ĐOẠN 1
UYỂN LĂNG LỤC
Uyển
Lăng là tên một huyện của Trung Quốc đời Đường. Khi đó
tướng quốc Bùi Hưu đang trấn nhậm tại huyện này. Bùi
Hưu mời ngài Hoàng Bá về đây dạy cho ông lý thiền. Vì
vậy lối dạy ở đây sáng sủa rõ ràng, chớ không như lối
dạy ngài Lâm Tế. Quyển sách này do ông Bùi Hưu ghi lại lời
dạy của ngài Hoàng Bá tại Uyển Lăng, nên có tên là Uyển
Lăng Lục.
Chúng
ta phải hiểu người xưa, khi đối diện với người có các
trình độ khác nhau, các ngài tùy duyên mà dạy, chớ không
cố định. Đối với tướng quốc Bùi Hưu ngài nói trắng
ra, nhưng với ngài Lâm Tế ngài chỉ đánh mà không nói một
câu. Nếu chúng ta cả quyết cho rằng thiền sư Hoàng Bá chỉ
đánh, chớ không nói thẳng trắng ra thì không đúng. Hoặc
bảo ngài chỉ nói trắng mà không đánh cũng không đúng. Tùy
theo người đối duyên mà các Tổ sử dụng phương tiện để
đạt được kết quả tốt nhất. Hiểu chỗ này chúng ta mới
thấy hiện giờ thiền tông cần phải nói thẳng ra là một
điều hợp lý. Với tướng quốc Bùi Hưu, ông không rảnh
nghiên cứu chỗ này chỗ kia, còn ngài Lâm Tế là một thiền
tăng đang du phương cầu học, làm sao cho ngài nghi, nghi chừng
nào tốt chừng ấy, hai người hai hoàn cảnh khác nhau.
Chúng
ta bây giờ cũng vậy, thời này người ta bận rộn đa đoan,
đâu thể nay xách gói đầu này hỏi, mai xách gói đầu kia
hỏi. Vì vậy chúng ta phải nói thẳng để người học nhận
biết, ứng dụng tu thì có lợi hơn. Tôi nói như thế để
quí vị hiểu tinh thần người xưa và tinh thần hiện nay của
chúng ta tuy thấy khác mà không khác.
CHÁNH
VĂN:
Bùi
tướng công hỏi Ngài:
-
Trong núi bốn năm trăm người, bao nhiêu người được pháp
của Hòa thượng?
Ngài
đáp:
-
Người được không thể tính hết số. Vì sao? Vì đạo do
tâm ngộ, không tại lời nói, nói năng chỉ là để giáo hoá
kẻ đồng mông (trẻ thơ).
GIẢNG:
Nói
năng là để dạy những người đồng mông tức kẻ sơ cơ,
chớ đúng ra thì ai cũng ngộ được hết, vì ai cũng có tâm
chân thật. Cho nên người nhận được chỗ chân thật tính
không hết, vì ai ai cũng có sẵn. Dùng nói năng diễn đạt,
đó là phương tiện vì kẻ đồng mông.
CHÁNH
VĂN:
Hỏi:
Thế nào là Phật?
Đáp:
Tức tâm là Phật, không tâm là đạo. Chỉ không có cái tâm
khởi tâm động niệm, có không, ngắn dài, ta người, năng
sở… Tâm vốn là Phật, Phật vốn là tâm. Tâm như hư không,
sở dĩ nói “chân pháp thân của Phật ví như hư không”.
Không nên cầu riêng, có cầu đều khổ. Giả sử trải qua
số kiếp như cát sông Hằng, tu hành lục độ vạn hạnh được
Phật Bồ-đề cũng không phải cứu cánh. Vì cớ sao? Vì thuộc
về nhân duyên tạo tác, nhân duyên nếu hết trở lại vô
thường. Sở dĩ nói “Báo, Hóa không phải chân Phật, cũng
không phải nói pháp”. Cốt biết tâm mình không ngã không
nhân, xưa nay là Phật.
GIẢNG:
Chỗ
này chỉ thẳng nên khó. Hỏi “Thế nào là Phật?” Nếu
chúng ta được hỏi câu này sẽ trả lời ra sao? Phật là
tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn. Giảng như vậy thì
chỉ biết ông Phật bên ngoài là đức Thích Ca thôi, chớ
không biết được ông Phật của mình.
Ở
đây ngài chỉ thẳng tức tâm là Phật, chính ngay tâm mình
là Phật chớ không có Phật nào ở ngoài tâm. Nhưng nói không
tâm là đạo thì có mâu thuẫn không? Trước nói tức tâm
là Phật, bây giờ nói không tâm là đạo, như vậy có tâm
không? Câu này nhiều người lầm lẫn. Tức tâm là Phật,
không tâm là đạo, hai chữ tâm đó khác nhau chỗ nào? Tâm
trước và tâm sau là một hay hai? Không phải một. Tâm trước
là tâm chân thật bất sanh bất diệt cho nên gọi tức tâm
là Phật, tâm đó là Phật. Không tâm là đạo là không tâm
sanh diệt, tâm sau là tâm sanh diệt. Khi nào tâm sanh diệt lặng
là đạo. Những chữ này không khéo rất dễ hiểu lầm, dường
như mâu thuẫn vậy. Tức tâm là Phật, nghĩa là ngay nơi tâm
chân thật của mình là Phật, không tâm là đạo nghĩa là
không tâm sanh diệt, ấy là đạo.
Chỉ
không có cái tâm khởi tâm động niệm, có không, ngắn dài,
ta người, năng sở… không các tâm đó là đạo. Như vậy
tìm đạo ở đâu? Bây giờ có người xách gói lên núi Cấm,
núi Tà Lơn… để tìm đạo. Như vậy có đúng không? Ở chỗ
không tâm, Lục Tổ nói xưa nay không một vật, không một
vật thì có tâm gì? Thấy được chỗ đó là thấy đạo.
Cho nên Ngũ Tổ mới gọi Lục Tổ vào thất giảng kinh Kim
Cang cho nghe.
Không
tất cả tâm niệm có không, ngắn dài, ta người, năng sở
tức là không tất cả tâm niệm đối đãi. Ai lặng hết tâm
đối đãi thì người đó thấy đạo. Như vậy đạo dễ tìm
hay khó tìm? Chỉ cần mình lặng tâm đối đãi, nghĩ tốt
nghĩ xấu, nghĩ phải nghĩ quấy, nghĩ hơn nghĩ thua lặng xuống
hết, ngay đó là đạo, không tìm kiếm đâu xa. Chúng ta ngày
nay gần đạo hay xa đạo? Đạo rất gần, nhưng vì bọn phân
chia phải quấy che mất nên không thấy, do không thấy thành
xa. Nếu những phân biệt hơn thua, phải quấy lặng hết thì
đạo ngay trước mắt, khỏi tìm kiếm đâu xa.
Người
tu nào còn có tâm hơn thua phải quấy thì đạo vắng bóng,
bao giờ tâm ấy lặng thì đạo hiện tiền. Tâm hơn thua phải
quấy ai sắp đặt cho mình, Thượng đế sắp phải không?
Nếu Thượng đế sắp thì đành chịu thua, đằng này quyền
của
mình khởi nghĩ, như vậy là chuyện nắm trong tay rồi. Chúng
ta có quyền khởi, cũng có quyền bỏ. Việc gì thuộc quyền
của mình thì đó là việc trong tầm tay. Việc trong tầm tay
mà nói khó là chuyện vô lý. Nhưng nói dễ cũng không đúng,
vì dễ tại sao bỏ không được. Như vậy mới thấy việc
tu hành cũng dễ mà cũng khó. Ai một phen buông là buông tất
cả thì rất dễ. Ai nửa buông nửa nắm thì suốt đời không
thấy đạo. Cho nên người tu phải can đảm, một buông thì
tất cả đều buông, có thế mới thỏng tay vào chợ được.
Còn người nào vừa buông rồi tiếc nắm lại thì suốt đời
không ra khỏi nhà lửa tam giới.
Tâm
vốn là Phật, Phật vốn là tâm. Đây là xác định lại tâm
mình. Tâm nào? Tâm liễu liễu thường tri, không sanh không
diệt. Tâm đó là Phật. Cho nên nói tâm vốn là Phật, Phật
vốn là tâm.
Tâm
như hư không, sở dĩ nói “chân pháp thân của Phật ví như
hư không”. Tại sao tâm như hư không? Câu này đa số người
học Phật bị lầm lẫn. Nói tâm như hư không, như vậy tâm
có hay không? Hư không thì trống rỗng, tâm như hư không thì
tâm trống rỗng không có gì hết, sao gọi là Phật được?
Đây là điều rất khó. Nếu không có kinh nghiệm trong sự
tu, làm sao biết được chỗ này.
Khi
chúng ta khởi niệm phân biệt về người thì có bóng người,
khởi nghĩ về cảnh liền có bóng cảnh, khi không khởi nghĩ
tất cả mà vẫn thấy vẫn nghe v.v… thì cái thấy nghe đó
có phải tâm không? Biết tức là tâm. Cái biết thấy nghe
xúc chạm ấy không có tướng mạo. Do không tướng mạo nên
giống như hư không. Vì vậy nói “chân pháp thân của Phật
ví như hư không”. Pháp thân chân thật ví như hư không mà
hằng giác. Đó là điểm đặc biệt. Đã hằng giác làm sao
nói không, nhưng không có hình bóng làm sao nói có. Tâm chân
thật hiện tiền đó chúng ta đang có nhưng không sử dụng
được, chỉ sử dụng tâm sanh diệt đuổi theo cảnh theo người.
Vì vậy tâm sanh diệt che phủ pháp thân chân thật của chính
mình.
Không
nên cầu riêng, có cầu đều khổ. Bởi vì tâm chân thật
không có tướng mạo, làm sao tìm cầu. Nếu càng cầu, càng
tìm thì càng xa, không có lợi ích gì hết nên đều khổ.
Giả
sử trải qua số kiếp như cát sông Hằng, tu hành lục độ
vạn hạnh được Phật Bồ-đề cũng không phải cứu cánh.
Kinh Đại thừa dạy chúng ta tu các pháp lục độ vạn hạnh
để chứng quả Bồ-đề, nhưng tại sao Tổ bảo nếu chứng
được Bồ-đề cũng không phải cứu cánh. Đó là những vấn
đề chúng ta cần phải hiểu rõ. Người còn tu là còn dùng
phương tiện sanh diệt, chuộng tốt bỏ xấu đều là trong
tướng sanh diệt tạo tác. Tuy tướng tốt đẹp nhưng sanh
diệt tạo tác thì không phải chân thật, không phải chân
thật tức là không cứu cánh. Mục đích chư Tổ dạy chúng
ta tu đi đến chỗ chân thật, đó mới là cứu cánh, nên ở
đây gọi là Tối thượng thừa.
Đại
thừa là đạo Bồ-tát, tu Lục độ vạn hạnh. Thượng thừa
là Phật đạo, như kinh Pháp Hoa nói một Phật thừa, đó là
Thượng thừa. Còn Tối thượng thừa là đạo gì? Là đạo
tâm, tâm tức là đạo, chỉ thẳng cái chân thật sẵn có
nơi mỗi người. Tất cả những thành tựu đạt được do
dụng công tu hành đều nằm trong phương tiện, chưa phải
là cứu cánh. Chỗ cứu cánh chân thật bất sanh bất diệt,
không do dụng công mà được cho nên gọi là Tối thượng
thừa.
Vì
cớ sao? Vì thuộc về nhân duyên tạo tác, nhân duyên nếu
hết trở lại vô thường. Tất cả công đức do chúng ta tạo
ra đều nằm trong sanh diệt nên có ngày cũng hết, vì vậy
nói vô thường.
Sở
dĩ nói “Báo, Hoá không phải chân Phật, cũng không phải
nói pháp”. Cốt biết tâm mình không ngã không nhân, xưa nay
là Phật. Báo là báo thân Phật, Hóa là hóa thân Phật nói
pháp. Hai thân này không phải Phật thật. Như chúng ta thấy
Đức Phật Thích Ca sanh ra ở Ấn Độ, tu hành bao nhiêu năm
khổ hạnh, đi giáo hóa bao nhiêu năm, đó là báo thân Phật.
Báo thân Phật có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp,
tu hành đắc đạo giáo hóa chúng sanh, có vô lượng công đức.
Nhưng bây giờ thân đó còn không? Không còn. Nếu Phật là
thân đó thì Phật ắt là sanh diệt.
Chỉ
có Phật từ nơi tâm mới là chân thật. Vì vậy cốt biết
tâm mình là không ngã, không nhân, xưa nay là Phật, đó mới
là Phật thật, không có sanh diệt. Phật này có cần chúng
ta tu cho ngài không? Tất cả công phu tu của mình tô điểm
cho Phật đẹp thêm hay sao? Phật nào thuộc tô điểm, Phật
đó đều không thật. Phật thật không có tô điểm. Muốn
nhận ra Phật thật chỉ đòi hỏi chúng ta một việc, đó
là buông hết tất cả niệm sanh diệt đối đãi. Phật thật
đã sẵn có từ thuở nào, mà chúng ta không thấy là vì kẹt
trong sanh diệt. Bây giờ buông hết tất cả niệm sanh diệt
thì Phật thật hiện ra, đó mới là chân Phật hay pháp thân
Phật. Còn Phật do tu, có tướng tốt, đó là Phật sanh diệt.
Chúng ta phải hiểu cho thấu đáo lý này, mới có thể tiến
tu không nghi ngờ.
Phật
dạy tu Lục độ vạn hạnh, nghĩa là bố thí, trì giới, tinh
tấn, nhẫn nhục, thiền định, trí tuệ, tất cả đều nằm
trong tướng sanh diệt. Nếu tu được hết những pháp này
thì chúng ta sạch mọi lỗi lầm, không còn gây đau khổ cho
người khác, đem lại sự an vui cho chúng sanh.
Nhưng
đó chỉ là tướng sanh diệt, chưa phải cứu cánh. Cứu cánh
phải trở về với Phật thật của chính mình. Phật đó không
cần chúng ta tu, chỉ cần chúng ta nhận ra bằng cách buông
bỏ hết những tướng sanh diệt đang che lấp Phật thật của
mình. Như vậy là tu.
CHÁNH
VĂN:
Hỏi:
Thánh nhân không tâm tức là Phật, phàm phu không tâm đâu
không chìm nơi không lặng?
Đáp:
Pháp không có phàm thánh, cũng không có chìm lặng. Pháp vốn
chẳng có, chớ khởi thấy không; pháp vốn chẳng không, chớ
khởi thấy có. Có cùng với không đều là tình kiến (thấy
biết tình chấp), ví như huyễn ế (như huyễn thuật, như
mắt bệnh). Sở dĩ nói “thấy nghe như huyễn ế, tri giác
là chúng sanh”. Trong môn này Tổ sư chỉ nói “dứt cơ quên
kiến, nên nói quên cơ thì Phật đạo thạnh, phân biệt thì
quân ma lừng”.
GIẢNG:
Thánh
nhân không tâm tức là Phật, Thánh nhân không có những tâm
sanh diệt nên Thánh nhân là Phật. Phàm phu không tâm đâu không
chìm nơi không lặng? Ngoại nhân cho rằng phàm phu không tâm
tức là chìm lặng chỗ không ngơ, đâu thành Phật được.
Đây cũng là chỗ nghi của nhiều người tu thiền. Khi tu tới
lặng hết tâm sanh diệt thì đâm hoảng, mình tu tới chỗ
không ngơ như vầy sao? Ở đây ngài trả lời:
Pháp
không có phàm thánh, cũng không có chìm lặng. Pháp chân thật
này không có đối đãi, đây phàm kia thánh, cũng không chìm
lặng. Tại sao? Pháp vốn chẳng có, chớ khởi thấy không;
pháp vốn chẳng không, chớ khởi thấy có. Pháp là chỉ cho
đạo, chỉ cho Phật. Phật vốn chẳng có vì nó không hình
tướng. Tâm hằng tri hằng giác của chúng ta không hình tướng
nên nói vốn chẳng có. Chớ khởi thấy không, nó không có
rồi thấy không sao được? Không là đối với có, mà nó
không phải có thì làm gì chấp không.
Pháp
vốn chẳng không, chớ khởi thấy có, chẳng không là có.
Bây giờ cái liễu liễu thường tri hằng có nơi mỗi chúng
ta, khi mình đang sống. Nó không thiếu nhưng ai diễn tả được.
Diễn tả bằng lời nói hay bằng mực viết? Vẽ cái liễu
liễu thường tri được không? Như nghĩ về mặt trăng, người
họa sĩ tưởng tượng vẽ ra mặt trăng được. Còn không
nghĩ về cái gì hết mà thường tri, thì cảm giác thế nào,
hứng khởi thế nào để họa ra được? Tuy không diễn tả
được mà nó hằng giác hằng tri, làm sao nói không. Vì vậy
nên nói pháp vốn chẳng không, chớ khởi thấy có.
Tâm
liễu liễu thường tri của chúng ta không có hình dáng thì
đừng bao giờ nghĩ nó là một pháp, vì có một vật là có
hình tướng. Cái liễu liễu thường tri lúc nào cũng có, thì
đừng bao giờ nghĩ nó chìm trong không. Như chúng ta ngồi thiền
tới lúc lặng lẽ hết các niệm, lại sợ mình rơi vào không.
Tại sao ta không nhận ra ai biết lặng lẽ hết các niệm?
Cái gì biết? Còn có cái biết tại sao nói rơi vào không?
Rơi vào không tức không biết gì hết, mà còn biết lặng
lẽ làm sao nói rơi vào không? Đó là sự lầm lẫn của đa
số người tu thiền. Khi đang lặng lẽ mình thấy rõ ràng
lúc này tâm đang lặng lẽ. Lặng lẽ là cái chân thật rõ
ràng thường biết, chớ đâu phải không biết.
Có
cùng với không đều là tình kiến (thấy biết tình chấp),
ví như huyễn ế (như huyễn thuật, như mắt bệnh). Sở dĩ
nói “thấy nghe như huyễn ế, tri giác là chúng sanh”. Trong
môn này Tổ sư chỉ nói “dứt cơ quên kiến, nên nói quên
cơ thì Phật đạo thạnh, phân biệt thì quân ma lừng”. Ở
đây nói tất cả khởi thấy có không là tình kiến, tức
cái chấp. Ngài nói thấy chìm lặng là không, thấy Phật là
có. Thấy có, thấy không đều thuộc tình kiến, tức thấy
biết theo tình chấp của mình. Cái thấy biết theo tình chấp
giống như con mắt bệnh, nhìn ra hư không giữa trưa, thấy
hoa đóm lung tung cả bầu trời. Như vậy hoa đốm rối loạn
trên bầu trời thực có hay tại con mắt bệnh? Tại mắt bệnh,
chớ bầu trời không có hoa đốm.
Tâm
chấp có chấp không, bên này bên nọ là bị che phủ, không
thấy được lẽ chân thật. Cho nên nói “thánh thì có, phàm
thì không” hay “phàm thì mê, thánh thì ngộ”. Đó là thấy
hai bên, thấy hai bên chưa phải cứu cánh. Ngài dẫn trong kinh
dạy “thấy nghe như huyễn ế, tri giác là chúng sanh”. Nếu
cái thấy cái nghe giống như người có con mắt bệnh là thấy
lầm nghe lầm, không đúng chân lý. Tri giác là hiểu biết,
còn hiểu biết phân biệt là chúng sanh.
Trong
môn này Tổ sư chỉ nói “dứt cơ quên kiến, nên nói quên
cơ thì Phật đạo thạnh, phân biệt thì quân ma lừng”. Dứt
cơ là dứt cái gì? Cơ là chỉ cho căn cơ chậm lụt, căn cơ
phàm thánh, tức sự sai biệt trình độ cao thấp. Còn khởi
đây là phàm kia là thánh, đây là thông minh trí tuệ kia là
ngu si v.v… tất cả phân biệt chia chẻ cao thấp hơn thua,
đó là kiến. Còn phân biệt phải quấy tốt xấu v.v… là
phân biệt. Quên hết các kiến chấp cao thấp, phàm thánh,
ngu trí v.v… tất cả không còn dính kẹt thì Phật đạo thạnh.
Nếu khởi phân biệt giỏi thì quân ma lừng.
Chúng
ta tự kiểm xem nơi mình ma thạnh hay Phật thạnh? Tu theo Phật
sao để ma thạnh, điều này thật khó hiểu. Tu theo Phật thì
Phật thạnh chớ sao lại để ma thạnh. Nếu ma thạnh thì
chúng ta đi đường nào? Đường ma. Bao nhiêu đó đủ thấy
khổ rồi, tu theo Phật mà đi đường ma. Đi đường ma làm
sao thấy được đạo. Bởi vậy các Thiền sư tu hay thường
như ngu như ngơ. Các ngài không muốn phân biệt chi hết, mình
cho là ngu. Còn chúng ta khôn quá, lanh quá nên gần với ma.
Chừng nào mình như ngu như ngơ mới đi đường của Phật
được. Mỗi vị tự kiểm sẽ biết mình đang đi trên đường
Phật hay đang đi trên đường ma. Một ngày ta đi trên đường
Phật chừng bao nhiêu phút, đi đường ma bao nhiêu phút? Kiểm
như vậy thì biết ngay mình như thế nào.
Việc
tu thực ra hết sức dễ, không tốn công tốn của chi hết.
Chỉ cần khởi nghĩ liền buông. Chỉ buông thôi, thì cả ngày
chơi chớ làm gì. Chuyện gì tới buông, như vậy cả ngày
không dính. Nếu phải lượm cái này, mót cái kia, gom nhóp
lại cho nhiều thì cực khổ. Như học trò đi học là cực
khổ, phải dồn bài này vô, bài kia vô, phải nhớ nên cực.
Còn người tu chỉ buông thôi, thật là khoẻ. Vậy mà có người
than tu khổ quá. Khổ là tại không dám buông, cứ bám giữ
hoài.
Một
ví dụ hết sức cụ thể, như quí vị ở trong chúng, bất
thần nghe ai nói xấu mình, thì sao? Mặt bừng bừng lên, cãi
om sòm với nhau. Lúc đó vui hay mệt? Khởi nghĩ cãi vả là
đã nghe nóng bức trong lòng, bực bội khó chịu. Ngược lại,
nghe huynh đệ nói xấu, mình cười, không có gì hết. Khỏe
không? Nó nhẹ như bong bóng. Nếu mình đặt câu hỏi phải
quấy “tôi nói hồi nào?” để cãi hơn thua thì trong lòng
nóng hay nguội? Nóng lên rồi phiền não. Người nào một ngày
có năm ba người tới mách kiểu đó thì sao? Bực bội cả
ngày nên thấy tu phiền não quá. Nếu biết buông, không có
gì quan trọng, giả sử một chục người mách mình cũng buông
hết thì khoẻ ru, có việc gì phiền não đâu.
Như
vậy buông khoẻ hay nắm để cãi hơn thua khoẻ? Người buông
là người khôn hay người chấp hơn thua là người khôn? Nếu
theo đạo thì người bám vào hơn thua phải quấy để sanh
phiền não là người ngu, còn người buông xả tất cả phiền
não, không dính dáng gì là người khôn. Bây giờ ai chịu làm
người khôn? Ai chịu làm người ngu? Việc làm dễ như trở
bàn tay chúng ta không làm, còn những việc sanh phiền não bực
bội, đôi khi nhỏ xíu thôi mà bên này giành khôn cãi qua,
bên kia giành khôn cãi lại, cãi một hồi thành việc lớn.
Có khi bực bội muốn xách gói đi luôn, coi như cả đời tu
chỉ vì việc hơn thua làm mình hư hỏng. Tự nhiên mình làm
khổ mình khổ người. Vậy mà bị chê tu ít không chịu, nói
tôi tu dữ lắm, tu dữ lắm nên cãi cũng dữ luôn. Đó là
những lầm lẫn quá lớn. Chúng ta phải hiểu rõ quên cơ thì
Phật đạo thạnh, phân biệt thì quân ma lừng. Thuộc lòng
như thế để mà tu.
CHÁNH
VĂN:
Hỏi:
Tâm đã xưa nay là Phật, lại cần tu lục độ vạn hạnh
chăng?
Đáp:
Ngộ tại tâm không quan hệ gì lục độ vạn hạnh. Lục độ
vạn hạnh đều là cửa hóa đạo, là việc bên tiếp vật
độ sanh. Giả sử Bồ-đề, chân như, thực tế, giải thoát,
pháp thân thẳng đến Thập địa, bốn quả vị thánh đều
là cửa hóa độ, không quan hệ Phật tâm. Tâm tức là Phật
nên nói “tất cả trong cửa tiếp độ, Phật tâm là bậc
nhất”. Chỉ không tâm sanh tử phiền não… tức không cần
đến pháp Bồ-đề… nên nói “Phật nói tất cả pháp để
độ tất cả tâm, ta không tất cả tâm, đâu dùng tất cả
pháp”. Từ Phật đến Tổ không luận việc gì khác, chỉ
luận một tâm, cũng nói là “nhất thừa”, nên nói “tìm
kỹ mười phương lại không có thừa khác, chúng sanh này không
còn nhánh lá, chỉ có các hạt chắc”. Bởi vì ý này khó
tin nên Tổ Đạt Ma sang xứ này đến hai nước Lương, Ngụy
chỉ có một mình Huệ Khả Đại sư thầm tin tâm mình, ngay
một câu nói liền lãnh hội “tức tâm là Phật”. Thân tâm
đều không, ấy là đại đạo. Đại đạo xưa nay bình đẳng,
nên nói: “tin sâu chúng hàm sanh đồng một chân tánh, tâm
tánh không khác, tức tánh tức tâm, tâm không khác tánh, gọi
đó là Tổ”. Lại có câu “khi nhận được tâm tánh, nên
nói không nghĩ bàn”.
GIẢNG:
Tâm
mình xưa nay đã là Phật rồi, cần tu lục độ vạn hạnh
không?
Ngộ
tại tâm không quan hệ gì lục độ vạn hạnh. Lục độ vạn
hạnh đều là hóa đạo, là việc bên tiếp vật độ sanh.
Thường thường nói tu lục độ vạn hạnh là hay lắm mà
ở đây lại nói ngộ tại tâm, không quan hệ gì đến lục
độ vạn hanh. Ngộ là nhận chân được tâm bất sanh bất
diệt ngay nơi mình, chớ không phải tu bố thí, trì giới,
nhẫn nhục… mới được tâm đó. Tu các pháp như thế là
tu bên ngoài, còn nhận được ngay nơi tâm mình mới là chỗ
chân thật. Nên nói lục độ vạn hạnh là cửa hóa đạo,
là việc bên tiếp vật độ sanh.
Cửa
hóa đạo là cửa để truyền bá Phật pháp cho mọi người.
Vì người đời chưa thể trực nhận được tâm chân thật
của mình, nên dạy họ phương tiện làm cho tham sân si giảm.
Từ tham sân si giảm dần dần, mới đi tới chỗ nhận được
tâm chân thật. Bởi vậy lục độ dạy bố thí để bớt
tham, nhẫn nhục bớt sân v.v… Còn tâm chân thật vượt hết
tất cả các thứ. Gốc nhận được thì tất cả ngọn ngành
đều thuộc bên ngoài. Vì vậy nói cửa hóa đạo là bên tiếp
vật độ sanh. Ở đây chỉ thẳng tâm chân thật nên gọi
là Tối thượng thừa.
Giả
sử Bồ-đề, chân như, thực tế, giải thoát, pháp thân thẳng
đến Thập địa, bốn quả vị thánh đều là cửa hóa độ,
không quan hệ Phật tâm. Những từ Bồ-đề, chân như, giải
thoát, pháp thân v.v… đều là cửa hóa đạo, không phải
Phật tâm. Với người mê dạy họ tu để được Bồ-đề
là giác, vì giác là dẹp mê. Nếu người bị trói buộc phiền
lụy dạy họ tu để được giải thoát. Tất cả những pháp
ấy là phương tiện để diệt các thứ bệnh chúng sanh đang
kẹt, cho tới quả vị Thanh văn hay hàng Thập địa cũng là
cửa hóa đạo thôi, chưa phải chỗ tột cùng nên không quan
hệ với Phật tâm. Phật tâm tức là tâm Phật sẵn có nơi
mỗi chúng sanh.
Tâm
tức là Phật nên nói “tất cả trong cửa tiếp độ, Phật
tâm là bậc nhất”. Trong cửa tiếp độ chỉ có Phật tâm
là trên hết. Nếu lấy cấp bậc để so sánh đối chiếu,
như tứ quả Thanh văn, Thập địa Bồ-tát v.v… thì thấy
có cao thấp, nhưng đó là vì căn cơ chúng sanh không đồng,
người thích tu thế này, người thích tu thế kia nên Phật
đặt ra như thế để dẫn dắt từ từ. Kỳ thật chỉ có
tâm Phật của chính mình là trên hết, không dính dáng với
tất cả cấp bậc quả chứng. Vì tâm Phật không có thứ
lớp, không cao thấp, không đối đãi, đó mới là cứu cánh.
Những gì có thứ lớp, cao thấp đều chưa phải là chỗ tột
cùng. Vì vậy nói: “tất cả trong cửa tiếp độ, Phật tâm
là bậc nhất”.
Chỉ
không tâm sanh tử phiền não… tức không cần đến pháp Bồ-đề…
nên nói “Phật nói tất cả pháp để độ tất cả tâm,
ta không tất cả tâm, đâu dùng tất cả pháp”. Tâm gì là
tâm sanh tử, tâm gì là tâm phiền não? Tâm dấy tạo nghiệp
là tâm sanh tử, vì tâm tạo nghiệp thiện ác cho nên mới
sanh trong lục đạo luân hồi. Nếu không có tâm chạy theo
đối đãi thiện ác thì không đi trong Lục đạo luân hồi.
Tâm gì là tâm phiền não? Buồn thương, giận ghét, hơn thua,
phải quấy… là tâm phiền não. Có người nào nói tôi không
buồn, không thương, không ghét ai… không? Lúc nào cũng phê
bình huynh đó dễ thương, huynh kia dễ ghét quá. Cho nên tâm
phiền não không lúc nào hết. Người dễ ghét mà ở cùng
một phòng, giờ ăn giờ ngủ cũng gần một bên thì sao? Thì
phiền não. Nếu mình không thèm ghét ai hết, đối diện với
ai mình cũng không phiền não. Còn buồn thương giận ghét là
còn phiền não. Ai không buồn thương giận ghét thì hết phiền
não. Cho nên nói chỉ không tâm sanh tử phiền não… tức không
cần đến pháp Bồ-đề…
Ở
đây dẫn lời Lục tổ “Phật nói tất cả pháp để độ
tất cả tâm, ta không tất cả tâm, đâu dùng tất cả pháp”.
Như người nóng nảy ráng tu pháp nhẫn nhục, người tham lam
tu pháp bố thí. Bây giờ không tham không sân… thì tu pháp
gì? Cho nên Lục Tổ khẳng định “Phật nói tất cả pháp
để độ tất cả tâm, ta không tất cả tâm, đâu dùng tất
cả pháp”. Nhưng tại sao ở đây chúng ta có dùng pháp tu?
Tại vì còn tâm tham sân si đủ thứ hết, cho nên phải dùng
pháp tu để tiêu mòn từ từ.
Từ
Phật đến Tổ không luận việc gì khác, chỉ luận một tâm,
cũng nói là “nhất thừa”, nên nói “tìm kỹ mười phương
lại không có thừa khác, chúng sanh này không còn nhánh lá,
chỉ có các hạt chắc”. Kinh Pháp Hoa nói cuối cùng không
có hai, chỉ một pháp Nhất thừa “tìm kỹ mười phương
lại không có thừa khác”, “chúng sanh này không còn nhánh
lá, chỉ có các hạt chắc”, nhánh lá để chỉ cho những
phần chi tiết nhỏ nhặt như Thanh văn, Duyên giác… “chỉ
có các hạt chắc” là chỉ còn có một Phật thừa.
Bởi
vì ý này khó tin nên Tổ Đạt Ma sang xứ này đến hai nước
Lương, Ngụy chỉ có một mình Huệ Khả Đại sư thầm tin
tâm mình, ngay một câu nói liền lãnh hội “tức tâm là Phật”.
Tổ Đạt Ma sang Trung Quốc bao nhiêu năm mà chỉ có một người
tin được điều này. Cho nên vua Lương Võ Đế học kinh thâm
nhập rất nhiều, giảng kinh rất hay mà cũng tin không nổi.
Chỉ có Tổ Huệ Khả tin được tâm mình, nghĩa là buông hết
tất cả tâm sanh diệt rồi thì tâm chân thật hiện tiền.
Tổ Huệ Khả tin nhận được điều đó.
“Thân
tâm đều không, ấy là đại đạo”. Thân này là rỗng, tại
sao? Vì còn duyên thì hợp hết duyên thì tan, nó không thật,
nên nói tánh không. Tâm sanh diệt cũng không. Thấy rõ hai thứ
này rồi là đại đạo. Hồi xưa hỏi thế nào là đại đạo
các Tổ chỉ đường cái ở trước sân. Sự thực biết các
pháp tự tánh không, biết tất cả niệm sanh diệt là không,
đó là trở về với đại đạo. Chúng ta ngày nay thấy các
pháp thật, thấy tâm buồn thương giận ghét thật, cho nên
không thấy đại đạo.
Đại
đạo xưa nay bình đẳng, nên nói: “tin sâu chúng hàm sanh
đồng một chân tánh, tâm tánh không khác, tức tánh tức tâm,
tâm không khác tánh, gọi đó là Tổ”. Đại đạo xưa nay
bình đẳng. Tại sao bình đẳng? Bởi vì nơi mọi người đều
có, mà đã bình đẳng thì ai cũng có khả năng thành Phật
hết. Nên nói: “tin sâu chúng hàm sanh đồng một chân tánh”,
đồng có tánh giác như nhau. Tất cả mọi chúng sanh đều
có tánh giác. “Tâm tánh không khác”, tâm tánh mình và tâm
tánh mọi người không khác nhau. “Tức tánh tức tâm”, nói
tánh mà cũng nói tâm, tánh là chỉ cho Phật tánh, tâm là tâm
chân như hay tâm chân thật. “Tâm không khác tánh, gọi đó
là Tổ”, người nào tâm luôn luôn sống được với cái
chân thật bình đẳng, người đó là Tổ.
Lại
có câu “khi nhận được tâm tánh, nên nói không nghĩ bàn”.
Khi người nhận được tâm tánh rồi thì không thể nghĩ bàn.
Tại sao? Vì chỗ đó khởi nghĩ bàn thì không còn tâm tánh
nữa, chỗ đó là chỗ không nghĩ bàn. Nghe nói không nghĩ bàn
rồi cho rằng chỗ đó quá sức mầu nhiệm, linh thiêng thì
lầm lẫn. Không nghĩ bàn là chỗ chân thật không còn một
niệm nghĩ suy bàn tính.