ĐOẠN 4
CHÁNH
VĂN:
Hỏi:
Nếu tâm là Phật, Tổ sư từ Ấn Độ sang truyền thọ thế
nào?
Đáp:
Tổ sư từ Ấn Độ sang chỉ truyền tâm Phật, chỉ thẳng
tâm các ông xưa nay là Phật, tâm tâm không khác nên gọi là
Tổ. Nếu thẳng đó thấy ý này tức chóng vượt khỏi tam
thừa tất cả các vị, xưa nay là Phật không nhờ tu thành.
GIẢNG:
Hỏi
nếu tâm mình là Phật rồi, Tổ sư từ Ấn Độ sang Trung
Hoa truyền tâm gì? Đáp Tổ sư từ Ấn Độ qua chỉ truyền
tâm Phật, chỉ thẳng tâm các ông xưa nay là Phật, tâm tâm
không khác nên gọi là Tổ, tức là tâm của Tổ, tâm của
chúng ta đều không khác. Người nào tu mà thấy tâm mình,
tâm người, tâm chúng sanh đều không khác, đó gọi là Tổ.
Nếu
thẳng đó thấy ý này tức chóng vượt khỏi tam thừa tất
cả các vị, xưa nay là Phật không nhờ tu hành. Tu là dẹp
những cái che đậy, chớ không phải tu để thành Phật.
CHÁNH
VĂN:
Hỏi:
Nếu như vậy, chư Phật mười phương ra đời nói pháp gì?
Đáp:
Chư Phật mười phương ra đời chỉ cùng nói một tâm pháp.
Vì thế, Phật thầm trao cho Đại Ca Diếp một tâm pháp thể
này. Tột hư không khắp pháp giới gọi là lý luận chư Phật,
pháp ấy đâu phải ông ở trên ngôn cú mà hiểu được, cũng
không phải ở trên một cơ một cảnh mà thấy được. Ý
này chỉ là thầm khế hội, một môn ấy gọi là pháp môn
vô vi. Nếu muốn hội được chỉ biết không tâm, chợt ngộ
liền được. Nếu dụng tâm nghĩ học lấy thì càng đi xa.
Nếu không tâm chia chẻ, không tất cả tâm thủ xả, tâm như
cây đá, mới có phần học đạo.
GIẢNG:
Học
mà tâm như cây đá thì làm sao mà học. Nên nhớ học ở đây
là dứt hết những tâm dính, tâm kẹt, tâm chấp của mình.
Gỡ bỏ cho sạch hết những thứ ấy là học đạo. Người
nào học để thuộc để nhớ nhiều, đó là học chữ học
nghĩa, chưa phải học đạo. Học đạo là xả tất cả tâm,
tâm như cây đá. Nói như cây đá có người hiểu tâm như
vô tri vô giác. Nếu vô tri vô giác đâu gọi là tâm. Tâm là
cái biết, cái biết không dính, không kẹt, không có cái gì
che đậy, cái biết đó mới thật là tâm, tâm đó là tâm
Phật. Còn tất cả cái biết sanh diệt, vừa có liền không,
vừa sanh liền diệt đều là cái biết hư ảo, không thật.
CHÁNH
VĂN:
Hỏi:
Như hiện nay có các thứ vọng niệm làm sao nói không?
Đáp:
Vọng vốn không thể, tức là tâm ông khởi lên. Nếu ông
biết tâm ông là Phật, tâm vốn không vọng, đâu có khởi
tâm lại nhận là vọng? Nếu ông không sanh tâm động niệm,
tự nhiên không vọng. Sở dĩ nói “tâm sanh thì các thứ pháp
sanh, tâm diệt thì các thứ pháp diệt”.
GIẢNG:
Hỏi
hiện nay có các thứ vọng niệm, làm sao nói không? Ngài đáp
vọng vốn không thể. Quí vị tìm xem cái gốc của khởi nghĩ
ra sao, ở đâu, có hay không? Nó không có gốc, mà không gốc
không rể thì có cái thể không? Vọng niệm không gốc rể,
vậy nó từ đâu ra? Từ tâm mà dấy.
Nếu
ông biết tâm ông là Phật, tâm vốn không vọng, đâu có khởi
tâm lại nhận là vọng? Nếu biết tâm mình là Phật thì không
chạy theo cái vọng, không chạy theo vọng thì đâu có nhận
vọng làm mình.
Nếu
ông không sanh tâm động niệm, tự nhiên không vọng. Chúng
ta đừng dấy tâm, đừng khởi niệm, đó là không vọng. Cho
nên nói “tâm sanh thì các thứ pháp sanh, tâm diệt thì các
thứ pháp diệt”.
CHÁNH
VĂN:
Hỏi:
Nay chính khi vọng niệm khởi, Phật ở tại chỗ nào?
Đáp:
Nay khi ông biết vọng khởi, biết ấy chính là Phật. Vì thế,
nếu không vọng niệm thì Phật cũng không. Tại sao như vậy?
Vì ông khởi tâm chấp thấy Phật, bèn bảo có Phật nên thành,
chấp thấy chúng sanh, bèn bảo có chúng sanh nên độ, khởi
tâm động niệm thảy là chỗ thấy của ông. Nếu không tất
cả thấy thì Phật có chỗ nào? Như Văn Thù vừa khởi thấy
Phật liền liếc thấy hai ngọn núi Thiết Vi.
GIẢNG:
Nay
khi ông biết vọng khởi, biết ấy chính là Phật. Vọng vốn
không thật, nếu nó dấy lên chúng ta theo nó thì tạo nghiệp.
Bây giờ nó vừa dấy lên mình biết nó hư dối, cái biết
ấy giác hay mê? Giác mới biết được vọng hư dối. Thấy
đúng bản chất là giác, là Phật. Lục Tổ nói niệm khởi
liền giác, niệm khởi là vô minh, giác là Phật. Cho nên một
trăm cái vô minh thì có một trăm ông Phật hiện ra. Bởi vậy
khi tu, chỉ cần biết vọng không theo là có Phật hiện tiền.
Lâu
nay chưa biết tu, khi dấy niệm quí vị chạy theo hay bỏ? Dấy
niệm liền chạy theo. Ngồi trong Thiền đường lại nhớ thành
phố, hồi đó mình ở chùa nào, đi học ra sao. Nhớ một dọc
như vậy là giác hay mê? Mê. Bây giờ vừa nhớ thành phố
liền biết vọng không thật, bỏ. Chạy theo vọng tưởng là
mê, không chạy theo vọng tưởng là giác. Tại sao không chạy
theo? Vì thấy đúng bản chất của nó không thật, đó là
giác. Dù một trăm vọng tưởng dấy lên trong giờ ngồi thiền,
chúng ta đều giác hết thì có thiệt thòi không? Có Phật
đầy đủ, làm sao thiệt thòi. Khi vọng lặng hết không dấy
lên nữa, mình vẫn thấy, vẫn biết, vẫn nghe, vẫn tỉnh
sáng, lúc đó ông Phật hiện tiền.
Chúng
ta canh ăn trộm, nếu cứ ngồi chăm chăm nhìn ngay cửa từ
đầu hôm tới khuya, sợ ăn trộm vô, như vậy khỏe không?
Mệt đừ. Thành ra cũng giữ ăn trộm nhưng cứ ngủ, chừng
nào có động thì mở mắt nhìn, đốt đèn lên, không có thì
cứ ngủ. Canh ăn trộm như vậy mới không mệt. Cũng vậy
chúng ta nhìn vọng tưởng, không muốn nó dẫn đi, cứ chăm
chăm nhìn nó hoài thì phát mệt, vọng tưởng không dấy lên
nhưng đầu mình nặng. Bây giờ cứ ngồi thanh thản, không
thèm nhìn, chừng nào nó dấy lên liền thấy, thấy rồi buông,
vậy thôi. Tu nhẹ nhàng, không cố tình chăm chăm, mới yên,
mới khoẻ, mới bền. Tu là vui, mà trái lại tu càng ngày càng
quạo thêm là tu sai. Cho nên nhìn gương mặt là biết người
tu đúng hay tu sai liền. Tu mà tươi tỉnh, thảnh thơi, luôn
luôn sáng suốt đó là đúng.
Tại
sao như vậy? Vì ông khởi tâm chấp thấy Phật, bèn bảo có
Phật nên thành, chấp thấy chúng sanh, bèn bảo có chúng sanh
nên độ, khởi tâm động niệm thảy là chỗ thấy của ông.
Nếu không tất cả thấy thì Phật có chỗ nào? Nghĩa là mình
khởi thấy bên này thì có bên kia, nếu không khởi tâm thì
không có bên nào để thấy.
Như
Văn Thù vừa khởi thấy Phật liền liếc thấy hai ngọn núi
Thiết Vi. Chúng ta tu để tỉnh sáng, giác ngộ. Cái tỉnh sáng
này không phải tìm kiếm ở đâu, ngay nơi tâm niệm mình vừa
dấy vọng tưởng liền biết hư dối, không để nó dẫn lôi,
đó là chúng ta tỉnh giác. Nó lặng thì thôi, ta cứ thanh tịnh
không bận bịu gì hết. Tu như vậy là đúng.
CHÁNH
VĂN:
Hỏi:
Nay chính khi ngộ, Phật ở chỗ nào?
Đáp:
Hỏi từ đâu đến, biết từ đâu khởi, nói nín động tịnh
tất cả thanh sắc đều là Phật sự, chỗ nào lại tìm Phật?
Không thể trên đầu lại để thêm đầu, trên mỏ lại thêm
mỏ (mỏ chim). Chỉ chớ sanh kiến chấp khác thì núi là núi,
nước là nước, Tăng là Tăng, tục là tục, núi sông, quả
đất, mặt trời, mặt trăng, sao, thảy đều không ngoài tâm
ông. Ba ngàn thế giới trọn là tự thể của ông, chỗ nào
có nhiều thứ? Ngoài tâm không pháp, khắp thấy núi xanh, hư
không thế giới rõ ràng mà không có bằng mảy tơ sợi tóc
cho ông sanh hiểu biết, nên nói “tất cả thanh sắc là mắt
tuệ của Phật”. Pháp không khởi riêng, nương cảnh mới
sanh, vì vật nhiều có trí nhiều. Trọn ngày nói mà đâu từng
nói, trọn ngày nghe mà đâu từng nghe, nên nói “Thích Ca bốn
mươi chín năm nói pháp mà chưa từng nói một chữ”.
GIẢNG:
Hỏi
từ đâu đến, biết từ đâu khởi, nói nín động tịnh tất
cả thanh sắc đều là Phật sự, chỗ nào lại tìm Phật?
Như vậy Phật ở chỗ nào? Mã Tổ hỏi ngài Huệ Hải “ông
tới đây cầu cái gì?” Đáp “cầu làm Phật”. Nói “kho
báu nhà mình không đoái hoài, tới đây tìm cái gì?” Hỏi
“cái gì là kho báu của Huệ Hải?” Đáp “cái ông hỏi
ta đó”. Cái biết hỏi, cái nói, cái nín đều có Phật trong
đó hết. Tại sao? Vì có hoạt động nào mà không có cái
biết trong đó. Không biết thì có nói, có nín, có hoạt động
không? Có nói, có nín là có hoạt động, mà có hoạt động
là có tâm. Biết là tâm. Như vậy tất cả hành động đều
có tâm trong đó. Tâm tức là Phật, như vậy tìm Phật ở
đâu? Phật ở khắp nơi. Chỉ đừng dính với ngoại trần
thì Phật hiện tiền, còn dính với ngoại trần thì Phật
ẩn, cho nên nói rằng không phải ở đâu khác.
Chỉ
nói nín động tịnh tất cả thanh sắc đều là Phật sự,
chỗ nào lại tìm Phật? Không thể trên đầu lại để thêm
đầu, trên mỏ lại thêm mỏ, Phật ở ngay trong mọi hành
động, không nên tìm Phật ở đâu nữa. Tìm Phật ở đâu
nữa thì chẳng khác nào trên đầu đặt thêm đầu, trên mỏ
chim đặt thêm mỏ chim.
Chỉ
chớ sanh kiến chấp khác thì núi là núi, nước là nước,
Tăng là Tăng, tục là tục, núi sông, quả đất, mặt trời,
mặt trăng, sao, thảy đều không ngoài tâm ông. Ba ngàn thế
giới trọn là tự thể của ông, chỗ nào có nhiều thứ?
Ngoài tâm không pháp, khắp thấy núi xanh, hư không thế giới
rõ ràng mà không có bằng mảy tơ sợi tóc cho ông sanh hiểu
biết, nên nói “tất cả thanh sắc là mắt tuệ của Phật”.
Tất cả thấy, nghe, biết của chúng ta đối với ngoại cảnh,
đối với sự vật lúc nào cũng có. Chỉ khác khi thấy nghe
hiểu biết mà sanh chấp, sanh dính thì đó là chúng sanh. Nếu
thấy mà không chấp, không dính là Phật. Cho nên tất cả
thanh sắc là mắt tuệ của Phật.
Pháp
không khởi riêng, nương cảnh mới sanh, vì vật nhiều có
trí nhiều. Trọn ngày nói mà đâu từng nói, trọn ngày nghe
mà đâu từng nghe, nên nói “Thích Ca bốn mươi chín năm nói
pháp mà chưa từng nói một chữ”. Chúng ta nếu không để
tâm duyên theo cảnh, cũng vẫn ăn, vẫn nói, vẫn làm mà không
để tâm dính với cái gì hết. Như vậy trọn ngày nói mà
chưa từng nói, trọn ngày nghe mà chưa từng nghe. Cho nên Đức
Phật nói ta bốn muơi chín năm thuyết pháp mà chưa từng nói
một chữ. Còn chúng ta nói thì kể ơn, kể công đủ thứ,
tôi thuyết được bao nhiêu thời pháp, tôi làm được cái
gì cái gì… Chúng ta không giống Phật ở chỗ đó.
CHÁNH
VĂN:
Hỏi:
Nếu như vậy chỗ nào là Bồ-đề?
Đáp:
Bồ-đề không phải chỗ, Phật cũng không được Bồ-đề,
chúng sanh cũng không mất Bồ-đề, không thể do thân mà được,
không thể lấy tâm mà cầu, tất cả chúng sanh tức là tướng
Bồ-đề.
GIẢNG:
Tại
sao nói Bồ-đề không phải chỗ, Phật cũng không được Bồ-đề?
Bởi vì Bồ-đề không có tướng mạo, Bồ-đề là tánh giác
sẵn có của chúng ta. Đã không tướng mạo làm sao có chỗ
nơi. Bởi tánh giác sẵn có nên chúng sanh không mất Bồ-đề,
Phật cũng không được Bồ-đề. Không thể do thân mà được
đó là chỗ nơi, không thể lấy tâm mà cầu đó là hình tướng,
tất cả chúng sanh tức là tướng Bồ-đề. Vì tất cả chúng
sanh đều sẵn có tánh giác, không phải riêng Phật, nhưng
Phật sớm thức tỉnh sống được với tánh giác nên gọi
là Phật. Chúng sanh mê lầm chạy theo điên đảo vọng tưởng
nên không thấy Bồ-đề, vì vậy gọi là chúng sanh. Nên biết
Bồ-đề không phải dành riêng cho Phật, cũng không phải chúng
sanh vô phần, khác nhau vì một bên tỉnh, một bên mê.
CHÁNH
VĂN:
Hỏi:
Thế nào là phát tâm Bồ-đề?
Đáp:
Bồ-đề không sở đắc, nay ông chỉ phát tâm không sở đắc,
quyết định không được một pháp, tức là tâm Bồ-đề.
GIẢNG:
Bồ-đề
không sở đắc, nay ông chỉ phát tâm không sở đắc, quyết
định không được một pháp, tức là tâm Bồ-đề. Thường
thường người tu cần phải phát tâm Bồ-đề, tại sao ở
đây nói Bồ-đề không sở đắc, nay ông chỉ phát tâm không
sở đắc. Phát tâm không sở đắc là tâm nào? Là tâm Bát-nhã
“dĩ vô sở đắc cố”. Do không có sở đắc, Bồ-tát y
Bát-nhã được quả Bồ-tát, Phật y Bát-nhã được quả Phật.
Như vậy phát tâm Bồ-đề là phải vận dụng trí tuệ Bát-nhã
chiếu soi tất cả pháp, thấy không có một pháp thật. Vì
không một pháp thật, có gì là sở đắc. Thấy không có sở
đắc là tâm Bồ-đề, như vậy tâm Bồ-đề là tâm vô sở
đắc.
Chúng
ta tu phát tâm cầu đắc hay vô sở đắc? Đa số ai tu cũng
cầu được thành Phật, thành Bồ-tát, thành A-la-hán, chớ
không ai tu để được vô sở đắc. Nếu không có vô sở
đắc thì không có Phật, không có Bồ-tát, vì Phật Bồ-tát
đều từ trí tuệ Bát-nhã, thấy tất cả các pháp như huyễn,
nên các ngài không dính không kẹt, không bị phiền não che
đậy, do đó tâm giác ngộ sáng suốt tự hiển bày. Vì vậy
gọi là Bồ-đề.
CHÁNH
VĂN:
Bồ-đề
không có chỗ trụ, thế nên không có đắc, nên nói “Ta ở
nơi Phật Nhiên Đăng không một chút pháp có thể được,
Phật liền thọ ký cho ta”.
GIẢNG:
Nói
tới Bồ-đề là nói tới giác ngộ, mà giác ngộ thì không
thấy có một pháp nào thật, nên không có chỗ trụ. Không
có chỗ trụ là không có sở đắc. Vì vậy trong kinh Kim Cang,
Phật dạy “Ta ở nơi Phật Nhiên Đăng không một chút pháp
có thể được, Phật liền thọ ký cho ta”. Vì không một
chút pháp có thể được là vô sở đắc, nên Phật Nhiên
Đăng thọ ký cho Đức Thích Ca sau này sẽ thành Phật. Muốn
thành Phật thì Bồ-tát hay chúng sanh phải tu đến chỗ vô
sở đắc. Chúng ta tu cầu đắc cầu chứng nhiều quá nên
không thành Phật được.
CHÁNH
VĂN:
Biết
rõ tất cả chúng sanh vốn là Bồ-đề, không lẽ lại được
Bồ-đề.
GIẢNG:
Tất
cả chúng sanh đều có tánh giác, là có Bồ-đề. Nếu tu được
Bồ-đề thì chẳng lẽ thêm Bồ-đề thứ hai sao? Cho nên biết
tất cả chúng sanh đều có tánh Bồ-đề thì không được
Bồ-đề nữa.
CHÁNH
VĂN:
Nay
ông nghe nói phát tâm Bồ-đề bèn cho là có một tâm học
làm Phật.
GIẢNG:
Nghe
nói phát tâm Bồ-đề tưởng có một tâm riêng học làm Phật,
không ngờ phát tâm Bồ-đề là phá hết tất cả những kiến
chấp các pháp là thật, phải quấy v.v… không dính nữa là
Bồ-đề hiện, chớ không có tâm Bồ-đề ở đâu đến.
CHÁNH
VĂN:
Chỉ
nghĩ làm Phật, dù ông tu ba a-tăng-kỳ kiếp cũng chỉ là Phật
báo thân, hóa thân cùng với Phật chân tánh bản nguyên của
ông có gì liên hệ, nên nói “cầu Phật có tướng bên ngoài,
cùng ông không tương tợ”.
GIẢNG:
Nếu
chúng ta nghĩ tu để được làm Phật thì dù tu tới ba vô
số kiếp cũng chỉ là Phật báo thân, Phật hóa thân, cùng
với Phật chân tánh tức Phật pháp thân không có gì liên
hệ. Tại sao? Người ta cứ quen nghĩ tu đủ tất cả công
đức như Phật, chừng đó sẽ có ba mươi hai tướng tốt,
tám mươi vẻ đẹp v.v.. đi giáo hóa chúng sanh, đó là thành
Phật. Như vậy muốn biết ai gần thành Phật hay chưa cứ
xem họ được bao nhiêu tướng tốt. Người nào được mười
lăm, hai chục tướng thì nghĩ hơi khá rồi, nếu ba chục tướng
xem ra gần thành Phật. Nếu vậy thử hỏi đức Phật có ba
mươi tướng tốt, hiện giờ ở đâu? Thành tro bụi hết rồi,
nếu còn thì chỉ là những viên xá lợi nho nhỏ, chớ không
phải ba mươi hai tướng tốt. Nên biết đức Phật có đủ
ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp là Phật báo thân.
Đức Phật thị hiện nơi này nơi nọ, giáo hóa chúng sanh
là Phật hóa thân. Phật báo thân, Phật hoá thân là Phật
sanh diệt. Chỉ có Phật pháp thân là miên viễn, bất sanh,
bất diệt, tất cả chúng sanh hiện giờ có sẵn Phật này.
Như
vậy chúng ta muốn thành Phật miên viễn hay Phật tạm thời?
Đa số muốn thành Phật ba mươi tướng tốt, tám mươi vẻ
đẹp, còn Phật miên viễn buồn quá, không thấy hình tướng
ra sao hết. Đã có tướng thì sanh diệt, kinh Kim Cang nói “phàm
sở hữu tướng giai thị hư vọng”. Đức Phật có tướng
cũng sanh diệt, chúng ta tu phải đạt được Phật pháp thân
mới không bị sanh diệt. Cho nên ở đây nói “cầu Phật
có tướng bên ngoài, cùng ông không tương tợ”, cầu làm
Phật có hình có tướng thì không phải Phật pháp thân của
chính mình, vì vậy cùng ông không tương tợ.
CHÁNH
VĂN:
Hỏi:
Xưa đã là Phật sao lại có tứ sanh, lục đạo các thứ hình
mạo chẳng đồng?
GIẢNG:
Ai
cũng có Phật tánh là đã thành Phật lâu rồi, tại sao lại
luân hồi trong Lục đạo, có tứ sanh v.v…
CHÁNH
VĂN:
Đáp:
Chư Phật thể tròn không tăng giảm, trôi vào Lục đạo mỗi
chỗ đều tròn, trong muôn loài mỗi mỗi đều là Phật.
GIẢNG:
Phật
tánh là Phật pháp thân tròn đủ, không tăng không giảm. Nhưng
vì theo nghiệp trôi lăn trong Lục đạo, tuy trôi lăn trong Lục
đạo nhưng tánh Phật cũng vẫn tròn đủ, trong muôn loài mỗi
mỗi đều có tánh Phật.
CHÁNH
VĂN:
Ví
như có viên thủy ngân, phân tán các chỗ, mỗi mảnh đều
tròn, nếu khi không phân chỉ là một khối. Đây là một tức
tất cả, tất cả tức một.
GIẢNG:
Ví
dụ viên thủy ngân được chia ra trong mỗi chung nhỏ, ở chung
nào nó cũng tròn. Nếu nhập chung lại thì nó thành một khối
thủy ngân tròn. Một là tất cả, tất cả là một. Phật
tánh vốn không hai, không khác nhưng mỗi chúng sanh mang một
Phật tánh riêng, chớ không phải chung lại.