Đến cầu Phật pháp.
- Ở nhà có kho báu không muốn, lang thang ở ngoài không chịu về nhà, thật là kỳ quái! Nơi đây một vật ta cũng không có, cầu Phật pháp cái gì?
Đại Châu lạy hỏi:
- Cái gì là kho báu của Huệ Hải?
- Nay ngươi hỏi ta là kho báu nhà ngươi, tất cả đều đầy đủ, không thiếu gì, xử dụng tự tại, việc gì hướng ngoại tìm kiếm?
Huệ Hải nghe xong, liền minh bạch Phật tánh, hướng Mã Tổ lễ tạ.
(Thiền thú 60)
Kho báu nhà mình tức là Phật tánh; cái mà Đại Châu muốn tìm chỉ là biết rõ điều này. Một khi thân tự thấy rồi, về sau không còn nghi hoặc nữa. Đó là kiến tánh. Đại Châu khi mới gập Mã Tổ không lạy, biểu thị chưa chấp nhận Mã Tổ cho đến khi Mã Tổ nói về kho báu nhà mình; Đại Châu biết là Mã Tổ đã nói đến trọng điểm, liền quỳ ngay xuống, lạy xin chỉ giáo. Cái lạy này không phải ai cũng tùy tiện nhận được. Tiếp được phải có bảo cụ để truyền. Con người giống như một phú ông có tiền của dấu ở một nơi nào đó mà không biết, trong tay không có một xu. Khi khai ngộ là thấy được của dấu, biết mình là phú ông.

1583.  Núi Tu Di.
Một hôm, một ông tăng hỏi Vân Môn:
- Khi không nghĩ, có sai lầm không?
- Núi Tu Di.
- Đã nói không nghĩ, thầy còn thêm núi Tu Di vào làm gì?
- Bỏ cả xuống!
- Đã không nghĩ, làm sao bỏ xuống?
- Vậy hãy nhấc lên và mang đi!
(Thế giới nhất hoa)
Con chó sủa gâu gâu, con gà gáy tẻ tè te, con mèo gừ meo meo. Mọi con vật đều hiểu đúng tiếng của chúng. Tiếng nói đúng của ngươi là gì?
Mở miệng ra là đã sai rồi; ngậm miệng lại cũng sai nữa. Ngươi có thể làm được gì? nếu ngươi giữ im  lặng Vân Môn sẽ đánh ngươi 30 gậy. ngươi nói gì? nếu bỏ cả xuống, thì tất cả đều thuộc về ngươi.

1584.  Vô ngại.
Một hôm, một ni cô đến tham thiền sư Sùng Sơn, hỏi:
- Thế nào là pháp?
- Vô ngại.
- Vô ngại nghĩa là sao?
- Tại sao ngươi mặc quần áo?
Ni cô cởi truồng đi ra.
(Thế giới nhất hoa)
Cái cây hiểu công việc của cây; dòng nước hiểu công việc của nước. Công việc của thiền sư, của ni cô là gì? nếu chấp vào lời ngươi sẽ vào địa ngục nhanh như tên, nếu tiêu hóa lời ngươi sẽ giết hết chư Phật, Bồ tát. Ngươi chọn cách nào? Bỏ cả xuống, ra tiệm và uống trà đá.

1585.  Ngươi cần chi?
Phật dạy tất cả các pháp để độ tất cả tâm, khi không giữ tất cả tâm, đâu cần tất cả pháp?
(Thế giới nhất hoa)
Tâm sanh, pháp diệt. Khi pháp hiện thì yêu thích chán ghét, đến đi, sống chết đều xuất hiện. Khi tâm diệt thì tất cả đều diệt, lời nói chữ viết cũng đều diệt. Mở miệng ra là một sự sai lầm lớn. ngươi có thể làm gì? Bỏ cả xuống! Đừng cắn câu. Khi đói chỉ ăn, khi khát chỉ uống.

1586.  Thế giới nhất hoa.
Đây là một tuyển tập gồm 365 công án của thiền sư Sùng Sơn người Đại hàn. Trong tập này có nhiều công án chúng tôi đã dịch, chúng tôi không lập lại, chỉ dịch phần bình luận:

1- Ngày nào cũng tốt. (Xem công án 982)
Thời gian qua như một mũi tên. Nghĩ thì hôm qua, hôm nay hiển hiện, không nghĩ thì mọi ngày đều biến mất. Hôm nay trời tốt hay xấu? Nhìn lên bầu trời mãi mãi xanh.

2- Phật mặt trời, Phật mặt trăng. (Xem công án 986)
Đầu hướng trời, hai mặt (mặt trời, mặt trăng) hướng đất. Xuân đến muôn hoa nở. Đông sang tuyết rơi nhiều. Trẻ con thích lửa ấm.

3- Vòng tròn của Tư Phúc (Xem công án 168)
Trái đất xoay quanh trục của nó và xoay quanh mặt trời. Xuân, hạ, thu, đông cũng xoay vần; ngươi được gì? Bỏ xuống! Chỉ nhìn, nghe, làm.

4- Lông mày Thúy Nham (Xem công án 127)
Gương sáng không có thích hay không thích. Đỏ đến đỏ hiện, trắng đến trắng hiện. Đừng dùng mồm, hãy dùng gương.

5- Không chỉ một đường (Xem công án 984)
Khuôn mặt xưa nay của Triệu Châu hiển hiện rõ ràng nhưng không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân. Cái nào là Triệu Châu thật? Nếu muốn hiểu Triệu Châu thật hãy đi hỏi cây tùng.

6- Chẳng nhầm nhân quả (Xem công án 1071)
Ai có thể điều khiển được người có 3 đầu, 7 chân? Nếu ngươi có một cái mồm, ngươi không điều khiển được hắn. Nếu ngươi có thể tìm thấy một cái sừng thỏ thì họa may.

7- Con chó không có Phật tánh (Xem công án 1020)
Im thì tốt hơn là thiêng. Khi mở mồm, ngươi đã làm một sự sai lầm lớn, nhưng dùng sự sai lầm này để độ chúng sanh thì đó là thiền.

8- Một ngón tay thiền (Xem công án 1078)
Ai có thể điều khiển con rắn có chân mang vớ? Nếu ngươi không có ngón tay, ngươi có thể điều khiển nó.

9- Rợ Hồ không râu (Xem công án 115)
Ba năm sau khi mất, Đạt Ma trở về Tây phương đem theo cây gậy và một chiếc dép. Ông không chết bao giờ. Bây giờ ông ở đâu? Coi chừng bước chân.

10- Niêm hoa vi tiếu (Xem công án 1183)
Hoa mỉm cười, mặt Phật đỏ.

11- Triệu Châu rửa bát (Xem công án 1073)
Điểm tâm vào buổi sáng, ăn trưa vào buổi trưa, ăn cơm chiều vào buổi chiều. Sau bữa cơm, ngươi có biết công việc của mình không? Vậy hãy làm đi.

12- Hề Trọng làm xe (Xem công án 192)
Trên vòm trời rộng mây hiện và biến. Mọi sự đều đã rõ ràng.

13- Phật Đại Thông Trí Thắng (Xem công án 193)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Mọi chúng sanh đều có Phật tánh. Do đó mọi vật đều đã là Phật. Nếu một người muốn trở thành Phật thì đã sai lầm lớn rồi. hãy cẩn thận.

14- Thanh thoát cô bần (Xem công án 154)
Con chó đã ăn tâm thanh thoát, chạy vòng vòng Đông rồi Tây.

15- Triệu Châu khám phá am chủ (Xem công án 195)
Hai am chủ giết Triệu Châu và nhét thân ông vào hũ rượu.

16- Đức Sơn bưng bát (Xem công án 196)
Ba con chó nối đuôi chạy vòng đuổi nhau, đánh hơi tìm thức ăn.

17- Nghe tiếng chuông mặc áo thất điều (Xem công án 197)
Tâm ngươi và thế giới này, cái nào lớn hơn? Mở mồm ngươi không tìm thấy hướng, ngậm mồm mất luôn hướng. Nghe tiếng chuông hãy đến pháp đường.

18- Ba lần gọi của Quốc sư (Xem công án 198)
Nội thương cháu, cháu chịu nội chỉ vì muốn ăn kẹo.

19- Ba cân gai (Xem công án 124)
Lầm lớn! Lầm lớn! Động Sơn không hiểu 3 cân gai, nhưng 3 cân gai hiểu mắt Động Sơn.

20- Tâm bình thường là Đạo (Xem công án 1085)
Không ăn 3 ngày ngươi chỉ muốn thực phẩm. Đi trong sa mạc ngươi chỉ muốn nước. Đứa bé khóc vòi mẹ. Mọi việc đều rõ ràng: trên trời nhiều sao, trên núi nhiều cây.

21- Đại lực sĩ (Xem công án 209)
Người ăn quá nhiều, phải tập luyện. Nếu ngươi khát, tìm một cái giếng, nếu mệt hãy đi ngủ.

22- Que cứt khô (xem công án 199)
Vân Môn thối mồm, ngươi làm sao cho hết mùi? dẫn ông ta vào phòng tắm và súc miệng cho ông.

23- Hạ cây phướn xuống (Xem công án 104)
Trời không mây nhưng sét đánh cột cờ. Ca Diếp và A Nan đều thất nghiệp.

24- Chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác (Xem công án 1024)
Lục tổ có 2 mắt, Huệ Minh có 2 tai. Mỗi người có một mồm. Họ cùng thấy, nghe nhưng lời thì khác. Một người đi về Bắc, một người đi về Nam.

25- Lìa ngôn ngữ (Xem công án 200)
Mở mồm ngươi không có lưỡi, mở mắt ngươi không có con ngươi. Làm sao giải quyết? Ngươi phải đi Giang Nam và hỏi chim Chá Cô.

26- Đệ tam tọa nói pháp (Xem công án 203)
Thế giới này và cuộc sống con người như một giấc mộng. Hai người nói về giấc mộng. Khi nào họ tỉnh? 3 giờ sáng, ở ngoài nhà gà gáy tẻ tẻ te.

27- Một được, một mất (xem công án 202)
Hành động của 2 ông tăng rất rõ. Lời Pháp Nhãn là một sai lầm lớn. Ngươi làm sao sửa lại? Ngươi có biết tuổi của Pháp Nhãn không? Đi mà hỏi cây tùng trước chùa.

28- Long Đàm thổi tắt đèn.
Thiên nhiên đã dạy chúng ta nhiều việc, tại sao ngươi cần các bộ kinh? Nếu ngươi đạt khuôn mặt xưa nay, ngươi sẽ ném hết kinh Phật vào lửa; rồi thế giới của ngươi sẽ vẹn toàn.

29- Tâm động. (Xem công án 85)
2 ông tăng không có vấn đề gì cả. Lục tổ đã phạm một sai lầm lớn vì một lần tổ nói “Vốn không một vật”. Vậy tâm ở đâu? Gió và cờ có thể điều khiển 2 ông tăng nhưng tâm điều khiển Lục tổ.

30- Tâm là Phật (Xem công án 245)
Không Mã Tổ, không Đại Mai, không Phật, không tâm, rồi sao? Ngươi có thấy trời, cây? Ngươi đã hiểu rồi. Bỏ cả xuống.

31- Triệu Châu khám phá lão bà. (Xem công án 111)
Triệu Châu có mắt, tai, mũi, lưỡi và thân nhưng ông không có xương. Làm sao ông từ Ngũ Đài Sơn xuống lại trở về Ngũ Đài Sơn? Lão bà không có mắt, không mồm, không tay làm sao bà chỉ đường đến Ngũ Đài Sơn? Thật là buồn cười ghê ha! ha! ha!

32- Ngoại đạo hỏi Phật (Xem công án 147)
Cây, nước, đất, trời không lời nhưng chúng dạy chúng ta trọn vẹn. Nếu ngươi không hiểu chánh đạo, chánh mạng, sự thật ngươi phải hỏi mặt trời, mặt trăng.

33- Trí không phải là đạo (Xem công án 239)
Con chó, con mèo, con gà hiểu công việc của chúng. Con người không hiểu công việc của con người. Bây giờ người đương làm gì? Hãy làm đi.

34- Thiến Nữ ly hồn (Xem công án 213)
Tham, sân, si, dục, vui, buồn, cái nào là chân tâm? Nếu ngươi không có tâm chúng đi đâu? Một cái hiện, 2 cái hiện, vạn vật xuất hiện. Một cái diệt, tất cả diệt.

35- Trên đường gập người đạt đạo (Xem công án 204)
Cây hiểu thời tiết, núi hiển mùa. Mọi vật hiển tình trạng và hành động của chúng. Chỉ có con người là ngu muội. Xuân tới cỏ xanh, Đông sang tuyết trắng.

36- Cây bách trước sân (Xem công án 246)
Huấn luyện là một việc khó cho Đạt Ma. Ông khai nhãn cho nhiều người nhưng ông thì mất mạng. Sau khi ông mất 3 năm, ông tìm lại được thân và ông đi về Tây. Giờ ông ở đâu? Trời xanh lơ, tùng xanh lam.

37- Con trâu qua cửa (Xem công án 291)
Đuôi trâu giết hết chư Phật, chư tổ và tất cả chúng sanh. Đuôi trâu ở đâu? Ngươi có thấy nó không? Ngươi có nắm được nó không? Nó đã qua rồi.

38- Đá đổ tịnh bình (Xem công án 210)
Quy Sơn không tốt cũng không xấu, quá man dại ông phải giữ cho tâm trong sáng. Bộ tay ông đi nghỉ hè hay sao?

39- Tâm đệ tử chẳng an (Xem công án 1008)
Đạt Ma quá ngu. Tại sao ông ngồi bích quán 9 năm? ông có tâm hay không? nếu ông vô tâm ông đã mất mạng rồi. Nhị tổ đạt được cái gì? Nếu ngươi hiểu chuyện này thì đi uống trà đi.

40- Thiếu nữ xuất định (Xem công án 205)
Đầu không thể cầm bút, mắt không thể nghe thấy, mồm không thể nhìn trời. Đàn ông không thể sanh con. Tay có công việc của tay, chân có công việc của chân. Hãy hiểu đúng công việc của ngươi. Khi gà gáy sáng thân chỗi dậy.

41- Cây gậy của ba Tiêu (Xem công án 206)
Mọi súc vật hiểu rõ chánh đạo và hành động đúng. Chỉ có con người là còn ngu si. Thỏ thích ăn cà- rốt, chuột thích ăn phô- mai.

42- Cây gậy của Thủ Sơn (Xem công án 211)
Vốn không có danh và tướng. Khi tâm sanh, danh và tướng sanh. Nếu ngưới chấp vào danh và tướng, ngươi không thể ra khỏi địa ngục. Khéo dụng danh tướng ngươi sẽ thành Phật.

43- Người ấy là ai? (Xem công án 207)
Nếu ngươi không làm gì cả, cả thế giới thuộc về ngươi. Nếu ngươi làm một gì đó thì ngươi đã mất mạng rồi. Nếu muốn gập Thích ca hãy vào nhà bếp, nếu muốn gập Di Lặc hãy vào buồng tắm.

44- Chẳng có thánh gì cả (Xem công án 1025)
Lương Võ Đế hiểu Bồ Đề Đạt Ma, Bồ Đề Đạt Ma không hiểu Lương Võ Đế. Câu trả lời “không biết” của Bồ Đề Đạt Ma nuốt trọn vũ trụ. Làm sao ngươi thoát ra? Mở mắt và lắng tai:Đạt Ma ngồi thiền ở Thiếu lâm 9 năm.

45- Tuyết đầy chén bạc (Xem công án 117)
Cái ngươi nhìn và cái ngươi nghe là bạn thật của ngươi.

46- Cảnh Thanh kêu mổ (Xem công án 125)
Vỗ tay 3 lẩn tuyệt! tuyệt! tuyệt! Gà con nói chào ông, ông khỏe không?

47- Bách Trượng ngồi một mình (Xem công án 119)
Cẩn thận! đừng chấp vào lời, một hành động tốt hơn vạn lời.

48- Thân bầy gió vàng (Xem công án 154)
Nếu ngươi hiểu thời tiết bên ngoài, ngươi biết sẽ phải mặc gì, mặt trời thì xa còn gió thì mạnh.

49- Củ cải to của triệu Châu (xem công án 126)
Triệu Châu mạnh hơn trời. Nam Tuyền trở thành củ cải. Củ cải lớn hơn Triệu châu và rơi đè lên người ông. Triệu Châu kêu lên: Cứu tôi! Cứu tôi!

50- Định thượng tọa (Xem công án 595)
Cái gì không phải là Phật pháp? nếu ngươi tìm thấy ngươi đã là Phật. Nếu ngươi tìm thấy Phật pháp, ngươi trở thành ngu si. Lâm tế rất ngu, một hành động là đủ, đâu cần đến 3. Định thượng tọa hiểu mình có 2 mắt và 1 mồm.

51- Trước sau 33 (Xem công án 128)
Văn Thù ngu si, Vô Trước khôn khéo. Chỉ là trò đùa về ngôn ngữ. Ai được, ai thua? ngươi có thấy khuôn mặt xưa nay của Văn Thù không? Ngươi có thấy cái mũi xưa nay của Vô trước không? là cùng hay là khác? Chư Phật và chư Tổ không thể nhá được câu trước 33, sau 33 của Văn Thù.

52- Một cành hoa (Xem công án 167)
Mở mồm, lầm lớn. ngậm mồm cả vũ trụ và ngươi không bao giờ xa cách. Thức dậy! Thức dậy! ngươi nhìn thấy gì, nghe thấy gì bây giờ? Đi hỏi chó, mèo; chúng sẽ chỉ cho ngươi.

53- Đợi trời sáng hãy đi (Xem công án 54)
Đến tay không, đi tay không. Có một vật rõ ràng không lệ thuộc vào sanh tử. Ai sống? Ai chết? Sống và chết như mây nổi. nếu ngươi bỏ được đám mây trong tâm ngươi thì khuôn mặt xưa nay xuất hiện rõ ràng trước mặt ngươi. Đêm có tối, ngày có rạng.

54- Nơi mát mẻ (Xem công án 981)
Lời của Động Sơn rất mạnh. Ông hiểu tình hình và hành động. Nóng và lạnh ở bên trong hay bên ngoài. Nếu ngươi tìm thấy câu trả lời đúng, ngươi đạt được khuôn mặt xưa nay của Động Sơn.

55- Ta có thể đánh trống (Xem công án 40)
Bỏ xuống tất cả những lời nói và suy tư. Nếu ngươi kiểm soát, sự kiểm soát này sẽ giết ngươi. Ngươi có nghe tiếng trống của Đầu Tử không? Nặng bao nhiêu cân? Nếu ngươi biết ngươi đã là thầy của Phật.

56- Cầu đá Triệu Châu (Xem công án 74)
Phi cơ bay trên trời phải có mục tiêu, xe lái trên đường phải có chỗ đến. Chó, mèo chạy nhẩy tốt hơn là phi cơ và xe hơi.

57- Cây gậy hóa rồng (Xem công án 78)
Lời Vân Môn là một sai lầm lớn. Lưỡi câu của ông mắc trong chính mồm ông. Ai gỡ cái lưỡi câu này? Chỉ có ai trả lời được 3 câu hỏi mới gỡ được. (3 câu hỏi của Sùng Sơn:
1- Làm sao ngươi biến cây gậy thành rồng?
2- Con rồng này làm sao nuốt mọi vật?
3- Nếu nó nuốt tất cả, làm sao ngươi thấy vạn vật?

58- Vòng tròn của Nam Tuyền (Xem công án 142)
Nam Tuyền trở thành điên như núi Tu Di. Ông muốn bắt một con cá to, nhưng không làm được. Quy Tông và Ma Cốc hiểu tâm ông nhưng ông không hiểu tâm họ. Họ đi đâu? Đông, Tây, Nam, Bắc?

59- Thùng cơm của Kim Ngưu (Xem công án 156)
Nếu ngươi rảnh, đi coi chớp bóng, nếu ngươi mệt đi khiêu vũ. Nếu ngươi không có gì để làm, lễ Phật rồi Phật sẽ mỉm cười với ngươi.

60- Bánh Hồ (Xem công án 160)
Vân Môn nói bánh Hồ nhưng sao chỉ có bánh? Nếu ngươi có kẹo, mì, coca hãy đưa cho Vân Môn rồi ông ta sẽ ấn chứng cho ngươi.

61- Mọi âm thanh đều là Phật thanh (Xem công án 129)
Vốn không có ngôn ngữ, văn tự. Đã sai lầm rồi, ai mà sửa lại được? Nếu ngươi muốn hiểu hãy đi hỏi 1 đóa hoa hay 1 cái cây. Chúng sẽ cho ngươi câu trả lời đúng.

62- Trẻ sơ sinh (Xem công án 161)
Khi trẻ khóc, mẹ cho bú. Triệu Châu thích bóng, nhưng quả bóng đã giết ông. Bỏ cả xuống, nhìn rõ, nghe rõ. Liễu lục, hoa hồng.

63- Tiếng cọp của Đồng Phong (Xem công án 187)
Chó đuổi theo xương; cọp nhai người. Vô tâm tất cả thuộc về ngươi, hữu tâm ngươi mất tất cả. nếu ngươi bị lạnh, dùng thuốc cảm. Nếu ngươi bị sốt dùng thuốc giải nhiệt.

64- Cửa kho (Xem công án 186)
Lục tổ nói vốn không một vật. Vân Môn nói mọi người tự có ánh sáng. Hai câu nói này là đồng hay dị? Mọi người đều có 2 mắt, một mồm.

65- Thể dụng của Bát Nhã (Xem công án 123)
Chân lý không có ngôn ngữ, văn tự. Pháp thật không có danh tướng. bát Nhã từ đâu ra? Dụng của nó là gì? Chỉ làm. Khi mệt thỉ ngủ, khi đói thì ăn.

66- Ba chuyển ngữ của Triệu Châu (Xem công án 164)
Lục tổ nói: “Vốn không một vật”, kinh nói chúng sanh đều có Phật tánh. Ai làm ra Phật? Ai đúng? Nếu ngươi có Phật tánh Phật sẽ giết ngươi. Nếu ngươi không có Phật tánh, Phật cũng sẽ giết ngươi. Ngươi phải làm sao? Uống trà đi!

1587.  Núi này không có đường vào.
Động Sơn Lương Giới khi đi hành cước, lạc đường, ngẫu nhiên tới chỗ ẩn cư của Long Sơn hòa thượng. Động Sơn vái chào. Long Sơn hỏi:
- Núi này không có đường, ngươi làm sao vào?
- Chuyện không có đường tạm gác lại, hòa thượng làm sao vào?
- Ta không biết mây nước.
- Hòa thượng ở núi này bao lâu?
- Không biết.
- Vì sao không biết?
- Ta không vì trời, người mà đến.
(Thiền thú 60)
Núi này chỉ Phật tánh. Phật tánh không có phương pháp nào để vào, vì vậy gọi là cửa không cửa. Thiên hạ không có một kỹ xảo nào bảo đảm học nhân nhất định thấy Phật tánh, chỉ nương vào tu hành vị tất sẽ chứng ngộ. càng nỗ lực tu hành cầu khai ngộ thì khai ngộ lại càng xa. Động Sơn hỏi hòa thượng làm sao vào? Long Sơn đáp ngay đi ta còn không biết thì làm gì còn vấn đề vào hay không vào. Hòa thượng hay núi ở đây trước là hỏi Phật tánh và vô minh cái nào có trước. Long Sơn đáp không biết là phủ quyết vấn đề trong không sinh hữu. Thời gian là quan niệm của người phàm chúng ta. Đối với Phật tánh, thời gian không tồn tại. Cũ, mới, thường tồn, biến đổi . . . đều là những khái niệm tương đối. Lấy khái niệm tương đối để mô tả tuyệt đối là chuyện hoang đường.

Bộ tranh chăn trâu.
Từ thế kỷ 12, xuất hiện 2 bộ tranh chăn trâu: 1 của Phổ Minh thiền sư, 1 của Quách Am sư viễn. Bộ tranh và các bài tụng sau đây là của Quách Am sư viễn.

1588. Tìm trâu.

茫 茫 撥  草 去 追 尋
Mang mang bạt thảo khứ truy tầm
水  闊 山 遥  路 更 深
Thủy khoát sơn diêu lộ cánh thâm
力 盡 神 疲 無 所 覓
Lực tận thần bì vô sở mịch
但 聞 楓 樹 晚 蟬 吟
Đản văn phong thụ vãn thiền ngâm

Vạch cỏ mênh mang mong tìm lối
Non xa, sông rộng, đường thêm sâu
Rặng phong ve chiều kêu rộn rã
Sức cùng, lực tận, thấy gì đâu?

Tranh vẽ người chăn đứng ở nơi hoang dã, tay cầm sợi dây thừng, xem bộ bồn chồn, do dự không biết đi về hướng nào để tìm trâu, là tài sản mà ông rất tự hào, đã chạy mất. Người chăn là người tu, cảm thấy mình đánh mất bản tánh chân thật, bất biến do đó có khát vọng tìm về, chỉ có thế tâm mới an định. Đó là giai đoạn người tu không biết đi theo đường nào. Có người tin tưởng mình tìm được. Có người nửa tin, nửa ngờ cho nên tìm được một lúc lại ngừng, ngừng một lúc lại tìm.

1589. Thấy dấu.

水 邊 林 下 跡 偏 多
Thủy biên lâm hạ tích thiên đa
芳 草 離 披 見 也 麼
Phương thảo ly phi kiến dã ma?
縱 是 深 山 更 深 處
Túng thị thâm sơn cánh thâm xứ
遼 天 鼻 孔 怎 藏 他
Liêu thiên tỵ khổng chẩm tàng tha

Mé nước, bờ rừng nhiều vết dẫm
Cỏ thơm tan tác thấy không nào?
Trong khoảng non cao và vực thẳm
Mũi hếch lên trời, dấu được sao?

Tranh vẽ người chăn tìm thấy vết chân, nhưng chưa thấy trâu. Có vết chân đi về phía Đông, có vết chân đi về phía Tây, có vết chân đi được một quãng thì biến mất, có vết chân đi về Đông rồi lại vòng qua Tây. Nhìn những dấu chân này người chăn biết được trâu quanh quẩn đâu đây, nhưng đi đâu để tìm thì là cả một vấn đề.
Đây là giai đoạn người tu tìm được thầy, hoặc đọc được một bộ kinh Phật đề cập đến việc tu hành. Ông tin tưởng Đức Phật và chư Tổ đã từng thể nghiệm Phật tánh và lưu lại những lời giáo huấn, và ông biết họ cũng như ông chỉ là một người thường, do đó ông nghĩ ông cũng có thể làm được. Nhưng ông vẫn chưa biết làm cách nào, và cách nào là tốt nhất.

1590. Thấy trâu

黃 鶯 枝 上 一 聲 聲
Hoàng oanh chi thượng nhất thanh thanh
日 暖 風 和 岸 柳 青
Nhật noãn phong hòa ngạn liễu thanh
只 此 更 無 回 避 處
Chỉ thử cánh vô hồi tỵ xứ
森 森 頭 角 畫 難 成
Sâm sâm đầu giác họa nan thành

Trên cành Hoàng oanh hót lảnh lót
Nắng ấm, gió hòa,bờ liễu xanh.
Chỉ là không còn nơi trốn nữa
Rừng rậm, đầu sừng khó vẽ thành.
 

Tranh vẽ người chăn sau một khoảng thời gian tìm kiếm, đã thấy sau một thân cây lớn, cái đuôi trâu thò ra. Ông cao hứng lắm mặc dù lúc đó ông vẫn chưa nắm được trâu. Sự thực thì ông cũng chưa nhìn rõ mặt trâu.
Đây là giai đoạn người tu thấy được bản tánh.

1591.  Được trâu.

竭 盡 精 神 獲 得 渠
Kiệt tận tinh thần hoạch đắc cừ
心 強 力 壯 卒 難 除
Tâm cường lực tráng tốt nan trừ
有 時 纔 到 高 原 上
Hữu thời tài đáo cao nguyên thượng
又 入 煙 雲 深 處 居
Hựu nhập yên vân thâm xứ cư

Đem hết tinh thần mới bắt được
Tâm cường lực tráng khó trừ ghê
Cao nguyên có lúc vừa lên tới
Lại tìm vào chỗ khói mây về.

Tranh vẽ người chăn đã dùng dây thừng xỏ mũi trâu. Hiện tại trâu đã ở trong tay người chăn. Nhưng trâu hãy còn dã tánh muốn sút thừng để chạy ra ven đường ăn cỏ, do đó người chăn phải dùng roi để điều phục nó.
Đây là giai đoạn người tu đã tự chứng ngộ toàn thể tự tánh, nhưng phiền não, tập khí hãy còn trong tâm. Khi hành giả gập một chuyện kích thích phiền não sẽ nổi dậy. Hành giả phải nỗ lực tu hành, giữ giới cho nghiêm (roi, dây thừng). 

1592.  Chăn trâu.

鞭 索 時 時 不 離 身
Tiên sách thời thời bất ly thân
恐 伊 縱 步 入 埃 塵
Khủng y túng bộ nhập ai trần
相 將 牧 底 純 和 也
Tương tương mục đắc thuần hoà dã
鞭 鎖 無 拘 自 逐 人
Tiên tỏa vô câu tự trục nhân

Roi thừng mỗi lúc chẳng lìa thân
Chỉ sợ chân kia lấm bụi trần
Cùng nhau chăn được thuần hòa vậy
Không roi mà cũng theo chủ nhân.

Tranh vẽ người chăn, một tay nhẹ nắm dây thừng, một tay cầm roi, có lúc đi trước, có lúc đi bên cạnh trâu. Một lúc nào đó trâu có thể muốn ngừng lại bên đường để gậm cỏ non, nên người chăn phải cảnh giác. Trâu đã ngoan ngoãn nghe lời nên người chăn không phải đánh đập mạnh bạo nữa. Nhìn bề ngoài người chăn và trâu không tốn nhiều sức lực.
Đây là giai đoạn người tu bồi dưỡng định lực. Nếu vào sâu được định cảnh thì có thể bứng hết gốc rễ của phiền não và tập khí.

1593.  Cưỡi trâu về nhà.

騎 牛 拖 邐 欲 還 家
Kỵ ngưu đà lê dục hoàn gia
羌 笛 聲 聲 送 晚 霞
Khương địch thanh thanh tống vãn hà
一 拍 一 歌 無 限 意
Nhất phách nhất ca vô hạn ý
知 音 何 必 鼓 唇 牙
Tri âm hà tất cổ thần nha.

Cưỡi trâu chầm chậm trở về nhà
Khương địch vi vu tiễn chiều tà
Bao ý hàm trong ca và phách
Tri âm hà tất hé môi ra.

Tranh vẽ người chăn tự tại cưỡi trên lưng trâu, tuy thừng còn sỏ mũi, và roi thì người chăn gài trên lưng, nhưng vốn không xử dụng vì trâu đã hoàn toàn thuần thục, đã biết tự đi về nhà.
Đây là giai đoạn, 6 thức của người tu đã thanh tịnh, mọi phiền não đã hết. Khi tiếp xúc với ngoại cảnh, không bị ngoại cảnh làm phát khởi phiền não. Lúc đó thân, tâm, và thế giới hỗn nhiên hòa thành một thể, là thế giới của Phật.

1594.  Quên trâu còn người.

騎 牛 已 得 到 家 山
Kỵ ngưu dĩ đắc đáo gia sơn
牛 也 空 兮 人 也 閒
Ngưu dã không hề nhân dã nhàn
紅 日 三 竿 猶 作 夢
Hồng nhật tam can do tác mộng
鞭 繩 空 頓 草  堂 閒
Tiên thằng không độn thảo đường gian.

Cưỡi trâu đã về tới núi nhà
Trâu đã không rồi, người cũng nhàn
Nắng đã ba sào, còn dệt mộng
Roi, thừng vứt ở xó nhà gianh.

Tranh chỉ vẽ người chăn, trâu thì đang ngủ, nhưng ngủ ở đâu thì không biết. Bức này và bức thứ nhất giống nhau ở chỗ chỉ vẽ người chăn, không vẽ trâu; nhưng khác ở chỗ ở đây người chăn ngồi ở nhà, không lo nghĩ gì cả.
Đây là giai đoạn người tu đã hết phiền não, không phải tìm cách đối phó với phiền não và mong cầu khai ngộ.

1595.  Người trâu đều quên.

鞭 索 人 牛 盡 屬 空
Tiên sách nhân ngưu tận thuộc không
碧 天 遼 闊 信 難 通
Bích thiên liêu  quách tín nan thông
紅 爐 燄 上 爭 容 雪
Hồng lô diệm thượng tranh dung tuyết
到 此 方 能 合 祖 宗
Đáo thử phương năng hợp tổ tông

Roi, thừng, người, trâu tất cả không
Trời xanh xa rộng khó tin thông
Ngọn lửa lò hồng tan hết tuyết
Tới đây mới thật hợp tổ tông.

Tranh vẽ một vòng tròn, người chăn và trâu đều không thấy tung tích. Ngoài vòng tròn trống không ra, không có một vật nào cả.
Người chăn chỉ người tu, trâu chỉ tâm, ở đây người và tự tánh hợp nhất; do đó người chăn và trâu đều biến mất.

1596.  Trở lại nguồn cội.

 返 本 還 源 已 費 功
Phản bản hoàn nguyên dĩ phí công
爭 如 直 下 若 盲 聾
Tranh như trục hạ nhược manh lung
庵 中 不 見 庵 前 物
Am trung bất kiến am tiền vật
水 自 茫 茫 花 自 紅
Thủy tự mang mang hoa tự hồng.

Trở về nguồn cội đã phí công
Mắt mù, tai điếc nghe như không
Trong am chẳng thấy vật phía trước
Hoa hồng, nước vẫn chẩy mênh mông.

Tranh vẽ núi xanh, nước biếc, tạp trúc, mai vàng. Đó là từ định cảnh phản chiếu sinh hoạt hiện thật. Bất kể gập cảnh gì đều y khuôn mặt xưa nay mà coi sự vật, không khởi phiền não.

1597.  Thõng tay vào chợ.

露 胸 跣  足 入 廛 來
Lộ hung tiển túc nhập triền lai
抹 土 塗 灰 滿 腮 
Mạt thổ đồ hôi tiếu mãn tai
不 用 神 仙 真 祕 訣
Bất dụng thần tiên chân bí quyết
直 教 枯 木 放 花 開
Trực giao khô mộc phóng hoa khai.

Rũ bụi than nhơ cười rạng rỡ
Ngực trần, chân đất vào chợ đông
Từ cây khô chết hoa bỗng nở
Bí quyết thần tiên cũng chẳng dùng.
 

Tranh vẽ 1 vị hòa thượng tiêu sái,1 tay cầm túi vải,1 tay giơ ra, bố thí cho một người ăn mày nghèo khổ.
Tranh biểu thị người khai ngộ với lòng từ bi xử dụng những phương tiện thiện xảo cứu độ chúng sanh.
(Ngưu đích ấn tích)

1598.  Ông tăng vô sự.
Đời Minh, có một ông tăng không thuộc vào một chùa nào, không ở một nơi nào nhất định, vân du tứ xứ. Một hôm ông đi ngang một ngôi chùa thấy tượng của 4 vị Thiên vương rất trang nghiêm, ông nghĩ bụng “Đây thật là chỗ tốt để nghỉ ngơi!” Ông bèn nằm ngay xuống chân tượng mà ngủ. Một ông quan đi qua trông thấy, nổi giận:
- Hòa thượng là ai? Dám lười biếng nằm đây mà ngủ?
- Lão nạp là một ông tăng không có việc làm.
- Cái gì? ngồi thiền, tụng kinh, lễ Phật làm pháp sự là việc làm của chư tăng sao thầy dám nói là không có việc làm?
- Những chuyện đó đối với ta vô can, ta đâu cần phải làm những chuyện này!
(Ngưu đích ấn tích)
Nghe lời nói này ông quan từ phẫn nộ trở thành lúng túng. Sau đó, ông ý thức được rằng ông tăng này không phải là một ông tăng thường mà là một người tu hành chân chánh, một ông tăng không có việc làm.

1599.  Thiện ác như mây nổi.
Một ông tăng hỏi Phá Táo Đọa:
- Thế nào là người thiện?
- Thân mặc áo giáp, tay cầm giáo dài đi giết người.
- Thế nào là người ác?
- Tu thiền, nhập định.
- Trình độ con kém cỏi, xin thầy chỉ thẳng.
- Ngươi hỏi ta thế nào là ác, ta bảo ác không từ thiện đến, ngươi hỏi ta thế nào là thiện ta bảo ngươi thiện không từ ác đến.
Ngưng lại hồi lâu, lại hỏi:
- Ngươi hiểu không?
- Hiểu.
- Ác nhân không có thiện niệm, thiện nhân không có ác niệm; cho nên nói thiện, ác như mây nổi, không có chỗ sinh diệt.
Ông tăng ngay đó đại ngộ.
(Thiền thú 60)
Thiền sư thích hỏi Đông đáp Tây, hỏi Tây đáp Đông, mục đích là đảo ngược tư duy khiến người nghe xa lìa sự phân tích của lý trí, trực tiếp thấy suốt chân tướng của sự vật. Tư duy, lý trí là công cụ hoàn hảo để chia chẻ chân lý thành những mảnh vụn, khiến người ta dùng những khái niệm trừu tượng này mà kiến tạo nên một thế giới ảo tướng. Con người khó chấp nhận sự thực này: chính dùng lý trí để giải quyết những vấn nạn là nguyên tố khiến con người không khai ngộ được. Trong quan niệm thông thường giết người là ác, tu thiền là thiện. Thiền sư nói ngược lại là cảnh giác có phân biệt thì không thể khai ngộ được, càng phân biệt thì chấp trước càng sâu nặng.

1600.  Giơ nắm đấm lên.
Khâm sơn giơ nắm đấm lên bảo đại chúng:
- Nếu nắm đấm mở ra thì bàn tay có các ngón tay dài, ngắn sai biệt, nay là nắm đấm thì không có dài ngắn. các ngươi nói Khâm sơn có thương lượng hay không thương lượng.
Một ông tăng lại gần Khâm sơn giơ nắm đấm lên. Khâm sơn nói: 
- Như vậy, ngươi chỉ là một gã câm.
(Công án thiền cơ)
Khâm Sơn giơ nắm đấm chỉ không tướng của bản thể giới, nhiếp thọ chư căn, quy nhập thể tánh không. Khi thiền sư nói “Khi nắm đấm xòe ra thành bàn tay, thì các ngón tay dài ngắn khác nhau, vậy Khâm Sơn thương lượng hay không thương lượng?
Bàn tay có nhiều ngón tay dài ngắn khác nhau là chỉ hiện tượng giới vì có sai biệt dài ngắn (mở rộng ra : đẹp xấu, tươi khô, thành bại . . .) Nay tâm tánh vào không, bản tánh nhất như không có dài ngắn.
Như vậy là Khâm Sơn chỉ cho đại chúng Thể (nắm đấm) và dụng (bàn tay) là một. Khi ông tăng lại gần Khâm Sơn giơ nắm đấm lên là ông trụ ở không. Khâm sơn bảo ông: ngươi chỉ là một gã câm là hàm 2 ý:
1- Ông tăng thấy Khâm Sơn giơ nắm đấm lên cũng bắt chước giơ nắm đấm lên là thấy cảnh sanh tâm nên bị mắng.
2- Nếu quả thật ông tăng ngộ được không, chứng được thánh cảnh, thì cũng không được trụ tâm ở đó, vì đó chưa phải là cứu cánh, phải quay lại hiện tượng giới để chứng ngộ không hữu bất nhị.

1601.  Pháp thân có thọ khổ không?
Một lần Trường Khánh thượng đường, một ông tăng hỏi:
- Pháp thân còn thọ khổ không?
- Địa ngục há là thiên đường sao?
- Như vậy là có thọ khổ?
- Có tội gì chứ?
(Công án thiền có)
Khổ, lạc thuộc về ngũ uẩn. Pháp thân là không tướng, thanh tịnh làm sao có giác tri khổ mà thọ khổ? Ông tăng vì chưa khai ngộ pháp thân, không biết pháp thân là thế nào, có thể và không có thể làm gì. Nếu ông đã biết thể dụng của pháp thân thì mới có khả năng luận thuyết về hành tướng và công năng của pháp thân. Thiền sư không trực tiếp trả lời, nhưng những lạc thú ở thiên đường lại có liên quan đến đau khổ ở địa ngục sao? Trong quá trình tu thiền, nhị thiền lìa khổ lạc, tam thiền sinh định lạc, tứ thiền chứng nhất tánh cảnh không lạc, khổ. Đối với pháp thân thì địa ngục và thiên đường không sai biệt, không khổ, không vui. Ông tăng nói như vậy là có thọ khổ: rõ ràng ông là thuộc hàng sơ cơ, lại không chịu chăm chỉ tọa thiền để từ thành tựu sắc thân mà tiến đến những vấn đề hình nhi thượng. Lời của thiền sư có nghĩa là pháp thân có tội lỗi gì mà phải thọ khổ? Dù chúng sanh có thọ khổ, thọ lạc, pháp thân vẫn khách quan quan sát, nó vốn không thọ một bụi trần, nói gì đến khổ, lạc. Người bị nghiệp lực lôi cuốn. Pháp thân không sai lầm, không thấy khổ.

1602.  Bài kệ của Ngũ tổ Pháp Diễn.

山 前 一 片 閒 田 地
Sơn tiền nhất phiến nhàn điền địa
叉 手 叮 嚀 問 祖 翁
Thoa thủ đinh ninh vấn tổ ông
幾 度 賣 來 還 自 買
Cơ độ mai lai hoàn tự mãi
為 憐 松 竹 引 清 風
Vị lân tùng trúc dẫn thanh phong

Trước núi, một mảnh ruộng bỏ không
Khoanh tay tha thiết hỏi Tổ ông
Mấy lần bán đi rồi mua lại?
Vì thuơng gió mát luồn rặng thông?
(Tổ đình kiềm chùy)
Pháp Diễn đến tham học Bạch Vân, bị Bạch Vân nạt, do đó mà ngộ, bèn làm bài kệ trên.

1603.  Niệm Phật.
Có người nói:
Như con nít suốt ngày gọi mẹ: mẹ ơi! Mẹ à! Bà mẹ không thấy phiền sao? Cũng vậy cả ngày niệm A Di Đà Phật! A Di Đà Phật! A Di Đà Phật lại chẳng phiền sao?
(Phật pháp tu chứng tâm yếu)
Người nói câu này tưởng như rất thông minh, rất hiểu đạo lý, kỳ thực đây không phải là thông minh thật, còn là vọng tưởng. Thứ nhất ông không biết rằng Phật và phàm phu bất đồng, Phật là vô tâm tương ứng làm gì có phiền não? Thứ nhì ông không biết rõ niệm Phật. Niệm Phật không phải là kêu réo A Di Đà Phật mà là dùng Phật hiệu để tẩy tâm, cach diện miên mật chuyển di vọng niệm khiến tâm không tĩnh. Tâm là thổ, thổ là tâm. Tâm tĩnh tức Phật thổ tĩnh. Càng lâu càng thâm, tất được cực lạc tĩnh thổ, tự thấy A Di Đà Phật. Người nói câu này không hiểu đạo lý cứ như các lão ông, lão bà một lòng niệm Phật tốt hơn.

1604.  Nguyệt Thượng Nữ.
Tôn giả Xá Lợi Phất vào thành, từ xa thấy Nguyệt Thượng Nữ ra thành. Xá Lợi Phất nghĩ thầm không biết vị đại tỷ này có thấy Phật không? đã đắc nhẫn hay chưa? Ta hãy đi hỏi xem, bèn lại gần hỏi:
- Đại tỷ đi đâu?
- Như Xá Lợi Phất vậy .
- Ta vừa muốn vào thành, đại tỷ vừa ra thành, làm sao nói giống nhau?
- Các đệ tử của Phật trú ở đâu?
- Ở đại Niết Bàn.
- Các đệ tử của Phật đều trụ ở Đại Niết Bàn, ta và Xá Lợi Phất cùng đi trú ở đó.
(Chỉ Nguyệt lục)
Nguyệt Thượng Nữ là con gái của cư sĩ Duy Ma Cật, theo Phật học pháp. Nhẫn: thọ hại mà không oán hận, có thể nhận biết chân như.

1605.  Ngũ Thông.
Tiên Ngũ Thông hỏi Phật:
- Con có ngũ thông, Phật có lục thông, một thông ấy là gì?
Phật hỏi:
- Ngũ Thông!
- Dạ!
- Đó là nhất thông ngươi vừa hỏi ta.
(Chỉ nguyệt lục)
Lục thông là sáu thần thông mà Phật, Bồ tát do tu thiền định mà có. Đó là thần túc thông, thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, tha tâm thông, túc mạng thông. Đó là ngũ thông, thêm một thông nữa là lậu tận thông thì thành lục thông.

1606.  Đỉnh núi không mây.
Từ Minh thấy Khả Chân tới bèn hét:
- Bản sắc của người tu là biết thời tiết nhân duyên, hạ chưa xong ngươi có việc gì gấp mà tới đây?
Khả Chân khóc thưa:
- Thiệu sư huynh đối với con rất tốt cho con biết con chưa thật ngộ do đó trở về xin sư phụ chỉ điểm.
Từ Minh không rườm rà hỏi luôn:
- Thế nào là đại ý Phật pháp?
- Đỉnh núi không mây vờn, lòng sóng bóng trăng rơi.
Từ Minh trợn mắt, uy võ vạn phần thét mắng:
- Đầu ngươi đã bạc trắng cả rồi, răng cũng rụng gần hết, còn kiến giải như vậy, ngươi làm sao thoát vòng sinh tử?
Khả Chân khẩn khoản cầu Từ Minh chỉ thị .
- Được! Ngươi hỏi ta đi!
- Thế nào là đại ý của Phật pháp?
Từ Minh hét to:
- Đỉnh núi không mây vờn, lòng sóng bóng trăng rơi!
Khả Chân không ngờ Từ Minh nhắc lại câu nói của mình, thâm tâm chấn động, khai ngộ ngay lúc đó.
(Thiền thú 60)
Văn chương của Khả Chân rất hay, câu đáp của ông rất thi vị. Nhưng dưới mắt Từ Minh thì đó chỉ là trí giải chưa phải là chứng ngộ thật nên mắng ông một trận làm cho ông bị giao động tín niệm; khiến ông bỏ tất cả xuống, giống như một tờ giấy trắng. Việc mắng chửi này không phải là Từ Minh thiếu tu dưỡng, dễ nổi giận mà là thủ đoạn để bức bách khai ngộ. Từ Minh dùng phương pháp hét lớn để tăng thêm hiệu lực. Do đó Khả Chân mới thật chân chánh thâm kiến Từ Minh. Để cho đệ tự mình thâm cứ ngộ kiến đến trình độ nghiêm ngặt một giọt nước cũng không lọt, sau đó thiền sư mới khẳng định lại khiến đồ đệ trở thành long tượng của Thiền môn. 

1607.  Bính Đinh đồng tử đến xin lửa.
 (Xem chi tiết ở công án 1035)
Các nhà tâm lý học ngày nay nhận rằng đối với một sự việc nếu ấn tượng đầu tiên là xấu sau đó sự việc chuyển thành tốt, thì ấn tượng sau cùng lại càng tốt hơn. Sự khai ngộ của Huyền Tắc cũng vậy. Mới đầu, sự khẳng định ngộ kiến chưa được mạnh mẽ, bị phủ định rồi lại được tái khẳng định thì thiên quân vạn mã cũng không làm lay động được. Văn Ích thật ra chẳng làm gì cả, chỉ nhắc lại câu nói của Huyền Tắc. Phương thức này gọi là “ gọi về mà không về” khiến đối phương từ phàm phu trở thành người khai ngộ. Đây là một kỷ sảo trong phương pháp giáo dục khiến người học khó quên.
(Thiền thú 60)

1608.  Giáp Sơn và Phật Nhật.
Giáp Sơn hỏi Phật Nhật:
- Lúc chưa tới Vân Cư, ngươi ở đâu?
- Thiên Thai Quốc Thanh.
- Thiên Thai có sóng xanh vỗ ầm ầm, ngươi từ xa lại,ý tứ thế nào?
- Sống lâu trong hang hốc chẳng treo tùng la.
- Là xuân ý, thu ý?
Phật Nhật im lặng hồi lâu không đáp, Giáp Sơn phê bình:
- Ngươi chỉ là gã chèo thuyền không phải là khách đi chơi hồ.
(Thiền thất dữ công án đích áo bí)
Câu ngươi từ đâu tới bất tất phải hỏi, tuy nhiên đó là Giáp Sơn giăng bẫy ra cho Phật Nhật đâm đầu vào. Phật Nhật cũng là tác gia nên đáp ở Thiên Thai Quốc Thanh. Hai người đều giả vờ nên Giáp Sơn lại hỏi Thiên Thai có sóng xanh vỗ ầm ầm, ý ngươi thế nào? Rõ ràng là không có gì để nói, nói nhiều có ích gì? Thiên Thai là chỗ tốt đẹp, Phật tánh tự dõng xuất hà tất tới đây làm gì? Nơi đây chim không đẻ trứng, cỏ chẳng mọc. Không biết ngươi tới đây tâm ý thế nào?
Lúc đó Phật Nhật nói một câu thừa thãi:
- Sống lâu trong hang hốc, chẳng theo tùng la.
Lúc đó đáng nhẽ Giáp Sơn đánh cho Phật Nhật 30 gậy và đuổi ra là xong chuyện nhưng Giáp Sơn từ bi nên bảo:
- Là xuân ý hay thu ý?
Đó là có xuân, hạ, thu, đông biết bao dây leo. Phật Nhật không trả lời được vì không hiểu Giáp Sơn tùy duyên mà ứng cho nên im lặng. Cái im lặng này tuy là chiếu nhưng vô tác dụng; tuy ở trong hang hốc nhưng không biết diệu dụng của tùng la. Do đó Giáp Sơn từ bi phê bình: Ngươi chỉ là gã chèo thuyền chưa thể tiến vào bể tánh.

1609.  Vốn đã giải thoát. 
(Xem công án 773)
Con người sống trong tưởng tượng của mình. Tưởng tượng có phiền não, có Phật pháp để tu, có giải thoát để cầu. Đó chỉ là tạo tác, là vô minh, là chấp trước. Ngưng tưởng tượng, xem rõ chân tướng thanh tịnh, vốn hoàn mỹ không thiếu sót gì; không cần phải tạo tác thêm gì nữa. Chúng sanh khác Phật ở chỗ Phật cái gì cũng không có, còn chúng sanh thì có quá nhiều. Chúng sanh có nhiều vọng tưởng, nhiều dục vọng, nhiều quy phạm, nhiều tri thức, rất nhiều, rất nhiều. Khi Tăng Xán hỏi: “Ai trói ngươi?” Đạo Tín đáp: “Không ai trói”. Câu hỏi và câu đáp đều cao minh. Đoạn đối đáp trên có thể viết lại như sau:
- Xin thầy chỉ cho con pháp môn giải thoát.
- Ai trói ngươi khiến cho ngươi không được giải thoát?
- Chính là “ngã” (con)
- Cái “ngã” trói ngươi nay ở đâu?
- Con tìm không thấy cái “ngã” đó.
- Nếu không tìm thấy cái “ngã” đó thì còn bị nó trói sao?
- Không tìm thấy nên không bị cái “ngã” đó trói.
- Vậy ngươi đã được cởi trói rồi!
Đạo Tín ngay đó giác ngộ.
(Thiền thú 60)

1610.  Vô Vị Chân Nhân. 
(Xem công án 1030)
Vô Vị Chân Nhân là để mô tả tự tánh. Đừng quên, những gì mô tả chỉ là ngón tay trò mặt trăng. Tự tánh cũng chỉ là một từ miễn cưỡng mà dùng thôi. Vô Vị Chân Nhân là ngã chân chính, không có một vị trí nào, không thể xác định được nó ở một chỗ nào trong không gian, cũng không thể tu hành từng bước, từng bước mà lại gần nó. Cũng không thể dùng giác quan mà cảm nhận sự tồn tại của nó, cũng như dùng ngôn ngữ mà mô tả nó. Do đó, Lâm Tế dùng hình thức tỷ dụ nói Vô Vị Chân Nhân ở trên thân chúng sanh thường ra ra vào vào. Ông tăng hỏi Vô Vị Chân Nhân có dạng thức nào? Lâm Tế chỉ có cách giúp ông tăng tự thể nghiệm, chứ không thể dùng lời mà cho đáp án. Khi Lâm Tế túm lấy ông tăng buộc ông nói, không phải là ông mong đợi ông tăng trả lời mà là bức bách ông tăng khiến cho ông ta thấy không thể dùng lời nào để diễn tả mà thấy cái không thể thấy Vô Vị Chân Nhân. Bất hạnh là ông tăng mở miệng định nói thì Vô Vị Chân Nhân đã mất tiêu. Khi Lâm Tế nói Vô Vị Chân Nhân có phải là que cứt khô không là hàm ý nếu coi Vô Vị Chân Nhân là tâm ngẫu tượng, tâm linh hồn, tâm triết học huyền diệu thì chẳng thà vứt Vô Vị Chân Nhân vào thùng phẩn khiến khỏi làm hôi thối thế gian.
(Thiền thú 60)

1611.  Tâm và Pháp đều quên.
Một ông tăng hỏi Hoằng Thông: 
- Tâm và pháp đều quên thì thế nào?
- Con ểnh ương ba chân vác coi trên lưng.
(Công án Thiền cơ)
Tâm có thể giác tri đã diệt, pháp nương vào nhân duyên mà sanh cũng không sanh cảm tri. Đó là tâm và pháp đều quên; lúc đó tâm giác tri có thể tri và cũng có thể ly; có thể chiếu nhưng không trú ở cảnh, gọi là bất giác, là chân như vô vi. Đó là cảnh giới Bồ tát tùy thuận giác tánh, đã chứng được chân như không thể, đối với các pháp đều tự tại vô ngại. Hành giả chứng được không tam muội: thấy tất cả mọi cảnh đều không có thật. Câu trả lời của thiền sư chỉ hành giả ngộ chân không có thể chứng được chân thật giải thoát tri kiến, có thể thoát ra mọi nghiệp duyên cho nên đối với mọi pháp đều có thể hóa giải dễ dàng. Vì tâm không chiếu nên không có cảnh chiếu, do đó tự tại vô ngại. Hành giả đạt tâm pháp đều quên là thần thông lực của hành giả. Hành giả không coi tâm lực, năng lực nào là có, tâm có thể chiếu diệt nên không có cảnh chiếu. Tâm và pháp đều quên: tự tánh không khởi vọng tánh tương ứng, các ngoại duyên không tạo thành cảnh.

1612.  Thấy tánh thành Phật.
Kế Tông là một ông tăng ở Hoa Nghiệm Viện hỏi Vân Cư Trí thiền sư:
- Thấy tánh thành Phật là nghĩa gì?
- Tánh thanh tịnh vốn trong trẻo, không lay động, không thuộc sạch bẩn, dài ngắn, thủ xả, thể tự thảnh thơi. Thấy rõ như thế là thấy tánh. Tánh tức là Phật, Phật tức là tánh, nên nói thấy tánh thành Phật.
- Tánh đã thanh tịnh, không thuộc hữu, vô, vì sao có thấy?
- Thấy cái không thấy.
- Nếu không có vật để thấy làm sao còn có thấy?
- Chỗ thấy cũng không .
- Như vậy khi thấy thì ai thấy?
- Không có người thấy.
- Cứu cánh lý này thế nào?
- Ngươi biết không? Tất cả những gì gọi là có là do vọng tưởng mà có, cũng là nói bản tánh có thể y tha khởi tự tánh. Cái tự tánh đó, do đó có thể biến hiện, sản sanh cảnh biến hiện. Nếu người theo cái thấy mà sanh tình thì đọa vào vòng sanh tử. Người đã rõ, cả ngày trong trần cảnh, không khởi vọng tưởng đó là thấy tánh.
(Công án thiền cơ)
Qua đoạn đối thoại trên chúng ta thấy thiền sư đã chỉ cho ông tăng 3 điều:
1- Không có người thấy: chân tâm hiện lượng phản ánh ngoại trần mà sinh khởi tự tánh, pháp tướng. Pháp tướng này có thể không khởi vọng tâm chấp thủ, cảnh về cảnh, tâm về tâm, cho nên nói là không có người thấy.
2- Không có vật thấy: tánh vốn thanh tịnh, không có hình tướng, vậy làm gì có một vật gì để thấy.
3- Không có cái thấy: phàm phu thấy cảnh tâm khởi vọng niệm ưa, ghét. Người giác ngộ thấy cảnh biết đó là giả, tâm không khởi vọng niệm nên thấy mà như không thấy.
Nói cách khác: vốn không tự tánh làm gì có tánh để thấy, vốn tự tự nhiên làm gì có Phật để thành? Khi chưa thấy tánh muốn kiếm một tánh để thấy, thấy tánh rồi thì thấy không có một vật nào để thấy, tất cả đều là không, làm gì có Phật để thành.

1613.  Cùng Đại Thiên.
Có ông tăng hỏi Thiệu Tu:
- Kiếp hỏa động nhiên đại thiên đều hoại, không biết cái đó có hoại không?
- Không hoại.
- Tại sao không hoại?
- Cùng đại thiên.
(Công án thiền cơ)
Ông tăng hỏi khi thế giới tới giai đoạn hoại diệt, từ tứ thiền thiên trở xuống đều hoại, lúc đó thể tánh của chúng ta có hoại không? Vấn đề này rất thú vị mặc dù còn lâu mới xẩy ra, nhưng rất nhiều người tu vẫn lo trời xụp, đều muốn biết rõ ràng là thể tánh có bị hoại hay không? Thế gian là do 4 đại: đất, nước, gió, lửa hợp thành. Khi hoại thì hỏa, thủy, phong sinh tai biến, cuối cùng địa đại bị bại hoại.
Theo Trường A Hàm Kinh thì khi thế giới hoại, ở giai đoạn kiếp hỏa, lửa của thế gian làm sao thiêu hủy toàn thế giới? Đương nhiên không phải, lúc đó sẽ xuất hiện 7  mặt trời nhiệt lượng phát sinh tiêu diệt tất cả vật chất ở thế gian. Hành giả chứng được pháp thân có thể đi khắp thập phương thế giới, đương nhiên không bị kiếp hỏa của ta bà thế giới ảnh hưởng. Thể tánh vốn không tự tánh, đại thiên thế giới diệt, thể tánh trở về hư không giới. Đại thiên thế giới diệt rồi, lại có đại thiên thế giới tái sinh. Thể tánh cùng đại thiên thế giới đồng tại.

1614.  Cứu cánh không cảnh.
Nam Tuyền bảo một ông tăng:
- Đêm tới, gió mạnh.
- Đêm tới, gió mạnh.
- Thổi gẫy một cành tùng trước cửa.
- Thổi gẫy một cành tùng trước cửa.
Nam Tuyền lại gọi một ông tăng khác bảo:
- Đêm tới, gió mạnh.
- Là gió gì?
- Thổi gẫy một cành tùng.
- Là cành tùng nào?
Nam Tuyền kết luận:
- Một được, một mất.
(Công án thiền cơ)
Ông tăng thứ nhất luôn cảnh giác, nghe câu nói của thiền sư không động tâm, gập cảnh ứng cảnh nhưng không chấp cảnh, thuận miệng nhắc lại câu nói của thiền sư. Thể tánh của hành giả vốn tự không tịch, hán đến hán hiện, hồ đến hồ hiện, đêm tới gió lạnh, đêm tới gió mạnh hiện, thiền sư lại nói “Thổi gẫy một cành tùng trước cửa” là dụ ông tăng khởi vọng tưởng cành bị gẫy là cành to hay nhỏ, có làm ai bị thương không v . v .
Nhưng ông tăng không mắc bẫy chỉ nhắc lại câu nói của thiền sư, ông đã lấy cứu cánh không thể ứng vạn chủng duyên.
Ông tăng thứ hai, nghe thiền sư nói liền chấp vào cảnh, tâm sinh vọng tưởng phân biệt. Câu của thiền sư có nghĩa là ông tăng thứ nhất đã qua được cửa khảo nghiệm còn ông tăng thứ hai thì không.

1615.  Phất tánh chân thật.
Ấn Tông hỏi Lục tổ:
- Thế nào là Phật pháp bất nhị?
- Pháp sư giảng kinh Nát Bàn đã rõ Phật tánh, đó là Phật tánh bất nhị. Như cao quý Đức Vương bồ tát bạch Phật:
- Phạm 4 trọng tội, 5 nghịch tội, cho tới Diêm Đề có đoạn thiện căn, Phật tánh không?
Phật đáp:
- Thiện căn có 2: một là thường, hai là vô thường; Phật tánh phi thường, phi vô thường cho nên không đoạn, gọi là bất nhị. Phật tánh phi thiện, phi bất thiện nên gọi là bất nhị. Uẩn và giới phàm phu thấy là hai, trí giả liễu đạt thì thấy không hai. Tánh bất nhị là Phật tánh. Ấn Tông nghe rồi chấp tay hoan hỷ.
(Công án thiền cơ)
Ấn Tông là một vị cao tăng đời Đường, người tỉnh Giang Tô, tuy có gặp ngũ tổ Hoằng Nhẫn nhưng cũng không có thành tựu gì. Sau giảng kinh Nát Bàn ở Pháp Tánh Tự  ở Quảng Châu, gặp được Lục tổ. Phật pháp bao gồm tất cả các pháp của thế gian (tà pháp, chánh pháp), các pháp thiền định thế gian, xuất thế gian, xuất xuất xuất thế gian, đều là Phật pháp. Tổng quát tất cả các pháp đều gọi là Phật pháp vậy, pháp nào mới chính là pháp bất nhị? Theo như lời giảng của Lục tổ thì Phật tánh chính là bất nhị pháp môn. Không có đối đãi, thường vô thường, vui khổ, ngã vô ngã, không bất không, hữu tướng vô tướng v . v .
Ấn Tông nghe lời giảng tâm khai, ý giải sinh lòng hoan hỷ, chắp tay cung kính.

1616.  Từ bi.
Văn Thù đến thăm Duy Ma cật, hỏi:
- Tại sao cư sĩ bệnh?
- Vì chúng sanh bệnh nên tôi bệnh .
(Points of departure)
Đọc kinh Duy Ma Cật chúng ta biết đi thăm Duy Ma Cật không phải là một chuyện dễ dàng cho Văn Thù. Duy Ma Cật rất nghiêm khắc nên 12 người khác đã từ chối đi thăm ông. Đây không phải chỉ là vấn đề của Văn Thù mà là của cả chúng ta. Khi chúng ta từ chối không làm một việc mà chúng ta không thích, chúng ta sẽ không tiến bộ. Thật dễ dàng cho chúng ta khi chúng ta đi thăm một người không quá phức tạp hay một người mà khi gặp khiến chúng ta thoải mái. Nhưng chuyện này không giúp chúng ta tiến bộ. Vì vậy Văn Thù vâng lời Phật đi thăm Duy Ma Cật. Câu trả lời của Duy Ma Cật có ý nghĩa gì? Nhiều người nghĩ tôi khỏe mạnh, không bị cảm cúm. Dạ dày tôi rất tốt, không gì làm phiền tôi. Tôi không bệnh chút nào cả. Nhưng dưới cái nhìn của Phật Giáo thì có 2 loại bệnh: Một là vật lý và tâm thần, hai là tham, sân, si; ngộ nhận cái ngã cũng là bệnh. Do đó chúng ta đều bệnh. Duy Ma Cật biết Văn Thù cần phải hiểu cái bệnh này và rồi hiểu sự tử bi.

1617.  Thầy của chư Phật.
Một ông tăng hỏi Vân Cư:
- Ai là thầy của chư Phật?
Vân Cư hét lên và thêm:
- Tên xà nô này!
Ông tăng lạy.
- Ngươi hiểu sao?
Ông tăng hét lên và thêm:
- Lão viện chủ!
- Cơ bản ta chẳng hiểu.
Ông tăng quay một vòng rồi ra. Vân Cư kêu lên:
- Gã ăn mày cứ bám sát bàn ăn.
(Zen and Zen classics)
Thầy của chư phật là Phật tánh của chư Phật, chúng ta chỉ hiểu sự kiện này khi Phật tánh của chúng ta bảo cho chúng ta biết.

1618.  Tìm ta.
Giáp Sơn bảo một ông tăng:
- Hãy tìm ta trên đầu trăm cỏ, hãy nhận biết hoàng tử ở chốn chợ đông.
(Zen and Zen classics)
Đầu trăm cỏ chỉ hiện tượng thiên nhiên. Khi chúng ta thấy mặt trời mọc, lá rơi, cá bơi chúng ta sẽ hiểu lời Giáp Sơn nói. Hoàng tử chỉ ý nghĩa sâu xa chỉ tìm thấy ở thế giới hỗn loạn này chứ không phải ở cõi Phật.

1619.  Phật và ma.
Một hôm có ông tăng tên là Hàng Ma đến tham phỏng bắc tông Thần Tú. Thần Tú hỏi:
- Ngươi tên là Hàng Ma, nhưng ở đây không có Sơn tinh, Mộc quái, ngươi biến thành ma sao?
- Có Phật, có ma.
- Nếu ngươi là ma tất trú ở cảnh giới không thể nghĩ bàn.
- Là Phật tức không, làm gì còn có cảnh giới chứ?
- Ngươi và Thiếu Hạo có duyên.
Hàng Ma vào núi Thiên Hạo, học tăng các nơi vân tập lại đó tham học.
(Công án thiền cơ)
Câu đáp một của Hàng Ma có nghĩa là: mọi người tu đều có tâm ma phải khắc phục. Do vậy thường nói ma do tâm sanh, nếu tâm chánh thì không có cảnh ma. Một niệm tâm giác là Phật, một niệm tâm mê là ma.
Câu đáp 2: tự tánh là không, làm gì có cảnh giới nào để nói? Trước hết phải chứng ngộ Phật tánh, lúc đó há còn ngại ma cảnh? Con tuy có tâm nguyện đạt cảnh giới hàng ma nhưng dụng pháp là không, chỉ là tuỳ duyên mà có danh hiệu Hàng Ma.
Câu cuối của Thần Tú là dự tri Hàng Ma sẽ là đại sư độ chúng ở núi Thíếu Hạo.

1620.  Kiếm không mũi.
Một ông tăng hỏi Tào Sơn Bản Tịch:
- Thế nào là kiếm không mũi nhọn?
- Không thể rèn luyện thành.
- Dụng nó thế nào?
- Người gập đều mất mạng.
- Người không gập thì sao?
- Cũng rơi đầu.
- Người gập mất mạng đã đành, tại sao người không gập cũng rơi đầu?
- Ngươi không biết thấy đạo là xong hết sao?
- Xong hết rồi sao?
- Lúc đó mới biết có loại kiếm này.
(Công án thiền cơ)
Ông tăng thường nghe người ta nói kiếm không mũi nhọn, không hiểu ý là sao, cũng không biết cảnh giới này ra sao nên đặt câu hỏi với Tào Sơn. Kiếm không mũi nhọn là Phật kiếm. Kiếm này, thân kiếm không thể, mũi kiếm không tướng nên vô hình, vô tướng, có năng lực trừ khử tất cả mọi chướng ngại. Người được kiếm này có thể trừ khử được nghiệp chướng của mình (tự lợi), có thể tĩnh hóa những chướng ngại của người khác (lợi tha). Muốn có công năng này người ta phải đạt được chân không thực sự (trừ bỏ được ngã chấp, pháp chấp), nếu không tu mà nhập Phật tri kiến thì không thể chuyển nghiệp chướng của mình và của người.

1621.  Đại cơ, đại dụng.
Một hôm, Bách Trượng Hoài Hải huấn thị đồ đệ:
- Thiền giáo đại pháp không phải là chuyện nhỏ, ta lúc trước bị Mã đại sư hét một tiếng, tai bị điếc đến 3 ngày.
Hoàng Bá nghe sư phụ nói rồi thè lưỡi ra.
Bách Trượng hỏi:
- Ngươi về sau không muốn kế thừa thiền pháp của Mã Tổ sao?
- Hôm nay sư phụ nêu lên công án này khiến chúng con thấy đại cơ, đại dụng của Mã Tổ, nhưng còn chưa hiểu rõ người, giả như kế thừa thiền pháp của người sợ rằng về sau không tiếp dẫn được người học.
- Như vậy! như vậy! Kiến giải hơn thầy mới có thể đảm đương sự truyền thọ đại pháp, chỗ này ngươi hơn ta.
Hoàng Bá nghe rồi cung kính lạy tạ.
Về sau Quy Sơn hỏi Ngưỡng Sơn:
- Bách Trượng tái tham Mã Tổ, ý chỉ của 2 vị tôn túc này là sao?
- Chuyện này tỏ rõ đại cơ, đại dụng.
- Dưới trướng Mã Tổ xuất hiện 84 vị thiện tri thức, bao nhiêu người được đại cơ, bao nhiêu người được đại dụng?
- Bách Trượng được đại cơ, Hoàng Bá được đại dụng, còn lại là xướng đạo sư.
(Tinh Vân thiền thoại)
Đại cơ, đại dụng của Thiền môn chủ yếu là chỉ thẳng bản tâm, kiến tánh thành Phật. Chúng ta trong sinh hoạt hàng ngày cần tự do, tự chủ, có thể viên mãn, vui vẻ, tinh thần và vật chất hợp nhấy, trong ngoài là một, theo Phật đạo mà không thành Phật, theo chúng sanh mà không nhập vào chúng sanh, chỉ nói khai ngộ, chỉ nói cơ dụng. Đó là thiền vậy.

1622.  Bí quyết sử sự.
Đời Đường, thiền sư Phong Can trú ở chùa Quốc Thanh núi Thiên Thai. Một hôm tản bộ trong rừng bỗng nghe có tiếng trẻ con khóc. Ông tìm tới nơi thì là một đứa nhỏ y phục lôi thôi, nhưng tướng mạo kỳ vĩ. Hỏi thăm những nhà quanh đó, không ai biết đứa nhỏ là con cái nhà nào. Phong Can bất đắc dĩ phải mang đứa nhỏ về Quốc Thanh tự nuôi, chờ người đến nhận lãnh. Vì do Phong Can lượm về nên đặt tên là Xả Đắc. Xả Đắc ở Quốc Thanh Tự dần dần lớn lên, Phong Can cho ông lo việc nấu cơm. Xả Đắc làm quen nhiều đạo hữu, trong đó có một người nghèo khổ tên là Hàn Sơn. Hai người rất thân nhau, Xả Đắc thường dành cơm thừa cho vào ống trúc, trao cho Hàn Sơn mang về ăn. Một hôm Hàn Sơn hỏi xả Đắc:
- Nếu có người vô duyên, vô cớ bài báng ta, mắng chửi ta, cười cợt ta, khinh thị ta, lừa dối ta, ta phải làm sao mới đúng?
- Ngươi hãy nhường nhịn họ, kệ họ, xa lánh họ, tôn kính họ.
- Trừ những cái đó ra, còn bí quyết nào nữa không?
- Bài kệ của Bồ tát Di Lặc nói:

老 拙 穿 破 襖
Lão chuyết xuyên phá ảo
淡 飯 腹 中 飽
Đạm phạn phúc trung bão
補 破 好 遮 寒
Bổ phá hảo già hàn
萬 事 隨 緣 了
Vạn sự tuỳ duyên liễu
有 人 罵 老 拙
Hữu nhân mạ lão chuyết
老 拙 只 說 好
Lão chuyết chỉ thuyết hảo
有 人 打 老 拙
Hữu nhân đả lão chuyết
老 拙 自 睡 倒
Lão chuyết tự thụy đảo
梯 嘩 在 面 上
Thê hoa tại diện thượng
隨 他 自 乾 了
Tùy tha tự can liễu
我 也 省 力 氣
Ngã dã tỉnh lực khí
他 也 無 煩 惱
Tha dã vô phiền não
這 樣 波 羅 蜜
Giá dạng ba la mật
便 是 妙 中 寶
Tiện thị diệu trung bảo
若 知 這 消 息
Nhược tri giá tiêu tức
何 愁 道 不 了
Hà sầu đạo bất liễu
人 弱 心 不 弱
Nhân nhược tâm bất nhược
人 貧 道 不 貧
Nhân bần đạo bất bần
一 心 要 修 行
Nhất tâm yêu tu hành
常 在 道 中 辦
Thường tại đạo trung biện.

Lão vụng mặc áo rách
Cơm không, bụng no rồi
Áo vá che trời rét
Vạn sự tùy duyên thôi
Có người mắng lão vụng
Lão vụng lại chỉ cười
Có người đánh lão vụng
Lão vụng nằm ngủ thôi.
Nước mắt rơi trên má
Mặc nó tự khô đi
Nếu ta nhường một chút
Người chẳng nhọc thị phi
Pháp Ba La Mật đó
Chính là báu trong châu
Nếu biết được tin tức
Thành đạo có bao lâu
Người yếu tâm chẳng yếu
Người nghèo Đạo chẳng nghèo
Tu hành nếu quyết chí
Thường tại đạo nghêu ngao.

Nếu hiểu được tinh thần của bài kệ này thì đó là bí quyết sử sự.
(Tinh Vân thiền thoai
Đài Châu Mục Lữ Khâu Dẫn hỏi Phong Can: ở đâu có chân nhân bồ tát? Phong Can bảo: Hàn Sơn, Xả đắc là 2 vị Bồ tát Văn Thù và Phổ Hiền hóa thân. Lữ Khâu Dẫn tới lễ bái, 2 người cười lớn bảo:
- Phong Can lắm chuyện, Di Đà chẳng biết.
Ý nói Phong Can là hóa thân của Phật Di Đà mà người đời chẳng biết. Nói rồi 2 người vào hang núi, không thấy nữa. Khâu Dẫn ghi chép những thi kệ của 2 người trên vách núi, còn lưu truyền đến ngày nay. Hàn Sơn, Xả Đắc không bị thế sự trói buộc, siêu thoát, tự tại. Đó là bí quyết xử thế.

1623.  Phàm và thánh.
1-  Đời Đường, Lâm Tế nói:
- Nếu ngươi còn yêu thánh, ghét phàm, thì ngươi hãy còn chìm nổi trong bể sanh tử.

2-  Kế Tông ở Hoa Nghiêm Viện hỏi Vân Cư:
- Chân lý tối căn bản là sao?
- Phàm và thánh đều chỉ là danh, nếu theo danh mà giải thì rơi vào sanh tử.
(Trung Quốc Thiền Tông)
Cái gọi là chân lý tối căn bản là “tánh” của kiến tánh thành Phật. Trong cái tánh thanh tịnh này không có phàm thánh; nếu nói có phàm thánh là mê vọng. Phàm và Thánh chẳng qua chỉ là tên gọi mà thôi, do vọng tưởng sanh ra phân biệt. Chúng ta khái niệm hóa sự vật, gán cho sự vật danh xưng và tin tưởng đó chính là thật. Nếu nhận cái danh xưng tạm thời đó mà sinh kiến giải phân biệt thì chỉ rơi vào biển khổ sinh diệt.

1624.  Trí Tạng và Huệ Trung.
Huệ Trung quốc sư hỏi Trí Tạng:
- Thầy ngươi dạy ngươi thế nào?
Trí Tạng từ Đông đi sang Tây rồi đứng lại.
- Chỉ là như vậy, còn có gì khác không?
Trí Tạng từ Tây đi sang Đông rồi đứng lại.
Huệ Trung xem cử động của Trí Tạng rồi lại hỏi:
- Đó là thiền pháp của Mã Tổ, còn của ngươi thì sao?
- Con sớm đã trình hòa thượng rồi!
(Trung Quốc Thiền Tông)
Huệ Trung quảng bác kinh luận, học và hành kiêm bị, ông ghét thiền giả phương Nam coi nhẹ kinh luận. Trí Tạng đối câu hỏi của Huệ Trung dùng hành động trực tiếp trả lời. 
Trí Tạng đối với các vị thiền giả kiệt xuất của Trường An không chút sợ sệt, thái độ lỗi lạc quang minh biểu thị hành động của thiền phương Nam.

1625. Tâm là Phật.
Một hôm, Mã Tổ bảo đại chúng:
- Các ngươi nên tin rằng tâm các ngươi chính là tâm Phật. Đạt Ma từ Tây sang Trung Thổ chỉ là để truyền cái pháp nhất tâm này. Cái mà Đạt Ma khai thị chính là câu nói này ở kinh Lăng Già:  Phật nói:
- Lấy tâm làm tông, lấy vô môn làm pháp môn.
(Trung Quốc Thiền Tông)
Thiền của Mã Tổ đặt căn bản ở đốn ngộ. Ông chủ trương người lãnh ngộ câu “Tâm là Phật” là Phật, người không ngộ câu này là chúng sanh. Do đó, ngoài chúng sanh không có Phật.

1626.  Bài kệ của Bảo Tích.
Đời Đường, Bàn Sơn Bảo Tích làm bài kệ sau:

心 若 無 事
Tâm nhược vô sự
萬 法 不 生
Vạn pháp bất sinh
意 絕 玄 機
Ý tuyệt huyền cơ
纖 塵 何 立
Tiêm trần hà lập

Tâm nếu vô sự
Vạn pháp chẳng sanh
Huyền cơ hết ý
Sao có bụi trần
(Thiền ngộ không nhân tâm)
Nếu trong tâm không có phiền não, vô minh thì mọi sự việc đều tự nhiên chu biến, viên dung, nơi nơi đều thấy hoa xuân thơm đẹp.

1627.  Đảm đương.
Dược Sơn bảo Cao sa di:
- Ngươi biết không, tâm người ta náo nhiệt như thành Trường An.
- Trong tâm con quốc thái dân an.
- Sự thể ngộ đó do ngươi đọc kinh hay do ngươi thỉnh ích mà có?
- Không do đọc kinh, cũng không do tham học.
- Có người không đọc kinh cũng không tham học vì sao không được nó?
- Không phải là không thể ngộ được mà là không chịu đảm đương.
(Thiền ngộ không nhân tâm)
Người chịu đảm đương dù gặp hoàn cảnh nào: tốt hay xấu, thuận hay nghịch, đều có thể từ định phát huệ mà giải quyết vấn đề. Người đó không oán trách, không đố kỵ, trong tâm thường tự tại.

1628.  Bài kệ của Phật Quốc Bạch thiền sư.

山 上 山 僧 山 下 牛
Sơn thượng sơn tăng sơn hạ ngưu
披 毛 戴 角 混 同 流
Phi mao đái giác hỗn đồng lưu
普 天 成 佛 與 成 祖
Phổ thiên thành Phật dữ thành tổ
獨 有 潙 山 作 水 牛
Độc hữu Quy Sơn tác thủy ngưu.

Trên núi là tăng, dưới núi trâu
Đội sừng, da khoác khác gì đâu
Thiên hạ thành Phật thành tổ cả
Quy Sơn lại chỉ thích làm trâu.
(Thiền môn khai ngộ thi)
Bạch thiền sư ghi lại chuyện Quy Sơn muốn xuống núi làm trâu (Xem công án 1072)

1629.  Nghiệp lực.
Có ông tăng hỏi Phổ Sơn:
- Địa,thủy, hỏa,phong làm sao biến thành chấp hữu?
- Nước lặng không sóng, bọt nước là do gió tạo.
- Bọt trở về nước thì sao?
- Nước không vẩn đục, cá, rồng tha hồ bơi nhẩy.
(Thiền ngộ dữ thực hiện)
Ở hiện tượng giới, hữu tình và vô tình đều do nghiệp lực sai khiến, nó khiến chúng ta tạo ra muôn vàn tạo tác.

1630.  Một tiếng hét.
Lâm Tế sau khi bảo Tam Thánh:
- Ai ngờ chánh pháp nhãn tạng của ta bị tiêu diệt ở trong tay con lừa mù này!
Nói xong đoan tọa mà tịch. Huệ Nhiên thưa:
- Lão sư, bình thường có người đến tham phỏng thầy đều hét một tiếng lớn, tại sao chúng con lại không học được một tiếng hét lớn như thầy?
Lâm Tế mở mắt ra nói:
- Ta sẽ không để cho các ngươi mô phỏng.
Nói rồi Lâm Tế liền nhập diệt.
(Tinh Vân thiền thoại)
Thiền giả không thích mô phỏng. Hoàng Bá dùng gậy, Lâm Tế hét, Triệu Châu trà, Vân Môn bánh hồ, mỗi người tiếp đãi học nhân 1 cách riêng. Đó là gia phong của họ. Thiền giả phải trên đầu không mái ngói che. Dưới không tấc đất để chân. Tất cả đều phải tự mình sáng tạo.
 

Các  Sách  Trích  Dịch

Bích Nham Lục bạch thoại chú giải            Hứa Văn Cung
Bình Thường Tâm Thị Đạo                        Bồ Đề Học xã
Ch’an and Zen Teaching                            Lu K’uan Yu
Chích Thủ Chi Thanh                                Dư Tiến Phu
Đồ giải thiền vấn đáp                                Trần Hòa Chương
Entretiens de Lin-Tsi                                Paul Demiéville
Hảo Tuyết phiến phiến                              Lâm Thanh Huyền
Hương Thủy Hải                                      Lâm Thanh Huyền
Minh Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông       Bồ Đề Học Xã
Mumonkan & Hekiganroku                        Katsuki Sekida
Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ                        Long Mãn
Nhất Vị Thiền - quyển phong                     Lý Anh Đệ
                     - quyển hoa                        Hoàng Tĩnh Nhã
                     - quyển nguyệt                    Lâm Tân Cương
Niêm Hoa vi Tiếu                                      Cố Vĩ Khang
Phật dữ Thiền                                          Minh Kính
Sinh hoạt Thiền                                        Dương Huệ Nam
The Center Within                                    Gyomay M. Kubose
Thiền Cơ                                                 Lâm Minh Dục
Thiền Cơ Sử Nễ Tại Chân lý Trung Giác Tình      Viên Thông
Thiền Đích Cố Sự Hựu Nhất Tập               Giản Huệ Căn
Thiền Lâm Tuệ Ngữ                                  Vân Lăng
Thiền Lý Dữ Nhân Sinh                             Bồ Đề Học Xã
Thiền Ngộ                                                Bình Điền Tinh Canh
Thiền Ngoại Thuyết Thiền                          Trương Trung Hành
Thiền Sinh Mạng Đích Vi Tiếu                    Trịnh Thạch Nham
Thiền Sư Khải Ngộ Pháp                           Thái Vinh Đình
Thiền Tông Dật sự                                    Đạo Long 
Thiền Tông Tọa Thạch Minh                       Bồ Đề Học Xã
Thiền Tông Trí Tuệ Ngữ Lục                       Bồ Đề Học Xã
Thiền Tông Công Án Bí Truyền                   Dư Tiến Phu
Thiền Thuyết                                            Thái Chí Trung
Thiền Viên                                                Vương Trần Canh
Tinh Vân Thiền Thoại                                 Tinh Vân
Trung Quốc Thiền                                      Khang Hoa 
Vô Môn Quan bạch thoại chú giải               Thánh Tham
Zen Koans                                                Gyomay M. Kubose
Zen Light                                                  Barragato 
 
 
 
 
 

c

Nguồn: www.quangduc.com

Về danh mục

van lam cho den chet trước æ luân hồi phần 2 duyen giac 首座 Nghi lễ đời người theo Phật giáo hành trì mật tông tây tạng tại việt nhan duyen nao da dua mc thuy quynh den voi dao Lễ giỗ lần thứ 996 Quốc sư Vạn phat トO bách đàm cổ tự cảm nhận về điều giác ngộ thứ nhất Chơn Đóa hoa Phật pháp loi that thi mat long thien vien tren bien nhìn truyện kiều qua con mắt phật học cuong Tác động của gene và béo phì Teen Hà Thành háo hức đi ăn chay hòa thượng thích bửu lai Chuyến đi bất ngờ Kỳ cuối Ngày Hồn xuân trong cánh mai vàng phát nguyện thọ bồ tát お仏壇 お供え Họa phúc houn Đi bộ loại thuốc bổ khỏi tốn tiền cương lương tiếp và pháp hoa tam muội có nên quy kính tăng chưa thực hành Lịch 乾九 nhung hinh anh dep cua dl phat giao chao mung 1000 nhan sinh nhu mong Gỏi Æ Nụ cười Phật đản sanh n蘯ソu húy bình dị của ht thích trí tịnh Biết xuan thien cha mẹ đừng lo chúng con sẽ thi tốt Giỗ Tổ khai sơn tổ đình Sắc tứ áp dụng quyền bình đẳng giới như