Đồng thời đức Phật Ngài dòng Bà-la-môn (Brahmana) ở nước
Ma-Kiệt-Đà, cha tên Ẩm-Trạch, mẹ tên Hương-Chí. Thưở bé, Ngài dung nghi
trang nhã, toàn thân màu vàng, ánh sáng chiếu rất xa. Thầy tướng xem
tướng ngài nói: ─ Đứa bé nầy đời trước có phước đức thù
thắng, lẽ ưng xuất gia Cha mẹ Ngài nghe nói lo sợ,cùng nhau thầm bàn
(sẽ cưới vợ đẹp để làm nhụt chí của nó). Vừa lớn lên, cha mẹ liền lo
chọn người lập gia thất cho ngài, nhưng ngài một bề từ chối, sau cùng
bất đắc dĩ ngài phải nói: ─ Có người con gái nào thân đồng màu sắc như
con, con mới ưng cưới. Cha mẹ ngài bèn đúc một tượng vàng, đẩy đi
khắp trong nước, tìm người nữ nào giống màu sắc ấy, cưới cho ngài. Quả
nhiên, gặp được một cô con gái giống hệt như ngài, thế là ngài phải lập
gia đình Bởi đời đức Phật Tỳ Bà Thi (Vipasyin), sau
khi Phật Niết-bàn, chúng xây tháp thờ Xá-lợi, trong tháp có an trí một
pho tượng Phật phết vàng. Lâu ngày pho tượng trên mặt bị lở khuyết. Khi
ấy, ngài ca-diếp là thợ đúc vàng, có cô gái nhà nghèo, vì thấy mặt Phật
hư khuyết, cô còn một đồng tiền vàng đem đến nhờ Ngài ca-diếp nấu ra để
phết lại tượng Phật.Thấy cô phát tâm tu bổ tượng Phật, ngài rất hoan hỷ
đứng ra làm chu tất việc nầy, nhơn đó, hai người cùng nguyện đời đời sẽ
làm vợ chồng, mà coi như đôi tri-kỷ, chớ không vì tình dục. Do phước báo đó nên 91 kiếp thân thể hai vị
đều toàn một màu vàng. Sau sanh cõi Phạm-thiên, hết phước cõi Phạm-thiên
chết, sanh về cõi nầy trong nhà Bà-là-môn giàu có hiện tại. Tuy hiện nay
hai vị làm vợ chồng, mà sống như tình tri-kỷ, không có ý dâm dục. Đến sau, cả hai đều xin cha mẹ xuất gia. Cha
mẹ bằng lòng,ngài liền xuất gia làm Sa-môn vào núi tu hạnh Đầu-đà
(Dhuta). Một hôm,nhơn nghe trong hư không có tiếng bảo: ─ Phật đã ra đời, nên đến đó thọ giáo. Ngài liền tìm đến tịnh-xá Trúc-Lâm, chí thành
đảnh lễ Phật. Phật bảo: ─ Lành thay Tỳ-kheo đến đây, hãy cạo bỏ râu
tóc đi. Ngài liền cạo bỏ râu tóc, thọ giới Tỳ-kheo,
mặc y cà-sa. Từ đây, ngài theo Phật hiểu sâu giáo Pháp, tinh tấn tu hành
không lúc nào lơi lỏng, cho đến chứng quả A-La-Hán. Có lần ngài từ xa
đến ra mắt Phật. Các chúng Tỳ kheo ngồi vây quanh Phật, trông thấy ngài
mặc y bằng vải rách, thân hình tiều tụy, có ý thầm khi. Phật biết, bèn
bảo: ─ Ca-Diếp đến đây! Ta nhường nửa tòa cho
ngồi. Ngài vẫn không dám ngồi. Phật bảo các
Tỳ-kheo: Ta có đại từ đại bi, các thiền-định tam-muội
và vô lượng công đức để tự trang nghiêm. Tỳ-kheo Ca-Diếp cũng như thế.
Do đó,ta nhường nửa tòa cho Ca-Diếp ngồi. Chúng Tỳ-kheo đều dứt tâm ngạo
mạn, lại thầm cung kính ngài. Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm
cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm
chím cười (niêm hoa vi tiếu ). Phật bảo: ─ Ta có chánh Pháp nhãn tạng, Niết-bàn
diệu-tâm, pháp môn mầu nhiệm, chẳng lập văn-tự, ngoài giáo lý truyền
riêng, nay giao phó cho ngươi. Ngươi khéo gìn giữ chánh pháp nầy, truyền
trao mãi đừng cho dứt, đến sau sẽ truyền cho A-Nan. Thế-Tôn đến trước
tháp Đa-Tử gọi Ma-Ha-Ca-Diếp đến chia nửa tòa cho ngồi, lấy y
Tăng-Già-Lê quấn vào mình Ca-Diếp, rồi nói kệ phó pháp: Pháp bổn pháp vô pháp vô pháp pháp diệc pháp Kim phó vô pháp thời Pháp pháp hà tằng pháp. Dịch: Pháp gốc pháp không pháp Pháp không pháp cũng pháp Nay khi trao không pháp Mỗi pháp đâu từng pháp. Ngài già yếu, Phật nhiều lần khuyên: ─ Ca-Diếp tuổi đã già, nên ở một chổ nhận
những thức cúng dường của thí chủ, chớ đi khất thực nhọc nhằn. Ngài bạch Phật: ─ Con tuy già yếu, song không dám ở một chổ
thọ sự cúng dường của thí chủ. Vì sợ e sau này, các Tỳ kheo đời sau sẽ
nói: ─ Đệ tử lớn của Phật trước kia vẫn ở một chỗ
thọ sự cúng dường, rồi họ sanh phóng túng. Lúc Phật Niết-bàn tại thành Câu-Thi-Na trong
rừng Sa-La, thì ngài đang ở trong động Tất-Bát-La (SthaviRa) trên núi
Kỳ-Xà-Quật. Nghe tin Phật Niết-bàn, ngài và 500 đệ tử vội vã hướng về
thành Câu-Thi-Na. Đến nơi, đã đễ Phật vào kim-quan, ngài buồn bã. Thầy
trò đi nhiễu kim-quan ba vòng, rồi đảnh lễ Phật. Khi ấy, hai bàn chân
Phật duỗi ra ngoài kim-quan để an ủi ngài. Ngài vuốt ve hai bàn chân
Phật, lòng rất bi thảm. Sau khi thiêu thân Phật xong,ngài tuyên bố
với chúng Tỳ-kheo: ─ Xá-lợi của Phật giao cho trời, người xây
tháp thờ làm ruộng phước, còn trách nhiệm Tỳ-kheo chúng ta phải lo kết
tập kinh điển để lưu lại đời sau. Ngài bèn nói kệ: Như-Lai đệ tử Thả mạc Niết-bàn Đắc thần thông giả Đương phó kiết tập Dịch: Đệ tử Như-Lai Chớ vội Niết-bàn Người được thần thông Nên đến kiết tập. Thế là, sau Phật Niết-bàn 7 ngày, Ngài triệu
tập 500 vị đại A-La-Hán tụ hợp tại núi Kỳ-Xà-Quật, trong động Tất-Bát-La
kiết tập. Chỉ có tôn giả A-Nan không được dự hội, vì chưa sạch các lậu,
Tôn-giả A-Nan buồn bả, suốt đêm chuyên tâm thiền-định, đến gần sáng liền
chứng ngộ, các lậu dứt sạch được quả A-La-Hán. Sau đó,tôn giả được mời dự hội. Ngài thưa
toàn chúng: ─ Tỳ-kheo A-Nan nhớ giỏi bậc nhất, thường
theo hầu hạ Như-Lai, nghe pháp Phật nói ghi nhớ không sót, như nước rót
vào bình không rơi ngoài một giọt, nên mời kiết-tập tạng Kinh và tạng
Luận. Mời Tỳ-kheo Ưu-Ba Ly kiết tập tạng Luật. Toàn chúng đều hoan-hỷ
chấp thuận. Hội kiết-tập nầy, Ngài là chủ-tịch. Sau cuộc
kiết tập đã viên mãn,nhơn duyên độ sanh đã xong xuôi, Ngài thấy tuổi đã
già yếu lắm, bèn gọi tôn giả A-Nan đến bảo: ─ Khi Như-Lai sắp vào Niết-bàn có dặn ta đem
chánh pháp nhãn tạng giao phó cho ông. Nay ta sắp ẩn, đúng lúc giao phó
cho ông, ông phải khéo gìn giữ chớ để đoạn dứt. Ngài nhớ lời Phật dặn giữ gìn y bát của Phật
đợi đến Phật Di-Lặc ra đời sẽ trao lại, nên dự bị vào núi Kê-Túc nhập
định. Liền đó, Ngài đi từ giả vua A-Xà-Thế và những người thân thuộc,
rồi vào núi Kê-Túc trải tòa cỏ ngồi an nhiên nhập định Sanh sau Phật 30 năm Ngài con vua Hộc-Phạn, dòng Sát-đế-lợi, ở
thành Ca-tỳ-la-vệ, em ruột Đề-bà-đạt-đa, em con nhà chú của Phật Thích
Ca. Thuở nhỏ, ngài có nhiều tướng tốt và thông minh tuyệt vời. Đến 25
tuổi xin theo Phật xuất gia. Một hôm, Phật cần chọn người làm thị giả, tất
cả hội chúng lần lượt đứng ra xin làm thị giả, mà Phật không bằng lòng.
Sau cùng, Tôn-giả Đại-Mục-Kiền-Liên nhập định biết tôn ý Phật muốn A-Nan
làm thị giả. Đại chúng cử Tôn- giả Mục-Kiền-Liên,
Xá-Lợi-Phất, v, v…. đến yêu cầu Ngài làm thị giả. Ngài nhiều lần từ
chối, song các Tôn-giả một bề nài nỉ buộc lòng Ngài phải xin Phật ba
điều, nếu Phật ưng cho, Ngài mới dám làm thị giả. 1/ Không theo Phật thọ trai riêng, nếu thí
chủ không mời ngài. 2/ Không mặc y thừa của Phật. 3/ Không đến Phật phi thời. Thế-Tôn chẳng
những chấp thuận lời xin của Ngài, mà còn khen ngợi Ngài thông minh biết
dự đoán trước những điều sẽ xẩy ra. Thế là, Ngài theo làm thị giả Phật
ngót 25 năm. Hôm nọ, Ngài đi khất thực về đến tịnh-xá
Phật, thấy Di mẫu Ma-ha Ba-Xà-Ba-Đề đang đứng tựa cửa khóc. Di mẫu quần
áo bụi bặm, chân dính bùn nhơ, vẻ người bi thảm. Ngài đến gần hỏi duyên
cớ. Biết Bà từ xa tìm đến xin Phật xuất gia, đôi ba phen năn nỉ mà Phật
quyết định không cho. Ngài cảm động, vào đảnh lễ Phật xin cho Bà được
xuất gia. Phật vẫn nhiều lần từ chối, Ngài vẫn kiên chí xin kỳ được mới
thôi. Thế là mở đầu cho phái nữ xuất gia, chính Ngài là người tích cực
khai đường vậy. Chính đức Phật đã từng khen Ngài: ─ Thị giả của các đức Phật đời quá khứ, không
ai hơn A-Nan, thị giả các đức Phật đời vị lai cũng không ai hơn A-Nan.
Và Phật khen A-Nan được tám điều chưa từng có
v.v… Sau khi Phật Niết-bàn, Tổ Ca-Diếp triệu tập
các đại Tỳ-kheo kiết tập kinh điển, Ngài là người được toàn hội đề cử
kiết tập tạng kinh… Khi sắp tụng lại lời Phật, Ngài nhìn qua đại chúng
nói kệ: Tỳ-kheo chư quyến thuộc Ly Phật bất trang nghiêm! Du như hư không trung Chúng tinh chi vô nguyệt. Dịch: Tỳ-kheo các quyến thuộc Vắng Phật chẳng trang nghiêm! Ví như trong hư-không , Nhiều sao mà không trăng. Nói kệ xong, Ngài đảnh lễ đại chúng, lên pháp
tòa mở đầu: ─ Tôi nghe như vầy, một lúc nọ Phật ở tại
xứ….nói kinh…. cho đến trời người v.v…đều kính lễ vâng làm. Ngài kiết tập kinh xong Tổ Ca Diếp hỏi đại
chúng: ─ Đại-Đức A-Nan tụng đọc lại có chỗ nào sai
lầm chăng? Đại chúng đồng thinh đáp: Chẳng khác những lời đức Thế-Tôn đã nói. Một hôm Ngài hỏi Tổ Ca-Diếp: ─ Khi Thế-Tôn phú chúc và truyền y kim-tuyến
cho sư-huynh, còn có truyền pháp gì riêng nữa chăng? Tổ Ca-Diếp liền gọi: ─ A-Nan! Ngài ứng thinh: ─ Dạ.! Tổ Ca-Diếp bảo: ─ Cây cột phướng trước chùa ngã. Ngài nhơn
đây tỏ ngộ. Tổ Ca-Diếp bèn ấn chứng và đem chánh pháp
nhãn-tạng truyền lại cho Ngài. Tổ nói kệ: Pháp pháp bổn lai pháp, Vô pháp vô phi pháp. Hà ư nhất pháp trung, Hữu pháp hữu phi pháp Dịch: Các pháp,pháp xưa nay, Không pháp,không phi pháp. Tại sao trong một pháp, Có pháp,có phi pháp? Ngài đảnh lễ thọ nhận. Môn đệ của Ngài có hai
vị xuất sắc, Thương-Na-Hòa-Tu và Mạc-Điền-Để Ca (Mạc-Điền-Địa). Ngài
chọn Thương Na Hòa Tu làm người kế thừa tổ vị và truyền trao y bát lại.
Cảm thấy thân bèo bọt đã đến thời kỳ hoại
diệt, đã tìm được người kế.thừa, Ngài dự định vào Niết-bàn, Ngài đến từ
giả vua A-Xà-Thế, song không gặp vua. Ngài liền đi thẳng đến bờ sông
Hằng, lên một chiếc thuyền ngồi kiết-già thả trôi lơ lửng giữa dòng
sông. Vua A-Xà-Thế hay tin Ngài sắp vào Niết-bàn ở sông Hằng, liền cùng
quan quân tùy tùng tìm đến bờ sông. Vua thấy Ngài ngồi trên thuyền ở
giữa dòng sông bèn đảnh lễ nói kệ: Khể thủ tam giới tôn, Khí ngã như chí thử. Tạm bằng bi nguyện lực, Thả mạc Bát-niết-bàn. Dịch: Lạy đấng tôn tam giới, Bỏ con đến nơi nầy. Tạm nương sức bi nguyện, Xin chớ vội Niết-bàn. Vua nước Tỳ-Xá-Ly nghe tin cũng đến bên bờ
kia sông Hằng, đảnh lễ và nói kệ: Tôn giả nhất hà tốc, Nhi qui tịch diệt trường! Nguyện trụ tu du gian, Nhi thọ ư cúng dường. Dịch: Tôn giả sao quá nhanh, Sớm vào nơi tịch diệt! Xin tạm dừng chốc lát, Để nhận con cúng dường. Ngài thấy hai vua đồng đến khuyến thỉnh, bèn
nói kệ: Nhị vương thiện nghiêm trụ, Vật vi khổ bi luyến. Niết-bàn đương ngã tịnh, Nhi vô chư hửu cố. Dịch: Hai vua ở an vui, Chớ vì thương buồn khổ. Niết-bàn, tôi an tịnh, Vì không còn các nghiệp. Ngài giữ tâm bình đẳng ở giữa dòng sông vào
Niết-bàn. Hai vua họp nhau làm lễ thiêu thân Ngài và phân chia xá-lợi
xây tháp cúng dường. Thế kỷ đầu sau Phật Niết-bàn Ngài dòng Tỳ-Xá-Đa nước Ma-Đột-La, cha tên
Lâm-Thắng, mẹ là Kiều-Xa-Da. Ngài ở trong thai mẹ sáu năm mới sanh. Tục
truyền ở Ấn-Độ khi nào cỏ Thương-Nặc-Ca sanh là có một vị thánh nhơn ra
đời. Chính khi Ngài lọt lòng mẹ thì thứ cỏ ấy cũng mọc lên, vì thế cha
mẹ Ngài đặt tên là Thương-Na-Hòa-Tu. Lúc đầu, Ngài xuất gia làm đồ đệ vị tiên ở
núi Tuyết. Chính Ngài tu theo pháp tiên đã được thần thông, sau gặp Tổ
A-Nan, Ngài hồi đầu trở về chánh pháp. Tổ A-Nan, thấy Ngài đã thâm ngộ
diệu tâm nên truyền pháp kệ rằng: Bổn lai truyền hửu pháp, Truyền liễu ngôn vô pháp Các các tu tự ngộ Ngộ liễu vô vô pháp. Dịch: Xưa nay truyền có pháp Truyền rồi nói không pháp. Mỗi mỗi cần tự ngộ Ngộ rồi không không pháp. Tổ lại dặn: ─ Xưa Đức Như-Lai đem đại pháp nhãn nầy trao
cho Ngài Ca-Diếp, Ngài Ca-Diếp trao lại cho ta, nay ta sắp vào Niết-bàn
đem trao lại cho ngươi, Ngươi phải khéo gìn giữ truyền trao không để dứt
mất. Sau khi đắc pháp nơi Tổ A-Nan, Ngài đi đến
khu rừng Ưu-Lưu-Trà cất tịnh-xá hoằng hóa Phật-pháp rất hưng thịnh.
Chính nơi đây, khi Phật còn tại thế có lần đi giáo hóa ngang khu rừng
nầy, Phật nói với A-Nan: Sau khi ta Niết-bàn, khoảng 100 năm, có một
Tỳ-kheo tên Thương-Na-Hòa-Tu ở tại khu rừng nầy hoằng truyền chánh pháp
Thấy cơ duyên hóa đạo đã viên mãn, Ngài đem
chánh pháp nhãn tạng truyền lại cho đệ tử là Ưu-Ba-Cúc-Đa. Ngài vào núi
Bạch-Tượng phía Nam nước Kế-Tân sắp vào Niết-bàn. Nhơn trong chánh định
Ngài thấy nhóm 500 người đệ tử của Ưu-Ba-Cúc-Đa thường hay lười biếng và
khinh mạn, Ngài liền đến cảnh tỉnh họ, khi Ngài đến, Ưu-Ba-Cúc-Đa đi
vắng. Ngài lại tòa của Ưu-Ba-Cúc-Đa ngồi, đệ tử Cúc-Đa không biết Ngài
là người gì? Tất cả đều bực tức không phục. Họ chạy báo cho Cúc-Đa hay.
Cúc-Đa về đến thấy thầy mình liền đảnh lễ. Song đệ tử vẫn còn tâm khinh
mạn chẳng kính. Ngài lấy tay mặt chỉ lên hư không liền có sữa thơm chảy
xuống, Ngài bảo Cúc-Đa.: ─ Ngươi biết gì chăng. Cúc-Đa thưa: ─ Chẳng biết. Cúc-Đa bèn nhập chánh định để
xem xét, cũng không thể hiểu. Cúc-Đa thưa: ─ Điềm lành nầy do chánh định gì xuất hiện?
─ Đây là chánh định Long-Phấn-Tấn. Còn cả năm
trăm thứ chánh định như thế mà ngươi chưa biết. Chánh định của Như-Lai,
hàng Bích-Chi không thể biết. Chánh định của Bích-Chi, hàng La-Hán không
thể biết. Chánh định thầy ta là A-Nan, ta cũng không biết. Nay chánh
định của ta, ngươi đâu thể biết. Chánh định ấy là tâm không sanh diệt,
trụ trong sức đại từ, cung kính lẫn nhau, được thế đó mới có thể biết.
─ Đệ tử của Cúc-Đa trông thấy những kỳ-diệu
ấy đều kính phục, chí thành sám hối. Ngài lại nói kệ: Thông đạt phi bỉ thử Chí thánh vô trường đoản Nhữ trừ khinh mạn ý Tất đắc A-La-Hán. Dịch: Thông suốt không kia đây Chí thành không hay dở Ngươi trừ tâm khinh mạn Chóng được A-La-Hán. Sau đó, Ngài thị tịch bằng cách dùng hỏa
quang tam muội thiêu thân. Thầy trò Ưu-Ba-Cúc-Đa thu nhặt xá-lợi xây
tháp cúng dường. Cuối thế kỷ thứ nhất sau Phật Niết-bàn Ngài dòng Thủ-Đà-La ở nước Sất-Lợi, cha tên
Thiện-Ý. Trước khi sanh Ngài, thân phụ nằm mộng thấy mặt trời vàng xuất
hiện trong nhà. Thưở bé Ngài mặt mũi khôi ngô, tánh tình thuần hậu, trí
huệ minh mẫn Khoảng 12 tuổi, Ngài được gặp Tổ
Thương-Na-Hòa-Tu đến tận nhà và dạy cho Ngài phương pháp buộc niệm.
Nghĩa là mỗi khi khởi nghĩ ác liền bỏ một hòn sỏi đen vào hũ, khi khởi
nghĩ lành liền bỏ một hòn sỏi trắng vào hũ. Mỗi tháng đem ra xem xét coi
đen nhiều hay trắng nhiều ; nếu đen nhiều phải cố gắng sửa đổi. Ngài
vâng làm như vậy, ban đầu sỏi đen nhiều, dần dần bằng nhau và sau nầy
trắng nhiều. Năm 17 tuổi, Ngài xin Tổ Thương-Na-Hòa-Tu
xuất gia. Tổ hỏi: - Ngươi được bao nhiêu tuổi? Ngài thưa: - Bạch thầy, con được 17 tuổi. -
Thân ngươi 17 tuổi hay tánh ngươi 17 tuổi? Ngài hỏi lại: - Đầu thầy tóc bạc, vậy tóc
thầy bạc hay tâm thầy bạc? Tổ bảo: - Tóc ta bạc không phải tâm ta bạc -
Con cũng thế, thân con được 17 tuổi, không phải tánh con 17 tuổi Tổ bèn
hoan-hỉ nhận cho xuất gia làm thị giả. Đến 20 tuổi, Ngài thọ giới cụ túc
và ngộ đạo. Tổ bảo: Xưa Đức Thế-Tôn đem chánh pháp vô thượng
truyền cho Tổ Ca-Diếp. Tổ Ca-Diếp truyền lại cho thầy của thầy ta là Đức
A-Nan, thầy ta truyền cho ta và nay ta truyền lại cho ngươi chánh pháp
nầy. Ngươi cố gắng hộ trì đừng để đoạn dứt. Hảy nghe bài kệ đây: Phi pháp diệc phi tâm, Vô tâm diệc vô pháp.
Thuyết thị tâm pháp thời, Thị pháp phi tâm pháp Dịch: Phi pháp cũng phi tâm, không tâm cũng
không pháp , Khi nói tâm pháp ấy, Pháp ấy phi tâm pháp. Khi, Ngài đến nước Ma-Đột-La, Ngài cảm hóa
rất đông dân chúng qui hướng Phật pháp, có nhiều người đã chứng đạo quả.
Có những khi Ngài thuyết pháp, chư thiên rải hoa, quả đất rúng động,
khiến cung ma cũng bị chấn động. Vua ma-ba-tuần sợ e Phật-giáo thạnh
hành thì bè đảng của chúng bị tiêu diệt, nên quyết dùng hết thần lực phá
hoại Phật-pháp. Ma bèn hiện các ngọc nữ đến làm nhiễu loạn tâm thính
giả. Ngài liền nhập định để quán sát nguyên do, Được cơ hội thuận tiện,
ma đem vòng chuỗi anh-lạc quàng vào cổ Ngài. Xuất định, Ngài dùng thần
lực biến ba thây chết -người, chó, rắn – thành một tràng hoa đẹp. Ngài
dùng lời diệu ngọt bảo ma: Ngươi sẵn lòng tốt đem chuỗi anh-lạc rất quí
tặng ta, giờ ta biếu lại ngươi tràng hoa đẹp nầy, gọi là thù tạc nhau.
Vua ma nghe rất mừng, đưa cổ nhận tràng hoa.
Tràng hoa tròng vào cổ giây lát hóa thành thây thúi, giòi tửa ghê tởm.
Vua ma kinh sợ gớm chán, muốn cởi ra mà cởi không được, dùng hết thần
lực cũng không cởi nổi. Túng thế, vua ma chạy lên cõi trời Dục cầu cứu
với vua Trời, rốt cuộc không kết quả. Lần lượt vua ma cầu cứu đến Trời
Phạm. Vua các Trời đều bảo: - Pháp ấy là do đệ tử Phật biến hóa ra,
chúng ta còn phàm lậu làm sao trừ được. Vua ma nghe phán như vậy lại hỏi: - Thế thì
làm thế nào gỡ ra? Vua Trời nói kệ: Nhược nhơn địa đảo, Hoàn nhơn địa khởi. Ly
địa cầu khởi, Chung vô kỳ lý. Dịch: Nếu nhơn đất ngã, Phải nhờ đất dậy. lìa
đất muốn dậy, Trọn không lý ấy. Vua ma nhận lời dạy, rời khỏi cung Trời trở
về chỗ Ngài Ưu-Ba-Cúc-Đa chí thành lễ tạ sám hối. Ngài bảo: -Thánh trước
dạy ta hàng phục ngươi. Tuy vậy, nếu ngươi biết cải thiện là được thờ
phụng Phật, khỏi sa vào đường dữ. Vua ma nghe dạy vui vẻ thưa: - Tôn-giả
vì con làm lợi ích lớn, cúi xin Tôn-giả cởi vòng thây thúi dùm con.-
Ngài dạy:- Vậy ngươi phải quỳ gối chấp tay tự xướng ba lần quy-y tam bảo
đi. Vua ma quỳ gối chấp tay xướng ba lần quy-y tam bảo xong, thì vòng
thây thúi biến mất. Vua ma vui mừng nhảy nhót đảnh lễ Ngài nói kệ: Khể thủ tam muội tôn, Thập lực đại từ túc.
Ngã kim nguyện hồi hướng, Vật linh hữu liệt nhược. Dịch: Cúi lạy chánh-định tột, Đủ mười lực đại
từ. Nay con xin hồi hướng, Chớ còn tánh yếu hèn. Sau khi quy-y tam bảo xong, Ngài bảo vua ma:
- Xưa ngươi thường thấy Như-Lai, giờ đây hiện thử cho ta xem. Vua ma thưa: - Hiện việc xưa không khó, chỉ
xin Tôn-giả trông thấy đừng lễ. Vua ma liền vào rừng ẩn mất. Chốc lát
bỗng thấy Phật từ mé rừng đi ra oai nghi nghiêm chỉnh, theo sau đoàn
Tỳ-kheo 1250 vị. Ngài vừa trông thấy, bất giác cúi mình đảnh lễ. Ma
hoảng kinh biến mất. Lúc hóa đạo, mỗi khi giáo hóa một người thâm ngộ
Phật-pháp Ngài để vào thất đá một thẻ tre. Ngôi thất ấy bề dài 18 thước
tay bề ngang 12 thước tay. Thế mà một thời gian thẻ tre đầy ói cả thất.
Sau cùng, Ngài độ ông Hương-Chúng con một vị trưởng giả và truyền chánh
pháp lại cho ông nầy. Nhơn thân phụ ông Hương-Chúng mộng thấy mặt trời
vàng xuất hiện trong nhà, nên Ngài đổi hiệu là Đề-Đa -Ca. Đã có người kế
thế và nhơn duyên hóa đạo đã xong. Ngài từ biệt đại chúng, Ngồi kiết già
thị-tịch. Đề-Đa-Ca và môn đệ mở cửa thất đá lấy thẻ tre làm vật liệu
thiêu Ngài., thiêu xong lượm xá-lợi xây tháp cúng dường. Đầu thế kỷ thứ hai sau Phật Niết-bàn Ngài tên Hương-chúng ở nước Ma-Già-Đà. Nhơn
thân phụ Ngài nằm mộng thấy mặt trời vàng ánh xuất hiện trong nhà, chiếu
sáng khắp cả. Lại thấy phía trước hiện ra một hòn núi lớn, trang nghiêm
bằng bảy báu, trên đảnh núi có dòng suối, nước chảy trong veo, tràn khắp
bốn phía. Sau đó, mẹ sanh ra Ngài. Ngài gặp Tổ Ưu-Ba-Cúc-Đa bèn đem điềm mộng
của cha thuật lại và nhờ giải hộ. Tổ giải: < Núi báu là thân ta, suối nước tuôn ra là
pháp vô tận, mặt trời xuất hiện trong nhà là tướng ngươi vào đạo, ánh
sáng chiếu khắp là trí tuệ siêu việt của ngươi >. Ngài nghe giải xong,
vui mừng khắp khởi xướng kệ rằng: Nguy nguy thất bảo sơn, Thường xuất trí huệ
tuyền. Hồi vi chân pháp vị, Năng độ chư hữu duyên. Dịch: Vòi vọi núi bảy báu, Thường tuôn suối
trí huệ. Chuyển thành vị chơn pháp, Hay độ ngưòi có duyên Tổ Ưu-Ba-Cúc-Đa cũng nói kệ đáp: Ngã pháp truyền ư nhữ, Đương hiện đại trí
huệ. Kim nhựt tùng ốc xuất, Chiếu diệu ư thiên địa. Dịch: Pháp ta truyền cho ngươi, Sẽ hiện
trí-huệ lớn. Mặt trời mọc trong nhà, Chiếu sáng khắp trời đất. Ngài nghe kệ rồi, xin theo Tổ xuất gia học
đạo. Thấy Ngài ứng đối lanh lẹ, trí-huệ minh đạt, Tổ hoan hỷ chấp nhận
cho xuất gia làm đệ-tử. Một hôm, Tổ gọi Ngài bảo: Như-Lai đem đại pháp
nhãn tạng trao cho Đại-Ca-Diếp, lần lượt trao truyền cho đến ta, nay ta
trao lại cho ngươi. Hãy nghe kệ đây: Tâm tự bổn lai tâm, Bổn tâm phi hữu pháp. Hữu
pháp hữu bổn tâm, Phi tâm phi bổn pháp. Dịch: Tâm tự xưa nay tâm, Bổn tâm chẳng có
pháp. Có pháp có bổn tâm, Chẳng tâm chẳng bổn pháp Ngài thành kính nhận lãnh chánh pháp. Sau,
Ngài sang Trung-Ấn giáo hóa. Nơi đây có tám ngàn vị đại tiên, dưới sự
lãnh đạo của đại tiên Di-Dá-Ca. Nghe Ngài đến đây, Di-Dá-Ca vân tập tiên
chúng đến yết kiến Ngài. Gặp Ngài, Di-Dá-Ca thưa: - Xưa tôi cùng Thầy
đồng sanh cõi trời Phạm-Thiên. Tôi gặp tiên A-Tư-Đà truyền cho pháp
tiên. Thầy gặp đệ tử Phật hướng dẫn tu tập thiền định. Từ đó, cách nhau
đã đến sáu kiếp. Ngài bảo: - Lời tiên nhơn đã nói đúng như
vậy. Song, ông chuyên về pháp tiên tột cùng sẽ đến đâu? Di-Dá-Ca thưa: - Tôi tuy chưa gặp bậc chí
thánh, song tiên A-Tư-Đà thường thọ ký rằng: < Sáu kiếp về sau, tôi sẽ
nhờ bạn đồng học mà được chứng quả giải thoát. Nay gặp nhau đây đâu
không đúng như vậy ư? Ngài bảo: - Ông đã biết như vậy thì cần phải
xuất gia, pháp tiên là đường nhỏ, không thể đưa người đến giải thoát. Ta
hóa đạo đã lâu, cũng muốn dừng nghỉ. Nếu ông thật thú hướng về đại pháp
thì không nên chậm trễ. Di-Dá-Ca nghe nói vui mừng liền xin xuất gia.
Ngài độ cho ông xuất gia thọ giới. Lúc đó, tiên chúng theo Di-Dá-Ca thấy vị tiên
trưởng của mình làm như vậy, rất bất mãn. Họ nói thầm với nhau rằng: <
Đề-Đa-Ca đâu đủ sức làm thầy mình mà theo xuất gia >. Ngài biết tâm họ, muốn gây cho họ có niềm
tin, liền phóng quang sáng chiếu, chân đi trên hư không như người đi
trên đất bằng, lại hóa cây dù báu che khắp chúng tiên, nơi ngón tay sữa
thơm tuôn ra, trong sữa hiện lên một hoa sen, trong hoa sen hóa ra Đức
Phật. Chúng tiên trông thấy thần biến phi thường,
bèn cuối đầu cầu xin xuất gia. Tôn giả hoan hỷ chấp nhận. Thấy cơ duyên hóa độ đã viên mãn, Ngài truyền
pháp lại cho Di-Dá-Ca, rồi thâu thần tịch diệt. Di-Dá-Ca và đồ chúng thiêu hài cốt Ngài, thâu
lượm xá-lợi xây tháp tại núi Ban-Trà thờ phụng cúng dường. Đầu thế kỷ thứ ba sau Phật Niết-bàn Ngài người Trung-Ấn, không rõ họ gì. Ngài
cùng chúng tiên thọ giáo xuất gia với Tổ Đề-Đa-Ca. Sau đó, Ngài tu hành
chứng được quả thánh. Khi sắp tịch, Tổ Đề-Đa-Ca gọi Ngài lại bảo: -Xưa Như-Lai thầm trao đại pháp nhãn cho
Đại-Ca-Diếp lần lượt truyền trao đến ta, nay ta trao cho ngươi, ngươi
phải gìn giữ truyền trao chớ dứt. Nghe ta nói kệ: Thông đạt bổn tâm pháp, Vô pháp vô vi pháp.
Ngộ liễu đồng vị ngộ, vô tâm diệc vô pháp. Dịch: Thông đạt pháp bổn tâm, Không pháp
không phi pháp Ngộ rồi đồng chưa ngộ, Không tâm cũng không pháp. Sau khi được pháp, Ngài du hóa các nơi tùy
căn cơ giáo hóa chúng sanh. Một hôm, Ngài đến Bắc-Ấn chợt thấy trên
thành có vầng mây màu vàng. Ngài ngó sang những người bên cạnh bảo: Đây
là vượn khí đại thừa. Trong thành nầy sẽ có bậc chí nhơn nối pháp cho
ta. Khi đi vào trong thành đến chợ, quả gặp người tay ôm bầu rượu, đón
Ngài hỏi:- Tôn-giả từ phương nào đến, muốn đi về đâu? Ngài đáp: -Ta từ
tâm mình đến, muốn đi không chỗ. – Tôn-giả biết vật trong tay tôi chăng?
Đây là đồ đựng vật làm mất thanh tịnh. – Tôn-giả biết tôi chăng? – Tôi
thì chẳng biết, biết thì chẳng tôi - Ngài lại bảo:- Ngươi hãy nói tên họ ra, ta
sẽ chỉ nhơn đời trước cho ngươi. Người ấy bèn nói kệ: Ngã kim sanh thử quốc, Phục ức tích thời
nhựt. Bổn tánh Phả-La-Đọa, Danh tự Bà-La-Mật. Dịch: Nay tôi sanh nước nầy, Lại nhớ ngày xa
xưa Dòng họ Phả-La-Đọa, Tên là Bà-La-Mật Ngài nghe rồi nhớ lại duyên trước, bèn bảo
Bà-Tu-Mật: - Thầy ta là Đề-Đa-Ca thường nói: Xưa kia Như-Lai du hóa
Bắc-Ấn có báo A-Nan: < Sau khi ta diệt độ khoảng ba trăm năm, ở nước nầy
sẻ có vị thánh nhơn ra đời, họ Phả-La- Đọa tên Bà-Tu-Mật, làm vị Tổ thứ
bảy của Thiền-Tông >. Đây là Như-Lai thọ ký cho ngươi, ngươi nên xuất
gia. Bà-Tu-Mật liền để bầu rượu xuống, đảnh lễ
Ngài. Đảnh lễ xong, đứng qua một bên thưa:- Con nhớ lại kiếp xưa thường
làm thí chủ cúng dường Phật một bảo tòa. Như-Lai thọ ký cho con rằng: <
Ngươi ở hiền kiếp sẽ được Phật-pháp làm Tổ thứ bảy >. Nay gặp gỡ đây là
cái duyên trước vậy, cúi xin Tôn giả đại từ thương xót độ thoát cho con.
Ngài liền vì ông cho cạo tóc xuất gia và thọ đầy đủ giới pháp. Thấy tuổi
đã già và cơ duyên hóa độ cũng xong, Ngài truyền chánh pháp lại cho Bà-Tu-Mật.
Truyền xong, Ngài thâu thần tịch diệt. Bà-Tu-Mật và môn đồ lượm xá-lợi
để vào bình báu, xây tháp cao tôn thờ trên từng chót để mọi người cúng
dường. Cuối thế kỷ thứ ba sau Phật Niết-bàn Ngài họ Phả-La-Đọa sanh trưởng tại miền
Bắc-Ấn. Khi còn tại gia, Ngài thường mặc đồ sạch sẽ, tay cầm bầu rượu,
đi dạo chơi trong xóm làng, có khi Ngài ngâm thơ thổi sáo, người thường
không sao hiểu nổi, họ bảo Ngài là người điên. Sau khi gặp Tổ Di-Dá-Ca
nói lại lời huyền ký Như-Lai, Ngài liền tỉnh ngộ tiền duyên, ném bầu
rượu phát nguyện xuất gia. Theo Tổ tu hành, Ngài ngộ được tâm tông. Một
hôm,Tổ Di-Dá-Ca gọi Ngài căn dặn: -Công hạnh của ta gần viên mãn,chánh pháp
nhãn tạng nầy trao lại cho ngươi, ngươi phải ân cần gìn giữ chớ để đoạn
diệt. Hãy nghe kệ đây: Vô tâm vô khả đắc, Thuyết đắc bất danh pháp.
Nhược liễu tâm phi tâm, Thủy giải tâm tâm pháp. Dịch: Không tâm không thể được, Nói được
chẳng gọi pháp Nếu rõ tâm phi tâm, Mới hiểu tâm tâm pháp. Sau khi Tổ Di-Dá-Ca nhập Niết-bàn, Ngài đi
hoằng khắp nơi tuyên dương chánh pháp. Khi đến nước Ca-Ma-La Ngài lên pháp tòa giảng đạo,có một trí sĩ đến
dưới tòa lớn tiếng tự xưng: -Tôi là Phật-Đà-Nan-Đề, hôm nay quyết luận
nghĩa với thầy. Ngài bảo:- Nầy nhơn giả! Nếu luận thì chẳng phải nghĩa,
nếu nghĩa thì chẳng phải luận. Nếu nghĩ luận nghĩa, trọn chẳng phải
nghĩa luận. Nan-Đề biết đây là người nói nghĩa thù thắng,khởi tâm kính
phục,thưa rằng: - Con nguyện cầu đạo,được thưởng thức vị cam lồ. Ngài
thương xót liền cho xuất gia thọ giới, không bao lâu truyền pháp cho
Nan-Đề. Đã có người thừa kế, Ngài dự định vào Niết-bàn. Ngài liền nhập
từ tam-muội để vào tịch định. Lúc đó,Đế-Thích,Phạm-Vương cùng chư thiên
đồng đến đảnh lễ,nói kệ: Hiền kiếp thánh chúng Tổ, Nhi đương đệ thất
vị. Tôn giả ai niệm ngã, Thỉnh vị tuyên Phật địa. Dịch: Hiền kiếp các thánh Tổ, Ngài là vị thứ
bảy, Tôn giả thương xót con, Thỉnh vì nói Phật địa. Ngài xuất định nói với họ rằng: - Pháp ta đã
được là không phải có. Nếu muốn biết Phật-địa phải lìa cóvà không. - Nói xong, Ngài vào tịch định thị hiện tướng
Niết-bàn. Chư thiên nghe rồi hoan hỷ tán hoa trời,đảnh lễ. Nan-Đề cùng
đồ chúng trà tỳ thân Ngài, rồi lượm xá-lợi xây tháp cúng dường. Đầu thế kỷ thứ tư sau Phật Niết-bàn Ngài họ Cù-Đàm, người nước Ca-Ma-La. Thuở nhỏ
trên đảnh Ngài có cục thịt nổi cao, thường phát ra hào quang năm sắc xen lẫn. Ngài thông minh tuyệt vời,
chữ nghĩa một phen xem qua là ghi nhớ. Năm 14 tuổi, Ngài phát tâm xuất
gia chuyên dùng hạnh thanh tịnh để tự tu. Khi Tổ Bà-Tu-Mật đến nước
Ca-Ma-La, Ngài đến vấn nạn, nhơn đó kính phục xin theo làm đệ tử. Tổ sắp
Niết-bàn, gọi Ngài đến phó chúc rằng: -Chánh pháp nhãn tạng của Như-Lai, nay ta
trao cho ngươi, ngươi phải truyền bá chớ để đoạn dứt, Nghe ta nói kệ:
Tâm đồng hư không giới, Thị đằng hư không
pháp. Chứng đắc hư không thời, Vô thị vô phi pháp Dịch: Tâm đồng hạn hư không, Chỉ pháp bằng
thái hư. Khi chứng được hư không, Không pháp, không phi pháp Ngài vâng
giữ phụng trì. Sau khi đắc pháp,Ngài thống lãnh đồ chúng du hóa khắp
nơi.Đến nước ĐềGià,Ngàiđi qua cổng nhà họ Tỳ-Xá-La,chợt thấy trên nóc
nhà có hào quang trắng xông lên hư không.Ngài chỉ chúng xem và bảo: -Trong nhà nầy hiện có một vị thánh nhơn, tuy
miệng không nói một lời, chơn không đi một bước, mà thật là bậc căn khí
đại thừa. Dù không ra ngoài đường mà biết việc xúc uế. Quả là người nối
pháp cho ta, khiến Phật-pháp hưng thịnh. Vị nầy, sau sẽ độ được năm trăm
người chứng quả thánh. Ngài nói xong,có người trưởng giả trong nhà
bước ra làm lể thưa: - Tôn-giả cần điều gì dừng lại đây? Ngài bảo:- Ta đến tìm người thị giả,chớ không
cần gì. Trưởng giả thưa: Nhà tôi đâu có người kỳ đặc mà Ngài tìm,chỉ có
đứa con trai tên Phục-Đà-Mật-Đa không biết nói,không biết đi,tuổi đã năm
mươi,nếu Ngài cần tôi cho, không tiếc. Ngài bảo:-Đứa con ông nói
đó,chính là người tôi tìm.Trưởng giả thỉnh Ngài vào nhà.Phục-Đà-Mật-Đa
vừa trông thấy Ngài liền chổi dậy, chắp tay nói kệ: Phụ mẫu phi ngã thân, Thùy vi tối thân giả?
Chư Phật phi ngã đạo, Thùy vi tối đạo giả? Dịch: Cha mẹ chẳng phải thân, Ai là người chí
thân? Chư Phật phi đạo tôi, Cái gì là tột đạo? Ngài nói kệ đáp: Nhữ ngôn dữ tâm thân, Phụ
mẫu phi khả tỷ, Nhữ hạnh dữ đạo hiệp, Chư Phật tâm tức thị, Ngoại cầu
hữu tướng Phật, Dữ nhữ bất tương tợ, Nhược thức nhữ bổn tâm, Phi hiệp
diệc phi ly. Dịch: Lời ngươi cùng tâm thân, Cha mẹ không
thể sánh, Hạnh ngươi cùng đạo hiệp, Chư Phật chính là tâm, Ngoài cầu
Phật có tướng, Cùng ngươi không chút giống, Nếu biết bổn tâm ngươi,
Chẳng hiệp cũng chẳng lìa. Mật-Đa nghe bài kệ xong rất hoan hỷ, bước
xuống đảnh lễ Ngài và đi bảy bước, một lòng thành khẩn xin xuất gia Ngài chấp nhận cho xuất gia, liền triệu tập
chúng hiền thánh làm lễ truyền giới cụ túc.Sau đó,Ngài lại dặn dò
Mật-Đa: - Pháp nhãn của Như-Lai thầm truyền đến đời
ta, nay ta trao lại cho ngươi, ngươi nên truyền trao chớ đoạn dứt. Nghe ta nói kệ: Hư không vô nội ngoại, Tâm
pháp diệc như thử, Nhược liễu hư không cố, Thị đạt chơn như lý. Dịch: Hư không chẳng trong ngoài, Tâm pháp
cũng như thế, Nếu hiểu rõ hư không, Là đạt lý chơn như. Mật-Đa hân hạnh được truyền pháp vui mừng vô
hạn, liền nói kệ khen ngợi: Ngã sư thiền Tổ trung, Thích đương vi đệ bát,
Pháp hóa chúng vô lượng, Tất hoạch A-La-Hán. Dịch: Thầy tôi trong thiền Tổ, Hiện là vị thứ
tám, Giáo hóa chúng không cùng, Thảy được quả La-Hán. Ngài truyền pháp xong, sắp vào Niết-bàn. Hôm
ấy đang ngồi trên bổn tòa, Ngài an nhiên thị tịch. Số chúng Ngài độ có
đến năm trăm vị chứng nhị quả. Toàn chúng trà tỳ hài cốt Ngài, lượm
xá-lợi xây bảo tháp tôn thờ. Cuối thế kỷ thứ tư sau Phật Niết-bàn Ngài họ Tỳ-Xá-La ở nước Đề-Già. Từ lọt lòng
mẹ đến năm mươi tuổi chưa từng nói một lời,chưa từng đi một bước. Cha mẹ
nghi nhơn duyên gì mà Ngài thế ấy? Đến gặp Tổ Phật-Đà-Nan-Đề nói duyên
đời trước rằng: - Đứa bé nầy đời trước thông minh lắm,ở trong
Phật pháp do lòng đại bi muốn làm lợi ích lớn cho chúng sanh,cho nên
thường nguyện:< Nếu tôi sanh chỗ nào không bị tình phụ tử ràng buộc, tùy
duyên lành kia liền được giải thoát > miệng nó không nói là tiêu biểu
đạo không tịch. Chơn nó không đi là tiêu biểu pháp không đến đi. Cha mẹ
Ngài nghe lời giải thích của Tổ sạch hết nghi ngờ,vui vẻ cho theo Tổ
xuất gia. Sau khi đắc pháp, Ngài du hóa khắp nơi, sang
Trung-Ấn giáo hóa. Nơi đây có ông trưởng-giả tên là Hương-Cái. Ông nầy
có người con trai tên Nan-Sanh. Ông trưởng-giả Hương-Cái dẫn con đến yết
kiến Ngài. Đảnh lễ xong,ông trưởng-giả thưa:- Thằng bé nầy ở trong thai
mẹ ngót sáu mươi năm,do đó tôi đặt tên là Nan-Sanh. Có một tiên đến xem
tướng nó,rồi nói:< Thằng nhỏ nầy hẳn là tướng phi phàm,sẽ làm pháp khí
đại thừa,sau gặp Bồ-Tát hóa độ >.Bởi có duyên lành nên nay được gặp
Ngài,tôi nguyện cho nó theo Ngài xuất gia học đạo.Ngài hoan hỷ nhận cho
Nan- Sanh xuất gia thọ giới. Trong buổi lễ xuất gia thọ giới bỗng có ánh
sáng mát chiếu khắp chổ Nan-Sanh ngồi. Cơ duyên hóa độ sắp viên mãn,
Ngài kêu Nan-Sanh lại dặn dò:- Đại pháp nhãn tạng của Như-Lai,nay ta
trao cho ngươi, Ngươi phải gìn giữ truyền trao đừng cho đoạn
dứt. Ngươi nhận lời ta dạy,hãy nghe kệ đây: Chơn lý bổn vô danh, Nhơn danh hiển chơn lý,
Thọ đắc chơn thật pháp, Phi chơn diệc phi ngụy. Dịch: Chơn lý vốn không tên, Nhơn tên bày
chơn lý, Nhận được pháp chơn thật, Chẳng chơn cũng chẳng ngụy. -Nói kệ xong, Ngài bèn vào chánh định hiện
tướng Niết-bàn. Chư thiên trổi nhạc cúng dường. Nan-Sanh cùng đồ chúng
dùng dầu thơm gỗ chiên đàn làm lễ hỏa táng chơn thể của Ngài. Hỏa táng
xong lượm xá-lợi về tôn thờ nơi chùa Na-Lan-Đà. Đầu thế kỷ thứ năm sau Phật Niết-bàn Ngài tục danh là Nan-Sanh, người Trung-Ân.
Thân mẫu mang thai đến 60 năm mới sanh ra Ngài. Lúc Ngài sắp sanh, Thân phụ nằm mộng thấy một con voi trắng to
trên lưng có chở một bảo tọa, trong bảo tọa có hạt minh châu, từ ngoài
cửa đi vào chiếu sáng khắp nhà. Ông giựt mình tỉnh giấc thì Ngài ra đời.
Sau gặp Tổ Phục-Đà-Mật-Đa độ cho xuất gia.
Được xuất gia rồi Ngài cần mẫn tu học cho đến quên ăn bỏ ngủ, suốt ngày
đêm chưa từng đặc lưng xuống chiếu,như thế mãi cả đời. Vì thế thời nhơn
gọi Ngài là Hiếp-Tôn-Giả (Tôn-giả hông không dính chiếu ). Lãnh thọ
chánh pháp xong, Ngài đi vân du các nơi tùy cơ giáo hóa. Đến nước
Hoa-Thị, Ngài tạm nghỉ dưới cây đại thọ. Khi ấy, Ngài lấy tay chỉ xuống
đất bảo chúng: - Khi nào đất này biến thành màu vàng, sẽ có
một thánh nhơn vào hội. Ngài vừa nói dứt lời, đất liền biến thành màu
vàng. Chốc lát có một thanh niên con nhà giàu tên Phú-Na-Dạ-Xa đến trước
Ngài đứng chắp tay, Ngài hỏi: - Ngươi từ đâu đến? Thanh niên thưa:- Tâm con
chẳng phải đến. –Ngươi dừng chổ nào? –Tâm con chẳng phải dừng. - Ngươi chẳng định sao? – Chư Phật cũng thế.
–Ngươi chẳng phải chư Phật. –Chư Phật cũng chẳng phải. Ngài nhơn đó nói
bài kệ: Thử địa biến kim sắc, Dự tri ư thánh chí, Đương tọa bồ-đề thọ,
Giác hoa nhi thành dỉ. Dịch: Đất này hóa sắc vàng, Biết có thánh
nhơn sang, Ngồi dưới cây bồ-đề, Hoa giác nở hoàn toàn. Phú-Na-Dạ-Xa cũng đọc bài kệ: Sư tọa kim sắc địa, Thường thuyết chơn thật
nghĩa, Hồi quang nhi chiếu ngã, Linh nhập tam-ma-đề. Dịch: Thầy ngồi đất sắc vàng, Thường nói
nghĩa chơn thật, Xoay ánh sáng chiếu con, Khiến vào nơi chánh định. Ngài biết ý Phú-Na-Dạ-Xa lòng cầu đạo rất
thiết tha, nên độ cho xuất gia và truyền giới cụ túc. Một hôm, Ngài gọi
Phú-Na bảo: -Đại pháp nhãn tạng của Như-Lai, nay trao cho ngươi, ngươi
phải khéo lưu truyền chớ để dứt mất. Hãy nghe ta nói kệ: Chơn thể tự
nhiên chơn,Nhơn chơn thuyết hữu lý,Lãnh đắc chơn chơn pháp,Vô hành diệc
vô chỉ Dịch: Chơn thể đã sẵn chơn, Bởi chơn nói có
lý, Hội được pháp chơn nhơn, Không đi cũng không dừng. Truyền pháp xong, Ngài ngay nơi chỗ ngồi thị
hiện các tướng rồi vào Niết-bàn. Hỏa táng thân Ngài xong có xá-lợi nhiều
vô số, chúng phải lấy y bọc đem về kính thờ cúng dường. Giữa thế kỷ thứ năm sau Phật Niết-bàn. Ngài dòng Cù-Đàm ở nước Hoa-Thị, thân phụ là
Bảo-Thân. Thân phụ sanh được bảy người con trai, Ngài là con út. Thuở
nhỏ. Ngài tâm tư bình thản không tịnh không loạn. Ngài thường nói với
các anh:- Nếu gặp bực đại-sĩ ngồi nơi đạo tràng thuyết pháp, em quyết
đến đó gần gũi tùy hỷ. Khi Tổ Hiếp-Tôn-Giả đến nước nầy chấn hưng
Phật pháp, Ngài liền đến dự trong hội ấy. Thấy Ngài ứng đối mẫn tiệp,
ngôn ngữ hợp lý, Tổ độ cho xuất gia. Sau khi đắc pháp nơi Tổ
Hiếp-Tôn-Giả, Ngài một lòng tinh tấn,lấy sự giáo hóa làm trọng trách.
Đạo đức Ngài vang khắp, số chúng qui ngưỡng đến ngàn vạn, những người
được quả thánh tới năm trăm vị. Về sau, Ngài đến nước Ba-La-Nại có một
vị trưởng-giả vào hội. Ngài hỏi đồ chúng: - Các ngươi có biết người mới vào đây chăng?
Xưa Phật huyền ký rằng: < Sau khi ta diệt độ gần 600 năm,sẽ có một vị
thánh nhơn ra đời hiệu Mã-Minh, sanh trong nước Ba-La-Nại, nói pháp nơi
thành Hoa-Thị, bẻ dẹp các đạo khác, độ người vô lượng >. Mã-Minh nghe
Ngài nói trúng tên mình thì thầm khen, bước ra đảnh lễ Ngài và hỏi: - Tôi muốn biết Phật, thế nào là Phật? –Ngài
đáp: - Ông muốn biết Phật, chẳng biết ấy là phải. – Đã chẳng biết Phật
thì đâu biết là phải? – Ông đã chẳng biết Phật, tại sao biết chẳng phải?
– Đây thật là nghĩa cưa. – Đó là nghĩa cây. Ông nói nghĩa cưa là thế
nào? – Tôi cùng thầy phân ra bằng nhau. Nghĩa cây của thầy nói là sao? –
Ngươi bị ta xẻ Mã-Minh liền ngộ được thắng nghĩa của Ngài,
vui thích cầu xin xuất gia Ngài vì độ cho ông xuất gia và thọ giới
cụ-túc Số chúng được Ngài độ, có đến hai trăm vị
chứng quả A-La-Hán, ngoài ra còn vô số người phát tâm qui kính Tam-bảo.
Thấy cơ duyên giáo hóa sắp viên mãn, Ngài kêu Mã-Minh lại dặn dò: -Ngươi nên chuyển bánh xe pháp làm vị Tổ thứ
12. Xưa đại pháp nhãn tạng của Như-Lai trao cho Tổ Ca-Diếp lần lượt
truyền trao, nay ta trao cho ngươi, ngươi phải truyền tiếp. Nghe ta nói
kệ: Mê ngộ như ẩn hiển, Minh ám bất tương ly, Kim
phó ẩn hiển pháp, Phi nhất diệc phi nhị. Dịch: Mê ngộ như ẩn hiện, Tối sáng chẳng rời
nhau, Nay trao pháp ẩn hiện, Chẳng một cũng chẳng hai. Ngài truyền pháp cho Mã-Minh xong ,liền hiện
thần biến , rồi lặng lẽ viên tịch. Mã-Minh và đồ chúng xây tháp trùm
trên chơn thân thờ Ngài. Cuối thế kỷ thứ năm sau Phật Niết-bàn. Bồ-Tát người nước Ba-La-Nại, hiệu Mã-Minh
cũng có hiệu Công-Thắng. Vì khi Ngài sanh ra, các con ngựa đều ré lên,
nên gọi là Mã-Minh. lại cũng có thuyết nói, mỗi khi Ngài thuyết pháp,
các con ngựa trong chuồng ở gần đều lặng lẽ lóng nghe, khi thuyết xong
chúng lại hý vang, nên gọi Ngài là Mã-Minh. Lúc chưa xuất gia, Ngài là
một biện sĩ lỗi lạc, danh tiếng đồn đãi vang cả quốc nội và quốc ngoại.
Sau khi được Tổ Phú-Na-Dạ-Xa độ cho xuất gia
và truyền tâm ấn, Ngài lại nổi tiếng là một nhà thuyết pháp tài tình.
Bao nhiêu tà thuyết ngoại đạo đều bị Ngài bẻ
dẹp. Chính Ngài là người thắp sáng ngọn đuốc Đại-Thừa ở đầu thế kỷ thứ
sáu sau Phật Niết-bàn. Ngài đi giáo hóa đến nước Hoa-Thị nơi đây ngọn
đuốc pháp của Ngài càng sáng rực hơn. Một hôm, có một ông già gầy ốm vào trong hội
nghe pháp, bỗng nhiên ngã xuống đất. Ngài bảo chúng: -Đây là việc phi thường, sẽ có tướng lạ. Ông
già kia liền biến mất. Chợt thấy dưới đất vọt lên một người con gái nhan
sắc đẹp đẽ thân như màu vàng, dùng tay chỉ Ngài nói kệ: Khể thủ trưởng lão tôn, Đương thọ Như-Lai ký,
Kim ư thử địa thượng, Nhi độ sanh tử chúng. Dịch: Cúi đầu lễ trưởng lão, Hiện nhận lời
Phật ghi, Nay ở nơi xứ nầy, Độ chúng khỏi sanh tử. Nói kệ xong, trong chớp mắt không thấy cô
nữa. Ngài bảo chúng: - Giây lát đây sẽ có ngoại đạo đến đấu sức với ta.
Bỗng chốc gió mưa ầm ĩ xối xả kéo đến, khiến
trời đất mịt mù. Ngài bảo: - Đây là báo hiệu ngoại đạo sẽ đến. Ta sẽ trừ
chúng. Nói xong, Ngài chỉ tay lên hư không, hiện ra con rồng vàng to
lớn, phấn khởi oai thần, khiến pháp ngoại đạo tan biến. Sau bảy ngày, có một con sâu nằm nép dưới tòa
của Ngài. Ngài lấy tay nắm bắt con sâu ấy đưa cho đại chúng xem và nói:
- Con sâu nầy là trá hình của ngoại đạo, đến ẩn núp nơi đây đặng nghe
trộm pháp của ta. Nói xong, Ngài ném con sâu ra bảo: < đi ngay! >. Nhưng
con sâu sợ hãi nằm im không động Ngài an ủi: - Ta không có hại ngươi. Ngươi hãy hiện lại
bổn hình. Ngoại đạo liền hiện bổn hình đảnh lễ xin sám hối. Ngài hỏi:
- Ngươi tên gì? Có bao nhiêu đồ đệ? Ngoại đạo
thưa: - Con tên Ca-Tỳ-Ma-La, có đến ba ngàn đồ đệ. - Ngài hỏi: - Tột thần lực của ngươi biến hóa
thế nào Ngoại đạo thưa: - Con hóa biển cả là việc chẳng khó. - Ngài hỏi: - Ngươi hóa tánh biển được chăng?
Ngoại đạo mờ mịt không biết, thưa: - Lời nầy con không thể biết. Ngài vì giải thích: - Tánh biển là núi sông
quả đất đều y cứ nơi đó mà lập, tam muội lục thông do đây phát hiện. Ngoại đạo nghe pháp ấy, liền khởi lòng tin
mạnh mẽ, cùng ba ngàn đồ đệ đều cầu xin xuất gia. Ngài vì họ cho cạo đầu
xuất gia, rồi triệu tập năm trăm vị thánh tăng đến làm lễ thọ giới cụ
túc. Ngài bảo giới tử: - Các ngươi thú hướng Bồ-Đề sẽ thành đạo thánh.
Ca-Tỳ-Ma-La quả nhiên được giới thể, phát hào quang sáng, có mùi hương
lạ xông khắp. Một hôm, Ngài gọi Ma-La đến bảo: - Đại pháp
nhãn tạng của Như-Lai, nay trao cho ngươi, truyền bá chớ để đoạn dứt.
Nghe ta nói kệ:Ẩn hiển tức bổn pháp,Minh ám nguyên bất nhị,Kim phó ngộ
liễu pháp,Phi thủ diệc phi khí. Dịch: Ẩn hiện vốn pháp này, Sáng tối nguyên
không hai, Nay truyền pháp liểu ngộ, Không lấy cũng chẳng bỏ. Truyền pháp xong, Ngài vào chánh định hiện
tướng viên tịch. Ca-Tỳ-Ma-La và đồ chúng đem chơn thể của Ngài để vào
khám thờ. Ngài là vị Tổ thứ 12 của Thiền-Tông, cũng là một vị pháp sư
làm sáng tỏ giáo pháp Đại-Thừa. Ngài sáng tác ba bộ luận: 1-Đại-Thừa
Khởi Tín Luận.2.-Đại Tông địa huyền văn bổn luận.3.-Sự sư pháp ngũ thập
tụng.Nổi tiếng nhất là bộ Đại-Thừa Khởi Tín Luận, đến hiện giờ những
nước Phật-giáo Đại-Thừa vẫn truyền dạy bộ luận nầy. Đầu thế kỷ thứ sáu sau Phật Niết-bàn. Ngài người nước Hoa-Thị, ban đầu học theo
ngoại đạo, giỏi các pháp huyễn thuật, đồ chúng có đến ba ngàn. Khi đến
so tài với Mã-Minh, bị Tổ hàng phục,liền cùng đồ chúng phát tâm xuất
gia. Tổ Mã-Minh độ cho Ngài xuất gia, sau truyền tâm pháp. Sau khi được
truyền tâm pháp, Ngài đi giáo hóa khắp nơi. Lần lượt đến nước Tây-Ấn,
nơi đây có Thái-tử tên Vân-Tự-Tại rất ngưỡng mộ Ngài.Thái-Tử thỉnh Ngài
và đại chúng vào cung cúng dường,Ngài từ chối bảo -Phật cấm Sa-môn không được gần gũi vua quan
những nhà có thế lực, nên tôi không dám nhận lời. Thái-tử bạch: -Thưa Tôn-giả! phía Bắc thành nầy có một hòn
núi lớn, trong núi có hang đá yên lặng bặt người thế tục, có thể ở nơi
đó thiền định được. Tuy nhiên, trong đó có nhiều rắn và thú dữ, song tin
tưởng đức cao dày của Tôn-giả sẽ chuyển hóa chúng. Ngài nhận lời, cung
đồ đệ tiến thẳng đến núi ấy. Vừa đến núi nầy quả gặp một con rắn lớn dài
gần một dặm, trợn mắt nhìn Ngài, Ngài vẫn đi thẳng không ngó đến nó.
Ngài đi đến phía Nam chân núi dừng nghỉ chỗ đất bằng,con rắn ấy đến quấn
chung quanh Ngài, Ngài cũng chẳng đoái hoài, giây lát con rắn bò đi.
Ngài tìm lại chúng theo Ngài thì họ đã chạy tán loạn hết. Ngài một mình
đi thẳng đến hang đá. Bỗng thấy một ông già mặc toàn đồ trắng đi ra chấp
tay kính lễ Ngài, Ngài hỏi: -Ông ở đâu? Ông già thưa: -Con xưa làm vị
Tỳ-kheo rất thích vắng lặng, bực người mới học đến hỏi,nhơn đó nổi sân;
bởi duyên cớ ấy khi chết đọa làm thân rắn ở trong hang nầy, đến giờ đã
ngàn năm.Vừa gặpTôn-giả là bực thánh đức nên ra kính lễ. Ngài hỏi:-Núi
nầy còn có người nào ở nữa chăng? Và họ theo đạo nào? Ngươi chỉ cho ta biết?
Ông già thưa: -Cách đây mười dặm về phía Bắc có một tàng cây thật to,
dưới tàng cây có năm trăm vị nhân tài ẩn dật, vị lãnh tụ hiệu là
Long-Thọ,thường vì chúng nói pháp, con cũng thường đến nghe. Ngài chờ đồ
chúng tụ hội, cùng họ tiến đến phía Bắc. Vừa đến cây to,quả nhiên
Long-Thọ ra nghinh tiếp Ngài. Long-Thọ vui vẻ đảnh lễ thưa Ngài:- Chỗ
núi sâu vắng vẻ, nơi hang ổ của thú dữ, đại đức chí tôn sao thương xót
đến đây? Ngài đáp: -Ta không phải chí tôn, đến để phỏng vấn hiền giả.
Long-Thọ lặng thinh thầm nghĩ: -Tôn-giả nầy được tánh quyết định, đạo
nhãn đã sáng chưa? Phải là người đại thánh,thừa kế chơn tông chăng? Ngài biết liền bảo: -Tuy tâm niệm của
ngươi,ta đã biết rồi,chỉ cần xuất gia,lo gì ta chẳng phải thánh? Bấy giờ Long-Thọ sám hối tạ tội. Ngài độ cho
xuất gia. Một hôm,Ngài gọi Long-Thọ lại bảo: -Nay ta đem đại pháp nhãn
tạng của Như-Lai trao cho ngươi, ngươi phải truyền nối chớ dứt. Nghe ta
nói kệ: Phi ẩn phi hiển pháp, Thuyết thị chơn thật
tế, Ngộ thử ẩn hiển pháp, Phi ngu diệc phi trí. Dịch: Pháp không ẩn không hiển, Nói là mé
chơn thật, Ngộ pháp ẩn hiển nầy, Chẳng ngu cũng chẳng trí. Truyền pháp xong, Ngài trình thần biến rồi
tịch diệt. Long-Thọ và đồ chúng hỏa táng thân Ngài, lượm xá-lợi xây tháp
cúng dường. Giữa thế kỷ thứ sáu sau Phật Niết-bàn. Ngài cũng có tên là Long-Thắng,dòng Phạm-Chí
ở miền Tây-Ân. Thuở nhỏ, Ngài bẩm tánh thông minh;vừa nghe Phạm-Chí tụng
bốn kinh Phệ-Đà là Ngài thuộc lòng văn nghĩa. Đến 20 tuổi, Ngài đi châu
du khắp các nước tìm học các môn thiên văn, địa lý,toán số,sấm ký và các
học thuật của ngoại đạo. Môn nào Ngài học đến đều xuất sắc hơn mọi
người. Nhơn một cơ duyên chẳng lành. Ngài nhận thực được các pháp là vô
thường đau khổ nên vào núi ở ẩn. Số người tìm đến cầu học với Ngài rất
đông. Sau khi gặp Tổ Ca-Tỳ-Ma-La cảm hóa, Ngài xin
xuất gia được Tổ độ cho và truyền cả tâm ấn. Từ đó,Ngài vân du thuyết
pháp khắp nơi,lần lượt đến miền Nam-Ấn. Dân chúng xứ nầy chỉ sùng phước
nghiệp,từ Ngài đến đem pháp yếu chỉ dạy,họ tự bảo nhau:< Chỉ phước
nghiệp nầy là việc tôi thắng,nói về Phật tánh thì đâu thể thấy >. Ngài nhơn đó bảo họ: -Các ngươi nếu muốn thấy
được Phật tánh thì trước hết phải bỏ tâm ngã mạn đi,mới có thể thấy
được. Họ hỏi Ngài: -Phật tánh lớn hay nhỏ? Ngài đáp: -Chẳng nhỏ chẳng
lớn, không rộng không hẹp, không phước không báo, chẳng chết chẳng sống.
Dân chúng nghe Ngài nói tột lý,vui mừng nguyện học pháp ấy. Ngài liền
ngay trên tòa hóa thân như vầng mặt trăng. Dân chúng tuy nghe thuyết
pháp mà không thấy có hình Ngài. Trong ấy có con một ông nhà giàu tên là
Ca-Na-Đề-Bà, khi thấy thế liền cảm ngộ. Đề-Bà bảo dân chúng: -Biết tướng nầy chăng?
Dân chúng thưa: -Chúng tôi không thể phân biệt được.Đề-Bà nói: -Đây là
Bồ-Tát thị hiện để biểu thị Phật tánh,muốn chúng ta hiểu rỏ vậy. Vô
tướng tam muội giống như mặt trăng tròn là nghĩa Phật tánh rỗng rang
sáng suốt.Đề-Bà nói dứt lời thì vầng trăng ẩn mất, Bồ-Tát hiện ngồi an
nhiên chỗ cũ,nói kệ: Thân hiện viên nguyệt tướng,Dĩ biểu chư Phật
thể,Thuyết pháp vô kỳ hình,Dụng biện phi thinh sắc. Dịch: Thân hiện tướng trăng tròn, Để nêu thể
các Phật, Nói pháp không hình ấy, Dùng rõ phi thinh sắc. Toàn chúng nghe xong, đều cảm ngộ,cầu xin
xuất gia. Ngài triệu tập các bậc thánh tăng đến truyền giới. Trong số
xuất gia nầy, Đề-Bà là người dẫn đầu. Một quốc gia ở gần miền Nam-Ấn,có
đến năm ngàn người tu theo ngoại đạo được nhiều phép lạ, Vua và quốc dân
đều thọ giáo nơi họ,khiến đạo Phật mờ tối. Ngài thấy thế cảm động,bèn
đổi hình thức,mặc áo trắng đợi mổi khi vua ra thành, Ngài cầm cây cờ đi
trước,hoặc ẩn hoặc hiện. Làm như thế đến bảy lần. Hôm nọ,vua lấy làm lạ
kêu lại hỏi: -Ngươi là người gì dám đi trước ta, mà bắt không được,thả
chẳng đi? Ngài đáp: -Tôi là người trí,biết tất cả việc.
Vua nghe ngạc nhiên,muốn thí nghiệm nói: -Chư thiên nay đang làm gì? Ngài đáp: -Chư thiên đang đấu chiến với
A-Tu-La. Vua hỏi:-Làm sao được biết? Ngài đáp:-Nếu bệ hạ muốn biết chốc
lát sẽ thấy chứng nghiệm. Quả nhiên,phút chốc thấy gươm giáo tay chơn ở
trên không rơi xuống. Vua và quốc dân rất kính phục Ngài,nhơn đó,Ngài
chuyển họ trở lại quy y Tam-Bảo.Hôm nọ,Ngài gọi Ca-Na-Đề-Bà đến dặn dò.
-Như-Lai lấy đại pháp nhãn tạng trao cho Tổ
Ca-Diếp,cho đến đời ta,nay ta trao cho ngươi. Hãy nghe kệ: Vị minh ẩn hiển pháp, Phương thuyết giải
thoát lý, Ư pháp tâm bất chứng, Vô sân diệc vô hỷ. Dịch: Vì sáng pháp ẩn hiển, Mới nói lý giải
thoát, Nơi pháp tâm chẳng chứng, Không sân cũng không hỷ. Dặn dò xong,Ngài nhập nguyệt luân tam muội
rồi hiện tướng thần biến vào Niết-bàn. Ngài sáng tác rất nhiều bộ luận
để xiển dương giáo pháp Đại-Thừa: 1-Trung luận, 2-Thuận trung luận, 3-Thập nhị
môn luận, 4-Đại-Thừa phá hữu luận, 5-Lục thập tụng như lý luận, 6- Đại-Thừa nhị thập tụng luận, 7-Thập bát
không luận, 8-Hồi tránh luận, 9-Bồ-đề tư lương luận, 10-Bồ-đề tâm ly
tướng luận, 11-Bồ-đề hạnh kinh, 12-Thích ma ha diễn luận, 13-Khuyến phát
chư vương yếu kệ, 14-Tán pháp giới tụng, 15-Quảng đại pháp nguyện tụng.
Bồ-Tát Mã-Minh là người khêu mồi ngọn đèn
chánh pháp đại-thừa ; chính Ngài là người thắp sáng và truyền bá khắp
nơi cho đến vô tận ngọn đuốc Đại-Thừa, Những tác phẩm của Ngài,bộ
Trung-Luận có giá trị nhất, đến hiện nay đã dịch ra nhiều thứ chữ để
truyền bá khắp thế giới Cuối thế kỷ thứ sáu sau Phật Niết-bàn. Ngài dòng Tỳ-Xá-Ly ở Nam-Ấn. Thuở nhỏ Ngài
bẩm tánh thông minh,biện tài vô ngại, Ban sơ Ngài học phong tục trong
nước, ưa làm việc phước thiện. Khi Tổ Long-Thọ đến nước nầy, Ngài tìm
đến yết kiến. Tổ Long-Thọ muốn thử Ngài,sai đồ đệ múc một thau nước đầy
để ở trước lối vào. Ngài đi qua lấy cây kim bỏ vào, rồi thẳng đến yết
kiến Tổ. Thầy trò gặp nhau vui vẻ lãnh hội, khi Tổ
Long-Thọ thuyết pháp hiện tướng vầng trăng tròn, Ngài thầm ngộ yếu chỉ.
Ngài theo Tổ xuất gia và được truyền tâm ấn. Sau khi đắc pháp, Ngài vân du khắp nơi, lần
lượt sang nước Ca-Tỳ-La để giáo hóa.Trong nước nầy có ông trưởng giả tên
Tịnh-Đức sanh được hai người con trai, người cả tên La-Hầu-La-Điểm,người
thứ tên La-Hầu-La-Đa. Ông hằng ngày chỉ săn sóc vườn tược. Hôm nọ,một
cây trong vườn nẩy sanh thứ nấm lạ, ông nhổ về ăn thử, thực ngon lành.
Song chỉ ông và người con thứ hằng ngày đều nhổ được nấm ăn,ngoài ra
không ai nhổ được. ông bảo con thứ: <Nấm cây nầy chỉ ta và ngươi được
ăn, ắt là việc phi thường.Ước gì có ai thông hiểu giải thích cho việc
này>. La-Hầu La-Đa nói kệ: Thử mộc sanh kỳ nhĩ, Ngã thực bất khô khao,
Trí giả giải thử nhơn, Ngã hồi hướng Phật đạo. Dịch: Cây nầy sanh nấm lạ, Con ăn rất ngon
lành, Người trí giải nhơn nầy, Con xin theo Phật đạo. Chợt gặp Bồ-Tát Đề-Bà đến nhà,cha con ông
Tịnh Đức vui mừng đem việc nầy ra hỏi. Ngài dạy:-Khi xưa lúc ông hai
mươi tuổi thường mời một vị Tỳ-kheo về nhà cúng dường. Vị Tỳ-kheo ấy tuy
có chút ít giới hạnh mà con mắt pháp chưa sáng,tâm không thấu lý,luống
nhận sự cúng dường của ông. Song vị Tỳ-kheo ấy có chút ít tu hành nên
khỏi sa vào đường ác,vẫn phải làm cây sanh nấm nầy để trả nợ cho ông.
Xưa khi vị Tỳ-kheo ấy đến nhà ông,trong nhà chỉ có ông và người con thứ
nầy thành kính cúng dường,còn bao nhiêu người đều không vui. Vì thế,nên
nấm hiện nay chỉ hai cha con ông được hưởng. Ngài lại bảo: -Ông nay được
bao nhiêu tuổi? Trưởng giả thưa: -Tôi được 79 tuổi. Ngài nói kệ: Nhập đạo bất thông lý, Phục thân
hoàn tín thí, Nhữ niên bát thập nhất, Thử mộc diệc vô nhĩ. Dịch: Vào đạo không thông lý, Hoàn thân đền
tín thí, Trưởng giả tuổi tám mốt, Cây nầy không sanh nấm. Ông trưởng giả nghe nói xong,biết rõ duyên
trước càng thêm thán phục, Ông thưa:-Tôi già yếu tuy muốn xuất gia e
không kham theo thầy. Đứa con thứ của tôi hết lòng mộ đạo,tôi xin cho nó
theo làm thị giả cho thầy,mong thầy dung nạp. Ngài hoan hỷ chấp nhận
La-Hầu-La-Đa xuất gia và triệu tập các vị thánh tăng đến truyền giới.
Ngài du hóa đến nước Ba-Liên-Phất gặp lúc
ngoại đạo hưng thịnh Phật pháp lu mờ. Ngài đem hết khả năng chuyển hóa
ngoại đạo trở về quy y Tam-Bảo,khiến xứ nầy Phật pháp hưng thịnh lại.
Khi già yếu, Ngài gọi La-Hầu-La-Đa đến phó
chúc pháp nhãn tạng và dặn dò đừng để đoạn diệt. Kế nói kệ: Bổn đối truyền pháp nhơn, Vị thuyết giải
thoát lý, Ư pháp thật vô chứng, Vô chung diệc vô thủy. Dịch: Xưa đối người truyền pháp,Vì nói lý
giải thoát, Nơi pháp thật không chứng, Không chung cũng không thủy. Dặn dò xong,Ngài nhập định ngồi nghiêm chỉnh
thị tịch. La-Hầu-La-Đa và đồ chúng xây tháp cúng dường. Ngài là Bồ-Tát thứ ba làm nổi bật giáo lý
Đại-Thừa. Những tác phẩm Ngài trước thuật: 1.-Bách luận, 2.-Bách tự luận, 3.- Đại trượng
phu luận, 4.-Đề-Bà Bồ-Tát phá Lăng-Già kinh trung ngoại đạo tiểu-thừa tứ
tông luận, 5.- Đề-Bà Bồ-Tát thích Lăng-Già kinh trung ngoại đạo
tiểu-thừa Niết-bàn luận… Những bộ luận trên nổi tiếng nhất là bộ
Bách-luận và Đại-Trượng-Phu luận. Đầu thế kỷ thứ bảy sau Phật Niết-bàn. Ngài dòng Phạm-Ma ở nước Ca-Tỳ-La, Thuở nhỏ
đã có sẵn lòng mộ đạo. Khi lớn do cơ duyên trong vườn có cây mọc nấm, Tổ
Đề-Bà giải thích nhơn do,mà Ngài được xuất gia. Sau khi được truyền tâm
ấn,Ngài thống lãnh đồ chúng du hóa nhơn gian,lần lượt đến phía Nam thành
Thất-La-Phiệt gặp sông Kim-Thủy. Ngài bảo chúng: -Các ngươi biết chăng? Vừa thấy bóng năm đức
Phật hiện dưới dòng sông, ta lấy bát mút nước nếm có mùi vị lạ, ngược
dòng sông nầy chừng năm trăm dặm sẽ có bực chí nhơn ở, hiệu là
Tăng-Già-Nan-Đề. Ngài bèn dẫn chúng theo ven bờ sông trở
lên,quả nhiên thấy Nan-Đề đang ngồi thiền trong thất đá.Ngài và đồ chúng
dừng lại xem,chờ đến bảy ngày Nan-Đề mới xuất định. Ngài hỏi Nan-Đề:
-Thân ông định hay tâm ông định? Nan-Đề đáp: -Thân tâm đều định. –Thân tâm đều
định sao có xuất nhập? –Tuy có xuất nhập mà không mất tướng định,như
vàng ở trong giếng,vàng ra ngoài giếng,thể vàng vẫn yên lặng. -Nếu vàng
ở trong giếng,vàng ra ngoài giếng,thể vàng không động tịnh,thì vật gì ra
vào? -<Nơi vàng không động tịnh thì vật gì ra vào>? Đã thừa nhận vàng ra
vào mà thể vàng không động tịnh. -Nếu vàng ở trong giếng thì ra là vật
gì? –Vàng,nếu ra ngoài thì ở trong giếng không phải vàng,Vàng nếu ở
trong giếng thì ra không phải vật. –Nghĩa nầy không đúng. –Lý kia chẳng
nhằm. –Nghĩa nầy đã ngã. –Nghĩa kia chẳng thành. –Nghĩa kia chẳng thành
mà nghĩa của ta thành. –Nghĩa ta tuy thành mà pháp không có ta. –Nghĩa
ta đã thành vì ta mà không ta. –Ta mà không ta lại thành nghĩa gì? –Vì
ta không ta nên thành nghĩa của ngươi. –Nhơn giả thờ vị thánh nào mà
được <không ta> ấy? -Thầy ta là Bồ-Tát Ca-Na-Đề-Bà chứng được <không
ta>. Nan-Đề tán thán: -Cúi đầu lễ Đề-Bà,người tạo thành nhơn giả. Vì
nhơn giả <không ta>, tôi muốn thờ nhơn giả. Ngài bảo: -Vì ta đã<không
ta>, ngươi cần thấy ta ta. Ngươi nếu thờ nơi ta, biết ta chẳng ta ta.
Nan-Đề tâm được rỗng rang liền đảnh lễ nói
kệ: Tam giới nhất minh đăng, Hồi quang nhi chiếu
ngã, Thập phương tất khai lãng, Như nhật hư không trụ. Dịch: Ba cõi một ngọn đèn, Ánh sáng soi chiếu
con, Mười phương đều sáng lạng, Như mặt trời trong không. Nan-Đề nói kệ xong,lại đảnh lễ cầu xin thế
độ. Ngài bảo: -Tâm ngươi tự tại chẳng lệ thuộc vào ta,cần gì nương nhờ
mà cầu giải thoát. Một hôm, Ngài gọi Nan-Đề đến bảo:-Nay ta đã già không
còn ở đời bao lâu, đại pháp nhãn tạng của Như-Lai trao lại cho ngươi.
Nghe ta nói kệ: Ư pháp thật vô chứng, Bất thủ diệc bất ly,
Pháp phi hữu vô tướng, Nội ngoại vân hà khởi. Dịch: Nơi pháp thật không chứng, Chẳng giữ
cũng chẳng lìa, Pháp chẳng tướng có không, Trong ngoài do đâu khởi. Nan-Đề nghe kệ xong càng thêm cung kính, nói
kệ tán thán: Thiện tai đại thánh giả, Tâm minh du nhật
nguyệt, Nhất quang chiếu thế giới, Ám ma vô bất diệt. Dịch: Lành thay! bậc đại thánh, Tâm sáng như
nhật nguyệt, Ánh sáng chiếu thế giới, Ma tối diệt hết sạch. Ngài ngồi trên tòa lặng lẽ thị tịch. Bốn
chúng xây tháp cúng dường. Giữa thế kỷ thứ bảy sau Phật Niết-bàn. Ngài là hoàng-tử con vua Bảo-Trang-Nghiêm ở
thành Thất-La-Phiệt. Ngài sanh chưa bao lâu đã biết nói,mà thường nói
việc Phật pháp. Năm bảy tuổi, Ngài chán thú vui ở đời,cầu xin xuất gia.
Ngài nói kệ xin cha mẹ: Khể thủ đại từ phụ, Hòa nam cốt huyết mẫu,
Ngã kim dục xuât gia, Hạnh nguyện ai mẫn cố. Dịch: Cúi đầu lễ cha lành, Nép mình lạy mẹ
hiền, Nay con muốn xuất gia, Xin thương xót nhận cho. Cha mẹ cố khuyên giải không cho. Ngài phải
nhịn ăn nài nỉ cho kỳ được. Đối cùng cha mẹ thấy chí Ngài quá mạnh không
sao ngăn nổi,nên cho xuất gia với điều kiện ở một ngôi nhà riêng trong
hoàng cung. Vua thỉnh Sa-Môn Thiền-Lợi-Đa về dạy Phật pháp cho Ngài. Từ
đây Ngài được pháp danh là Tăng-Già Nan-Đề. Ngài ở trong hoàng cung chín
năm tu hành,mới được thọ giới cụ túc. Một hôm,Ngài tự cảnh tỉnh: -Ta đã
thọ giới cụ túc mà còn ở trong nhà thế tục nầy sao? Chợt một buổi chiều
trời quang mây tạnh, Ngài nhìn thấy một con đường bằng phẳng, ở xa đầu
kia lố dạng một ngọn núi xanh. Ngài liền cất bước nhắm hòn núi thẳng
tiến. Ngài đi đến dưới núi mà trời chưa tối. Tự Ngài tìm được thất đá
rồi ngồi thiền nơi ấy. Năm ấy Ngài 26 tuổi. Sáng hôm sau,vua nghe mất Thái-tử cho người
tìm kiếm khắp nơi không được. Bực mình,vua đuổi Sa-Môn Thiền-Lợi-Đa ra
khỏi thành. Ngài tu thiền ở đây ngót mười năm,mới có cơ duyên gặp Tổ
La-Hầu-La-Đa được truyền chánh pháp. Sau khi đắc pháp,Ngài thống lãnh đồ
chúng du hóa khắp nơi làm lợi lạc quần sanh.Một hôm, Ngài bảo đồ chúng
-Thầy ta La-Hầu-La-Đa thường nói nước Ma-Đề
sẽ ra đời một vị thánh tên Già-Da-Xá-Đa nối ta truyền pháp. Nay ta và
các ngươi sang nước ấy tìm. Ngài liền dẫn đồ chúng du hóa nước Ma-Đề.
Đang đi trong nước nầy,bỗng có một luồng gió mát lành từ phương tây thổi
đến làm mát khỏe toàn chúng, Ngài bảo chúng: -Đây là đạo đức phong, ba
ngàn dặm về phía tây ắt gặp thánh nhơn. Thầy trò đi đến một hòn núi nhìn
lên đảnh có áng mây năm sắc. Ngài bảo chúng: -Trên đảnh núi có mây tía như
cái lọng ắt là chỗ thánh nhơn ở. Lên đến đảnh,quả nhiên thấy một mái nhà
tranh nằm bên cạnh núi. Một đứa bé cầm gương tròn, đến trước bái Ngài.
Ngài hỏi: -Ngươi bao nhiêu tuổi? Đứa bé thưa: -Trăm tuổi. –Ngươi còn bé mà sao
trăm tuổi? –Tôi chẳng hiểu sao,chính tôi một trăm tuổi. –Ngươi có căn cơ
lành chăng? -Phật đâu không nói kệ:<Nếu người sanh trăm tuổi không hội
được cơ duyên chư Phật,chẳng bằng sanh một ngày,mà được hiểu rành rõ>.
–Ngươi cầm gương tròn ý muốn làm gì? Đứa bé nói kệ: Chư Phật đại viên giám, Nội ngoại vô hà ế,
Lưỡng nhơn đồng đắc kiến, Tâm nhãn giai tương tợ. Dịch: Chư Phật gương tròn lớn, Trong ngoài
không vết che, Hai người đồng được thấy, Tâm mắt đều giống nhau. Cha mẹ thấy đứa bé đối đáp hợp đạo như thế,
đồng ý cho Ngài làm thị giả,Ngài nhận đứa bé dẫn về tịnh-xá cạo tóc thọ
giới,cho hiệu là Già-Da-Xá-Đa. Một hôm,gió thổi cái linh treo trên điện
Phật khua động, Ngài hỏi Xá-Đa: -Linh kêu hay gió kêu? –Xá-Đa thưa:
-Chẳng phải linh kêu,chẳng phải gió kêu,mà tâm con kêu.–Tâm ngươi là cái
gì? -Đều lặng lẽ. –Hay thay! ngươi khéo hội lý Phật,nên nói pháp yếu,nối
đạo cho ta,chẳng phải ngươi còn ai? Ngài liền nói kệ Tâm địa bổn vô sanh, Nhơn địa tùng duyên
khởi, Duyên chủng bất tương phòng, Hoa quả diệc phục nhi. Dịch: Đất tâm vốn không sanh, Nhơn đất từ
duyên khởi, Duyên giống chẳng ngại nhau, Hoa trái cũng như thế. Nói kệ xong, Ngài nắm cành cây mà hóa. Đồ
chúng bàn nhau: < Thầy ta diệt độ ở dưới tàng cây, cũng là điềm che mát
cho kẻ sau >. Liền làm lễ hỏa táng tại đây. Cuối thế kỷ thứ bảy sau Phật Niết-bàn. Ngài họ Uất-Đầu-Lam ở nước Ma-Đề, cha hiệu
Thiên-Cái, mẹ là Phương-Thánh. Bà Phương-Thánh thọ thai,một đêm mộng
thấy có người cầm cái gương báu đến nói: <Tôi đến >. Bà chợt tỉnh
giấc,nghe toàn thân nhẹ nhàn thanh thản,khác hơn ngày thường. Trong nhà
có mùi hương lạ,vài lằn hào quang xuất hiện. Bảy ngày sau, Bà sanh ra
Ngài. Thân Ngài trong sáng giống như lưu-ly. Ngài
thích chỗ vắng vẻ,nói ra những lời siêu việt. Nhà cha mẹ Ngài ở trên núi
Bảo-Lạc-Ca. Sau khi Ngài ra đời,ngôi nhà nầy luôn luôn có áng mây tía
che đậy trên không. Tổ Tăng-Già-Nan-Đề nhơn thấy áng mây ấy,tìm đến gặp
Ngài. Từ đó, Ngài theo làm đệ tử Tổ Về sau, Ngài được Tổ truyền tâm ấn và thống
lãnh đồ chúng. Tùy duyên, Ngài đi vân du khắp nơi để giáo hóa làm lợi
ích cho quần sanh. Khi tuổi đã già, Ngài du hóa đến nước Nguyệt-Chí.
Trong nước nầy có người dòng Bà-La-Môn Tên Cưu-Ma-La-Đa tuổi được 30 tu theo ngoại
đạo,chủ thuyết tự nhiên. Ông có nuôi một con chó,mỗi khi ăn xong, con
chó ra hành lang dưới tấm rèm nằm. Có những khi mưa gió ướt cả mình, mà
nó vẫn nằm đó. Người nhà sợ nó lạnh đuổi đi chỗ khác, rồi nó cũng trở
lại chỗ đó nằm. Ông Cưu-Ma-La-Đa lấy làm lạ, đem việc đó hỏi thầy ông,
nhưng không giải được điều gì. Ông mong có dịp gặp những bậc tu hành đạo
đức cao cả để nhờ giải nghi. Ngài cùng đồ chúng đi đến gần nhà người
Bà-la-môn nầy,bỗng thấy khí đại thừa xông lên. Ngài dừng lại bảo chúng:
-Khí nầy nếu vòng tròn như khoen đeo tai là
có Bồ-Tát bên cạnh. Nay khí nầy tương tợ vòng tròn ắt có thánh nhơn gần
đây. Thầy trò đi đến một đỗi,bỗng có người Bà-la-môn đến hỏi thị giả:
<Thầy đây là người gì?> Thị giả đáp: <Là đệ tử Phật>. Người ấy liền chạy
thẳng vào nhà đóng cửa lại. Ngài đi theo đến nơi gõ cửa. Trong nhà nói
vọng ra rằng: -Nhà nầy không có người. –ngài hỏi: -Đáp
không người đó là ai? Cưu-Ma-La-Đa nghe nói bèn có vẻ lạ, nghi là bậc
đạo hạnh bèn mở cửa. Ra thấy Ngài, ông chào và thỉnh ngồi ghế giữa, đoạn
đem nghi vấn về con chó ra hỏi. Ngài giải thích: -Con chó nầy là cha của ông,
bởi có chút ít nghiệp nên đọa làm súc sanh. Xưa kia cha ông đem cả ngàn
đính vàng để trong cái hũ lén chôn dưới rèm. Đến khi người chết,chưa gặp
ông để trối lại,vì còn tiếc của nầy nên sanh ra làm chó để gìn giữ. Nếu
ông đào được, ắt nó sẽ bỏ đi. Cưu-Ma-La-Đa liền cho người đào chỗ con
chónằm,quả nhiên được hũ vàng đúng như lời Ngài nói. Ông hết lòng kính
phục phát nguyện xuất gia. Ngài hoan hỷ chấp nhận làm lễ xuất gia thọ
giới và cho làm thị giả. Thấy cơ duyên đã mãn, Ngài kêu Cưu-Ma-La-Đa đến
dặn dò: -Xưa Như-Lai đem đại pháp nhãn trao cho Tổ Ca-Diếp truyền lần
đến ta, nay ta truyền lại cho ngươi. Ngươi nghe ta dạy: Hữu chủng hữu tâm địa, Nhơn duyên năng phát
manh, Ư duyên bất tương ngại, Đương sanh sanh bất sanh. Dịch: Có giống có đất tâm, Nhơn duyên hay nẩy
mầm, Đối duyên chẳng ngại nhau, Chính sanh, sanh chẳng sanh.. Cưu-Ma-La-Đa cung kính vâng dạy, đảnh lễ thọ
lãnh. Ngài dùng mười tám phép thần biến rồi vào viên tịch. Đồ chúng hỏa
táng và lượm xá-lợi xây tháp cúng dường. Đầu thế kỷ thứ tám sau Phật Niết-bàn. Ngài dòng Bà-la-môn ở nước Nguyệt-Chí. Gia
đình Ngài trước kia giàu có, song cha Ngài vì bịnh tham tiếc chỉ một bề
bo bo giữ của. Nhơn việc con chó nằm ngoài rèm,gặp Tổ Già-Da-Xá-Đa giải
nghi, Ngài phát tâm theo đạo Phật, xuất gia thọ giới. Sau khi được được
Tố Xá-Đa phó chúc và truyền tâm pháp, Ngài đi vân du khắp nơi để hoằng
pháp lợi sanh. Ngài đi giáo hóa đến miền Trung-Ấn,trên đường gặp một du
khách tên Xà-Dạ-Đa đến lễ bái Ngài, Ông hỏi: -Nhà con cha mẹ đều kính Tam-Bảo tu hành đúng
pháp, mà sao nhiều bệnh hoạn, làm việc gì thất bại việc ấy. Hàng xóm gần
nhà con,có người hung bạo giết hại làm ác càng ngày càng nhiều, mà thân
thể khỏe mạnh, ra làm việc đều được như ý. Như vậy, nhơn quả nghiệp báo
đâu không phải nói suông ư? Con rất nghi lẽ nầy, mong Ngài giải nghi.
Ngài bảo: -Phật nói nghiệp báo thông cả ba
đời, bởi do đời trước tạo nghiệp lành nên đời nầy hưởng quả lành. Dù đời
nầy có làm ác thì quả ác sẽ chịu ở đời sau. Cho nên, có người đời nầy
tuy làm lành mà đời nầy không hưởng được quả lành, vì nghiệp ác trước
mạnh hơn. Có người đời nầy tuy làm ác mà không chịu quả ác, vì nghiệp
lành trước mạnh hơn. Nếu do đời nầy không được quả lành, rồi lại tạo ác,
thì đời sau càng sa vào đường ác. Nếu do đời nầy được quả lành, rồi lại
tạo lành, thì đời sau càng tiến trên đường lành. Lại, có người đời trước
làm lành được nửa đời, đổi sang làm ác, đến đời nầy nửa đời trước hưởng
phước, nửa đời sau mắc họa. Hiện nay cha mẹ ông và người hàng xóm lẽ báo
ứng thiện ác cũng giống như thế, bởi nghiệp đời trước chiêu cảm nên vậy.
Đâu thể căn cứ trong hiện đời mà hiểu được? -Dạ-Đa nghe giải liền tan
hết nghi ngờ. Ngài dạy thêm: -Tuy ông đã tin nghiệp ba đời, mà chưa rõ
nghiệp từ hoặc sanh, hoặc nhơn thức có, thức y nơi bất giác, bất giác y
nơi tâm. Song tâm vốn thanh tịnh, không sanh diệt, không tạo tác, không
báo ứng, không hơn kém, lặng lẽ linh thông.Ông nếu vào pháp môn nầy có
thể đồng với chư Phật, tất cả thiện, ác,hữu vi,vô vi, đều như mộng
huyễn. Dạ-Đa nghe được lời nầy liền phát huệ đời trước,bèn xin xuất gia.
Ngài hỏi: -Ông người xứ nào? Cha mẹ còn chăng? Nếu thật tâm cầu đạo, nên
trở về nhà xin với cha mẹ, xin xong trở lại cũng chẳng muộn. Dạ-Đa thưa:
-Con là người Bắc-Ấn,cách đây hơn ba ngàn dặm, đâu thể trở lại được. Xin
thỉnh Ngài đến xứ con, cho gia đình con cúng dường và nhơn đó con được
xuất gia. Ngài bằng lòng, thầy trò và đồ chúng đồng sang Bắc-Ấn. Đến
nhà, Dạ-Đa xin phép cha mẹ được xuất gia. Ngài làm lễ xuất gia và truyền
giới cụ túc cho Dạ-Đa tại một ngôi tháp cổ, nơi quê hương của Dạ-Đa. Một
hôm, Ngài gọi Dạ-Đa đến dặn dò:-Xưa Phật ghi rằng ngươi sẽ làm Tổ thứ
hai mươi,nay ta trao pháp nhãn tạng cho ngươi, ngươi khéo giữgìn và
truyền bá. Nghe ta nói kệ:Tánh thượng bổn vô sanh,Vị đối cầu nhơn
thuyết, Ư pháp ký vô đắc, Hà hoài quyết bất quyết. Dịch: Trên tánh vốn
không sanh, Vì đối người cầu nói, Nơi pháp đã không được, Đâu cần giải
chẳng giải. -Lại dặn: -Kệ nầy là lời diệu, do Như-Lai thấy tánh thanh
tịnh nói ra, ngươi nên vâng giữ. Dạ-Đa cung kính đảnh lễ vâng dạy. Ngài
ngồi ngay trên tòa chấp tay hở ra như hoa sen nở, phóng hào quang sáng
suốt soi khắp trong chúng, rồi yên lặng thị tịch.Toàn chúng xây tháp
phụng thờ. Giữa thế kỷ thứ tám sau Phật Niết-bàn. Ngài người Bắc-Ấn, trước đã sẵn lòng mến đạo,
thông hiểu đạo lý. Nhơn du lịch miền Trung-Ấn gặp Tổ Cưu-Ma-La-Đa, Ngài
nhờ giải nghi, rồi phát tâm xuất gia. Sau được truyền tâm ấn. Ngài thống
lãnh đồ chúng du hóa các nước,lần lượt đến thành La-Duyệt. Trong thành
nầy hiện có số đông chúng tăng học đạo. Nghe tin Ngài đến,họ đua nhau
đến yết kiến. Chúng đến trước nhất,người lãnh đạo là Bà-Tu-Bàn-Đầu. Ông
nầy tu hành tinh tấn suốt ngày đêm không nằm và sáu thời lễ bái,mặc y
vá, ăn một bữa,lòng đạm bạc không mong cầu. Đồ chúng nhơn đó rất kính
trọng ông. Ngài gọi đồ chúng bảo: -Người khổ hạnh tu
hành thanh tịnh nầy (Bà-Tu-Bàn-Đầu) có thể được Phật đạo chăng? Chúng đáp: -Thượng nhơn nầy tu hành tinh tấn
như thế,đâu không được đạo. Ngài bảo: -Người nầy cùng đạo xa vậy. Dù khổ hạnh trải qua nhiều kiếp,chỉ giúp cho
gốc vọng, đâu thể chứng đạo? Chúng hỏi: -Nhơn giả chứa đựng được pháp gì
mà chê thầy tôi? Ngài đáp: -Ta chẳng cầu đạo cũng chẳng điên đảo,ta
chẳng lễ Phật cũng chẳng khinh mạn, ta chẳng ngồi mãi cũng chẳng lười
biếng,ta chẳng biết đủ cũng chẳng tham cầu.Bà-Tu-Bàn-Đầu nghe lời nầy
vui vẻ nói bài kệ tán thán: Khể thủ tam muội tôn, Bất cầu ư Phật đạo,
Bất lễ diệc bất mạn, Tâm bất sanh điên đảo, Bất tọa bất giải đải, Đãn
thực vô sở hảo,Tuy hoãn nhi bất trì, Tuy cấp nhi bất tháo, Ngã kim ngộ
chí tôn, Hòa nam y Phật giáo Dịch: Đảnh lễ tam muội lớn, Chẳng cầu được
Phật đạo, Chẳng lễ cũng chẳng khinh, Tâm chẳng sanh điên đảo,Chẳng ngồi
chẳng lười biếng, Chỉ ăn không cần ngon, Tuy hoãn mà không chậm, Tuy gấp
mà chẳng thô, Nay con gặp chí tôn, Cúi đầu vâng Phật dạy. Ngài bảo chúng: -Người tu hạnh đầu đà nầy,
bọn ngươi không thể bì kịp.Vì ông ấy kiếp trước tu hạnh bất khinh nên
mới được như vậy.Vừa rồi,ta chê ông, bởi thấy ông đạo tâm tha thiết,sợ e
như sợi đờn thẳng quá phải đứt nên ta không khen ông, muốn ông tiến đến
chỗ vô sở đắc và dừng trụ nơi đất An-Lạc. Ngài lại gọi Bàn-Đầu hỏi: -Ta
nói trái ý ông, tâm ông được chẳng động chăng? Bàn-Đầu thưa: -Đâu dám
động tâm.Tôi nhớ bảy đời về trước sanh cõi An-Lạc,vì mộ đạo nên thờ trí
giả Nguyệt-Tịnh làm thầy. Thầy Nguyệt-Tịnh dạy tôi: <Không bao lâu nữa
ngươi sẽ chứng quả Tư-Đà-Hàm, nên siêng năng tinh tiến. Phàm tu hành như
trèo lên cao, phải cố gắng tiến lần lên, không cho sụt xuống. Nếu lỡ có
sụt, muốn trèo lên lại càng khó >.Lúc đó, tôi đã tám mươi tuổi, nương
gậy mới có thể đi được.Khi ấy, gặp Bồ-Tát Đại-Quang-Minh ra đời, tôi
muốn đến lễ Ngài, bèn đi đến tịnh-xá, lễ bái xong trở về. Chợt gặp thầy
Nguyệt-Tịnh quở trách tôi: <Dốt quá, tại sao ông lại khinh cha trọng
con? Hôm trước,ta thấy ông sắp được chứng quả, hôm nay đã mất> Khi ấy, tôi tự cho là không có lỗi, nên không
phục những lời quở ấy.Tôi cầu xin thầy Nguyệt-Tịnh chỉ lỗi cho tôi.Thầy
Nguyệt-Tịnh dạy: -< Vừa rồi,ngươi đến đảnh lễ
Bồ-Tát Đại-Quang tại sao lại dựng cây gậy vào mặt Phật vẽ trên vách, Ngươi do lỗi nầy nên sụt quả vị >.Tôi nhớ kỹ
lại, thật đúng như lời thầy Nguyệt-Tịnh quở.Từ đó về sau, phàm có nghe
lời nào, chẳng dám không tin. Dù bị những lời chửi mắng vẫn coi như gió
thổi ngoài tai. Huống là, nay Tôn-giả dùng chánh pháp chỉ dạy thì đâu
dám phiền buồn. Cúi xin đấng đại từ thương xót đem đạo mầu chỉ dạy cho
con. Ngài liền dạy: -Đại pháp nhãn tạng của
Như-Lai, nay ta trao cho ngươi, ngươi nên truyền bá chớ để dứt mất. Nghe
ta nói kệ: Ngôn hạ hiệp vô sanh, Đồng ư pháp giới tánh, Nhược năng như
thị giải, Thông đạt sự lý cánh. Dịch: Nói ra hợp vô sanh, Đồng cùng tánh pháp
giới, Nếu hay hiểu như thế, Suốt thông sự lý tột. Bà-Tu-Bàn-Đầu lễ bái vâng lệnh. Ngài ngồi
ngay trên tòa lặng lẽ qui tịch. Chúng hỏa táng thu xá-lợi xây tháp thờ.
Cuối thế kỷ thứ tám sau Phật Niết-bàn. Ngài họ Tỳ-Xá-Khư ở nước La-Duyệt, cha hiệu
Quang-Cái, mẹ là Nghiêm-Nhất. Nguyên gia đình ông Quang-Cái giàu có mà
không con. Hai ông bà đồng đi lễ tháp Phật ở phía Bắc thành La-Duyệt để
cầu con. Sau đó, bà mộng thấy nuốt hai hạt châu một sáng một tối. Kế bà
biết mình có thai. Một hôm, có vị A-La-Hán hiệu Hiền-Chúng đến nhà. Ông
Quang-Cái ra đảnh lễ. Đến lượt bà ra lễ, Tôn-giả Hiền-Chúng liền tránh
qua một bên ra vẻ cung kính đáp lại. Ông Quang-Cái lấy làm lạ hỏi: -Tôi
là trượng phu đảnh lễ Tôn-giả chẳng nhượng, tại sao vợ tôi là phụ nữ mà
Tôn-giả lại kính nhượng? Tôn-giả Hiền-Chúng đáp: -Bởi ông là phàm phu
nên tôi nhận ông lễ, còn vợ ông đang mang thai Bồ-Tát là bậc pháp khí
thượng thừa nên tôi cố tránh, không phải tôi trọng nữ khinh nam. Ông Quang-Cái tạ lỗi thưa: -Tôn-giả là bậc
thánh nhơn hay biết việc chưa đến. Sau quả nhiên bà Nghiêm-Nhất sanh
được hai người con trai một lượt. Người con lớn đặt tên là Bà-Tu-Bàn-Đầu
tức là Ngài. Thuở bé, Ngài ý chí siêu việt, đến 15 tuổi xin xuất gia với
A-La-Hán Quang-Độ. Khi thọ giới được Bồ-Tát Tỳ-Bà-Ha truyền cho. Ngài mộ
hạnh của Tổ Ca-Diếp nên tập tu theo hạnh đầu-đà. Lúc gặp Tổ Xà-Dạ-Đa
kích khởi phát sanh đại huệ và được truyền pháp. Ngài thống lãnh đồ chúng du hóa khắp nơi, lần
lượt đến nước Na-Đề. Vua Na-Đề tên là Thường-Tự-Tại, sanh được hai người
con trai. Người con lớn là Ma-Ha-La đã 40 tuổi, người con thứ là
Ma-Noa-La được 30 tuổi. Khi Ngài đến nước nầy, vua thỉnh vào cung cúng
dường. Vua hỏi Ngài: -Phong tục nước tôi chắc không bằng phong tục thuần
mỹ ở thành La-Duyệt? Ngài đáp: -Ở thành La-Duyệt xưa kia có phước đức
được ba đức Phật ra đời, ở nước nầy hiện có hai vị hiền sĩ làm phước
báo. Vua hỏi: -Hai vị hiền là ai? Ngài đáp: -Xưa Phật thọ ký rằng: < Gần
một nghìn năm sau ta Niết-bàn, có một thần lực đại sĩ ra nối truyền
chánh pháp tại nước Na-Đề tên là Ma-Noa-La >,là con thứ hai của bệ hạ.
Còn bần tăng tuy đức mỏng cũng đảm đang một
vị vậy. Vua nghe hoan hỷ gọi thái-tử Ma-Noa-La đến, bạch với Ngài: Con tôi đây đã được Phật thọ ký, cúi xin
Tôn-giả nhận cho nó xuất gia. Ngài bảo: -Vị hoàng tử nầy nếu không phải
tôi làm thầy, sau nầy không ai độ được. Ngài liền triệu tập thánh chúng
vào hoàng cung làm lễ xuất gia thọ giới cho Ma-Noa-La. Ma-Noa-La rất
hoan hỷ được thọ lãnh giới pháp. Sau đó, Ngài dẫn Ma-Noa-La sang hóa đạo
nước khác. Một hôm, Ngài gọi Ma-Noa-La lại bảo: -Đại
pháp nhãn tạng của Như-Lai nay giao phó cho ngươi, ngươi phải gìn giữ
truyền bá. Nghe ta nói kệ: Bào huyễn đồng vô ngại,Vân hà bất ngộ
liễu,Đạt pháp tại kỳ trung,Phi kim diệc phi cổ. Dịch: Bọt huyễn đồng không ngại, Tại sao
chẳng liễu ngộ, Đạt pháp ngay trong ấy, Chẳng xưa cũng chẳng nay. Truyền pháp xong, Ngài đang ngồi trên tòa,
bỗng thân vượt lên hư không, ngồi yên trên ấy. Bốn chúng quỳ bạch: <
Chúng con muốn thờ xá-lợi, xin Tôn-giả cho chúng con được thiêu lấy
xá-lợi >. Thân Ngài liền hạ xuống ngồi yên chổ cũ. Chúng thiêu lượm
xá-lợi phụng thờ. Đầu thế kỷ thứ chín sau Phật Niết-bàn. Ngài dòng Sát-Đế-Lợi ở nước Na-Đề, cha là
Thường-Tự-Tại vua nước nầy. Ngài là con thứ ba của vua, khi sanh ra có
nhiều điềm lạ, nên vua không dám lấy việc thế tục ràng buộc. Khi gặp Tổ
Bà-Tu-Bàn-Đầu, Ngài được 30 tuổi,vua cha cho phép xuất gia theo Tổ. Sau
Ngài được Tổ truyền tâm pháp. Ngài sang Tây-ấn giáo hóa.Vua nước nầy họ
Cù-Đàm tên Đắc-Độ hằng sùng Phật pháp tinh tấn tu hành. Bảy năm hành đạo
tại Long cung. Một hôm, bỗng hiện một bảo tháp xanh huyền bề cao một
thước tư, ngay chổ vua tu hành.Vua đích thân lại bưng lên để thờ, nhưng
bưng không nổi,lính hộ vệ họp lực nhắc lên cũng không lay chuyển. Sau
cùng vua phải mở đại hội triệu tập tất cả lực sĩ, tăng sĩ, phạm-chí,
chú-thuật…để hỏi nguyên nhơn bảo tháp xuất hiện và dời lên thờ.Trong
cuộc hội nầy, Ngài cũng đến dự. Trước tiên những lực sĩ ra sức nhắc tháp
lên không lay động. Kế các nhà chú-thuật dùng thần chú cũng bất lực.Sau
cùng Ngài Ma-Noa-La bước ra giải thích: -Tháp nầy do vua A-Dục tạo ra để
thờ xá-lợi của Phật. Bốn mặt đều có chạm hình tiền thân Phật Thích-Ca
khi còn làm hạnh Bồ-Tát. Ngày nay do đại-vương có duyên phước lớn nên
tháp nầy mới hiện. Nói xong,Ngài lại nhắc bảo tháp để trên bàn thờ.Vua
và toàn chúng hết lòng kính phục.Vua thưa: -Xin Tôn-giả dạy cho chúng
tôi những Phập pháp gì cần học? Ngài bảo:-Muốn học Phật pháp phải bỏ ba
vật và đủ bảy việc.Vua thưa: -Ba vật gì phải bỏ và đủ bảy việc gì? Ngài
đáp: -Tham, sân, si là ba vật phải bỏ. Đủ bảy việc là: 1)- đại từ, 2)-
hoan hỷ, 3)- vô ngã, 4)-dõng mãnh, 5)- nhiêu ích, 6)- hàng ma, 7)- vô
chứng. Vua Đắc-Độ nghe xong cảm ngộ, rất tiếc mình
được hiểu quá muộn. Tự than: < Bậc chí thành khó gặp, sự vui trong đời
có gì lâu dài!> Vua cho đòi thái tử đến giao hết việc nước, xin theo
Ngài xuất gia học đạo. Ngài triệu tập các vị thánh chúng đến hoàng cung
làm lễ xuất gia và truyền giới cho vua. Xuất gia tu không bao lâu, vua
Đắc-Độ chứng được quả thánh. Ngài dạy Đắc-Độ ở lại trong nước giáo hóa,
còn Ngài sang nước Nguyệt-Chi tìm người kế truyền. Ngài Ma-Noa-La và tăng chúng đến nước
Nguyệt-Chi. Vua nước nầy là Bảo-Ấn và Tỳ-kheo Hạc-Lặc-Na đồng đón tiếp,
thỉnh về nội cung. Hạc-Lặc-Na đem việc Long-Tử hỏi trước: -Thưa Tôn-giả!
tôi có một đứa đệ tử tên Long-Tử tuổi tuy còn nhỏ mà thông minh tuyệt
vời. Tôi thường nhập định tìm nguyên nhơn đời trước mà không thấy manh
mối, hôm nay gặp đây xin Tôn-giả chỉ dạy cho? Ngài hỏi: -Ông nhập định
quán thấy được mấy kiếp? Hạc-Lặc-Na thưa: -Tôi chỉ thấy được ba đời.
Ngài bảo: -Đệ tử của ông trong kiếp thứ năm đã sanh trong nhà Bà-la-môn
giàu có tại nước Diệu-Hỷ. Khi ấy, trong nước có ngôi chùa mới khánh
thành cái đại hồng chung.Con ông Bà-la-môn nầy dùng gỗ chiên đàn tiện
cái chày dộng chuông cúng chùa. Nhờ chày nầy giúp cho người được nghe
chuông thức tỉnh. Bởi quả báo ấy, nên nay nó sanh ra được thông minh.
Hạc-Lặc-Na lại hỏi: -Riêng tôi không biết duyên gì mà cảm được bầy hạc
thường theo, xin Tôn-giả chỉ dạy? Ngài bảo:-Xưa ông trong kiếp thứ tư
làm vị Tỳ-kheo đạo đức được đầy đủ,có đến 500 đệ tử mỗi khi Long cung
thỉnh ông cúng dường, ông xét trong hàng đệ tử không có người đủ phước
đức thọ Long cung cúng nên ông chỉ đi một mình. Nhóm đệ tử bất mãn nói:
< Thầy thường thuyết pháp nói: đối sự ăn uống bình đẳng, đối với pháp
cũng bình đẳng, mà nay thầy đi thọ trai một mình!> Sau Long cung thỉnh,
ông đều cho chúng đi theo. Bởi họ chưa đủ đức mà nặng về sự ăn uống, nên
sau khi tịch diệt, chúng ấy lần lượt chết sanh trong loài có cánh. Đã
trải qua năm kiếp, nay họ lại làm thân hạc. Do nhơn duyên thầy trò kiếp
trước nên nay chúng cảm mến ông. Hạc-Lặc-Na cảm động, lại hỏi: -Nay phải
tu pháp gì để giúp chúng trở lại làm người? Ngài bảo: -Ta có pháp bảo vô
thượng, là kho tàng Như-Lai, Thế-Tôn xưa trao cho Tổ Ca-Diếp lần lượt
đến ta, nay ta trao cho ông, ông nên truyền bá chớ nên để dứt mất Nghe ta nói kệ: Tâm tùy vạn cảnh chuyển,
Chuyển xứ thật năng u, Tùy lưu nhận đắc tánh, Vô hỷ diệc vô ưu. Dịch: Tâm theo muôn cảnh chuyển, Chổ chuyển
thật kín sâu, Theo dòng nhận được tánh, Không mừng cũng không lo Hạc-Lặc-Na vui vẻ kính vâng phụng hành. Ngài
truyền pháp xong, ngay chỗ ngồi lặng lẽ thị tịch. Chúng hỏa táng và lượm
xá-lợi xây tháp thờ. Giữa thế kỷ thứ chín sau Phật Niết-bàn Ngài dòng Bà-la-môn sanh tại nước Nguyệt-Chi,
cha hiệu Thiên-Thắng, mẹ là Kim-Quang. Ông Thiên-Thắng đã lớn tuổi mà
không con.Một hôm, ông đến trước Kim-Tràng thờ bảy đức Phật dâng hương
lễ bái cầu con. Một hôm, bà Kim -Quang nằm mộng thấy một vị thần đứng trên
ngọn núi Tu-Di tay cầm vòng ngọc nói với bà: <Ta lại đây>. Khi thức
giấc, bà biết có thai.Khi Ngài được bảy tuổi đi chơi trong xóm, thấy một
ngôi miếu thờ thần, dân gian hằng ngày giết các súc vật đến dâng cúng.
Ngài đi thẳng vào miếu quở: -Khéo bày đặt sự họa phước mà lừa gạt dân
chúng, hằng năm làm hao phí của nhơn dân, tổn hại sinh mạng loài vật quá
nhiều! Ngài quở xong, ngôi miếu bị sụp đổ. Dân chúng trong làng gọi Ngài
là ông thánh con. Hai mươi tuổi, Ngài xuất gia tu theo Phật
giáo. Ngài ở ẩn trong đám rừng xanh ngót chín năm, chỉ làm bạn với bầy
hạc và chuyên tụng kinh Đại-Bát-Nhã. Năm ba mươi tuổi, Ngài gặp Tổ
Ma-Noa-La và được truyền tâm ấn. Ngài dẫn chúng du hóa miền Trung-Ấn.
Ông vua sứ nầy tên Vô-Úy-Hải rất sùng mộ Phật giáo. Vua thỉnh Ngài vào
cung thuyết pháp cho vua nghe.Vua nghe Ngài thuyết pháp rất hoan hỷ.
Ngài có đệ tử ưu tú nhất là Long-Tử. Long-Tử rất thông minh, mà mạng
yểu. Long-Tử mất, cha mẹ và anh là Sư-Tử đến làm lễ hõa táng, song dời
quan tài không được. Sư-Tử lấy làm lạ hỏi Ngài: -Toàn chúng tận lực dỡ
lên, tại sao không nổi? Ngài đáp: -Lỗi tại nơi ngươi vậy. Sư-Tử hỏi:
-Tôi có lỗi gì? Xin Tôn-giả nói cho tôi biết? Ngài bảo: -Ngươi xưa theo
Bà-la-môn, em ngươi đi xuất gia, hai bên xa cách. Em ngươi hai năm ngày đêm nhớ thương, muốn
làm phước giúp cho ngươi, bảo thầy ngươi đắp một tượng Phật, đã lâu mà
chưa hoàn bị. Ngươi vì ghét nên đem tượng Phật ném xuống đất. Bây giờ,
ngươi đi về thỉnh tượng Phật để trên bàn lại, thì quan tài sẽ dời được.
Sư-Tử làm y như Ngài dạy, quả nhiên quan tài dời đi dễ dàng. Kế đến thầy
của Sư-Tử tịch. Ông cảm thấy buồn bã, nghiệm lại lời Ngài nói, bèn đến
xin xuất gia theo Phật làm đệ tử Ngài. Sư-Tử hỏi Ngài: -Bạch thầy! con muốn dụng tâm
cầu đạo, phải dụng tâm nào? Ngài đáp: -Không có chổ dụng tâm. Đã không
dụng tâm làm sao làm Phật sự? –Ngươi nếu có dụng thì chẳng phải công
đức. Nếu ngươi không làm tức là Phật sự. Cho nên kinh nói: < Ta ra làm
công đức, mà không có cái ta làm >. Sư-Tử nghe nói liền phát sanh trí
huệ Phật. Ngài chỉ hướng Đông-Bắc hỏi Sư-Tử: -Ngươi
thấy gì chăng? Sư-Tử thưa: -Con thấy. –Ngươi thấy cái gì? –Con thấy hơi
trắng xông lên giống như cái mống bao khắp trời đất, lại có hơi đen năm
lằn xẹt như cây thang lên trời Đạo-Lợi. -Ngươi thấy hơi ấy, có biết ứng điềm gì
chăng? –Con không biết ứng điềm gì, xin thầy dạy cho. -Cuối năm chục năm
sau khi ta diệt độ, tai nạn sẽ phát khởi ở Bắc-Ấn ngươi nên biết đó.
Sư-Tử thưa: -Con muốn du phương, thỉnh thầy chỉ dạy. Ngài bảo: -Nay ta
đã già, giờ Niết-bàn sắp đến, đại pháp nhãn tạng của Như-Lai giao lại
cho ngươi, ngươi đến nước khác. Song nước ấy có tai nạn mà liên hệ đến
thân ngươi. Ngươi phải dè dặt, truyền trao sớm chớ để đoạn mất. Nghe ta
nói kệ: Nhận đắc tâm tánh thời, Khả thuyết bất tư nghì, Liễu liễu vô khả
đắc, Đắc thời bất thuyết tri. Dịch: Khi nhận được tâm tánh, Mới nói chẳng
nghĩ bàn, Rõ ràng không chỗ được, Khi được không nói biết. Truyền pháp xong, Ngài phi thân lên hư không
làm mười tám pháp thần biến, rồi trở lại chỗ ngồi lặng lẽ thị tịch Cuối thế kỷ thứ chín sau Phật Niết-bàn Ngài dòng Bà-la-môn người Trung-Ấn. Thuở nhỏ
Ngài rất thông minh, tài hùng biện xuất chúng. Ngài có người em tên
Long-Tử cũng thông minh như thế. Trước Ngài thọ giáo với thầy Bà-la-môn,
em Ngài lại xuất gia tu theo Phật giáo. Khi Long-Tử tịch, Ngài có cơ hội gặp Tổ
Hạc-Lặc-Na và hồi đầu thọ giáo với Tổ. Khi Tổ sắp tịch truyền tâm pháp
lại cho Ngài.Ngài sang nước Kế-Tân hoằng hóa. Trong nước nầy trước có vị
Sa-môn tên Bà-Lợi-Ca, chuyên tập thiền quán Tiểu-thừa. Môn đồ của
Bà-Lợi-Ca, sau lại chia làm năm phái:1) -Thiền-định, 2) –Tri-kiến, 3)
-Chấp-tướng, 4)Xã- tướng, 5)-Tịnh-khẩu. Họ tranh nhau dành phần hơn.
Ngài đến các phái ấy, dùng biện tài vô ngại chiết phục được bốn phái.
Duy phái Thiền-định người cầm đầu là Đạt-Ma-Đạt, hay tin nầy tức giận
tìm đến cật vấn Ngài. Vừa gặp Ngài, Đạt-Ma-Đạt nói: -Muốn gặp nhau
vấn nạn mới đến đây. Ngài hỏi: -Nhơn giả tập định sao lại đến đây? Nếu
có đến đây thì đâu phải thường tập định? Ma-Đạt nói: -Tôi đến chỗ nầy mà
tâm cũng không loạn, định tùy người tập đâu phải tại chỗ nơi. Ngài hỏi:
-Nhơn giả lại đây thì cái tập kia cũng đến. Đã không phải chỗ nơi thì
đâu tại người tập? Ma-Đạt nói: -Vì định tập người, chẳng phải người tập
định. Tuy tôi có đi lại mà cái định ấy vẫn thường tập. Ngài hỏi: -Người
chẳng tập định, vì định tập người. Vậy chính khi người đi lại, thì cái
định ấy tập ai? Ma-Đạt nói: -Như hạt minh châu sạch, trong ngoài không
bị che, nếu định được thông đạt cũng lại như thế. Ngài bảo: -Nếu định
thông đạt giống như hạt minh châu. Nay thấy nhơn giả không thể sánh được
với hạt minh châu. Ma-Đạt nói: -Hạt châu kia sáng suốt trong ngoài đều
định. Tâm tôi không loạn ví như hạt châu ấy. Ngài bảo: -Châu kia không
có trong ngoài, nhơn giả làm sao hay định? Vật nhơ chẳng giao động, định
nầy chẳng phải sạch. Đạt-Ma-Đạt biết nghĩa mình bị bẽ gãy, càng kính
phục, đảnh lễ bạch Ngài: -Con học đạo còn sơ suyển, nếu không được lời
chỉ dạy của Tôn-giả làm sao biết được chỗ tột. Cúi xin Tôn-giả thương
xót nhận con làm học trò.Ngài dạy thêm: -Thiền-định của chư Phật không
có sở đắc. Giác đạo của chư Phật không có sở chứng. Không đắc không
chứng là chơn giải thoát. Đền nhơn trả quả là nghiệp báo của thế gian, ở
trong pháp nầy (chơn giải thoát) ắt chẳng như thế. Ngươi nếu tập định
nên tập như vậy. Đạt-Ma-Đạt vui vẻ vâng lời dạy. Một hôm, có ông trưởng
giả dẫn đứa con đến yết kiến Ngài.Trưởng giả thưa: -Thằng con tôi đây
tên là Tư-Đa, từ khi sanh ra cho đến giờ (20 tuổi) mà bàn tay trái vẫn
nắm chặc lại chưa từng mở ra. Xin Tôn-giả từ bi nói rõ nhơn đời trước
của nó cho con hiểu. Ngài nhìn thẳng vào mặt Tư-Đa, rồi đưa tay bảo:
-Trả hạt châu lại cho ta! Tư-Đa liền sè tay dâng hạt châu cho Ngài,Ông
trưởng-giả và đồ chúng thấy thế đều ngạc nhiên. Ngài giải thích:-Thuở
quá khứ Ta làm vị Tỳ-kheo thường được Long-Vương thỉnh xuống Long-cung
tụng kinh, khi ấy, Tư-Đa nầy cũng theo ta xuất gia, tên Bà-Xá. Một hôm,
Long-Vương thỉnh ta đi tụng kinh, Bà-Xá theo làm thị giả. Tụng kinh
xong, Long-Vương cúng hạt châu đáp lễ. Ta nhận trao cho thị giả giữ
trong tay. Ta tịch, sanh nơi đây, vì nhơn duyên thầy trò chưa hết, nên
lại gặp nhau tại hội nầy. Ông trưởng giả nghe được tiền duyên của con
mình, hoan hỷ cho Tư-Đa theo Ngài xuất gia. Ngài xét duyên xưa và nay nên hợp hai tên lại
đặt là Bà-Xá-Tư-Đa. Nhận Bà-Xá-Tư-Đa rồi, Ngài triệu tập thánh chúng làm
lễ truyền giới. Sau đó, Ngài gọi Bà-Xá-Tư-Đa lại bảo: -Nơi nước nầy sắp
có tai nạn đến cho ta, nhưng tuổi ta đã già yếu đâu mong lánh thoát làm
gì. Ta đã được truyền đại pháp nhãn tạng của Như-Lai, nay ta trao lại
cho ngươi, ngươi nên phụng trì, ngươi mau đi khỏi nước nầy, lấy sự giáo
hóa làm nhiệm vụ. Nếu có người nghi ngờ nên trình cái y tăng-già-lê của
ta đây làm tin.Nghe ta nói kệ: Chánh thuyết tri kiến thời,Tri kiến câu
thị tâm,Đương tâm tức tri kiến,Tri kiến tức vu kim. Dịch: Chính khi nói
tri kiến, Tri kiến đều là tâm, Chính tâm tức tri kiến, Tri kiến tức là
hiện nay. Bà-Xá-Tư-Đa nhận lãnh tuân hành, ngay hôm ấy
đi nơi khác. Lúc ấy, trong nước Kế-Tân có hai người ngoại đạo giỏi pháp
huyễn thuật mưu đồ ám sát nhà vua. Nhưng còn ngại bại lộ cơ mưu, nên
chúng đổi hình Tỳ-kheo đi làm việc gian ác ấy. Quả nhiên bị quân quan
bắt được.Vua Di-La-Quật hay việc nầy nổi cơn phận nộ, ra lệnh triệt hạ
chùa chiền, bắt nhốt tăng chúng.Vua trách: -Lâu nay ta sùng kính Phật
giáo quý trọng Tỳ-kheo mà nay họ lại manh tâm sát hại ta, vậy còn đạo
đức chỗ nào? Bởi sự tức giận ấy, nhà vua đích thân cầm gươm báo đến chỗ
Ngài Sư-Tử hỏi: -Thầy được không tướng chưa? Ngài đáp: -Đã được.- Đã
được, thì còn sợ sống chết chăng?- Đã lìa sống chết thì đâu có sợ.
-Chẳng sợ có thể cho ta cái đầu chăng? - Thân chẳng phải cái của ta,
huống nữa là đầu. Vua liền chặt đầu Ngài rơi xuống đất. Nơi cổ phun lên
giọt sữa trắng cao chừng một trượng. Cánh tay mặt của vua Di-La-Quật
cũng đứt lìa. Bảy ngày sau vua băng (Duyên nghiệp đời trước của Ngài và nhà vua
có ghi rõ ràng trong:Thánh-Trụ Tập và Bửu-Lâm Truyện).Thái-tử Quang -Thủ
lên ngôi, lo mai táng phụ hoàng và thỉnh chúng tăng cúng dường sám hối.
Tăng chúng lo xây tháp thờ Ngài. Đầu thế kỷ thứ mười sau Phật Niết-bàn Ngài dòng Bà-la-môn người nước Kế-Tân, cha
hiệu Tịch-Hạnh , mẹ là Thường-An-Lạc. Một hôm, bà Thường-An-Lạc nằm mộng
thấy lượm được cây kiếm thần, sau đó có thai Ngài. Khi sanh ra, Ngài nắm
chặt bàn tay trái mãi,cho đến gặp Tổ Sư-Tử mới sè ra. Ngài được cha mẹ
cho phép xuất gia theo hầu Tổ Sư-Tử. Tổ Sư-Tử vì nợ trước phải trả nên
truyền tâm ấn xong, bảo Ngài phải sang Nam-Ấn. Ra khỏi nước Kế-Tân, Ngài đến Trung-Ấn.Vua
nước nầy hiệu Ca-Thắng ra đón tiếp Ngài.Trong nước nầy trước có chúng
ngoại đạo giỏi pháp thuật, ỷ tài khinh chê Phật pháp, người cầm đầu tên
Vô-Ngã.Vua thấy thế bất bình, muốn thỉnh Ngài chiết phục chúng.Vua mở
hội nghị luận,chính vua làm chủ tọa.Vô-Ngã đến hội đề xướng mặc luận,
không dùng lời nói. Ngài chống: -Nếu chẳng dùng lời làm sao phân biệt
hơn thua? Ngoại đạo nói: -Chẳng tranh hơn thua chỉ lấy nghĩa ấy. Ngài
hỏi: -Cái gì là nghĩa? Ngoại đạo đáp: -Không tâm là nghĩa. Ngài hỏi:
-Ngươi đã không tâm thì đâu thành nghĩa? –Tôi nói không tâm chính là
danh chẳng phải nghĩa. Ngài nói: -Ngươi nói không tâm chính là danh
chẳng phải nghĩa, ta nói phi tâm chính là nghĩa chẳng phải danh. –Chính
là nghĩa chẳng phải danh thì ai hay biện được nghĩa? Ngài bảo: -Ngươi nói chính là danh không phải
nghĩa, thì danh nầy là danh gì? –Vì biện cái phi nghĩa nên không danh mà
đặt danh. –Ngài bảo: -Danh đã phi danh thì nghĩa cũng phi nghĩa, người
biện là ai và biện vật gì? Bàn qua luận lại như thế đến hơn năm chục
lần, ngoại đạo mới bặt lời nép phục. Bỗng trong vương cung có mùi hương
lạ bay đến, Ngài chợt nói:< Đây là tin đưa đến, thầy ta đã tịch >. Ngài
liền xây mặt về hướng Bắc chấp tay đảnh lễ. Lễ xong, Ngài nói với vua:
-Khi tôi mới đi, thầy dạy qua Nam-Ấn, nay ở lại đây đã lâu là trái ý
thầy, xin tạm biệt Đại-Vương sang nơi ấy.Vua và quần thần đồng tiển Ngài
sang Nam-Ấn. Vua nước Nam-Ấn hiệu là Thiên-Đức nghe tin
Ngài sang cũng sửa sang xe giá ra đón tiếp, thỉnh Ngài về hoàng cung Nhơn vua có hai Thái-tử, vị lớn là Đức-Thắng
thì thân thể mạnh khỏe mà tánh tình hung bạo, còn em thì hiền lành mà
bệnh hoạn liên miên, sẵn dịp vua hỏi Ngài.Vua hỏi: -Con tôi kính thờ
Phật pháp, ưa làm việc lành, mà sao lại mắc bệnh kinh niên, vậy lẽ báo
ứng lành dữ như thế nào? Ngài đáp: -Bệnh của Thái-tử là do công đức phát
sanh. Song lý sâu xa nầy Đại-Vương phải khéo nghe.Phật dạy người có
nghiệp nặng nơi thân, ví như bệnh nội thương quá nặng, uống thuốc không
có công hiệu, sắp chết bệnh càng hoành hành. Nếu là bệnh nhẹ, gặp thuốc
liền bớt, bớt rồi từ từ mạnh. Người nghiệp nặng cũng vậy, tuy có công
đức mà không làm gì được, đến lúc gần chết nghiệp lại càng hiện. Nếu
nghiệp nhẹ, làm các việc công đức, nghiệp trước liền hiện, trả xong sau
sẽ thanh tịnh. Hiện nay Thái-tử làm việc thiện mà bị bệnh lâu, hẳn là do
làm các công đức nên phát ra nghiệp nhẹ nầy.Hiện nay tuy có khổ nhỏ,về
sau sẽ an ổn. Kinh đã nói:< Nếu phải chịu nghiệp báo trong ba đường ác,
nguyện đời nầy trả xong, để khỏi vào đường ác >. Vua còn nghi gì ư? -Vua
Thiên-Đức tín nhận, càng phát tâm làm phước. Sau đó, Ngài từ giả nhà vua
đi hoằng hóa nơi khác. Mười sáu năm sau, vua Thiên-Đức băng, Thái-tử
Đức-Thắng lên nối ngôi.Vua Đức-Thắng tin theo ngoại đạo, chú thuật, nghe
lời xúi dục của chúng, muốn làm khó Ngài.Thái-tử con vua Đức-Thắng tên
Bất-Như-Mật-Đa biết được ác ý đó, liền đến can vua. Thái-tử thưa: -Tôn-giả Bà-Xá-Tư-Đa xưa kia
được ông nội kính trọng, nhiều người muốn hại còn không thể được, đạo
đức của Ngài rất cao, xin phụ hoàng đừng làm khó Ngài.Vua Đức-Thắng nổi
giận cho Thái-tử theo phe Tôn-giả Bà-Xá-Tư-Đa liền bắt hạ ngục. Sau vua
cho thỉnh Ngài vào chánh điện.Vua cật nạn: -Nước tôi không có pháp tà,
thầy tu học về Tông phái nào? Ngài đáp: -Tôi tu học theo tâm
tông của Phật. Vua hỏi: -Phật diệt độ đã một ngàn năm, thầy làm sao được
tâm tông của Phật? Ngài đáp: -Từ Phật truyền cho Tổ Ca-Diếp đã trải qua
24 đời đến thầy tôi là Tổ Sư-Tử, tôi được người truyền lại. Vua hỏi:
-Tôn-giả Sư-Tử đã bị giết, đâu thể đem pháp truyền cho thầy? Nếu thầy
thật được truyền thì lấy gì làm tin? Ngài đáp: -Thầy tôi truyền bát và
trao y Tăng-già-lê để làm tin, hiện nay vẫn còn. Ngài liền lấy y đưa cho
vua xem. Vua vẫn không tin bảo đem lửa đốt. Khi lửa cháy, y hiện năm sắc
hào quang. Lửa tắt, y vẫn còn nguyên như cũ. Vua mới tin nhận, xin sám
hối tạ tội. Đồng thời, vua truyền lệnh tha Thái-tử. Sau khi được thả, Thái-tử Bất-Như-Mật-Đa
quyết chí xuất gia, xin phép vua cha được như nguyện. Vua thấy không thể
ngăn được chí Thái-tử, nên đành phải cho. Thái-tử đến yết kiến Ngài xin
cho làm đệ tử xuất gia. Ngài hỏi: -Nhà vua bằng lòng chăng? Thái-tử
thưa: -Phụ vương bằng lòng. Ngài hỏi: -Ông muốn xuất gia để làm việc gì?
Thái-tử thưa: -Con muốn xuất gia để làm việc Phật. Ngài
thấy Thái-tử tha thiết cầu đạo, liền nhận cho xuất gia. Sau sáu năm,
Ngài triệu thỉnh các vị thánh chúng vào vương cung truyền giới cho
Bất-Như-Mật-Đa.Giờ truyền giới đó có nhiều điềm lành ứng hiện, toàn hội
đều hoan hỷ. Một hôm, Ngài gọi Bất-Như-Mật-Đa đến dặn dò: -Ta đã già
lắm, chẳng bao lâu sẽ rời cõi nầy, xưa đại pháp nhãn tạng của Như-Lai,
nay ta trao lại cho ngươi. Hãy nghe ta nói kệ: Thánh nhơn thuyết tri kiến, Đương cảnh vô thị
phi, Ngã kim ngộ kỳ tánh, Vô đạo diệc vô lý. Dịch: Thánh nhơn nói tri kiến, Ngay cảnh
không phải quấy, Nay ta ngộ tánh ấy, Không đạo cũng không lý. Bất-Như-Mật-Đa thọ pháp xong, thưa: -Còn y
Tăng-già-lê thầy không truyền cho con, là sao vậy? Ngài bảo: -Xưa ta
được truyền y vì thầy ta bị nạn truyền pháp không rõ ràng. Nay ngươi
được truyền, mọi người đều biết, cần y làm gì? Chỉ cần hóa đạo. Nói
xong, Ngài thị hiện thần biến rồi vào Niết-bàn. Đồ chúng lượm xá-lợi xây
tháp thờ. Giữa thế kỷ thứ mười sau Phật Niết-bàn Ngài dòng Sát-Đế-Lợi ở Nam-Ấn, con vua
Đức-Thắng, Lúc bé, Ngài đã sùng mộ Phật giáo, tánh tình thuần lương,
thông minh xuất chúng. Vì can thiệp với vua cha về việc hại Tổ
Bà-Xá-Tư-Đa, Ngài bị hạ ngục. Sau khi được thả, Ngài lấy cớ bệnh, từ
ngôi Thái-tử,xin xuất gia với Tổ Bà-Xá-Tư-Đa. Sau đó,Ngài được Tổ truyền
tâm ấn, đi giáo hóa các nơi. Ngài sang Đông-Ấn hoằng hóa.Vua nước nầy hiệu
Kiên-Cố đang tin trọng các thầy Phạm-Chi. Hay tin Ngài vào nước
nầy,chúng Phạm-Chi họp nhau bàn mưu hãm hại. Thầy bọn Phạm-Chi xin theo
vua lên chỗ cao, ông chỉ xa hỏi vua: -Bệ hạ thấy gì không? Phương-Tây có
yêu khí, ắt ma vào nước.Vua đáp:-Không thấy,song có gì đáng ngại?
Phạm-Chi thưa -Ma nầy đến thì quốc gia suy vong. Xin dâng
kế với bệ hạ, chi bằng mình tiêu diệt trước đi. Vua đáp: -Chưa thấy họ
có tội gì? đâu thể nhẫn tâm hại được. Phạm-Chi lại tiến cử một đồ chúng
giỏi chú thuật để theo vua trị ma. Ngài dự biết trước việc xảy đến nên
dặn đồ chúng: -Ta đến thành nầy ắt có nạn nhỏ, các ngươi chớ sợ. Đến
thành, Ngài xin vào yết kiến nhà vua. Vừa gặp, vua liền hỏi: -Thầy đến
đây làm gì? Ngài đáp: -Tôi đến đây vì độ chúng sanh. Vua hỏi: -Sẽ lấy
pháp gì? độ những loài chúng sanh nào? Ngài đáp: -Tùy mỗi loài kia dùng
pháp độ họ. Vua hỏi: -Nếu có người pháp thuật giỏi, thầy
dám chống chăng? Ngài đáp: -Phật pháp rất chơn chánh, dù thiên ma cũng
hàng phục được, huống là yêu thuật mà chẳng dám chống sao? Ngoại đạo
nghe nói nổi nóng, liền dùng pháp thuật hóa quả núi lớn, hiện trên không
ngay đầu Ngài, như chực sắp đè. Ngài lấy tay chỉ, quả núi bay lại trên
đầu bọn Phạm Chi chúng hoảng sợ cầu Ngài cứu mạng. Ngài lấy tay chỉ, quả
núi tan mất. Vua và chúng Phạm-Chi đều kính phục xin Ngài từ bi tha lỗi.
Nhơn đó, Ngài đem yếu lý Phật pháp giảng giải
cho vua nghe. Vua hiểu rõ, thêm lòng quí kính, thỉnh Ngài lưu lại trong
hoàng cung.Ngài cũng cho nhà vua biết rằng trong nước nhà vua có một vị
thánh nhơn sẽ nối tiếp Ngài truyền đạo Nguyên trong nước nầy có một đồng tử con dòng
Bà-la-môn. Cha mẹ mất sớm, đồng tử ấy phải ăn xin để sống qua ngày. Đồng
tử nầy tánh tình phóng khoáng lạ thường, không ai biết tên họ gì. Có khi
đồng tử tự xưng là Anh-Lạc, nên dân chúng gọi là đồng-tử Anh-Lạc. Gặp
lúc đồng tử đi nhanh, có người hỏi:-Sao anh đi nhanh vậy? Đồng tử đáp:
-Sao các người đi chậm quá.Có người hỏi:-Anh họ gì? Đồng tử đáp: -Tôi
với các người đồng họ.Một hôm,vua Kiên-Cố cùng Ngài Bất-Như-Mật-Đa ngồi chung xe đi sang
thành Đông. Anh-Lạc ra đón, đứng trước xe làm lễ. Ngài nói với nhà vua:
-Người nầy là thánh nhơn ở trong nước đại
vương vậy. Ngài lại hỏi Anh-Lạc: -Ngươi nhớ việc xưa chăng? Anh-Lạc
thưa: -Tôi nhớ xưa đồng trong pháp hội, Tôn-giả giảng
Bát-Nhã-Ba-La-Mật-Đa, tôi giảng Tu-Đa-La thậm thâm. Duyên xưa lại gặp,
nên mới đón nhau đây. Ngài nói với vua: -Đồng tử nầy là hóa thân của
Bồ-Tát Đại-Thế-Chí ra đời để nối dòng pháp cho tôi. Sau tôi sẽ có hai vị
đại-sĩ ra đời, vị trước giáo hóa ở Nam-Ấn, vị sau có duyên với nước
Trung-Hoa, nhưng ở bên ấy chín năm rồi trở về bổn quốc. Ngài bảo
Anh-Lạc: -Do xưa ta giảng Bát-Nhã, ông thuyết Tu-Đa-La, nay lại gặp đây,
nên lấy Bát-Nhã-Đa-La đặt tên ngươi. Bát-Nhã-Đa-La lễ tạ, theo thầy xuất
gia. Ngài ở Đông-Ấn ngót sáu chục năm hoằng truyền chánh pháp. Thấy cơ
duyên sắp mãn, Ngài gọi Bát-Nhã-Đa-La đến dặn dò: -Xưa Như-Lai trao đại
pháp nhãn tạng lần lượt truyền đến ta, nay ta đem truyền lại cho ngươi,
ngươi nên lưu truyền chớ để dứt mất. -Nghe ta nói kệ: Chơn tánh tâm địa tàng, Vô
đầu diệc vô đuôi, Ứng duyên nhi hóa vật, Phương tiện hô vi trí. Dịch: Kho tâm địa chơn tánh, Không đầu cũng
không đuôi, Hợp duyên tùy hóa vật, Phương tiện gọi là trí. Ngài từ giả vua Kiên-Cố rằng: -Đại-vương gánh
vác việc nước, ủng hộ Tam-Bảo đều được an ổn. Vì tôi hóa duyên đã hết,
không vì quyến luyến ân đức đại vương mà ở lâu, nay tôi sắp đi, đại
vương khéo bảo hộ Phật pháp. Ngài nói xong, trở lại chổ ngồi, thị hiện các
thứ thần biến, rồi thị tịch. Vua và môn đồ xây tháp thờ xá-lợi cúng
dường. Cuối thế kỷ thứ mười sau Phật Niết-bàn Ngài dòng Bà-la-môn ở Đông-Ấn. Cha mẹ mất
sớm, Ngài đi theo xóm ăn xin qua ngày. Nếu có ai mượn làm việc gì, Ngài
sẵn sàng làm tận lực mà không cần tiền. Hành động và ngôn ngữ của Ngài
lạ thường, người đời không lường được. Khi gặp Tổ Bất-Như-Mật-Đa nhắc
lại duyên xưa, Ngài xin xuất gia, theo hầu Tổ và được truyền tâm pháp.
Sau nầy, Ngài thống lãnh đồ chúng sang Nam-Ấn
hoằng hóa. Vua nước nầy hiệu Hương-Chí hết lòng sùng kính Phật pháp. Vua
sanh ba người con trai đều kính tin Phật pháp. Người con lớn tên
Nguyệt-Tịnh-Đa-La thích tu pháp niệm Phật tam muội. Người thứ hai tên
Công-Đức-Đa-La thích tu bố thí làm phước. Người thứ ba tên Bồ-Đề-La
thích thông lý Phật, lấy việc xuất thế làm trên. Vua thỉnh Ngài về cung
cúng dường, bảo ba vị Thái-tử ra đảnh lễ Ngài. Ngài biết ba vị Thái-tử
đều ham tu, muốn nghiệm thử trí mỗi người thế nào. Sẵn nhà vua cúng
dường hạt châu quý vô giá, Ngài lấy ra hỏi: -Ở đời còn có vật gì quý báu
bằng hạt châu nầy chăng? Nguyệt-Tịnh thưa: -Hạt châu nầy quý tột, ở đời
không có gì hơn nó, chẳng phải trong nhà vua thì làm gì có hạt châu nầy.
Công-Đức-Đa-La cũng đồng ý như vậy: Bồ-Đề-Đa-La thưa: -Châu nầy là của
báu thế gian chưa đủ làm tột, trong các thứ báu chỉ có pháp bảo là tột.
Đây là ánh sáng của thế gian, trong các thứ ánh sáng chỉ có ánh sáng trí
tuệ là tột. Đây là trong sạch của thế gian, trong các thứ trong sạch,
chỉ tâm trong sạch là trên hết. Nhưng ánh sáng của hạt châu nầy không
thể tự chiếu, cần nhờ ánh sáng trí tuệ mới biện biệt được nó. Đã biện rõ
mới biết là châu, đã biết là châu mới hiểu cái quý báu của nó. Nếu hiểu
cái quý báu của nó, thì nó báu mà không biết báu. Nếu biện rõ nó là
châu, thì nó châu mà chẳng tự biết châu. Châu mà chẳng tự biết châu, cần
nhờ trí châu mới biện được thế châu. Báu mà chẳng tự biết báu, cần nhờ
trí bảo mới rõ pháp bảo. Song mà, thầy tôi có đạo thì báu kia liền hiện.
Chúng sanh có đạo thì tâm báu cũng thế. Ngài khen ngợi tài biện luận của Bồ-Đề-Đa-La.
Lại hỏi thêm: -Trong các vật, vật gì không tướng? –Trong các vật, chẳng
khởi là không tướng. –Trong các vật, vật gì là tối cao? –Trong các vật,
nhơn ngã là tối cao. –Trong các vật, vật gì là tối đại? –Trong các vật,
pháp tánh là tối đại. Ngài thầm vui biết là đại pháp khí sẽ nối dõi cho
Ngài sau nầy. Một hôm, vua Hương-Chí hỏi Ngài: -Tôi thấy các thầy đều
tụng kinh, tại sao Tôn-giả không tụng kinh? Ngài đáp: Tôi hơi thở ra
chẳng tiếp các duyên, hít vào chẳng ở trong ấm giới, thường tụng thứ
kinh nầy trăm ngàn muôn ức quyển. Vua Hương-Chí băng, hai hoàng tử lớn và hoàng
thân đều kêu khóc, duy Bồ-Đề-Đa-La ngồi nhập định chỗ hoàn linh cữu suốt
bảy ngày. An táng nhà vua xong, Bồ-Đề-Đa-La xin phép mẹ và hai anh theo
Ngài Bát-Nhã-Đa-La xuất gia. Ngài thấy cơ duyên đã thuần thục nên nhận
cho, rồi thỉnh thánh tăng làm lễ xuất gia thọ giới cho Bồ-Đề-Đa-La. Hôm nọ, Ngài gọi Bồ-Đề-Đa-La đến dặn dò: Đại
pháp nhãn tạng của Như-Lai lần lượt truyền trao, nay ta trao cho ngươi,
ngươi khéo truyền bá chớ cho đoạn dứt. Nghe ta nói kệ: Tâm địa sanh chư chủng, Nhơn sự phục sanh lý,
Quả mãn bồ-đề viên, Hoa khai thế-giới khởi. Dịch: Đất tâm sanh các giống, Nhơn sự lại
sanh lý, Quả đầy bồ-đề tròn, Hoa nở thế-giới sanh. Truyền pháp xong, Ngài hiện các thứ thần
biến, rồi thị tịch. Tổ thứ nhất Trung-Hoa Đầu thế kỷ thứ mười một sau Phật Niết-bàn Ngài dòng Sát-Đế-Lợi ở Nam-Ấn, cha là
Hương-Chí vua nước nầy. Vua Hương-Chí sanh được ba người con trai, Ngài
Là Vương-tử thứ ba. Thưở nhỏ, Ngài đã có chí
siêu việt và đặc tài hùng biện. Nhơn vua Hương-Chí thỉnh Tổ
Bát-Nhã-Đa-La vào cung cúng dường, Ngài mới có duyên gặp Tổ. Qua cuộc
nghiệm vấn về hạt châu, Tổ đã biết Ngài là người siêu quần bạt tục sẽ kế
thừa Tổ vị. Sau khi vua cha băng, Ngài quyết chí xuất gia cầu xin Tổ
Bát-Nhã độ làm đệ tử, Tổ hoan hỷ làm lễ thế phát và truyền giới cụ
túc.Tổ bảo Ngài: -Hoàng-tử đối các pháp đã được thông suốt, nay nên đổi
hiệu là Bồ-Đề-Đạt-Ma. Từ đây, Ngài luôn hầu hạ bên thầy. Một hôm, Tổ gọi
Ngài đến truyền pháp và dặn dò: -Ngươi tạm giáo hóa ở nước nầy, sau sang
Trung-Hoa mới thật là nhơn duyên lớn. Song, đợi ta diệt độ khoảng sáu
mươi năm sau sẽ đi. Nếu ngươi đi sớm, sau e có việc không tốt. Những
điều kiết hung về sự giáo hóa ở Trung-Hoa sau nầy, Ngài đều cầu xin Tổ
chỉ dạy.Tổ dùng những lời sấm ký tiên đoán sự kiết hung vận số Phật pháp
ở Trung-Hoa,nói có hơn mười bài kệ. (Hình: Tranh Thiền: Bồ-đề-đạt-ma của
Thiền sư Bạch Ẩn Huệ Hạc (Hakuin Ekaku, 1689-1796) tông Lâm Tế) Tổ tịch rồi, Ngài vẫn ở tại nước nhà giáo
hóa. Người huynh đệ đồng sư với Ngài là Phật-Đại-Tiên cùng chung sức
giáo hóa. Thời nhơn gọi hai Ngài là < Mở hai cửa cam lồ >. Song, sau môn
đồ của Phật-Đại-Tiên lại chia làm sáu tông: 1.-Hữu tướng, 2.-Vô tướng, 3.- Định huệ,
4.-Giới hạnh, 5.-Vô đắc, 6.-Tịch tịnh, đua nhau truyền bá. Ngài thấy sự
chia ly ấy, ngại cho chánh pháp suy vi. Vì thế, Ngài dùng phương tiện
cảm hóa họ hồi đầu quay về chánh pháp. Vua Nguyệt-Tịnh băng, con vua là Thái-tử
Dị-Kiến nối ngôi. Dị-Kiến lên ngôi không bao lâu lại tin theo tà thuyết
bài bác Phật giáo. Ngài sai đệ tử là Ba-La-Đề đến cung vua để nhiếp hóa.
Sau khi cải tà quy chánh, vua Dị-Kiến hỏi ra mới biết Ba-La-Đề là đệ tử
của chú mình. Nhà vua cho người thỉnh Ngài về cung giáo hóa. Về cung
giáo hóa một thời gian, Ngài thấy cơ duyên sang Trung-Hoa đã đến, bèn
đem lời huyền ký của Tổ Bát-Nhã-Đa-La thuật lại cho vua biết. Vua không
còn lời gì dám ngăn cản, đành sắm một chiếc thuyền buôn, cho thủy thủ
đưa Ngài sang Trung-Hoa. Vua và quần thần tiển đưa Ngài ra tới cửa biển.
Ngài ở trên thuyền gần ngót ba năm, thuyền
mới cặp bến Quảng-Châu, nhằm đời nhà Lương niên hiệu Phổ-Thông năm đầu
(520 sau T.C.),ngày 21 tháng 9 năm Canh-Tý. Thích-sử tỉnh nầy ra đón
tiếp Ngài, đồng thời dâng sớ về triều tâu vua Lương-Võ-Đế. Vua được sớ,
liền sai sứ lãnh chiếu chỉ đến thỉnh Ngài về Kim-Lăng (Kinh đô nhà
Lương). Vua Võ-Đế hỏi: -Trẩm từ lên ngôi đến nay thường cất chùa, chép
kinh, độ Tăng ni, không biết bao nhiêu, vậy có công đức gì chăng? Ngài
đáp: -Đều không có công đức. -Tại sao không có công đức? -Bởi vì những
việc ấy là nhơn hữu lậu, chỉ có quả báo nhỏ ở cõi người cõi trời, như
bóng theo hình, tuy có mà chẳng phải thật. -Thế nào là công đức chơn
thật? –Trí thanh tịnh tròn mầu,thể tự không lặng,công đức như thế chẳng
do thế gian mà cầu. -Thế nào là thánh đế nghĩa thứ nhất? -Rỗng rang không thánh. -Đối diện với trẩm là
ai? –Không biết. Vua Lương-Võ-Đế không lãnh ngộ được, lui về nghỉ. Ngài
biết căn cơ chẳng hợp, tạm lưu lại đây ít hôm. Đến ngày 19, Ngài bỏ vua Lương, lén sang sông
qua Giang-Bắc. Ngài nhập cảnh nước Ngụy đi đến Lạc-Dương nhằm đời
Hậu-Ngụy, vua Hiếu-Minh-Đế niên hiệu Chánh-Quang năm đầu (520 sau T.C.)
ngày 23 tháng 11. Ngài dừng trụ tại chùa Thiếu-Lâm ở Trung-Sơn,
trọn ngày ngồi xây mặt vào vách im lặng. Tăng chúng đều không hiểu được.
Người đời gọi Ngài là < Thầy Bà-la-môn ngồi nhìn vách > (Bích quán
Bà-la-môn). Có vị Tăng tên Thần-Quang học thông các sách, giỏi lý diệu
huyền, nghe danh Ngài tìm đến yết kiến. Thần-Quang đã đủ lễ nghi mà Ngài
vẫn ngồi lặng yên ngó mặt vào vách không màng đến. Quang nghĩ: < Người
xưa cầu đạo chẳng tiếc thân mạng, nay ta chưa được một trong muôn phần
của các Ngài >. Hôm ấy, nhằm tiết mùa đông (mùng 9 tháng chạp), ban đêm
tuyết rơi lả tả, Thần-Quang vẫn đứng yên ngoài tuyết chấp tay hướng về
Ngài. Đến sáng tuyết ngập lên khỏi đầu gối, mà gương mặt Thần-Quang vẫn
thản nhiên. Ngài thấy thế thương tình, xây ra hỏi: -Ngươi đứng suốt đêm
trong tuyết, ý muốn cầu việc gì? Thần-Quang thưa: -Cúi mong Hòa-thượng từ bi
mở cửa cam lồ, rộng độ chúng con. -Diệu đạo vô thượng của chư Phật, dù
nhiều kiếp tinh tấn, hay làm được việc khó làm, hay nhẫn được việc khó
nhẫn, còn không thể đến thay! Huống là, dùng chút công lao nhỏ nầy mà
cầu được pháp chân thừa? Thần-Quang nghe dạy bèn lén lấy đao chặt cánh
tay trái để trước Ngài để tỏ lòng thiết tha cầu đạo. Ngài biết đây là
pháp khí bèn dạy: -Chư Phật lúc ban đầu cầu đạo, vì pháp quên thân, nay
ngươi chặt cánh tay để trước ta, tâm cầu đạo như vậy cũng khá. –Pháp ấn
của chư Phật con có thể được nghe chăng? –Pháp ấn của chư Phật không
phải từ người khác mà được. –Tâm con chưa an, xin thầy dạy pháp an tâm.
–Ngươi đem tâm ra đây, ta an cho. –Con tìm tâm không thể được. –Ta đã an
tâm cho ngươi rồi. Thần-Quang nhơn đây được khế ngộ. Ngài liền đổi tên
Thần-Quang là Huệ-Khả. Từ đây kẻ Tăng người tục đua nhau đến yết
kiến Ngài, tiếng tăm vang dậy. Vua Hiếu-Minh-Đế nước Ngụy sai sứ ba phen
thỉnh Ngài, Ngài đều từ chối. Nhà vua càng kính trọng, sai sứ đem lễ vật
đến cúng dường: một cây tích trượng, hai y kim tuyến, bình bát, v.v…Ngài
từ khước nhiều lần, nhưng nhà vua cố quyết cúng dường, rốt cuộc Ngài
phải nhận. Mở cửa phương tiện, Ngài có dùng bốn hạnh để
giáo hóa môn đồ: 1.-Báo oán hạnh, 2.-Tùy duyên hạnh, 3.-Vô sở cầu hạnh,
4.-Xứng pháp hạnh (Xem cửa thứ ba quyển < Sáu cửa vào động Thiếu-Thất >
của Trúc-Thiên dịch. Ở Trung-Hoa gần chín năm, Ngài thấy cơ duyên
đã đến, liền gọi đồ chúng hỏi: -Giờ ta trở về sắp đến. Các ngươi mỗi
người nên nói chỗ sở đắc của mình. Đạo-Phó ra thưa: -Theo chỗ thấy của
con, chẳng chấp văn tự, chẳng lìa văn tự, đây là dụng của đạo. Ngài bảo:
-Ngươi được phần da của ta. Bà ni Tổng-Trì ra thưa: -Nay chỗ hiểu của
con, như Tổ A-Nan thấy nước Phật A-Súc, chỉ thấy một lần, không còn thấy
lại. Ngài bảo: -Ngươi được phần thịt của ta. Đạo-Dục ra thưa: -Bốn đại vốn không, năm ấm chẳng có, chỗ thấy
của con không một pháp có thể được. Ngài bảo: -Ngươi được phần xương của
ta. Đến Huệ-Khả bước ra đảnh lễ Ngài, rồi lui lại đứng yên lặng. Ngài
bảo: -Ngươi được phần tủy của ta. Ngài gọi Huệ-Khả đến dặn dò: -Xưa
Như-Lai đem đại pháp nhãn tạng trao cho Tổ Ca-Diếp, lần lượt truyền đến
ta. Nay ta đem trao lại cho ngươi, ngươi phải truyền trao không để dứt
mất. Cùng trao cho ngươi y Tăng-già-lê và bát báu, để làm pháp tín. Mỗi
thứ tiêu biểu cho mỗi việc, ngươi nên biết. Huệ-Khả thưa: -Xin thầy từ
bi chỉ dạy mọi việc. Ngài dạy: -Trong truyền tâm-ấn để khế hợp chổ tâm
chứng, ngoài trao cà-sa để định tông chỉ. Đời sau có nhiều người cạnh
tranh nghi ngờ, họ nói < Ta là người Ấn, ngươi là người Hoa, căn cứ vào
đâu mà được pháp, lấy cái gì để minh chứng? >. Ngươi gìn giữ pháp y nầy,
nếu gặp tai nạn, ngươi đem ra làm biểu tín, thì sự giáo hóa không bị trở
ngại. Hai trăm năm sau khi ta diệt độ, y bát nầy dừng lại không truyền,
vì lúc đó, Phật pháp rất thạnh hành, Chính khi ấy, người biết đạo thật
nhiều, người hành đạo quá ít, người nói lý thì nhiều, người ngộ lý thì
ít. Tuy nhiên, người thầm thông lặng chứng có hơn ngàn vạn. Ngươi gắng
xiển dương, chớ khinh người chưa ngộ. Nghe ta nói kệ: Ngô bổn lai tư độ, Truyền pháp cứu mê tình,
Nhất hoa khai ngũ diệp, Kết quả tự nhiên thành. Dịch: Ta sang đến cõi nầy, Truyền pháp cứu mê
tình, Một hoa nở năm cánh, Nụ trái tự nhiên thành. Ngài lại bảo: -Ta có bộ kinh Lăng-già bốn
quyển, là Phật nói tột pháp yếu, cũng giúp cho chúng sanh mở, bày, ngộ,
nhập kho tri kiến Phật, nay ta trao luôn cho ngươi. Ta từ Nam-Ân sang
đây đã năm phen bị thuốc độc mà không chết, vì thấy xứ nầy tuy có khí
đại-thừa mà chưa ứng hợp, nên ta lặng lẽ ngồi lâu chờ đợi. Nay đã truyền
xong, đã có thủy ắt phải có chung vậy. Xong rồi, Ngài cùng đồ chúng đi
đến Võ-môn ở chùa Thiên-Thánh dừng lại ba hôm. Quan thái thú thành nầy
tên Dương-Huyễn-Chi là người sùng mộ Phật pháp. Nghe tin Ngài đến, liền
tới đảnh lễ. Ông hỏi: -Thầy ở Ấn-Độ được kế thừa làm Tổ, vậy thế nào là
Tổ, xin thầy dạy cho? Ngài đáp: -Rõ được tâm tông của Phật, không lầm
một mảy, hạnh và giải hợp nhau, gọi đó là Tổ. -Chỉ một nghĩa nầy hay còn
nghĩa nào khác? -Cần rõ tâm người, biết rành xưa nay, chẳng chán có
không, cũng chẳng cố chấp, chẳng hiền chẳng ngu, không mê không ngộ. Nếu
hay hiểu như thế, cũng gọi là Tổ. Huyễn-Chi lại thưa: -Đệ tử vì bị
nghiệp thế tục, ít gặp được tri thức, trí nhỏ bị che lấp không thể thấy
đạo. Cúi xin thầy chỉ dạy, con phải noi theo đạo quả nào? dùng tâm gì
được gần với Phật, Tổ? Ngài vì ông nói kệ: Diệc bất đổ ác nhi sanh hiềm,
Diệc bất quán thiện nhi cần thố, Diệc bất xả trí nhi cận ngu, Diệc bất
phao mê nhi tựu ngộ, Đạt đại đạo hề quá lượng, Thông Phật tâm hề xuất
độ, Bất dữ phàm thánh đồng triền, Siêu nhiên danh chi viết Tổ. Dịch: Cũng đừng thấy dữ mà sanh chê, Cũng
đừng thấy lành mà ái mộ, Cũng đừng bỏ trí mà gần ngu, Cũng đừng ném mê
mà về ngộ, Đạt đạo lớn chừ quá lượng, Thông Phật tâm chừ vô kể, Chẳng
cùng phàm thánh đồng vai, Vượt lên, gọi đó là Tổ. Huyễn-Chi nghe dạy
hoan hỷ đảnh lễ, lại thưa: -Xin thầy chớ vội tạ thế, để làm phước lợi
cho quần sanh, Ngài bảo: -Đời mạt pháp, kẻ tệ ác quá nhiều, dù ta còn ở
lâu e chẳng lợi ích, mà thêm tai nạn, làm tăng trưởng tội ác cho người.
-Từ thầy đến đây ai thường hại thầy, xin thầy chỉ họ, con sẽ sắp xếp.
–Nói ra ắt có tổn hại, ta nên đi vậy. Đâu cam hại người để mình được
vui. Huyễn-Chi nài nỉ thưa: -Con không hại người, chỉ muốn biết đó thôi.
Ngài bất đắc dĩ nói bài kệ: Giang tra phân ngọc lãng, Quản cự khai kim
tỏa, Ngũ khẩu tương cộng hành, Cửu thập vô bỉ ngã. Dịch: Thuyền con rẽ sóng ngọc, Đuốc soi mở
khóa vàng, Năm miệng đồng cùng đi, Chín, mười không ta người. Huyễn-Chi nghe rồi ghi nhớ, đảnh lễ Ngài lui
ra. Ở đây đúng ba hôm, Ngài ngồi an nhiên thị tịch. Hôm ấy là ngày mùng
9 tháng 10 năm Bính-Thìn, nhằm niên hiệu Đại-Thông năm thứ hai nhà Lương
(529 T.C). Đến ngày 18 tháng chạp năm nầy, làm lễ đưa nhục thân của Ngài
nhập tháp tại chùa Định-Lâm, núi Hùng-Nhĩ. Sau, vua Hậu Ngụy sai Tống-Vân đi sứ Ấn-Độ
về, gặp Ngài tại núi Thông-Lãnh, thấy Ngài tay xách một chiếc dép, một
mình đi nhanh như bay. Tống-Vân hỏi: -Thầy đi đâu? Ngài đáp: Về Ấn-Độ.
Ngài lại nói thêm: -Chủ ông đã chán đời rồi. Tống-Vân ngẩn ngơ, từ giả
Ngài về triều. Đến triều thì vua Minh-Đế đã băng. Hiếu-Trang-Đế lên
ngôi. Ông đem việc ấy tâu lại, vua ra lệnh mở cửa tháp dở quan tài ra,
quả nhiên là quan tài không, chỉ còn một chiếc dép. Vua sắc đưa chiếc
dép về thờ ở chùa Thiếu-Lâm, Đến đời Đường niên hiệu Khai-Nguyên năm thứ
15 (728 sau T.C) môn đồ lại dời chiếc dép về thờ ở Chùa Hoa-Nghiêm. Vua
phong Ngài hiệu Viên-Giác Thiền-Sư, tháp hiệu Không-Quán. Tập Thiếu-Thất-Lục-Môn nói là tác phẩm của
Ngài. Sư họ Cơ quê ở Võ-Lao, giòng tôn thất nhà
Chu, cha mẹ Sư lớn tuổi không con, lắm phen đến chùa cầu con, sau mẹ có
thai sinh ra Sư. Khi Sư lọt lòng mẹ, có hào quang lạ chiếu sáng trong
nhà, nên đặt tên Sư là Quang. Thuở bé, Sư học hết sách đời, rất thông
Lão-Trang. Năm ba mươi tuổi, Sư tự cảm than: < Lão, Dịch là sách thế
gian chẳng tột được đại lý >.Sư bắt đầu xem kinh Phật. Sư viễn du tìm
thầy học đạo, đến Lạc-Dương lên núi Hương-Sơn chùa Long-Môn gặp thiền sư
Bảo-Tịnh bèn xin xuất gia. Sau đó, Sư đến chùa Vĩnh-Mục thọ giới ở tại
Phù-Du Giảng-Tứ. Sư chuyên học Kinh luận, chưa bao lâu thảy được tinh
thông. Năm 32 tuổi, Sư trở về Bổn sư nơi Hương-Sơn. Ở đây trọn ngày, Sư
ngồi thiền quán trên núi. Trải tám năm như thế, một hôm khi Sư đang
thiền định, bỗng có vị thần hiện ra thưa: -Ngài không nên ở đây lâu,
muốn được đạo quả hảy đi về phương Nam. Hôm sau, trên đầu Sư chợt đau như kim châm
không thể chịu được. Sư định đi tìm thuốc trị, chợt nghe trong hư không
có tiếng nói: < Đây là đổi xương, chẳng phải bệnh thường >. Sư đem việc
nầy thuật lại Thiền-sư Bảo-Tịnh. Bảo-Tịnh ngăn không cho trị thuốc. Sáng
hôm sau, Bảo-Tịnh xem trên đầu Sư quả thấy đầu xương nổi cao như năm
ngọn núi,bảo: -Lạ thay! ngươi có tướng tốt này ắt sẽ đắc
đạo. Thần lại dạy ngươi sang miền Nam, ta nghe Đại-sĩ Bồ-Đề-Đạt-Ma đến ở
chùa Thiếu-Lâm, chắc đó là thầy của ngươi vậy. Nhơn có Thần mách bảo,
nên Bổn sư Bảo-Tịnh đổi hiệu Sư là Thần-Quang. Sư tìm đến chùa Thiếu-Lâm
yết kiến Tổ Bồ-Đề-Đạt-Ma và được truyền tâm ấn. Sư ở đây cho đến lúc Tổ
qui tịch. Sau đó, sư sang Bắc-Tề hoằng truyền chánh pháp. Một hôm, Sư
gặp một người cư sĩ trạc 40 tuổi, chẳng nói tên họ, đến đảnh lễ Sư thưa:
-Đệ tử mang bệnh ghẻ lở đầy mình, xin thầy từ bi vì đệ tử sám tội. Sư
bảo: -Đem tội ra, ta sẽ vì ngươi sám hối. Ông cư sĩ đứng sững giây lâu
thưa: -Đệ tử tìm tội không thể được. –Ta đã vì ngươi sám hối rồi. Nhưng,
ngươi nên nương tựa Phật Pháp Tăng. -Hiện giờ đệ tử thấy thầy đã biết
được Tăng. Chẳng biết thế nào là Phật và Pháp? -Tâm ấy là Phật, tâm ấy là Pháp, Phật Pháp
không hai, ngươi có biết đó chăng? –Nay đệ tử mới biết tánh tội không ở
trong, ngoài, chặng giữa; như tội, tâm cũng vậy, thật Phật Pháp không
hai. Sư nghe nói rất hoan hỷ, cho cạo tóc xuất gia bảo: -Ngươi là vật
báu của ta, nên đặt tên Tăng-Xán. Ngày 18 tháng 3 niên hiệu Thiên-Bình
năm thứ hai ( 536 T.L ). Tăng-Xán được thọ giới cụ túc tại Chùa
Quang-Phước. Từ đó, bệnh của ông lần lần thuyên giảm. Ông theo hầu thầy
được hai năm. Một hôm, Sư Huệ-Khả gọi ông đến bảo: -Tổ Bồ-Đề-Đạt-Ma
chẳng ngại xa xôi từ Ấn-Độ sang, đem chánh pháp nhãn tạng truyền cho ta,
nay ta trao lại cho ngươi cùng với y bát, ngươi khéo giữ gìn chớ để đoạn
tuyệt. Nghe ta nói kệ: Bổn lai duyên hữu địa, Nhơn địa chúng hoa sanh,
Bổn lai vô hữu chủng, Hoa diệc bất tằng sanh. Dịch: Xưa nay nhơn có đất, Bởi đất giống hoa
sanh, Xưa nay không có giống, Hoa cũng chẳng từng sanh Đọc bài kệ xong Sư lại tiếp: -Ngươi phải tìm
nơi núi sâu ở ẩn, không nên đi giáo hóa sớm, trong nước sẽ có nạn.
Tăng-Xán thưa: -Thầy đã biết trước mọi việc, cúi xin từ bi dạy con rành
rẽ. –Đây không phải tự ta nói, mà là lời huyền ký của Tổ Bát-Nhã-Đa-La
do Tổ Đạt-Ma thuật lại cho ta nghe: Sau khi Tổ nhập Niết-bàn 150 năm sẽ
có những việc xảy ra như bài kệ nầy: Tâm trung tuy kiết ngoại đầu hung,
Xuyên hạ tăng phòng danh bất trung, Vi ngộ độc long sanh võ tử, Hốt
phùng tiểu thử tịch vô cùng. Dịch: Trong tâm tuy kiết ngoài đầu hung,
Đất xuyên phòng tăng tên chẳng trúng, Vì gặp độc long sanh con võ, Chợt
nghe chuột nhỏ lặng vô cùng. Xét về niên số nhằm đời của ngươi, ngươi cố
gắng gìn giữ. Ta cũng có cái nợ ngày trước nay cần phải trả. Sư sang xứ
Nghiệp-Đô tùy nghi giáo hóa thuyết pháp độ sanh ngót ba mươi bốn năm.
Lúc đó, có một văn sĩ nổi tiếng là thần đồng tên Mã-Tăng-Ma. Năm 21
tuổi, ông đã giảng được sách Lễ, kinh Dịch tại miền Đông-Hải, thính giả
đến nghe đông như chợ. Một phen gặp Sư, Tăng-Ma liền xin xuất gia đầu
Phật. Từ đây về sau, ông chẳng cầm đến cây viết, bỏ hết sách thế gian,
chỉ một y một bát, một tọa cụ, ngày ăn một bửa, dưới gốc cây ngủ một
lần, chuyên tu hạnh đầu đà. Lại có ông cư sĩ Hướng là nhà văn Uyên bác
chẳng màng đến bả công danh, tánh thích rừng sâu quê vắng, đói ăn lá
cây, khát uống nước giếng, làm bạn với nước biếc non xanh, để di dưỡng
tinh thần. Nghe Sư hoằng hóa ở Bắc-Tề, ông biên thơ đến hỏi, thơ viết:
-Bạch-Thầy, Theo thiển ý của tôi, người đời cảnh tạm, công danh phú quý
như lùm mây nổi, lạch biển cồn dâu, đài các phong lưu, như hòn bọt nước.
Có cái gì là chơn thật, đáng để ta quí trọng. Vì bởi bóng do hình mà có, vang theo tiếng mà
sanh, đuổi bóng nhọc hình, chẳng biết hình là gốc của bóng, to tiếng để
ngăn vang, đâu biết tiếng là cội của vang. Trừ phiền não mà thú hướng
Niết-bàn, dụ bỏ hình mà tìm bóng; lìa chúng sanh mà cầu Phật quả, dụ im
tiếng mà tìm vang. Cho nên biết, mê ngộ một đường, ngu trí chẳng khác,
không tên mà đặt tên, nhơn tên đó mà có thị phi. Không lý mà tạo thành
lý, nhơn lý đó mà khởi tranh luận. Huyễn hóa chẳng phải chơn, thì cái gì
phải? cái gì quấy? Hư vọng chẳng thật, thì cái gì không? cái gì có? Muốn đem cái biết < được mà không chỗ được,
mất mà không chỗ mất > trình với Thầy mà chưa có dịp gặp. Nay thố lộ ý
nầy, mong thầy từ bi đáp cho. Sư đáp thơ: Bị quán lai ý giai như thật,
Chơn u chi lý cảnh bất thù, Bổn mê ma-ni vị ngõa lịch, Hoát nhiên tự
giác thị chơn châu, Vô minh trí huệ đẳng vô dị, Đương tri vạn pháp tất
giai như, Mẫn thị nhị kiến chi đồ bối, Thân từ tá bút tác tư thơ,Quán
thân dữ Phật bất sai biệt, Hà tu cánh mích bỉ vô dư? Dịch: Ông cư sĩ Hướng, Xem rõ ý ông gởi đến
đây, Đối lý chơn u có khác gì, Mê bảo ma-ni là ngói gạch, Bỗng nhiên
giác ngộ biết chơn châu, Vô minh trí huệ đồng chẳng khác, Muôn pháp đều
như, phải liễu tri, Thương kẻ chấp thường và chấp đoạn, Bày lời mượn bút
viết thơ này, Quán thân với Phật không sai khác, Nhọc gì tìm kiếm
Niết-bàn chi? Ông cư sĩ Hướng được thơ Sư, đọc xong ông tìm
đến đảnh lễ và thọ nhận ấn ký. Sau nầy, Sư đổi đạo phục, giả dạng thế
gian, có khi vào quán rượu, hoặc lúc đến hàng thịt, hoặc ở giữa đám đông
thuyết pháp, hoặc làm người khuân vác v.v… Có người biết hỏi Sư: -Thầy
là nhà tu, tại sao làm như thế? Sư đáp: -Ta tự điều phục tâm, đâu có
quan hệ gì đến việc của ngươi. Sư đến huyện Quản-Thành, ở trước tam quan
chùa Khuôn-Cứu diễn nói đạo vô thượng. Nhằm lúc ông trụ trì là pháp sư
Biện-Hòa đang giảng Kinh Niết-bàn, thính giả bên trong từ từ rút lần ra
nghe Sư diễn hóa. Ông Biện-Hòa bực tức mới đi cáo gian với quan Ấp-Tể
tên Địch-Trọng-Khản rằng < Sư giảng tà thuyết làm việc phi pháp >. Địch-Trọng-Khản không biết nhận xét, cứ nghe
bướng liền bắt Sư gia hình. Sư không đối khán vẫn mặc nhiên thừa nhận để
trả nợ trước cho xong. Ngay lúc gia hình, Sư thị tịch nhằm niên hiệu
Khai-Hoàng năm thứ 13 nhà Tùy (601T.L) Sư hưởng thọ 107 tuổi. Thiện tín thương xót
đem di thể của Sư về chôn ở Từ-Châu phía đông-bắc huyện Phú-Dương. Đến đời vua Đức-Tông nhà Đường truy phong
Đại-Tổ-Thiền-Sư. _________________________________________ Tổ thứ Ba Trung-Hoa Không ai biết quê quán và gốc gác Sư thế
nào.Chỉ biết Sư với hình thức cư sĩ mắc bệnh ghẻ lở đến lễ Tổ Huệ-Khả
xin xám tội. Nhơn đó được ngộ đạo. Được Tổ cho thọ giới cụ túc tại Chùa
Quang-Phước, nhằm niên hiệu Thiên-Bình thứ hai (536 T.L) nhà Bắc-Tề ngày
18 tháng 3. Sư theo hầu hạ Tổ được hai năm. Tổ truyền kệ và y bát bảo
phải đi phương xa ẩn tránh kẻo có nạn. Sư đến ở ẩn nơi núi Hoàn-Công
thuộc Thư-Châu. Đời Châu-Võ-Đế ra lệnh diệt Phật pháp (561
T.L). Sư sang ở núi Tư-Không huyện Thái-Hồ. Sư thường đổi dời ít khi ở
lâu một chỗ, nên hơn mười năm mà không ai biết tông tích. Thời gian Sư ở
núi Tư-Không có một vị sư người Ấn tên Tỳ-Ni-Đa-Lưu-Chi sang Trung –Hoa
cầu pháp. Gặp sư, Lưu-Chi hết lòng kính mộ xin làm đệ tử. Sư truyền tâm
ấn cho và khuyên qua phương Nam tiếp độ chúng sinh. Đời nhà Tùy khoảng niên hiệu Khai-Hoàng có
ông Sa-di hiệu Đạo-Tín được 14 tuổi đến lễ Sư thưa: -Xin Hòa-Thượng từ
bi ban cho con pháp môn giải thoát. Sư hỏi: -Ai trói buộc ngươi? -Không ai trói buộc. –Đã không trói buộc, đâu
cần cầu giải thoát. Đạo-Tín nghe liền đại ngộ. Từ đây, Đạo-Tín theo hầu
hạ Sư suốt chín năm. Sau Đạo-Tín đến Kiết-Châu thọ giới, rồi trở lại hầu
thầy rất cần mẫn. Sư thường dùng lý huyền diệu gạn hỏi, biết Đạo-Tín cơ
duyên đã thuần thục, bèn truyền y pháp cho ông, Sư bảo: -Đại pháp nhãn
tạng của Như-Lai, nay ta trao lại cho ngươi cùng với y bát. Ngươi gắng
mà gìn giữ. Nghe ta nói kệ: Hoa chủng tuy nhơn địa, Tùng địa chủng hoa
sanh, Nhược vô nhơn hạ chủng, Hoa địa tận vô sanh. Dịch: Giống hoa tuy nhơn đất, Từ đất giống
hoa sanh, Nếu không người gieo giống, Hoa, đất trọn không sanh. Sư dạy tiếp: -Xưa Tổ Huệ-Khả trao pháp cho ta
rồi, Ngài đến xứ Nghiệp-Đô hoằng hóa hơn ba chục năm mới thị tịch. Nay
đã có người thừa kế cho ta thì việc của ta đã xong, còn mắc ở đây làm
gì! Sư đến núi La-Phù ngao du hai năm. Sư lại trở về Châu-Thư, ngụ tại
chùa Sơn-Cốc. Dân chúng ở đây nghe Sư đến đều vui mừng tấp nập kéo đến
thừa sự cúng dường. Sư đăng tòa thuyết pháp cho tứ chúng nghe. Thuyết
xong, Sư đứng ngay thẳng dưới cây đại thọ chấp tay thị tịch. Nhằm ngày rằm tháng 10 năm Bính-Dần, niên
hiệu Đại-Nghiệp thứ hai (602 T.L) nhà Tùy. Sư có trước tác bài < Tín tâm
minh > là một tác phẩm trọng yếu của thiền tông hiện còn lưu hành. Vua
Huyền-Tông đời Đường truy phong hiệu là Giám Trí thiền sư. ______________________________ Tổ thứ tư Trung-Hoa Sư họ Tư-Mã, tổ tiên quê ở Hà-Nội, thân phụ
Sư dời về Kỳ-Châu huyện Quảng-Tế, mới sanh Sư. Sư xuất gia khi còn để
chóp. Tuy tuổi ấu thơ, mà Sư có ý chí siêu việt, ngưỡng mộ Không tông và
các môn giải thoát. Năm 14 tuổi là một Sa-di, Sư gặp Tổ Tăng-Xán
cầu xin pháp môn giải thoát, được Tổ khai ngộ cho. Sư theo hầu Tổ suốt
chín năm, mới được truyền pháp. Sau khi được pháp, Sư một bề tinh tấn
trọn ngày đêm không nằm. Niên hiệu Đại-Nghiệp thứ 13 (613 T.L.) đời Tùy,
Sư thống lãnh đồ chúng sang Kiết-Châu. Đến đây bị bọn giặc Tào-Võ-Vệ vây
thành suốt bảy tuần. Dân chúng trong thành kinh hoàng. Sư dạy họ chí tâm
niệm <Ma-ha-bát-nhã >. Toàn dân trong thành đều thành kính tụng niệm.
Quả nhiên bọn giặc nhìn trên thành có thần binh trùng điệp, chúng sợ hãi
rút quân. Niên hiệu Võ-Đức thứ hai (619 T.L.) đời Đường, Sư sang đất
Loa-Xuyên. Ở đây, Sư giáo hóa ngót bảy năm. Sau Sư trở về an trụ tại
Kỳ-Xuân trên núi Phá-Đầu. Ở đây, Tăng chúng bốn phương đua nhau tìm đến
tham vấn rất đông. Đời Đường niên hiệu Trịnh-Quán thứ tư (630
T.L.) Sư đang ở trên núi Phá-Đầu nhìn xem khí tượng, biết trên núi
Ngưu-Đầu có bậc dị nhơn. Sư đích thân tìm đến núi nầy, vào Chùa U-Thê
hỏi thăm những vị tăng rằng: -Ở đây có đạo nhơn chăng? Có vị tăng đáp:
-Phàm là người xuất gia ai chẳng phải đạo nhơn? Sư hỏi: -Cái gì là đạo
nhơn? Tăng im lặng không đáp được. Có vị tăng khác thưa: -Cách đây chừng
mười dặm bên kia núi,có một vị sư tên Pháp-Dung, lười biếng đến thấy
người chẳng đứng dậy chào, cũng không chấp tay, phải là đạo nhơn chăng?
Sư liền trèo núi tìm đến thấy Pháp-Dung đang ngồi thiền trên tảng đá, dường
như chẳng để ý đến ai. Sư hỏi: -Ở đây làm gì? Pháp-Dung đáp: -Quán
tâm.-Quán là người nào, tâm là vật gì? Pháp-Dung không đáp được, bèn
đứng dậy làm lễ thưa: -Đại đức an trụ nơi nào? Sư đáp: -Bần tăng không có chỗ ở nhất định,
hoặc Đông hoặc Tây. –Ngài biết thiền sư Đạo-Tín chăng? –Vì sao hỏi ông
ấy? –Vì nghe danh đức đã lâu, khao khát muốn đến lễ yết. -Thiền sư
Đạo-Tín là bần đạo đây. –Vì sao Ngài quan lâm đến đây? –Vì tìm đến thăm
hỏi ngươi, lại có chỗ nào nghỉ ngơi chăng? Pháp-Dung chỉ phía sau, thưa:
-Riêng có cái am nhỏ. Pháp-Dung liền dẫn Sư về am. Chung quanh am toàn
loài cọp sói nằm đứng lăng xăng, Sư giơ hai tay lên làm thế sợ.
Pháp-Dung hỏi: -Ngài vẫn còn cái đó sao? Sư hỏi: -Cái đó là cái gì?
Pháp-Dung không đáp được. Giây lát, Sư lại tấm đá của Pháp-Dung ngồi vẽ
một chữ PHẬT, Pháp-Dung nhìn thấy giật mình. Sư bảo: -Vẫn còn cái đó
sao? Pháp-Dung không hiểu, bèn đảnh lễ cầu xin Sư chỉ dạy chỗ chân yếu.
Sư bảo: -Phàm trăm ngàn pháp môn đồng về một tất vuông. Diệu đức như
hà-sa thảy ở nơi nguồn tâm. Tất cả môn giới, định, huệ, thần thông biến
hóa, thảy đều đầy đủ nơi tâm ngươi. Tất cả phiền não xưa nay đều không
lặng. Tất cả nhơn quả đều như mộng huyễn, không có tam giới có thể ra,
không có bồ-đề có thể cầu. Người cùng phi nhơn tánh tướng bình đẳng. Đại
đạo thênh thang rộng lớn bặt suy dứt nghĩ. Pháp như thế, nay ngươi đã
được không thiếu khuyết, cùng Phật không khác, lại không có pháp gì lạ.
Chỉ tâm ngươi tự tại, chớ khởi quán hạnh,
cũng chớ lóng tâm, chớ khởi tham sân, chớ ôm lòng lo buồn, rỗng rang
không ngại, mặc tình tung hoành, chẳng làm các việc thiện, chẳng làm các
việc ác, đi đứng ngồi nằm, mắt thấy gặp duyên thảy đều là diệu dụng của
Phật. Vì vui vẻ không lo buồn nên gọi là Phật. Pháp-Dung thưa: -Tâm đã đầy đủ, cái gì là
Phật? cái gì là tâm? Sư đáp: -Chẳng phải tâm thì không hỏi Phật, hỏi
Phật thì chính là tâm. Pháp-Dung thưa: -Đã không khởi quán hạnh, khi gặp
cảnh khởi tâm làm sao đối trị? Sư đáp: -Cảnh duyên không có tốt xấu, tốt
xấu khởi nơi tâm, nếu tâm chẳng theo danh (tên),vọng tình từ đâu khởi?
Vọng tình đã chẳng khởi, chơn tâm mặc tình biết khắp. Ngươi chỉ tùy tâm
tự tại, chẳng cầu đối trị, tức gọi là pháp thân thường trụ, không có đổi
thay. Ta thọ pháp môn đốn giáo của Tổ Tăng-Xán, nay trao lại cho ngươi.
Nay ngươi nhận kỹ lời ta, chỉ ở núi nầy sau có năm vị đạt nhơn đến nối
tiếp giáo hóa. Một hôm Sư đến huyện Huỳnh-Mai, giữa đường gặp một đứa bé
dáng vẻ khôi ngô, độ chừng bảy tuổi. Sư để tâm nơi đứa bé, bèn hỏi:
-Ngươi họ gì? Đứa bé đáp: -Họ thì có, mà không phải họ thường. –Là họ
gì? –Là họ Phật. -Ngươi không họ à? –Vì họ ấy là không. Sư
nhìn những người thị tùng bảo: -Đứa bé nầy không phải hạng phàm, sau nầy
sẽ làm Phật pháp hưng thịnh. Sư cùng thị tùng tìm đến nhà đứa bé, thuật
những lời đối đáp lạ thường của nó và xin cha mẹ cho nó xuất gia. Cha mẹ
đứa bé đồng ý cho nó xuất gia. Thế là, Sư nhận đứa bé làm đệ tử xuất
gia, đặt tên là Hoằng-Nhẫn. Một hôm Sư gọi Hoằng-Nhẫn đến bảo: -Xưa
Như-Lai truyền chánh pháp nhãn tạng chuyển đến đời ta, nay ta trao lại
cho ngươi cùng với y bát. Ngươi đều giữ gìn, cố gắng truyền trao không
cho dứt bặt. Nghe ta nói kệ: Hoa chủng hữu sanh tánh, Nhơn địa hoa sanh
sanh, Đại duyên dữ tín hiệp, Đương sanh sanh bất sanh. Dịch: Giống hoa có tánh sống, Nhơn đất hoa
nảy mầm, Duyên lớn cùng tín hợp, Chính sanh, sanh chẳng sanh. Sư lại bảo Hoằng-Nhẫn: -Trước trong thời
Võ-Đức ta có viếng Lô-Sơn, lên tột trên đảnh nhìn về núi Phá-Đầu thấy
một vầng mây màu tía giống như cái lộng, dưới phát ra lằn hơi trắng chia
ra sáu đường, ngươi cho là điềm gì? Hoằng-Nhẫn thưa: -Đó là điềm sau
Hòa-Thượng con cháu sẽ chia thêm một nhánh Phật pháp. Sư khen: -Hay
thay, ngươi khéo biết đó Niên hiệu Trinh-Quán thứ 18 (644 T.L.) nhà
Đường, Vua Thái-Tông ngưỡng mộ đạo hạnh của Sư sai sứ mang chiếu thỉnh
Sư về kinh đô để tham vấn đạo lý. Sứ đi đến ba phen mà thỉnh không được.
Sư cứ từ chối là già bệnh. Lần thứ tư, vua hạ lệnh nếu Sư không chịu đi
thì lấy thủ cấp đem về, vì Sư phạm tội trái lệnh. Sứ giả đọc chiếu chỉ
xong, Sư ngửa cổ cho sứ chém, mà thần sắc vẩn thản nhiên. Sứ
giả thấy thế, không dám hạ thủ, trở về tâu lại nhà vua. Vua nghe việc
nầy càng thêm kính phục, gởi đồ lụa gấm đến cúng dường. Đến niên hiệu Vĩnh-Huy năm thứ 2 (651 T.L)
đời Đường, ngày mùng 4 tháng 9 nhuần năm Tân-Hợi, Sư gọi môn nhân vào
dặn: -Tất cả các pháp thảy đều là giải thoát, các ngươi phải tự gìn giữ
và giáo hóa đời sau. Nói xong, Sư ngồi an nhiên thị tịch. Sư thọ 72
tuổi. Môn nhơn xây tháp thờ tại núi Phá-Đầu. Sư từ khi ngộ đạo cho đến
lúc thị tịch gần ngót mười năm mà vẫn tinh tấn tu hành không khi nào nằm
nghỉ.Thật là một gương sáng về hạnh giải đều tuyệt đỉnh. Ngày mùng tám tháng tư năm sau, tự nhiên cửa
tháp mở ra, nghi dung của Sư xinh tươi như lúc sống. Từ đây về sau môn
nhơn không đóng cửa tháp. Đời Tống vua truy phong Sư hiệu Đại Y Thiền
Sư. _____________________________ 2. -Thiền sư Pháp-Dung núi ngưu Đầu (594 –
567 T.L.) Sư họ Vi quê ở Duyên-Lăng, Nhuận-Châu. Năm
mười chín tuổi, Sư đã học thông kinh sử, tìm xem đại bộ Bát-Nhã hiểu
thấu lý chơn không. Một hôm, Sư tự than: -Đạo nho sách đời, không phải
pháp cứu cánh. Bát-Nhã chánh quán là thuyền bè xuất thế.Sư bèn vào ở ẩn
núi Mao theo thầy xuất gia học đạo. Sau, Sư đến núi Ngưu-Đầu ở trong
thất đá trên ngọn núi phía bắc chùa U-Thê. Lúc đó, có các loài chim tha
bông đến cúng dường. Các loài thú dữ quanh quẩn bên Sư không ngớt. Khoảng niên hiệu Trinh-Quán nhà Đường
(627-650 T.L) Tổ Đạo-Tín nhơn thấy khí tượng lạ tìm đến gặp Sư. Nhơn đó,
Sư được đại ngộ. Từ khi đắc pháp về sau, nơi pháp tịch của Sư đại thạnh.
Khoảng niên hiệu Vĩnh-Huy đời Đường (650-656 T.L) đồ chúng thiếu lương
thực, Sư phải sang Đơn-Dương hóa duyên. Đơn-Dương cách núi Ngưu-Đầu đến
tám mươi dặm, Sư đích thân mang một thạch(tạ) tám đấu, sáng đi chiều về
để cúng dường ba trăm tăng. Như vậy, mà ngót ba năm, Sư cung cấp không
thiếu. Quan Ấp Tể tên Tiêu-Nguyên-Thiện thỉnh Sư giảng Kinh Bát-Nhã tại
chùa Kiến-Sơ. Thính giả vân tập. Sư giảng đến phẩm Diệt-Tĩnh, đất chấn
động. Bác-Lăng-Vương hỏi Sư: -Khi cảnh duyên sắc phát, không nói duyên
sắc khởi; làm sao biết được duyên, muốn dứt cái khởi ấy? Sư đáp: -Cảnh
sắc khi mới khởi, Sắc cảnh tánh vẫn không, Vốn không người biết duyên,
Tâm lượng cùng tri đồng, Soi gốc phát chẳng phát, Khi ấy khởi tự dứt, Ôm
tối sanh hiểu duyên, Khi duyên, tâm chẳng theo, Chí như trước khi sanh,
Sắc tâm không nuôi dưỡng, Từ không vốn vô niệm, Tưởng thọ ngôn niệm
sanh, Khởi pháp chưa từng khởi, Đâu cầu Phật chỉ dạy. Hỏi: -Nhắm mắt
không thấy sắc, Cảnh lự lại thêm phiền, Sắc đã chẳng quan tâm, Cảnh từ
chỗ nào phát? Sư đáp: -Nhắm mắt không thấy sắc, Trong tâm động lự nhiều,
Huyễn thức giả thành dụng, Há gọi trọn không
lỗi, Biết sắc chẳng quan tâm, Tâm cũng chẳng quan người, Tùy đi có tướng
chuyển, Chim bay trông không thật. Hỏi: -Cảnh phát không chỗ nơi, Duyên
đó hiểu biết sanh, Cảnh mất hiểu lại chuyển, Hiểu bèn biến làm cảnh, Nếu
dùng tâm kéo tâm, Lại thành biết bị biết, Theo đó cùng nhau đi, Chẳng
lìa mé sanh diệt? Sư đáp: -Tâm sắc,trước,sau,giữa, Thật không cảnh duyên
khởi, Một niệm tự ngừng mất, Ai hay tính động tịnh, Đây biết tự không
biết, Biết,biết duyên chẳng hợp, Nên tự kiểm bản hình, Đâu cầu tìm ngoại
cảnh,Cảnh trước không biến mất, Niệm sau chẳng hiện ra, Tìm trăng chấp
bóng huyền, Bàn dấu đuổi chim bay, Muốn biết tâm bản tánh, Lại như xem
trong mộng, Ví đó băng tháng sáu, Nơi nơi đều giống nhau, Trốn không
trọn chẳng khỏi, Tìm không lại chẳng thành, Thử hỏi bóng trong gương,
Tâm từ chỗ nào sanh? Hỏi: -Khi đều đặn dụng tâm, Nếu là an ổn tốt? Sư
đáp: -Khi đều đặn dụng tâm Đều đặn không tâm dụng, Bàn quanh danh tướng
nhọc, Nói thẳng không mệt phiền, Không tâm đều đặn dụng, Thường dụng đều
đặn không, Nay nói chỗ không tâm, Chẳng cùng có tâm khác. Hỏi: -Người
trí dẫn lời diệu, Cùng tâm phù hợp nhau, Lời cùng tâm đường khác, Hiệp
thì trái vô cùng? Sư đáp: -Phương tiện nói lời diệu, Phá bệnh đạo đại
thừa, Bàn chẳng quan bản tánh, Lại từ không hóa tạo, Vô niệm là chơn
thường, Trọn phải bặt đường tâm, Lìa niệm tánh chẳng động Sanh diệt chẳng trái lầm, Cốc hưởng đã có
tiếng, Bóng gương hay ngó lại. Niên hiệu Hiển-Khánh năm đầu (656 T.L) nhà
đường, Ấp Tể Tiêu Nguyên Thiện thỉnh Sư xuống núi trụ trì chùa Kiến Sơ
Sư hết lời từ chối mà không được.Bất đắc dĩ,
Sư gọi đệ tử thượng thủ là Trí-Nham truyền trao pháp ấn và dặn dò tiếp
nối truyền dạy tại núi nầy. Sư sắp xuống núi bảo chúng: -Ta không còn
bước chơn lại núi nầy. Lúc đó chim thú kêu buồn gần suốt tháng không
dừng. Trước am có bốn cây ngô đồng, giữa tháng hè bỗng nhiên rụng lá.
Năm sau (657 T.L) ngày 23 tháng giêng, Sư thị
tịch tại chùa Kiến-Sơ, thọ 64 tuổi, tuổi hạ được 41. Ngày 27 đưa quan
tài lên núi Kê-Long an táng, số người tiển đưa hơn vạn. Phái thiền của Sư truyền, sau nầy gọi là
Ngưu-Đầu-Thiền, vì lấy tên núi mà đặt tên. Số môn đồ khá đông, lưu
truyền thạnh hành đến sáu đời mới dứt. Tổ thứ năm Trung-Hoa Sư họ Châu quê ở Châu-Kỳ thuộc huyện
Huỳnh-Mai. Thuở nhỏ, Sư thông minh, xinh đẹp. Có ông thầy xem tướng khen
rằng: < Đứa bé nầy có đầy đủ tướng tốt, chỉ thua Phật bảy tướng thôi >
Năm bảy tuổi, Sư gặp Tổ Đạo-Tín độ cho xuất
gia. Từ đây về sau, Sư theo hầu Tổ đến khi được truyền tâm ấn. Khi Tổ
tịch, Sư kế thừa trụ trì tại núi Phá-Đầu, giáo hóa nơi đây rất thạnh
hành. Khi ấy, dân chúng kính mộ tông phong dù ở xa nghìn dặm cũng tìm
đến tham học. Tại đạo tràng nầy, tăng chúng thường trực không dưới năm
trăm người. Khoảng niên hiệu Hàm-Hanh (670-674 T.L.) nhà
Đường, có người cư sĩ họ Lư tên Huệ-Năng từ phương Nam đến yết kiến Sư.
Sư hỏi: -Ngươi từ đâu đến? Huệ-Năng thưa: -Đệ tử ở Lãnh-Nam đến. –Ngươi
đến ý muốn cầu việc gì? -Đệ tử chỉ muốn cầu làm Phật. -Người Lãnh-Nam
không có Phật tánh, làm sao làm Phật được? -Người thì có Nam Bắc, Phật
tánh há có Nam Bắc sao? Sư biết là bậc lợi căn, giả vờ nạt bảo: -Lại nhà
sau đi! Huệ-Năng đảnh lễ, đi xuống nhà sau lãnh phần bửa củi, giã gạo.
Một hôm, Sư dự biết thời kỳ truyền pháp đã
đến, liền gọi đồ chúng đến bảo: -Chánh pháp khó hiểu không nên nhớ ghi
lời nói suông của ta, giữ làm nhiệm vụ của mình. Các ngươi, tùy ý mỗi
người thuật một bài kệ, nếu ý ngộ thầm phù hợp, ta sẽ truyền pháp và y
bát. Lúc đó, hội chúng hơn bảy trăm người, ai cũng
tôn sùng thượng tọa Thần-Tú làm bực thầy. Họ đồng bảo nhau: -Nếu không
phải Thượng-Tọa Tú, còn ai đảm đương nổi. Họ đồng nhường phần trình kệ
cho Thần-Tú. Thần-Tú thầm nghe lời bàn tán của chúng như vậy, tự suy
nghĩ phải làm kệ. Làm kệ xong, ban đêm ông lén biên lên vách chùa phía
ngoài hành lang: Thân thị bồ đề thọ, Tâm như minh cảnh đài, Thời thời
cần phất thức, Mạc sử nhạ trần ai. Dịch: Thân là cội bồ đề, Tâm như đài gương
sáng, Luôn luôn phải lau chùi, Chớ để dính bụi bặm. Sáng ngày, Sư đi kinh hành qua thấy bài kệ,
đọc qua biết là của Thần-Tú làm. Sư khen rằng: -Người đời sau, nếu y bài
kệ nầy tu hành cũng được thắng quả. Toàn chúng đều đua nhau đọc tụng. Ở
nhà trù, Huệ-Năng đang giã gạo, có một ông đạo đi qua tụng bài kệ ấy.
Hỏi ra biết của Thần-Tú làm, Huệ-Năng bèn nhờ dẫn đến chỗ biên kệ đảnh
lễ, đồng thời nhờ biên giùm một bài kệ hòa lại: Bồ đề bổn vô thọ, Minh
cảnh diệc phi đài, Bổn lai vô nhất vật, Hà xứ nhạ trần ai. Dịch: Bồ đề vốn không cội, Gương sáng cũng
chẳng đài, Xưa nay không một vật, Chỗ nào dính trần ai. Sư thấy bài kệ nầy thầm nhận, song không dám
nói sợ e có người tật đố hại Huệ-Năng. Sư bôi, nói: -Ai làm bài kệ nầy
cũng chưa thấy tánh. Sư bèn gọi Huệ-Năng nửa đêm vào thất. Sư lấy y che
xung quanh thất, giảng kinh Kim-Cang cho Huệ-Năng nghe. Đến câu < Ưng vô
sở trụ nhi sanh kỳ tâm >, Huệ-Năng bừng ngộ, Sư dạy: -Chư Phật ra đời chỉ vì một đại sự nhân
duyên, bởi chúng sanh căn cơ có lớn nhỏ, tùy đó hướng dẫn, mới có nói ra
ba thừa, mười địa đốn tiệm, gọi đó là giáo môn. Như-Lai riêng đem chánh
pháp nhãn tạng vô thượng chơn thật vi diệu trao cho Tổ Ma-Ha-Ca-Diếp,
lần lượt truyền đến đời thứ 28 là Tổ Bồ-Đề-Đạt-Ma. Tổ Đạt-Ma sang
Trung-Quốc truyền nối đến đời ta, nay ta đem đại pháp và y bát đã thọ
trao lại cho ngươi. Ngươi phải gắng gìn giữ truyền trao đừng cho bặt
dứt. Nghe ta nói kệ: Hữu tình lai hạ chủng, Nhơn địa quả hoàn sanh, Vô
tình ký vô chủng, Vô tánh diệc vô sanh. Dịch: Hữu tình đến gieo giống, Nhơn đất quả
lại sanh, Vô tình đã không giống, Không tánh cũng không sanh. Huệ-Năng thọ pháp và y bát xong, lễ bái thưa:
-Pháp đã nghe dạy, còn y bát có nên truyền cho người sau chăng? Sư bảo:
-Xưa Tổ Đạt-Ma sang là người nước khác,
truyền pháp cho Tổ Huệ-Khả, vẫn ngại người đời không tin sự truyền thừa
của thầy trò, nên lấy y bát truyền cho để làm tín nghiệm. Nay tông môn
của ta thiên hạ đều biết rõ, không còn ai chẳng tin, nên y bát dừng ngay
đời ngươi. Song chánh pháp đến đời ngươi truyền bá càng rộng, nếu còn
truyền y sẽ sanh sự tranh giành. Cho nên nói: < người nhận y mạng như
chỉ mành >. Ngươi nên đi liền, khéo tránh, thời gian sau sẽ ra hoằng
hóa. Huệ-Năng lại hỏi: -Nay con phải đi về đâu? Sư
bảo: -Đến Hoài thì dừng, gặp Hội thì ẩn. Huệ-Năng lãnh dạy, lễ tạ rồi ra
đi ngay đêm ấy. Sau khi truyền pháp, liên tiếp ba hôm, Sư không thượng
đường thuyết pháp. Toàn chúng đều nghi ngờ, đồng đến thưa thỉnh. Sư bảo:
-Pháp của ta đã đi về phương Nam rồi. Giờ lại nói gì? Chúng thưa: -Người
nào được? Sư bảo: -Năng thì được đó. Chúng biết là cư sĩ Huệ-Năng. Họ
đồng đuổi theo, song tìm không gặp. Bốn năm sau, một hôm chợt Sư gọi đại chúng
bảo: -Việc ta đã xong, đến lúc nên đi. Sư vào trong thất ngồi an nhiên
thị tịch, nhằm niên hiệu Thượng Nguyên thứ hai (675 T.L.) nhà Đường, thọ
74 tuổi. Chúng xây tháp ở Đông-Sơn huyện Huỳnh-Mai tôn thờ. Vua
Đường-Đại-Tông truy phong là Đại-Mãn Thiền Sư, tháp hiệu Pháp-Võ. Sư có trước tác tập < Tối thượng thừa luận
>.hiện giờ còn lưu hành. Sư được ba đệ tử ưu tú: Huệ-Năng, Thần-Tú,
Huệ-An. Tổ thứ sáu Trung-Hoa Sư họ Lư, Tổ tiên quê ở Phạm-Dương, cha tên
Hành-Thao, mẹ là Lý-Thị. Đời Võ-Đức (618-627 T.L.) nhà Đường cha Sư làm
quan ở Nam-Hải, sau dời về Tân Châu. Sư sanh tại Tân-Châu. Sư được ba
tuổi, cha mang bệnh rồi mất, mẹ thủ chí nuôi con. Sư lớn lên trong gia
đình rất nghèo túng. Mỗi ngày, Sư phải vào rừng đốn củi đem ra chợ đổi
gạo nuôi mẹ. Một hôm, nhơn gánh củi ra chợ bán, có người
mua bảo gánh đến nhà. Sư gánh ngang qua một căn nhà, bỗng nghe người
trong nhà tụng kinh, âm ba vang ra, Sư vừa nghe, chợt tỉnh ngộ, Sư hỏi
khách: -Tụng đó là kinh gì? Phát xuất từ đâu? -Khách đáp: -Kinh Kim-Cang. Phát xuất từ Ngũ
Tổ Hoằng-Nhẫn ở chùa Đông-Sơn, tại huyện Huỳnh-Mai. Nghe nói xong, Sư tỏ chí muốn tìm đến đó học
đạo, song gia cảnh còn mẹ già không ai nuôi! Có người khách hàng quen
xin đài thọ số tiền để Sư cung cấp mẹ già. Gặp cơ hội tốt, Sư về xin
phép mẹ cho xuất gia, mẹ Sư hoan hỉ cho xuất gia. Sư khăn gói lên đường, trải hơn một tháng mới
đến huyện Huỳnh-Mai, Sư vào yết kiến Tổ, Tổ hỏi: -Ngươi từ đâu đến? Sư
thưa: -Từ Lãnh-Nam đến. -Đến đây để cầu việc gì? -Đến đây chỉ cầu làm
Phật, không cầu việc gì khác. -Người Lãnh-Nam không có Phật tánh, làm
sao cầu làm Phật được? -Người thì có Nam Bắc, chớ Phật tánh không chia
Nam Bắc. Tổ biết Sư là hàng pháp khí, bèn bảo xuống nhà trù làm công
quả. Ở đây, Sư chuyên bửa củi, giã gạo. Cối gạo
to, chày đạp lớn, người Sư ốm, không đủ sức nặng cất được chày đạp, Sư
phải cột thêm cục đá vào lưng để đủ sức giã gạo. Sư làm công việc nặng
nhọc như vậy gần ngót sáu tháng, mà chưa khi nào trễ nải, thối chí. Một
hôm, Tổ xuống nhà trù, đi ngay chỗ Sư giã gạo, thấy Sư mang đá giã gạo,
Tổ bảo: -Ngươi vì đạo quên mình như thế ư? Ta biết ngươi căn tánh lanh
lợi, nhưng ngại kẻ khác hại ngươi nên ta không nói chuyện với ngươi,
ngươi có biết chăng? Sư thưa: -Con đã biết thế. Tổ biết thời cơ truyền
pháp đã đến, liền ra lệnh cho toàn chúng trình kệ. Trong số chúng bảy
trăm người đều suy nhường Thượng tọa Thần-Tú. Sư nghe bài kệ của
Thần-Tú, biết là chưa thấy tánh, nên hòa lại một bài kệ. Đọc kệ của Sư,
Tổ biết Sư đã thấy tánh. Mấy hôm sau, Tổ tìm cơ hội xuống nhà trù, đến
chỗ Sư giã gạo hỏi: -Gạo trắng chưa? Sư thưa: -Đã trắng mà chưa có sàng.
Tổ bèn cầm gậy gõ trên tay cối ba cái, rồi đi lên. Canh ba đêm ấy Sư vào
thất Tổ. Tổ truyền pháp và trao luôn y bát cho Sư, dạy đi về phương Nam.
Sư mang y bát đi được mấy hôm vừa đến
Dưu-Lãnh bị một người hiệu Huệ-Minh đuổi theo. Sư để y bát trên tảng đá,
vào rừng ẩn. Huệ-Minh đến dỡ y bát lên không nổi, đành phải kêu: -Hành
giả! Tôi đến đây vì pháp, chớ không vì y bát. Sư nghe nói, bước ra ngồi
trên tảng đá bảo: -Nếu ông vì pháp, hãy bình tâm lại nghe tôi nói.
Huệ-Minh đứng lặng yên giây lâu. Sư bảo: -Khi không nghĩ thiện, không
nghĩ ác, cái gì là bản lai diện mục của Thượng tọa Minh? Huệ-Minh nghe
câu nầy liền đại ngộ. Sư thường tàng ẩn nơi hai ấp Hoài và Hội. Có lúc
gặp phải cuộc sống khó khăn, Sư lại gia nhập vào đoàn thợ săn. Đến bửa
ăn, Sư hái rau luộc nhờ trong nồi thịt, rồi chỉ ăn rau, không ăn thịt.
Như vậy, Sư với hình thức cư sĩ, thường tùy nghi nói pháp cho họ nghe.
Có lần Sư đến Thiều-Châu, gặp ông cư sĩ Lưu-Chí-Lược kết bạn. Chí-Lược
có người cô làm Ni hiệu Vô-Tận-Tạng, thường tụng kinh Niết-Bàn. Sư vừa
nghe tụng qua đã hiểu được thâm ý, vì bà giải nói nghĩa thú. Sư cô đem
quyển kinh ra hỏi chữ, Sư bảo: -Chữ thì tôi không biết, nghĩa tùy cô cứ
hỏi. Sư cô bảo: -Chữ còn không biết, nghĩa làm sao hiểu nổi? Sư bảo:
-Diệu lý của chư Phật, chẳng quan hệ gì đến văn tự. Sư cô nghe nói kinh
ngạc, liền báo tin cho các bậc kỳ lão trong làng hay rằng: -Có bậc đạo
sĩ đáng cúng dường. Dân chúng trong làng nghe tin, đua nhau đến
chiêm lễ Sư. Gần đó có ngôi chùa cổ hiệu Bửu-Lâm, lâu đời bị đổ nát, dân
chúng trong làng hợp sức tu bổ lại, thỉnh Sư về trụ trì. Hằng ngày tứ
chúng bốn phương tụ hội về đông đảo, không bao lâu ngôi chùa Bửu-Lâm
biến thành một đạo tràng xinh đẹp. Chẳng bao lâu có người theo dõi, Sư
lại tìm nơi ẩn tránh. Ngót mười sáu năm ẩn tránh. Sư biết cơ duyên
hoằng pháp đã đến, bèn đến Quản-Châu, nhằm ngày mùng tám tháng giêng năm
Bính-Tý, niên hiệu Nghi-Phụng năm đầu (676 T.L) nhà Đường. Sư vào nghỉ
nhờ ngoài hiên chùa Pháp-Tánh. Hôm ấy, pháp sư Ấn-Tông đang giảng kinh
Niết-Bàn. Trước chùa treo lá phướng dài, gió thổi lá phướng phất phơ qua
lại. Hai ông đạo lấy đó làm đề tài tranh luận. Người nói: < phướng động
>.người bảo < gió động >; bàn qua cải lại mà không ngã lẽ. Sư đến thưa:
-Có thể cho khách cư sĩ nầy lạm bàn chăng? Hai ông đồng ý, Sư bảo:
-Không phải phướng động, không phải gió động, mà tâm nhơn giả động. Mọi
người nghe qua đều ngạc nhiên. Họ vào báo cho Ấn-Tông biết lời bàn kỳ
diệu ấy. Hôm sau, Ấn-Tông mời Sư vào hỏi về lý < Tâm
động >. Sư giải rõ thâm lý cực diệu. Ấn-Tông bất giác đứng dậy thưa:
-Ngài không phải là người thường. Nghe nói y pháp của Ngũ Tổ Huỳnh-Mai
đã về phương Nam, vậy có phải Ngài chăng? Sư đáp: -Chẳng dám. Ấn-Tông bèn tập hợp bốn
chúng, cầu xin Sư trình bày y bát của Tổ. Sư bèn đem y bát cho đại chúng
chiêm bái. Ấn-Tông xin làm đệ tử, đồng thời cầu chỉ dạy thiền yếu. Đến ngày rằm tháng giêng, Ấn-Tông thỉnh các
bậc danh đức đến làm lễ thế phát cho Sư. Ngày mùng tám tháng hai, làm lễ
truyền giới cụ túc cho Sư tại chùa Pháp-Tánh. Luật sư Trí-Quang làm
Tuyên-luật-sư. Giới đàn nầy, đời Tống,Tam Tạng Cầu Na Bạt-Đà-La đã dự ký trước rằng: -Sau sẽ
có nhục thân Bồ Tát thọ giới tại đây. Lại, thời Lương mạc, Tam Tạng
Chân-Đế, đích thân trồng hai cây Bồ Đề tại giới đàn nầy và bảo chúng
rằng: -Sau khoảng một trăm hai chục năm, sẽ có bậc đại sĩ ở dưới cội Bồ
Đề nầy khai diễn pháp vô thượng thừa, độ chúng sanh vô lượng. -Sau đó có quan Thích Sử Thiều Châu tên Vi Cừ
thỉnh Sư đến chùa Đại Phạm thuyết pháp môn vi diệu và thọ giới vô tướng
tâm địa. Quan liêu, sĩ thứ và kẻ tại gia, người xuất gia đến dự nghe
pháp trên ngàn người. Những thời thuyết pháp tại đây, được đệ tử Sư ghi
lại đầy đủ trong kinh Pháp Bảo Đàn. Năm sau, Sư muốn trở về chùa Bửu Lâm ở Tào
Khê là chỗ ẩn xưa kia. Ấn Tông cùng quan liêu sĩ thứ đạo tục tiển đưa có
hơn ngàn người. Sư an trú ở đây, tăng chúng xa gần đua nhau đến tham
vấn. Trung bình chư tăng thường có mặt tại chùa không dưới một ngàn. Sư
đã dựng lên cây cờ Đại pháp, bốn phương trông thấy đều hướng về. Niên hiệu Thần Long năm đầu (705 T.L) Vua
Trung Tông xuống chiếu sai sứ là Tiết Giảm đi thỉnh Sư về triều. Sư từ
chối vì lý do bệnh. Trong lời từ chối của Sư có câu: < Tôi nguyện được
trọn đời ở chốn núi rừng >. Tiết Giảm thưa: -Các bậc thiền đức nơi kinh
thành đều nói < muốn được hội đạo cần phải tọa thiền tập định, nếu không
nhơn thiền định mà được giải thoát, là việc chưa từng thấy >. Chưa biết
Thầy thường nói pháp dạy người thế nào? Sư đáp: -Đạo do tâm ngộ, đâu
phải ở ngồi. Kinh nói: < Nếu nói Như-Lai hoặc đến, hoặc đi, hoặc nằm là
người ấy không hiểu nghĩa ta nói. Vì sao? Vì Như-Lai không từ đâu đến
cũng không đi đâu >. Vì không từ đâu đến, nên không sanh, vì không đi
đâu nên không diệt. Nếu không sanh diệt là Như-Lai thanh tịnh thiền, các
pháp không tịch là Như-Lai thanh tịnh tọa. Tột cùng không được, cũng
không có chỗ chứng, huống là ngồi ư? Tiết Giảm thưa: -Đệ tử trở về kinh đô ắt Chúa
Thượng có hỏi. Cúi xin Hòa Thượng từ bi chỉ cho chỗ tâm yếu, ngõ hầu đối
cảnh giải rành, khiến cho những kẻ học giả ở kinh đô hiểu biết tu hành.
Ví như thấp một ngọn đèn, mồi được trăm ngàn ngọn đèn, khiến cho chỗ tối
tăm được sáng, sáng mãi không cùng. Sư bảo: -Đạo không có tối sáng, tối sáng là
nghĩa đối đãi nhau; dù sáng mãi không cùng, cũng là có cùng. Bởi vì đối
đãi mà lập danh tự cho nên Kinh nói: < Pháp không có so sánh vì không có
đối đãi >. –Sáng thí dụ trí huệ, tối thí dụ phiền não. Người tu hành nếu
không dùng trí huệ chiếu phá phiền não, thì cái sanh tử từ vô thủy do
đâu được ra khỏi? Sư bảo: -Nếu dùng trí huệ chiếu phá phiền
não, đây là kẻ tiểu căn Nhị thừa, là xe dê, xe nai, người đại căn thượng
trí không như vậy. Tiết Giảm hỏi: -Thế nào là chỗ kiến giải của Đại
thừa? Sư đáp: -Sáng cùng không sáng tánh nó chẳng hai, tánh không hai
tức là tánh thật. Tánh thật thì ở phàm phu chẳng bớt, ở hiền thánh chẳng
thêm, dừng nơi phiền não mà chẳng loạn, đứng nơi thiền định mà chẳng
lặng, chẳng đoạn chẳng thường, chẳng đến, chẳng đi, chẳng ở giữa và hai
bên, chẳng sanh, chẳng diệt, tánh tướng như như, thường trụ không dời
đổi, gọi đó là Đạo. Tiết Giảm thưa: -Hòa thượng nói chẳng sanh
chẳng diệt, có khác gì chúng ngoại đạo nói? Sư bảo: -Ngoại đạo nói chẳng
sanh chẳng diệt là đem cái diệt chận cái sanh, lấy cái sanh để bày cái
diệt. Diệt vẫn chẳng diệt, sanh nói không sanh. Ta nói không sanh diệt
là xưa tự không sanh, nay cũng không diệt, đâu có thể đồng với ngoại đạo
ư? Ông muốn rõ được tâm yếu thì, đối tất cả việc thiện ác đều chớ suy
nghĩ, tự nhiên được vào.Tâm thể trong trẻo thường lặng lẽ diệu dụng như
hằng sa. Tiết Giảm nghe qua liền đại ngộ, lễ bái Sư trở về triều. Về
triều ông tâu hết tự sự cho vua nghe. Vua càng thêm cung kính và ngợi
khen.Vua lại ban chiếu và cúng dường ca-sa, tích trượng bảo câu. Sắc đổi
tên chùa Bửu-Lâm là Trung-Hưng. Năm sau, vua lại sắc thích sử Thiều-Châu kiến
thiết ngôi chùa Trung-Hưng lại và đổi tên là Pháp-Tuyền. Chùa của Sư ở
trước, tại Tân-Châu đổi tên là Quốc-Ân. Một hôm Sư bảo chúng: -Thiện tri
thức! các ngươi mỗi người tịnh tâm nghe ta nói pháp, hết thảy các ngươi
tâm mình là Phật, chớ có hồ nghi. Ngoài không có một pháp có thể dựng
lập, đều là tâm mình sanh ra muôn pháp. Kinh nói: <Tâm sanh thì các thứ
pháp sanh, tâm diệt thì các thứ pháp diệt >. Nếu muốn thành tựu chủng
trí phải đạt nhất tướng tam muội và nhất hạnh tam muội. Nếu ở tất cả chỗ mà không trụ tướng, ở trong
tướng ấy mà không sanh yêu ghét, chẳng lấy, chẳng bỏ, chẳng nghĩ việc
lợi ích, thành hoại,v.v…an ổn thanh tịnh gọi là nhất tướng tam muội. Nếu
ở tất cả chỗ đi đứng ngồi nằm, ròng một trực tâm, không dời khỏi đạo
tràng, liền thành tịnh độ, gọi là nhất hạnh tam muội.Nếu người đủ hai
tam muội nầy, như đất có giống hay chứa đựng, nuôi dưỡng thành tựu được
bông trái của nó. Nhất tướng, nhất hạnh cũng lại như vậy. Nay ta nói pháp, ví như khi mưa thấm ướt cả
đất, Phật tánh của các ngươi ví như các hột giống, vừa gặp thấm ướt,
liền nảy mầm. Giữ đúng lời ta quyết được Bồ-Đề, đúng theo ta dạy mà thực
hành nhất định chứng quả Phật. Niên hiệu Tiên-Thiên năm đầu (712 T.L)
một hôm Sư chợt gọi đồ chúng đến bảo: -Ta ở chỗ Tổ Hoằng-Nhẫn thọ pháp
yếu cùng y bát. Nay tuy nói pháp mà không truyền y bát, bởi vì các ngươi
lòng tin đã thuần thục, không còn nghi ngờ, nên chẳng truyền. Nghe ta
nói kệ: Tâm địa hàm chư chủng, Phổ vũ tất giai manh. Đốn ngộ hoa tình
dĩ, Bồ-Đề quả tự thành. Dịch: Đất tâm chứa các giống, Mưa khắp ắt nẩy
mầm. Hoa tình vừa đốn ngộ, Trái bồ-đề tự thành. Sư lại bảo: -Pháp ấy không hai, tâm ấy cũng
vậy. Đạo kia thanh tịnh cũng không các tướng. Các ngươi dè dặt chớ quán
tịnh và tâm kia không.Tâm nầy sẵn tịnh, không lấy bỏ, mỗi người tự nỗ
lực tùy duyên đi an lành. Sư thuyết pháp độ sanh đã được bốn chục năm.
Trước đây, Sư đã sai người về chùa Quốc-Ân ở Tân-Châu xây tháp. Đến ngày
mùng 6 tháng 6 năm nầy, Sư lại sai người đến đốc suất làm nhanh. Đến ngày mùng 1 tháng 7, niên hiệu Tiên-Thiên
thứ hai (713 T.L),Sư gọi môn nhân bảo: -Ta muốn trở về Tân-Châu, các
ngươi lo sửa soạn thuyền. Lúc ấy, đại chúng đều buồn bã, thỉnh Sư ở nán
lại. Sư bảo: -Chư Phật ra đời vẫn thị hiện vào Niết-Bàn. Có đến ắt có
đi, lẽ đó là việc thường vậy. Thân hình hài của ta về ắt có chỗ. Chúng
hỏi: -Hôm nay thầy đi bao giờ trở lại? Sư bảo: -Lá rụng về cội, trở lại
không hẹn. Chúng hỏi: -Pháp nhãn tạng, thầy sẽ trao cho người nào? Sư
bảo: -Có đạo thì được, vô tâm thì thông. Chúng thưa: -Thầy để lời di
chúc xem có nạn không? Sư bảo: -Ta diệt độ khoảng năm, sáu năm ắt có
người đến lấy đầu ta. Nghe ta nói kệ: Đầu thượng dưỡng thân, Khẩu lý tu xan. Ngộ
Mãn chi nạn, Dương Liễu vi quan. Dịch: Trên đầu nuôi thân, Trong miệng để ăn.
Gặp Mãn gây nạn, Dương Liễu làm quan. -Sư nói tiếp: Sau khi ta diệt độ khoảng bảy
chục năm, có hai vị Bồ-Tát từ phương Đông đến, một tại gia, một xuất gia
chung hưng hóa Phật pháp, sửa lại các ngôi già lam nâng đỡ tông chỉ của
ta. Sư về đến Tân-Châu, vào chùa Quốc-Ân, tắm gội xong, ngồi kiết già,
an nhiên thị tịch. Khi ấy có mùi hương lạ xông ra, móng trắng vòng chí
đất. Sư tịch ngày mùng hai tháng tám năm Quý Sửu, niên hiệu Tiên-Thiên
thứ hai (713 T.L), đời Đường, thọ 76 tuổi. Bấy giờ môn đồ hai châu Thiều và Tân muốn đem
hài cốt Sư về châu mình an táng. Bàn nhau không ngã lẽ, phải thấp hương
cầu nguyện ý Sư; nếu khói hương bay về đâu, thì vâng theo ý đó. Khói
hương bay thẳng hướng Tào-Khê. Thế là môn đồ ở Thiều Châu sửa soạn đưa
linh cữu Sư về nhập tháp. Ngày 13 tháng 11 đưa linh cữu về nhập tháp tại
bên bờ khe Tào-Hầu, nay là chùa Nam-Hoa. Vua Đường Hiến-Tông truy phong Sư là Đại Giám
thiền sư, tháp hiệu Nguyên Hòa Linh Chiếu. Môn đệ của Sư đắc pháp và
hoằng hóa sau nầy có cả thảy bốn mươi ba vị: 1-Hành-Tư ở núi Thanh
Nguyên. 2-Hoài-Nhượng ở Nam Nhạc. 3-Pháp-Hải. 4-Huệ-Trung. 5-Bổn-Tịnh.
6-Thần-Hội. 7-Huyền-Giác. 8-Huyền-Sách. 9-Tam Tạng Quật-Đa v.v… -Những lời Sư chỉ dạy có thể đa số được sưu
tập trong quyển Pháp-Bảo-Đàn Kinh.
Nguồn: www.quangduc.com