ĐOẠN 3
CHÁNH
VĂN:
Chỉ
bảo ta biết vậy, học được vậy, khế ngộ vậy, giải
thoát vậy, có đạo lý vậy.
GIẢNG:
Ngài
chỉ cho chúng ta biết học đạo là vì sóng thức nổi dậy
ầm ầm nên phải làm cho dừng lại, lặng xuống thì mới
hiện rõ tánh biển vốn không động.
CHÁNH
VĂN:
Chỗ
mạnh ắt như ý, chỗ yếu ắt không như ý, cái thấy biết
ấy có dùng vào chỗ gì?
GIẢNG:
Chỗ
mạnh là những gì chúng ta thích thì như ý, không thích thì
bất như ý. Người còn phân biệt như vậy là chưa dùng được
tâm chân thật.
CHÁNH
VĂN:
Tôi
nói với ông, rảnh rang vô sự chớ dối dụng tâm.
GIẢNG:
Rảnh
rang vô sự sướng quá chừng, trên trần gian này đâu có ai
sướng hơn. Dù các ông cự phú đầu cũng rối nùi. Người
rảnh rang vô sự là tiên rồi. Muốn thế phải làm sao? Mỗi
đêm thắp hương cầu Phật cho con rảnh rang vô sự được
không? Không được. Việc đó do sức của tự mình, nhất
là trí phải sáng. Nhờ trí sáng nên không chấp, không chấp
mới rảnh rang vô sự. Vì vậy người tu thì trí Bát-nhã luôn
đi đầu. Tất cả sợi dây vọng thức trói buộc chúng ta
với các pháp, mình phải dùng kiếm Bát-nhã chặt hết. Chừng
nào đứt hết các dây ràng buộc mình mới tự tại. Do đó
đêm nào chúng ta cũng tụng Bát-nhã. Nhưng hình như tụng để
Phật nghe thôi, chớ không thấm chi tới mình.
Do
chúng ta dính mắc với pháp trần, chấp thân chấp cảnh, nên
vận dụng trí Bát-nhã quán chiếu thấy thân cảnh là tướng
duyên hợp hư dối, không thật. Biết nó hư dối tạm bợ,
nên mình không quan trọng, không dính mắc. Đó là một lẽ
thực trong việc tu.
CHÁNH
VĂN:
Chẳng
cần cầu chân, chỉ phải dứt kiến chấp.
GIẢNG:
Người
tu không cần cầu chân mà phải dứt kiến chấp. Câu này hết
sức chí lý. Chúng ta thường mắc lỗi là thấy bên này giả,
bên kia thật, rồi muốn tìm cho ra cái thật mà không nghĩ
rằng chỉ không chấp thật, liền hết kiến chấp. Hết kiến
chấp là chỗ chân thật cứu cánh. Còn thấy bên này chân,
bên kia giả thì chưa phải cứu cánh.
CHÁNH
VĂN:
Nên
nói “thấy trong thấy ngoài đều lầm, Phật đạo ma đạo
đều ác”.
GIẢNG:
Thấy
hoặc tâm ở trong, hoặc tâm ở ngoài v.v… đều lầm. Thấy
đây là Phật đạo, kia là ma đạo đều sai. Tại sao? Vì hai
bên là không thật, cái chân thật không có hai bên.
CHÁNH
VĂN:
Cho
nên Ngài Văn Thù vừa khởi thấy hai liền thấy hai ngọn núi
Thiết Vi. Văn Thù tức là thật trí, Phổ Hiền tức là quyền
trí. Quyền thật đối trị nhau, cứu cánh không có quyền
thật, chỉ là một tâm.
GIẢNG:
Vừa
thấy hai liền có hai ngọn Thiết Vi sẵn một bên.
CHÁNH
VĂN:
Tâm
chẳng phải Phật, chẳng phải chúng sanh, không có thấy khác.
GIẢNG:
Tâm
là tâm, không nói Phật, không nói chúng sanh.
CHÁNH
VĂN:
Vừa
có thấy Phật liền thấy chúng sanh, thấy có thấy không,
thấy thường thấy đoạn bèn thành hai ngọn núi Thiết Vi,
bị cái thấy che ngại.
GIẢNG:
Thấy
có thấy không, thấy Phật thấy chúng sanh, đó là thấy hai,
mà thấy hai là che ngại tâm chân thật rồi.
CHÁNH
VĂN:
Tổ
sư chỉ thẳng tất cả chúng sanh bản tâm, bản thể xưa nay
là Phật, chẳng nhờ tu mà thành, chẳng thuộc thứ lớp dần
dần, chẳng phải sáng tối.
GIẢNG:
Phật,
Tổ chỉ cho chúng ta biết tất cả chúng ta đều có Phật
sẵn, Phật sẵn đó không phải do tu mà được. Nếu Phật
do tu mà được thì đó là Phật sanh diệt, vì công phu huân
tu thuộc pháp sanh diệt. Như vậy tu là tu cái gì? Tu là vận
dụng sức phá dẹp vọng thức phân biệt của mình, vọng
thức phân biệt lặng sạch thì ông Phật của mình hiện ra,
chớ không phải tu để thành ông Phật.
Khi
tu là sử dụng thân khẩu ý làm lành làm tốt, làm lành làm
tốt thuộc pháp sanh diệt. Sanh diệt là sanh diệt, không thể
thành cái không sanh diệt được, vì vậy tu không phải thành
Phật, mà tu là dẹp hết vọng tưởng thì Phật sẵn hiện
ra, chớ không phải tu để thành Ngài. Lâu nay chúng ta quen
nói ráng tu thành Phật, sự thực không phải như vậy. Cái
chân thật sẵn có nhưng vì bị che khuất, bây giờ chỉ làm
cho nó hiện ra thôi, không nói thành. Tu là vén màn vô minh
để Phật hiện ra, chớ không có gì khác. Chuyện Phật đã
sẵn có, mình chỉ cần vén màn vô minh lên thì Phật hiện
ra, dễ hay khó? Cái đã sẵn mình vạch ra thì dễ quá chừng
rồi, nắm chắc trăm phần trăm trong tay. Cái ở đâu tìm kiếm
thì không chắc, chớ nó đã sẵn rồi chỉ cần vạch ra là
xong, thì đâu có khó. Hết sức đơn giản, chỉ chịu khó
vạch màn vô minh hay không chịu khó vạch thôi.
Có
người nào nói tôi nguyện suốt kiếp bị vô minh che lấp
không, hay nguyện thành Phật? Nếu nguyện theo vô minh thì cần
gì tu. Ai cũng nguyện thành Phật, chuyện thành Phật không
phải khó, mà khó là tại mình còn thương vô minh. Quí vị
có thương thân này không? Thương thì vô minh. Phật dạy chiếu
kiến ngũ uẩn giai không, mà thương nó là thấy nó có thật,
như vậy không phải vô minh là gì. Thương những suy nghĩ tốt
của mình không? Thương, cũng là vô minh luôn. Vô minh làm cho
mình khổ, mà thương nó thì làm sao hết khổ.
Ngày
nay chúng ta còn khoẻ mạnh còn đủ hơi ấm, còn đi đứng
được thì thấy dễ thương. Nhưng ngày mai tắt thở, nằm
trên giường chừng ba bữa, không ai để vô quan tài thì còn
dễ thương không? Rõ ràng như vậy tại sao mình cứ thương
nó. Con người đang sống còn hoạt động, đủ hơi ấm thì
tạm vui vẻ với nhau. Nhưng lúc tắt thở rồi dù thân thiết
mấy, chia sẻ với mình tất cả mọi buồn vui khốn khó đến
đâu, mình cũng không dám trải chiếu nằm một bên. Thân này
đã như vậy tại sao ta thương nó? Chỉ nên mượn thân làm
việc gì có lợi ích hoặc tu hành để được giải thoát
an vui. Nếu nuôi nó để chờ ngày tắt thở, trở thành thây
thối thì thật đáng thương, như vậy có phải phí công không?
Sở
dĩ nhà Phật thường nói “thân người khó được”, vì
khi ta được nó mà không biết tu, không làm lợi ích cho mình
cho người, đến khi thân mất rồi khó có thể được lại.
Hoặc nhận thân xấu xí lông lá lù xù như con chó, con heo
thì khổ nữa. Làm thân người khả dĩ còn có những phút
giây tỉnh, còn con chó con gà con heo, có con nào biết thân
này vô thường đâu. Chỉ vô thường thôi nó cũng không biết,
nói chi đến chân tâm Phật tánh, giác ngộ giải thoát. Cho
nên Phật nói thân người khó được, vì sợ mất thân rồi,
rơi xuống các đường thấp thì không biết bao giờ tỉnh?
Các loài vật thấp hết sống lại chết, tạo nghiệp triền
miên, cứ vậy mà đi xuống đi xuống mãi. Được thân người
là cơ hội tốt để chúng ta vươn lên, có trí tuệ thấy
biết đúng sai chân giả để tu tập chuyển hóa, làm lợi
ích cho mọi người. Cho nên được nó rồi phải biết quí
trọng và dùng nó đúng cách.
Nếu
được thân người rồi cứ lo ăn ngon mặc đẹp, vui vẻ tươi
cười chờ ngã đùng chết thì có giá trị gì? Cho nên được
thân người, chúng ta phải làm hai việc: một là nhận định
đúng thân này ra sao, tìm cái thật ở nơi nó; hai là khi thấy
được lẽ thật rồi cố gắng chỉ dạy, bảo cho mọi người
cùng thấy lẽ thật đó. Như vậy mới tròn bổn phận của
mình. Tự giác giác tha là tâm của Bồ-tát. Vì đạo Phật
là đạo giác, đạo thấy đúng như thật. Người nào thấy
thân quí, thân thật, đó là người mê. Thấy thân này giả
dối tạm bợ, ngày nào còn sống ráng lợi mình, lợi người,
đó là cái thấy của người tỉnh. Tỉnh là Bồ-tát, mê là
chúng sanh.
Chúng
ta biết tu, biết thương mình phải cố gắng làm sao đừng
lệ thuộc vào vòng nghiệp thức lôi cuốn. Mỗi người tự
cố gắng phá dẹp vô minh để được sáng suốt. Như vậy
mới thật là người tu. Cho nên ở đây nói:
CHÁNH
VĂN:
Chẳng
phải sáng nên vô minh, chẳng phải tối nên vô ám, nên nói
“không vô minh cũng không hết vô minh”.
GIẢNG:
Thể
tâm chân thật không phải sáng, không phải tối. Nhận được
tâm đó rồi thì không có vô minh, cũng không có hết vô minh.
CHÁNH
VĂN:
Vào
tông môn tôi đây cần yếu tại ý như thế. Thấy được
gọi đó là Pháp, thấy Pháp nên gọi đó là Phật, Phật pháp
đều không, gọi đó là Tăng.
GIẢNG:
Vào
tông môn tôi đây cần yếu tại ý như thế, người nào vào
tông môn của nhà Thiền thì phải biết được ý như vậy.
Thấy
được gọi đó là Pháp, thấy Pháp nên gọi đó là Phật,
Phật pháp đều không, gọi đó là Tăng. Ở đây nói thấy
được tức là thấy được lẽ thực, gọi là pháp, pháp
ấy gọi là Phật. Rốt ráo Phật pháp đều không, đó là
Tăng. Tại sao thấy Phật, thấy pháp, rồi Phật pháp đều
không? Bởi vì thấy Phật, thấy pháp là còn hai bên, mà tâm
chân thật không có hai bên. Nhận ra tâm chân thật là Tăng,
nên nói không còn hai bên nữa.
CHÁNH
VĂN:
Kêu
là tăng vô vi, cũng gọi là nhất thể Tam Bảo.
GIẢNG:
Tăng
là tăng vô vi, tăng không sanh diệt. Vì tăng nhận được thể
chân tâm không còn đối đãi, chỉ là tâm chân thật thôi,
nên gọi là tăng vô vi không sanh diệt, cũng gọi là nhất
thể Tam Bảo. Như vậy Phật Pháp Tăng chung lại một thể,
chớ không có hai.
CHÁNH
VĂN:
Phàm
người cầu pháp không nên chấp nơi Phật mà cầu, chẳng
chấp nơi pháp mà cầu, chẳng chấp nơi chúng tăng mà cầu,
nên không có chỗ cầu.
GIẢNG:
Người
cầu pháp mà không chấp Phật Pháp Tăng, nghĩa là không cầu
nơi Phật, không cầu nơi Pháp, không cầu nơi Tăng thì cầu
cái gì? Cầu vén màn vô minh cho ông Phật của mình hiện ra
thôi, chớ không cầu Phật Pháp Tăng ở ngoài.
CHÁNH
VĂN:
Không
chấp nơi Phật cầu nên không Phật, không chấp nơi Pháp cầu
nên không Pháp, không chấp nơi chúng Tăng cầu nên không Tăng.
GIẢNG:
Cuối
cùng chỉ là tâm, không có Phật Pháp Tăng ở bên ngoài. Phật
pháp là phương tiện chớ không phải chân thật, chân thật
là trở về tâm trong sạch, sáng suốt, bất sanh bất diệt
của mình. Đó là gốc.
CHÁNH
VĂN:
Hỏi:
Nay thấy Hòa thượng nói pháp thì đâu thể nói không Tăng
cũng không Pháp?
Đáp:
Nếu ông thấy có pháp nên nói, tức là lấy âm thanh cầu
ta, nếu thấy có ta tức là xứ sở, pháp cũng không pháp,
pháp tức là tâm.
GIẢNG:
Nếu
thấy có người nói pháp, có người nghe pháp là lấy âm thanh
mà cầu. Trong kinh Kim Cang Phật dạy “nếu lấy âm thanh cầu
ta người đó hành đạo tà”. Nếu thấy ta có tức có xứ
sở là có nơi chốn. Pháp cũng không pháp tức là tâm. Pháp
tức là tâm, pháp do Phật nói, Tổ nói, pháp đó không phải
pháp bên ngoài. Tất cả đều chỉ về tâm, nên nói pháp tức
là tâm.
CHÁNH
VĂN:
Tổ
sư nói: “Khi trao tâm pháp này, pháp pháp đâu từng pháp”.
GIẢNG:
Tổ
nói khi trao tâm pháp này, mỗi pháp mỗi pháp đều không phải
pháp. Tại sao? Vì tất cả đều hướng về tâm.
CHÁNH
VĂN:
Không
pháp, không bổn tâm mới hiểu tâm tâm pháp.
GIẢNG:
Nghĩa
là khi không thấy có một pháp thật, cũng không chấp tâm
có chân có giả. Lúc đó mới hiểu được tâm tâm pháp là
tâm mà Tổ muốn chỉ.
CHÁNH
VĂN:
Thật
không một pháp có thể được gọi là ngồi đạo tràng. Đạo
tràng chỉ là không khởi các kiến chấp.
GIẢNG:
Người
nào không thấy một pháp có thể được, không thấy có một
pháp thật, đó là ngồi đạo tràng. Như vậy đạo tràng ở
chỗ nào? Ở đâu mà thấy pháp thật thì không phải đạo
tràng. Ngồi chỗ nào mà thấy các pháp duyên hợp hư ảo,
không có gì quan trọng thì chỗ ấy là đạo tràng, nơi nơi
là đạo tràng. Đạo tràng chỉ là không khởi các kiến chấp,
ngồi đâu mà không khởi kiến chấp, chỗ đó là đạo tràng.
CHÁNH
VĂN:
Ngộ
pháp vốn không, gọi là không Như Lai tàng. Xưa nay không một
vật chỗ nào dính bụi bặm. Nếu được ý trong đây, tiêu
diêu đâu có chỗ bàn.
GIẢNG:
Ngộ
pháp vốn không tức ngộ các pháp vốn là không, thể tánh
nó không, không thật, đó gọi là không Như Lai tàng. Dẫn
lời Tổ Huệ Năng nói “Xưa nay không một vật chỗ nào dính
bụi bặm”, đó là ngài thấy đến chỗ tột cùng không Như
Lai tàng. Nếu được ý trong đây, thì người đó tiêu diêu
không có chỗ nghĩ bàn.
CHÁNH
VĂN:
Hỏi:
Xưa nay không một vật, không vật là phải chăng?
Đáp:
Không cũng chẳng phải. Bồ-đề không chỗ ấy, cũng không
không hiểu biết.
GIẢNG:
Nếu
chấp cái không thì cái không ấy cũng không phải. Tại sao?
Vì Bồ-đề không có cái không cũng không có cái có, cho nên
cũng không không hiểu biết.
CHÁNH
VĂN:
Hỏi:
Sao là Phật?
Đáp:
Tâm ông là Phật, Phật tức là tâm, tâm Phật không khác.
Nên nói: “tức tâm là Phật”. Nếu lìa tâm ra không có Phật
khác.
GIẢNG:
Xác
nhận tâm chúng ta là Phật. Nói tâm là Phật là nói tâm nào,
có phải tâm suy nghĩ phải quấy, hay dở không? Tâm đó không
phải Phật. Tâm Phật là tâm không dính gì hết, không chấp
cái gì hết, tâm đó tức là Phật. Phật là chỉ cho tâm hiện
biết tất cả mà không dính, không chấp.