c
[00] Mục Lục
[00-1] Lời nói đầu
[00-2] Lời tựa
PHẦN I : TIA SÁNG THIỀN ÐỊNH
[01-01] Dẫn nhập
[01-02] Ðối Thoại 01-17
[01-03] Ðối Thoại 18
[01-04] Ðối Thoại 19-24
[01-05] Ðối Thoại 25-27
[01-06] Ðối Thoại 28-30
PHẦN II : THỜI KỲ NHIẾP TÂM
[02-01] Dẫn nhập
[02-02] Ngày Thứ Tư, Lời bình về " Ba bất lực" Công Án 88 của Bích nham lục
[02-03] Ngày Thứ Năm, Lời bình về" Tôi không biết" Công Án 1 của Bích nham lục
[02-04] Ngày thứ sáu,-
Lời bình về " Một người ở trên một cái cây" Công Án 5  Vô môn quan của Vũ môn.  Ngày thứ bảy, Lời bình về " Suy nghĩ không tốt cũng không xấu"?Công Án 23 Vô môn quan của Vũ môn
[02-05] Mô Tả  Sự  Giác Ngộ
[02-06]Thật hân hạnh là một con người
PHẦN III : SỰ TỤNG NIỆM
[03-01] Dẫn nhập
[03-02] I / NHỮNG BÀI KỆ: Tứ hoằng thệ nguyện - Tâm kinh Bát Nhã - Bạch Ẩn Huệ Hạc toạ thiền ca - Tín tâm minh
[03-03] II/ MỘT LÁ THƯ VÀ MỘT LỜI ÐÁP: Thiền đạo?" nó làm tôi mất khí thế"
[03-04] III NHỮNG ÐỐI THOẠI: Không phải cúng dường cho Ðức Phật sao? Từ bi , giống như tình yêu, không phải là những gì người ta nói đến - Quán thế âm, vị Bồ tát của lòng từ bi, thật sự hiện hữu hay không? Sám hối những hành vi tội lỗi và che dấu những hành động tốt
PHẦN IV: ÐẠO ÐỨC VÀ TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI
[04-01] I NHỮNG BỨC THƯ VÀ LỜI ÐÁP: "Sống trên đời như là một Phật tử Thiền có ý nghĩa gì?"" Thiền là một cách trốn thoát?Bạn đang làm gì để giúp đở xã hội"" Tôi có phải từ bỏ gia đình để đắc ngộ trong Thiền hay không?"
[04-02] II CÁC ÐỐI THOẠI:  Ngộ đưa ra giải pháp cho những vấn đề đạo đức nan giải phải không? Thiền ở trên đạo đức nhưng đạo đức không thấp hơn Thiền - Nhà chứa và Phật giáo
[04-03] III THUYẾT PHÁP: Giới luật thứ nhất " đừng giết mà nên nuôi dưỡng những mầm sống" : tranh luận về giết thú vật, phá thai, chiến tranh, tự sát, giúp người bệnh chết nhẹ nhàng theo ý muốn. Lời cuối cùng? Một chú thích cá nhân
[05] Lời kết
c

 

cÐại Thừa Xuất bản 1998
THIỀN, ÁNH BÌNH MINH PHƯƠNG TÂY
Nguyên Tác: Roshi Philip Kapleau
Việt dịch : Huỳnh Công Hoàng
NHỮNG CUỘC ÐỐI THOẠI

1- THIỀN XUẤT PHÁT TỪ ÐÂU-- ẤN ÐỘ, TRUNG HOA HAY NHẬT BẢN?

Một nhóm sinh viên khoa Ðông phương học của trường đại học Rochester một hôm đến viếng Trung tâm Thiền. Sau khi được giới thiệu tham quan Thiền đường và các cơ sở vật chất khác. Các sinh viên được yêu cầu cho biết ý kiến.

SINH VIÊN NHẬT : Xin lỗi vì sự bất nhã của tôi, nhưng tôi có thấy tại thiền thất quí vị treo chiếu rơm lên tường. Tôi thấy thật là lạ. Người Nhật chúng tôi chưa bao giờ đặt chiếu rơm trên tường. Trong các Thiền viện ở Nhật, tôi cũng chưa bao giờ thấy như vậy.Tôi xin hỏi tại sao quí thầy làm như vậy?

LÃO SƯ: Nó phục vụ mục đích của chúng tôi là tạo ra bề mặt bức tường có màu trung tính không gây mất tập trung.

SINH VIÊN TRUNG QUỐC [nói với sinh viên Nhật]: Dường như bạn cho rằng cách người Nhật làm là cách thiền đúng. Ðừng quên là Ch'an mà người Nhật gọi là zen ( thiền), từ Trung hoa đến Nhật.

SINH VIÊN ẤN ÐỘ[nói với sinh viên Nhật và sinh viên Trung quốc]: Cả hai bạn dường như quên Ðức phật Thích Ca Mâu Ni là người Ấn, không phải người Hoa hay người Nhật. Phật giáo không bắt nguồn từ Trung hoa hay Nhật-- nó bắt nguồn từ Ấn độ.

LÃO SƯ: Cả ba vị cần phải nhớ rằng truyền thống Phật giáo Hoa kỳ của chúng tôi là ứng dụng tất cả các truyền thống một cách tự do. Mỗi truyền thống từ những quốc gia của các bạn đã rót văn hóa Phật giáo của chính nước bạn vào đại dương đạo Phật. Những biển này đang làm thỏa mãn cơn khát tinh thần của nhiều người Mỹ. Phật đạo là phổ thông vượt qua tất cả các nền văn hoá. Phật không chỉ tìm thấy ở Ấn độ, Trung hoa, Nhật bản mà ở bất cứ ai, nam lẫn nữ, kính trọng Ngài và sống theo giáo lý của Ngài.

SINH VIÊN MIẾN ÐIỆN: Như thế hầu hết Ðức Phật ở nước chúng tôi, có khỏang chín mươi ngàn tăng sĩ ở Miến điện và dân chúng rất kính trọng họ. Chúng tôi thờ Phật ở chùa và nhà. Chúng tôi tôn thờ Ngài như vị Thánh vĩ đại nhất từng có trên đời này.

LÃO SƯ: Anh có thiền không ?

SINH VIÊN MIẾN ÐIỆN: À, không thưa Ngài, tôi có một chương trình học rất nặng tại trường đại học và không tìm ra thời gian cho việc đó. Tôi ước gì tôi có thể.

LÃO SƯ: Phật có lẽ được tìm thấy ở Miến điện, nhưng anh vẫn chưa tìm thấy Ngài.

[ nói với sinh viên người Hoa] Thế còn anh thì sao ?

SINH VIÊN TRUNG HOA: Tôi muốn thiền, nhưng tôi chỉ có một căn phòng nhỏ mà bạn cùng phòng của tôi thì vặn nhạc tối ngày. Anh ta hầu như chẳng học hành tí gì cả. Hắn làm tôi điên lên. Phải chi anh ta thích tọa thiền.

LÃO SƯ: Phật cũng xa lạ với anh nữa.

[quay sang sinh viên người Ấn]

SINH VIÊN ẤN : Gia đình tôi theo đạo Bà la môn ( Ấn độ giáo), nhưng tôi thấy giáo lý của Ðức Phật không khác của đạo chúng tôi.

LÃO SƯ: Thế có tọa thiền theo Ấn độ giáo hay không?

SINH VIÊN ẤN: Có , thưa Ngài, nhưng tôi không có thời gian vì tôi luyện Hatha yoga.

LÃO SƯ: Phật Thích Ca Mâu Ni có dạy Hatha yoga hay không?

[nói với sinh viên Nhật] Anh có tọa thiền không?

SINH VIÊN NHẬT: Không ,thưa Ngài, tôi không biết cách. Hãy dạy tôi.

LÃO SƯ: Anh đang học bài thiền vở lòng đó!
 
 

2- NẾU TÔI PHẢI NÓI VỀ THIỀN , THÌ NÓ KHÔNG PHẢI LOẠI THIỀN MÀ TÔI ÐANG NÓI

(Hiện diện trước một nhóm các nhà Phân tâm học)

GIÁM ÐỐC VIỆN[sau vài lời giới thiệu]: Lão sư Kapleau sẽ nói cho chúng ta Thiền là gì?

[ những sinh viên đi theo thầy đặt hai tấm chiếu và gối lên sàn. Lão sư tự ngồi vào một chổ. Một sinh viên quỳ lạy lão sư rồi ngồi vào cái gối kia, cách khoảng ba tấc.]

SINH VIÊN: Thiền là gì?

[Lão sư đưa ra một trái chuối chín, lột vỏ và bắt đầu ăn.]

SINH VIÊN: Chỉ có thế sao? Thầy không thể chỉ tôi bằng những cách khác sao?

LÃO SƯ: Hãy lại gần đây.

[người sinh viên đến gần hơn. Lão sư lấy những chuối còn lại và vẩy nó trước mặt anh ta. Người học viên qùy lạy và rời khỏi.]

SINH VIÊN THỨ HAI[ nói với thính giả]: Tất cả qúi vị có hiểu không?

[không có câu trả lời]

Quí vị vừa chứng kiến biểu hiện của Thiền cao cấp . Có câu hỏi nào nữa không?

[một hồi lâu yên lặng ]

NGƯỜI HỎI: Lão sư, tôi không thỏa mãn với sự chứng minh của ông. Ngài đã chỉ cho chúng tôi những gì tôi không chắc hiểu. Chắc chắn rằng Sư có thể nói cho chúng tôi hiểu Thiền là gì.

LÃO SƯ: Nếu anh nài nỉ câu trả lời bằng lời, Thiền là con voi ăn nằm với con bọ.

NGƯỜI HỎI: Tôi hiểu tốt về nó hơn…

[cười]

NGƯỜI HỎI THỨ HAI: Thế còn về một phát biểu chi tiết hơn về thiền thì sao?

LÃO SƯ: Nếu tôi nói về Thiền thì nó không phải là Thiền mà tôi đang nói.
 
 

3 / TẠI SAO THIỀN SƯ TRẢ LỜI BẰNG CÁI GIỌNG KHINH KHỈNH NHƯ VẬY?

NGƯỜI HỎI: Tại sao Thiền sư không chịu khó giải thích cho người hỏi những câu cho thấy họ thật sự gặp rắc rối? Thay vì vậy, thầy trả lời với vẻ giống như một giọng khiếm nhã hoặc khinh khỉnh.

LÃO SƯ: Nếu anh đói mà tôi chỉ đưa anh cái thực đơn, anh có thoả mãn không?

NGƯỜI HỎI: Dĩ nhiên không. Tại sao thầy hỏi vậy?

LÃO SƯ: Mỗi lời giải thích, cho dù chi li và tinh tế như thế nào, chỉ nhìn từ một góc độ nhỏ trong những phạm vi vô cùng tận. Ðây là tôi đang đặt thêm một cái đầu khác lên cái đầu mà anh đang có.

NGƯỜI HỎI: Ðó, cái mà tôi mới vừa nói có vẻ đáng ghét đó.

LÃO SƯ[cười]: Anh chắc đang nói đùa.

NGƯỜI HỎI: Không tôi nói nghiêm túc.

LÃO SƯ: Một lần có một học viên hỏi vị thầy," Phật là gì?" để trả lời câu hỏi thầy đáp,"Anh là ai?" anh có thể gọi đó là câu trả lời đáng ghét không?

NGƯỜI HỎI: Tôi chắc chắn là như thế.

LÃO SƯ: Giả sử tôi nói với anh rằng học viên đến để giác ngộ như là kết quả của sự trao đổi này. Anh vẫn bắt lỗi câu trả lời đó hay không?

NGƯỜI HỎI: Có, không chỉ ngôn từ không thôi mà còn giọng điệu mà thầy nói nữa-- cái mà tôi cho là phản ánh cái giọng của thầy-- làm cho câu trả lời đáng ghét. Người thầy có thể diễn đạt lý lẽ của mình tốt hơn nếu ông ta tỏ ra lịch sự.

LÃO SƯ[giơ tay lên trời và cười]: Thiền không dành cho anh, anh bạn ạ!
 
 

4-NẾU DÂN MỸ DÀNH THỜI GIAN CỦA HỌ ÐỂ THIỀN, NHỮNG XÃ HỘI NĂNG ÐỘNG HƠN SẼ SẢN XUẤT TRỘI VƯỢT VÀ NGAY CẢ CHÔN VÙI CHÚNG TA.

NGƯỜI HỎI: Trong một lần nghỉ giải lao trong cuộc hội thảo này, tôi có chú ý những trang trí khá thú vị trên đường dẫn đến ngôi nhà chính với Phật đường. Tôi hỏi một nhân viên của Trung tâm về điều này và ông ta nói rằng đó là mây và nước. Khi tôi hỏi về ý nghĩa của nó, ông nói những người mới vào tu trong khoá học Thiền thường gọi nó là "mây và nước," bởi vì trong Thiền, mục đích là tạo ra một con người " trôi giống như mây và chảy giống như nước."

Câu trả lời làm tôi bối rối. Tôi là người quản lý nhà máy và tôi đến cuộc hội thảo này để tìm xem những phương pháp Thiền có thể giúp công nhân trở nên linh hoạt và tích cực hay không. Ðiều gì sẽ xảy ra cho đất nước chúng ta nếu triết lý trôi giống như mây chiếm lấy? Ví dụ, cái gì sẽ xảy ra với việc sản xuất lương thực của ta mà thế giới lệ thuộc rất nhiều, hoặc về những thứ hàng hoá khác mà ta sản xuất cho chính chúng ta và cho các nước khác? Nếu dân Mỹ dành thời gian của họ để thiền thay vì làm việc, các xã hội năng động của người Nga, người Trung Hoa sẽ sản xuất trội vượt quá mức và ngay cả " chôn vùi" chúng ta, như Khrushchev đã từng đe dọa.

LÃO SƯ: Chúng ta có lẽ sẽ bị " chôn " bởi người Nhật hơn là bởi người Nga hay người Trung hoa. Nhật bản ngày nay là nước sản xuất lớn nhất tại Á châu và theo số liệu được đăng tải trên tờ báo Time[số ngày 28/3/1977], thông tin tổng sản phẩm quốc dân của Nhật cao thứ nhì trong Thế giới tự do, chỉ đứng sau Mỹ.

Năm 1966, khi tôi rời Nhật, sau mười ba năm tu luyện ở đó, trong buổi tiệc chia tay dành cho tôi của nhóm bạn Thiền người Nhật. Một nhà kinh doanh, chủ nhân của một nhà máy lớn, đến chỗ tôi và thì thào một cách bí mật," Kapleau, nếu ông đến Oa sinh tơn gặp Tổng thống Johnson, nói ông ta là Nhật có vũ khí bí mật có thể làm cho chúng tôi sản xuất vượt qua Hoa kỳ."

"Thật không ? Nó là cái gì?"

"Thiền!"

Công ty của nhà doanh nghiệp này, giống như những công ty Nhật ngày nay, thường xuyên gởi nhân viên đến các Thiền viện. Mục tiêu không chỉ phát triển kỹ luật tự giác và nhận thức lớn hơn trong công nhân, mà còn dạy họ việc nhận ra rằng nhàm chán hoặc đáng khen thưởng không lệ thuộc vào chính công việc mà tùy vào trạng thái tinh thần khi làm việc.

NGƯỜI HỎI: Tôi vẫn chưa hiểu cái triết lý " trôi như mây " có ích gì đối với xã hội định hướng khoa học kỹ thuật như xã hội của chúng ta.

LÃO SƯ:Tốt, hãy nói xa hơn một chút. Hãy nói với tôi, Mây làm gì?

NGƯỜI HỎI: Chúng chỉ bay trôi đi, nhưng tôi không tin người ta sẽ trôi đi vô mục đích như vậy.

LÃO SƯ: Mây di chuyển tự do-- đó là vô niệm -- tạo thành và tái hình thành theo điều kiện không khí và chính bản chất của chúng. Nước tự thích nghi với tất cả mọi hoàn cảnh, trở nên tròn khi nó được đặt vào bình chứa tròn và vuông khi đặt vào bình chứa vuông. Nhưng nó luôn giữ tính chất của nó. Nó có thể tạm thời biến thành hơi nước hay thành băng khi bị bắt buộc ở những điều kiện nào đó, nhưng nó luôn biến thành nước, trở lại dòng chảy, không có gì có thể cản nó cuối cùng đến nguồn của nó, là biển. "Nước đang bị khuất phục nhưng luôn luôn chiến thắng. Nó chưa bao giờ tấn công mà lại luôn chiến thắng trong trận chiến cuối cùng," một nhà hiền triết cổ Trung hoa có nói.

Mây và nước là biểu hiện của thiền giả viên mãn, mà cuộc sống được đặc tính hóa bởi sự tự do thoải mái cộng với sự đàn hồi để tự thích ứng với những hoàn cảnh thay đổi. Vì thế anh ta sống không lo âu căng thẳng. Ðó là tại sao người tu thiền được gọi là "mây-nước."

NGƯỜI HỎI: Có lẽ tôi đần, nên tôi vẫn chưa hiểu sự tương quan giữa mây và nước và năng suất công việc.

LÃO SƯ: Năng suất đòi hỏi năng lượng, và năng lượng trôi tự do nhất trong người công nhân- người có thể thích nghi dễ dàng với những chướng ngại mới, những điều kiện thay đổi khác. Nếu bạn bị khoá chặt trong những khái niệm cứng nhắc, mọi thứ phải như thế nàyphải như thế kia, xung đột không thể tránh khỏi và kết qủa thất bại làm hao mòn năng lực và can thiệp vào những nổ lực toàn tâm toàn ý của bạn.

Phương thức nào mà người quản lý chọn để làm cho công việc ở nhà máy có yêu cầu cao hơn, tưởng thưởng về mặt tinh thần cao hơn cho công nhân của mình?

NGƯỜI HỎI: Hãng chúng tôi thử gởi người đến những khóa học do nhà máy đài thọ ở TM(Tham thiền nhập định) và Trung tâm kiểm soát tinh thần Silva, nhưng thành thật mà nói, chẳng có ích gì nhiều. Những công ty lớn khác đang bảo trợ các khoá học tâm lý và những môn tự cải thiện khác cho công nhân họ.

LÃO SƯ: Theo quan điểm của Thiền, đó là những phương pháp chửa cháy vì chúng chỉ giải quyết vấn đề lá, cành mà không tính đến cái nguyên nhân gốc. Nó không khác gì dán giấy thành khoảng cách rất lớn giữa người lao động và công việc. Chừng nào người quản lý chưa thích ứng công việc với nhu cầu thuần tuý con người của người lao động mà cứ khăng khăng cho là công nhân phải tự điều chỉnh theo đòi hỏi của máy móc, người lao động sẽ không hòa mình vào công việc; người đó sẽ không nghĩ gì hơn đó là phương tiện để kiếm tiền để mua nhiều tiện nghi vật chất hơn cho bản thân và gia đình, và sẽ cảm thấy xa lánh. Nói cách khác, người quản lý phải làm công việc trở nên thoả mãn hơn đối với người công nhân bằng cách thu hút được tâm trí chứ không chỉ cơ bắp của họ. Về phần họ, công nhân tự nương vào bản thân để học cách cảm nghiệm công việc như là phương tiện để giải thoát cá nhân.

NGƯỜI HỎI: Thầy muốn nói gì là "giải thoát"?

LÃO SƯ: Giải thoát cái bó buộc của ngã, từ những khái niệm mê hoặc của hiện thực tách rời gọi là"tôi". Từ quan điểm Thiền, công việc có mục đích sâu hơn chỉ là tạo ra một sản phẩm hoặc cung cấp một dịch vụ có ích cho xã hội. Xem xét đúng , nó là phương tiện của tự ngộ. Nhưng nếu công việc phục vụ chức năng đó, người công nhân phải tư rèn luyện để không đánh giá công việc của họ là nhàm chán hay thích thú , người ta chỉ có thể làm những phán đoán như vậy bởi" bước lùi," do vậy, tách mình khỏi công việc. Người ta phải học cách liên hệ với công việc của họ một cách nhất tâm, không có gì có thể giữ lại--nói cách khác, không có "khoảng cách suy nghĩ" giữa họ và công việc. Thực hiện cách này là vì cơ thể, công việc đóng vai trò người lau dọn, xoá tan những suy nghĩ không phù hợp, ngẫu nhiên, làm ô nhiễm trí óc cũng như làm bẩn thể chất . Vì vậy công việc trở nên cách biểu đạt chân tâm, sáng tạo, nhiệt thành. Ðó là sự cao qúi thật sự của lao động. Làm việc cách này trong Thiền được gọi là làm việc cho chính mình.

NGƯỜI HỎI: Làm việc cho chính mình trong khi làm việc cho công ty--chắc chắn đem lại hạnh phúc cho mọi người.

LÃO SƯ: Lạy chúa!
 
 

5- THIỀN VÀ THẦN KINH TRỊ LIỆU---CÓ TƯƠNG HỢP VỚI NHAU HAY KHÔNG?

NGƯỜI HỎI: Có nên tập Thiền khi đang trị liệu thần kinh hay không?

LÃO SƯ: Hiện anh đang trị bệnh phải không?

NGƯỜI HỎI: Vâng.

LÃO SƯ: Anh có đang tọa thiền hay không?

NGƯỜI HỎI: Rất ít. Tôi do dự không dám tập nhiều vì tôi không chắc có ảnh hưởng gì đến việc trị liệu hay không.

LÃO SƯ: Tại sao anh không đưa vấn đề này với người trị liệu và được hướng dẫn ?

NGƯỜI HỎI: Ông ta nói ông ta không đánh giá cao về thiền định hay tọa thiền. Tôi biết ông ta không luyện thiền.

LÃO SƯ: Thật là đáng tiếc. Có một số nhà Tâm lý học và các Bác sĩ Tâm lý ở Trung tâm chúng tôi đã luyện thiền từ nhiều năm, và ngay cả giới thiệu nó với các bệnh nhân của họ. Tuy nhiên, nếu tin tưởng vào bác sĩ trị liệu và muốn tiếp tục chữa trị, anh phải tuân theo sự chỉ dẫn điều trị của ông ta. Nếu anh mất niềm tin vào ông ta nhưng cần chữa trị, hãy tìm một bác sĩ trị liệu khác có tri kiến về Thiền, nếu người này không tu, thì ít ra cũng nhận được giá trị của Thiền.

NGƯỜI HỎI THỨ NHÌ: Một người mắc bệnh tâm thần có thể toạ thiền được không ?

LÃO SƯ: Một người bị bệnh tâm thần quá nặng hay rối loạn thần kinh nghiêm trọng không thể toạ thiền. Anh có lẽ không thuộc nhóm này.

NGƯỜI HỎI THỨ NHÌ: Tôi không đang nghĩ về chính mình.

LÃO SƯ: Người bị rối loạn tinh thần tự chửa trị có lợi lớn trong việc tọa thiền, nhưng hơn ai hết, anh ta cần phải làm việc với một người thầy.

NGƯỜI HỎI THỨ NHÌ: Thầy có biết gì về liệu pháp Morita không? Tôi biết nó kết hợp các phương pháp trị liệu tâm lý với những nhân tố của Thiền. Có liệu pháp nào như thế ở nước ta hay không ?

LÃO SƯ: Morita, một bác sĩ thần kinh Nhật nói với tôi, đã học ngành tâm thần truyền thống phương Tây và đã luyện tập thiền-- vấn đề là bao lâu--tự nhiên là ông sử dụng cả hai thứ trong trị liệu cho bệnh nhân. Liệu pháp của ông nặng về hệ thống gia đình Nhật vững chắc và văn hóa định hướng nhóm.

Khi ở Nhật tôi biết có hai bác sĩ thần kinh được huấn luyện cả liệu pháp Morita và Thiền. Một người toạ thiền dưới sự hướng dẫn của lão sư Bạch Vân, nằm cạnh chùa, trong một ngôi làng nhỏ ông có một bệnh viện. Mỗi bệnh nhân của ông sống với một gia đình, đảm nhận công việc và các hoạt động xã hội của gia đình. Ðó là một phần của cách chửa trị. Những bệnh nhân chỉ rối loạn tinh thần nhẹ thì toạ thiền ở trong chùa của lão sư và ngay cả dự một đến hai khóa nhiếp tâm.

Trong nước này có nhiều bác sĩ tâm thần, các nhà phân tích, các nhà tâm lý thực hành Thiền. Những người này hành nghề lâu năm thường dùng nguyên tắc và phương pháp Thiền trong việc chửa trị cho bệnh nhân. Có lẽ điều gần gũi nhất với hệ thống liệu pháp tâm lý có yếu tố của thiền là phương pháp của Erich Fromm. Rõ ràng Fromm đánh giá cao Thiền. Hội viên Trung tâm kể với tôi là năm 1965 trong hội nghị Pacem in Terris ở Thuỵ sĩ, được sự bảo trợ của Trung Tâm Nghiên Cứu Các Tổ Chức Dân Chủ, nói chuyện với Fromm, ông có hỏi liệu sức khoẻ tinh thần có thể đạt được qua Thiền hay không. Fromm trả lời " Nó là cách duy nhất để có tinh thần lành mạnh."

NGƯỜI HỎI THỨ BA: Nơi nào thiền bắt đầu và ngưng liệu pháp tâm thần, hay liệu pháp tâm thần bắt đầu và ngưng thiền?

LÃO SƯ :Khi tôi hỏi một bác sĩ thần kinh lâu năm kinh nghiệm với thiền với cùng một câu hỏi như vậy, ông ta đáp," tôi cảm thấy công việc của tôi là xoá tan những bối rối và bất ổn về tinh thần của bệnh nhân, vì vậy một ngày có thể đủ cho họ đến với Thiền."

Ðó có phải câu trả lời cho ông không?

NGƯỜI HỎI THỨ BA: Tôi cho là có.

NGƯỜI HỎI THỨ HAI: Lão sư, ông sẽ làm gì khi có người đến Trung tâm, rõ ràng người đó bị rối loạn thần kinh hoặc bị thần kinh phân liệt tuy vậy lại muốn tọa thiền?

LÃO SƯ: Những người lo âu hoặc u sầu nhẹ có ước muốn thật sự việc tu thiền thì được phép ở lại. Dẫu sao, từ ý nghĩa sâu thẳm nhất, ai là người không loạn thần kinh? Chưa đạt ngộ ai mà không nhìn thế giới một cách thiển cận từ quan điểm nhị nguyên, tôi và kẻ khác? Tuy nhiên, người bị rối loạn thần kinh nghiêm trọng có thể trở nên tồi tệ hơn qua luyện thiền và quấy rối người khác đang tọa thiền. Vì lý do đó, tốt nhất là đến khám ở bác sĩ liệu pháp thần kinh mà qúi vị tin tưởng.
 
 

6/ LIỆU PHÁP TÂM LÝ THỂ CHẤT VÀ THIỀN KHÁC NHAU NHƯ THẾ NÀO?

NGƯỜI HỎI: Ngày nay có quá nhiều con đường tâm linh, cách tu, và liệu pháp --thật là rắc rối. Làm cách nào để quyết định hoặc đi theo thiền Phật giáo Tây Tạng hay Phật giáo Trung hoa hay khổ hạnh Hồi giáo hay do Thái giáo hay Ấn độ giáo…hay tham thiền nhập định hay xốc điện hay phương pháp luận khoa học hay các liệu pháp tâm lý thể chất như của Gestalt, năng lượng sinh học, hồi tiếp sinh học, phân tâm học, liệu pháp thần kinh diễn lại, kiểm soát thần kinh Silva, liệu pháp tâm lý hỗn hợp…

LÃO SƯ: Ngưng, thôi đủ rồi[cười]!

Trước hết anh phải quyết định anh muốn cái gì và anh chuẩn bị làm hết sức vì cái gì. Rồi tự hỏi," Liệu ta có thoả mãn với những gì mà thiếu sự giác ngộ đầy đủ cho dù nó chiếm mất nhiều thời gian của đời ta hay không? Ta có thật sự khao khát muốn biết ta là ai, tại sao ta được sinh ra, tại sao ta phải chết, ý nghĩa của cuộc đời ta là gì hay không? Hoặc có phải mục tiêu ta chỉ là làm cho thân thể khoẻ mạnh hơn, cải thiện sự tập trung hoặc học cách thư giãn hay không?

NGƯỜI HỎI THỨ HAI: Tôi nghe thầy nói với một người trong lúc nghỉ giải lao--tôi hy vọng thầy vui lòng lập lại nó--là thầy không đánh giá cao những cách rèn luyện tâm- thân mới đang phát triển khắp mọi nơi. Tuy nhiên trong nhiều cách trị liệu đó bây giờ đã có sự kết hợp với thiền định, dẫu sao, là nền tảng của thiền. Có thể có sự khác nhau giữa các kiểu thiền hay không?

LÃO SƯ: Anh hiểu lầm tôi rồi. Tôi không muốn giới thiệu những liệu pháp đó hoặc bầu không khí thịnh hành ở nhiều nhóm tham vấn như con đường đi đến giác ngộ. Gát sự giác ngộ sang một bên, những nhóm này có những chức năng xứng đáng khi được thực hiện không phải đơn giản bởi những người " tốt nghiệp" từ một khóa học ngắn, mà là người được huấn luyện chuyên môn trong nhiều năm, có lẽ đúng ra gọi là người thầy thật sự. Tuy nhiên, có thể có nhiều lý do, để luyện tập thiền. Trong thiền, liệu pháp tâm lý thể chất chính yếu là cách đạt được cách thư giãn và làm dịu những tư niệm ngẫu nhiên để hoạt động hiệu hơn ở mức độ vật lý thần kinh. Nhưng khi thiền không được tiếp nhiên liệu bởi sự giác ngộ tôn giáo và bị tách rời khỏi lời dạy là con người không có mãnh đất cho chính mình, nó có thể dễ dàng thoái hoá thành lạnh lùng tự mãn đối với nổi đau của người khác.

Trong bài báo có tựa đề" Lòng tự tôn mới"[Harpers, tháng10,1975] Peter Marin đổ thừa và công kích kịch liệt vào khuynh hướng trong liệu pháp tiến tới cái mà ông gọi là" thần thánh hóa cái ngã cô lập" và nói về " cách trong đó sự ích kỷ và sự mù quáng đạo đức hiện tại tự khẳng định trong một phạm vi văn hoá lớn hơn như giác ngộ và sức khoẻ tâm linh…"

Kinh nghiệm của tôi khi chủ trì các buổi hội thảo theo lời mời của các nhóm liệu pháp và nhóm tham vấn có khuynh hướng ủng hộ những luận điểm của Marin. Sau một buổi cuối tuần đặc biệt bối rối không thể làm những người tham gia yên lặng để tọa thiền, tôi đột nhiên nhận ra rằng thay vì đấm ngã cái tôi, tôi lại thay đổi cách cho hợp với chúng bằng cách ưng thuận bầu không khí vui tươi và thoải mái đang có trong các người tham dự. Thật là dễ hiểu đó chính là thái độ mà người tài trợ muốn có, vào đầu một buổi hội thảo một viên chức của đơn vị tài trợ, một nhà tâm lý học tự dẫn đầu một nhóm tham vấn, hỏi," lão sư, trước khi thầy bắt đầu , tôi muốn làm nóng mọi người bằng vài kỹ thuật đơn giản? Nó chỉ mất vài phút thôi."

Tôi đáp" Cứ tiến hành đi".

Trước hết anh ta yêu cầu mọi người chia cặp đứng tựa lưng vào nhau. Người nam thường cố gắng nhanh chóng tìm một phụ nữ xinh nhất, và ngược lại. Rồi anh ta tuyên bố," giả sử mỗi bạn được giới thiệu với người mà bạn đang đứng theo cặp và vì lý do nào đó bạn không thích họ. Hãy biểu lộ sự không thích bằng lưng và mặt." Bắt buộc, tất cả đều uốn éo vai và khuôn mặt biểu lộ sự cau mày thái quá.

Rồi người lãnh đạo nói," Lần này bạn được giới thiệu với người bạn ưa gặp. Bây giờ đóng giả biểu lộ tình cảm hài lòng." Tất cả lúc đó cạ lưng vào lưng người đối tác của mình và nhoẻn nụ cười tươi. Sau năm phút người trưởng nhóm kêu ngưng, rồi quay sang tôi, " Cám ơn lão sư-- tôi hy vọng thầy không để ý về sự nhập đề nhỏ này của tôi.

Lúc này các thành viên tham gia cười đùa, người trưởng nhóm đã tạo ra chính xác bầu không khí mà tôi muốn tránh như là hậu cảnh của một buổi hội thảo.

Rõ ràng, những người đàn ông, đàn bà này không đến buổi hội thảo vì lòng khát khao mong muốn biết họ là ai hoặc mối quan hệ của họ với những người bạn của họ là gì. Họ không tìm sự thức tỉnh tâm linh, mà vì sự tự tô điểm trong một bầu không khí toả hương tâm linh, mặc dầu dĩ nhiên họ không tự thừa nhận. Khi đến đây, họ có thể tự nhủ thầm,với một sự thỏa mãn nào đó, là họ đã sánh đôi vì ý thức cao hơn của thời đại mới.

NGƯỜI HỎI THỨ BA: Socrates nói," Hãy biết chính bạn." Thế, mọi người không phải đang tập trung vào chính mình hay sao?

LÃO SƯ: Ở giai đoạn đầu trong rèn luyện tinh thần, sự quan tâm đến cái ngã là có giá trị. Nhưng sự quan tâm này không gì hơn là trú một đêm trên đường đến chân tự ngộ và là một nơi trú không lâu, như nó dường như trở thành nơi ở của họ. Tuy phía sau những hoạt động ồn ào của họ là sự mong ước, cái căn bản của mỗi con người, về sự chia sẽ và thân thiện, về việc thiện và sự tự thức tỉnh. Hầu hết đều bộc lộ một thế giới tự do vẫn nằm ngoài tầm tay của họ. Vì vậy, họ muốn có một sự cảm hứng thanh khiết hơn và một sự bằng lòng chấp nhận kỷ luật. Chính sự quyến luyến với vật chất và bám vào lạc thú của các giác quan đã ngăn cản họ chấp nhận những kỹ luật cần thiết này. Sự bất lực trong việc giải quyết cái xung đột căn bản này giữa ước mong sâu kín tự do và ham muốn khoái lạc, tạo nên sự thất vọng và nổi đau trong họ. Dĩ nhiên, họ cảm thấy khó chịu, nhưng nguồn gốc tạo ra nó vẫn không được thừa nhận. Thật dễ dàng đổ thừa cho cái ngã, là kẻ ma mị xấu xa. Nhưng ngã là cái trườu tượng, trong khi thân xác, sự biểu lộ dể nhận ra nhất của nó, thì cụ thể. Vì vậy giống như những nhà hoạt động xã hội qúa khích trong thập niên sáu mươi đập phá những đối tượng thể chất, thực ra là muốn tàn phá cái cảm giác đè nén của tôi-và-người khác, nhưng chưa được định hướng về tinh thần để biết cách, nên những con người tìm kiếm này vật lộn với thân xác.

Vì thế một tuần là luyện yoga, tuần kế có lẽ là võ thuật hoặc năng lượng sinh học hoặc xốc điện hoặc bất cứ cái gì khác. Thân phải căng ra, vặn vẹo, co giật , đâm vào, đập mạnh . Song vẫn thiếu sự tin tưởng là cái ngã có thể vượt qua bằng cách ấy. Và cũng không có niềm tin, vì không có sự khao khát thật sự để xóa tan sự coi thường rõ ràng này, nhưng lại ấp ủ một cách bí mật một vị thần hộ mạng. Cũng không có khao khát muốn nghe, " chân ngộ và sự giải thoát khỏi mối ràng buộc với cái tự ngã đòi hỏi tự hi sinh và một cuộc sống kỹ luật." Bất cứ lúc nào tôi chỉ ra là sự cần thiết nghiêm túc, trong thiền Phật giáo đòi hỏi loại cống hiến đó, và hơn nữa thiền là một truyền thống tôn giáo với nghi thức trang nghiêm và sự quan tâm từ bi đến những đồng loại, thì luôn luôn theo sau là một sự im lặng bối rối.

Không có gì đáng ngạc nhiên khi một số người đến các buổi hội thảo của tôi tuyên bố là đã đắc ngộ ở một trong các buổi độc tham mà họ vừa mới tham dự. Tôi thử những người đó , không ai thật sự ngộ cả. Rõ là họ lầm lẫn sự mở rộng nhận thức với kiến tánh.

NGƯỜI HỎI THỨ TƯ : Nhưng thưa lão sư, sự mở rộng nhận thức không có giá trị hay sao?

LÃO SƯ: Có, nhưng sự mở rộng nhận thức là một mục tiêu giới hạn, vì chưa ngộ, những sự mở rộng như vậy vẫn trong vòng giới hạn của ngã; nhị nguyên luận hay chứng loạn thần kinh căn bản về" tôi và người khác" vẫn không bị ảnh hưởng. Chỉ có ngộ thật sự mới có thể giải quyết đượv vấn đề một cách rốt ráo.

NGƯỜI HỎI THỨ NĂM: Xin thầy nói sơ lược sự khác nhau giữa mở rộng nhận thức với ngộ.

LÃO SƯ: Ngộ hay nhìn vào chân tánh của ai, thì cao hơn sự mở rộng nhận thức hoặc sự nhận thức cao. Chân ngộ xảy ra khi cả tâm thức và vô thức --hoặc tám mực độ nhận thức, dùng theo từ Phật giáo--đã bị" bẻ gẩy" và tâm làm trống rỗng tất cả những mộng tưởng, hình ảnh, sắc tướng và những cảm giác hạnh phúc.

Sự khác nhau giữa tâm mở rộng và ngộ có thể minh hoạ như chiếc đồng hồ đeo tay. Mặt đồng hồ với những số, kim, chuyển động ,tương ứng với nghiệp, cuộc sống của ta về thời gian, không gian, sống chết, nhân qủa. Mặt sau đồng hồ thì trống không tương ứng phương diện không thay đổi, không khác nhau của đời ta. Trong lĩnh vực tuyệt đối này, không có gì có thể được ấn định.

Người có cái hiểu ở mức độ tri thức biện biệt thì giống như người nhìn thấy mặt đồng hồ mà không biết mặt sau của nó. Sự mở rộng nhận thức có thể giống như làm lớn mặt đồng hồ; nhưng cho dù qúi vị làm nó lớn bao nhiêu đi nữa, qúi vị cũng chỉ giải quyết bề mặt mà thôi. Ngộ thì giống như thế này[ đột nhiên lật đồng hồ ra sau]. Bây giờ lần đầu tiên bạn hiểu ra đồng hồ thật sự gồm có mặt cộng với lưng. Cũng như vậy, ngộ dẫn đến sự hiểu biết là tâm tương đối và tâm tuyệt đối là hai mặt của chân tánh.

NGƯỜI HỎI THỨ SAU: Tại sao thiền khó hiểu đến như vậy? Tại sao có quá nhiều cách giải thích?

LÃO SƯ: Thật sự thiền đơn giản và thực tế : khi đói chỉ việc ăn, khi mệt chỉ việc ngủ, khi làm việc chỉ việc làm. Nhưng không được huấn luyện, qúi vị không thể làm bởi vì tâm bạn giống như một cái mô tơ không được tắt, " cái chỉ " chế nhạo bạn. Hầu hết mọi người viết hoặc nói về Thiền mà thiếu con mắt Thiền được khai mở, vì thế những từ ngữ của họ làm vẩn đục những gì giống như cái hồ nước trong như pha lê. Từ ngữ và quan niệm giống như chiếc đủa thần : trừ khi bạn nhìn thấy cái gì nằm sau nó, nếu không thì nó có thể làm bạn bối rối. Thực tế, trên bình diện ngôn ngữ, lời nói dể gây lầm lẫn giữa ngộ và hoang tưởng tự đại hoặc lòng tự tôn.

Hãy xem xét hai câu trích sau đây như một minh họa :

1 " Hắn ta tự xem mình như trung tâm cảm thụ độc nhất của vũ trụ, một ý chí hiện thân thật sự duy nhất mà nó sẽ chứa hoặc đã từng chứa đựng… 'Tôi, không ai khác ngoài tôi.' "

2 " Trên trời dưới đất chỉ có ta là bậc tối thượng!"

Một trong hai câu trên là của Ðức Phật, câu kia liên quan đến Hitler. Các bạn có thể phân biệt được không?

[một số câu trả lời được nói lớn.]

Câu đầu từ đoạn văn của Richard Hughes Con cáo trên căn gác ám chỉ Hitler. Câu thứ hai trích lời nói của Phật. Thật là lời giống nhau một cách lạnh lùng, song thật là hoàn toàn trái nghiã nhau!

Hoặc xem xét một định nghĩa về lòng tự tôn , tìm thấy trên tạp chí Time [20 tháng 9, 1976]: " sự tự tôn tự đại thường mang cái nghĩa không có khả năng phân biệt cái tôi với thế giới bên ngoài, như một đứa trẻ không phân biệt chính nó với mẹ và một bình sữa."

Nếu từ" lòng tự tôn" được thay thế bởi từ " giác ngộ," phát biểu đó có thể gần như là sự mô tả một tâm giác ngộ. Tôi nói "gần như" vì người giác ngộ, trong khi phân biệt, không thực hiện nó từ quan điểm nhị nguyên tôi-và-người khác. Một con chim là một con Chim là một con CHIM. Có bao nhiêu vị hiểu được điều này?

MỘT DỌNG NÓI: Thật mù mờ!

LÃO SƯ [cười]: Chơi chữ há! Hảy lắng nghe lời của Trang Tử " Lời tồn tại vì nghĩa, nhưng một khi hiểu nghĩa, bạn có thể bỏ đi lời. Nhưng tôi có thể tìm ở đâu một người mà tôi có thể bàn luận mà không dùng lời?"
 
 
 
 

7 CÓ KHÔN NGOAN HAY KHÔNG KHI KẾT HỢP YOGA HOẶC KHÍ CÔNG HOẶC KARATE VỚI THIỀN?

NGƯỜI HỎI: Có khôn ngoan hay không khi kết hợp yoga hoặc khí công hoặc karate với thiền?

LÃO SƯ: Cả yoga và khí công đi rất hợp với tọa thiền và thực tế chúng tăng cường cho Thiền, miễn là bạn tách chúng ra khỏi phương diện triết lý của nó và đừng dành nó nhiều thời gian hơn Thiền.

NGƯỜI HỎI: Lão sư, ngài có tập những thứ đó không?

LÃO SƯ : Có, tôi có tập yoga một giờ mỗi ngày.

NGƯỜI HỎI: Giờ nào trong ngày, thầy thực hành yoga?

LÃO SƯ: Vào buổi sáng. Trước hết tôi tọa thiền, tụng kinh rồi mới tập yoga. Ðó là cách rất hay để khởi đầu một ngày. Hai vị sư phụ của tôi, Bạch vân và Ðại vân, cả hai tập thể dục thẩm mỹ một giờ mỗi ngày đến tuổi tám-lăm.

NGƯỜI HỎI THỨ HAI:Tôi là một trong những người không thích bất cứ bài tập thể dục nào ngoài việc thỉnh thoảng đi bộ. Nhưng tôi đến chuyên viên xoa bóp cột sống mỗi tuần một lần để nắn bóp và thỉnh thoảng mát xa toàn thân. Tôi cảm thấy những cách trị liệu này cũng tốt giống như tập thể dục vậy. Thầy có thấy sự đối kháng giữa cách trị liệu này với tọa thiền hay không?

LÃO SƯ: Không, nếu chúng làm bạn cảm thấy tốt hơn, chúng sẽ trợ giúp hơn là cản trở tọa thiền. Dầu vậy, bạn phải tự giúp mình hơn nữa, nếu bạn tự khép mình vào yoga hay khí công hay chạy bộ hay bơi lội hoặc chơi bất kỳ một môn thể thao, vì như thế bạn cũng sẽ tập cho tính chủ quan, tính tự do cá nhân của bạn như một con người tự do hành động. Trong liệu pháp nắn bóp hay mát xa bạn là người bị tác động. Bạn trở nên đối tượng thụ động thay vì một chủ thể tích cực. Có một thế giới khác nhau giữa hai cái.
 
 

8 CÁI GÌ LÀ TƯ NIỆM BẤT THIỆN ?

NGƯỜI HỎI:Trước đây trong buổi hội thảo thầy nói về tư niệm bất thiện. Thầy vui lòng đưa ra một vài ví dụ về tư niệm bất thiện?

LÃO SƯ: Khái niệm tốt xấu, mộng mơ, "Tôi yêu nó, tôi ghét nó," tư niệm giận hoặc căm thù, những ý nghĩ cố chấp, những phán đoán không cần thiết, những đánh giá và kết luận không cần thiết, sự phân biệt không hợp lý, suy nghĩ ghen tị và thèm muốn.

NGƯỜI HỎI THỨ HAI: Có cách nào để tránh làm những phán xét hoặc có những ý kiến?

LÃO SƯ: Chú ý từ" không cần thiết." Thầy giáo, cha mẹ, người phê bình, quan tòa phải làm những phán xét --đó là công việc của họ. Nhưng chúng ta đang nói về sự đánh giá vu vơ mà người bình thường làm hàng chục lần trong ngày và cha mẹ vô tình thúc con họ làm. Chẳng hạn hỏi con," Con thích cái nào hơn, hoa hồng hay hoa cúc?" để?có câu trả lời đại loại như," Con thích hoa hồng hơn hoa cúc." Hỏi ai qua đối thoại," anh nghĩ gì về cái này, cái nọ?", nài nỉ một câu xét đoán . Ðiều này tách rời cá nhân ra khỏi người hay vật mà người đó xét đoán. Hại như nhau là tự xét đoán, gán cho hành động của ai là "tốt" hay " xấu". Thái độ đánh giá này được tìm thấy chính trong kinh Thánh (the Bible), rằng sau khi Chúa tạo ra thế giới, Người nhìn vào đó và phán "tốt."

NGƯỜI HỎI THỨ HAI:Tôi vẫn chưa hiểu căn bản cái gì sai về những phán xét hay ý kiến.

LÃO SƯ: Một khi anh hình thành một ý kiến anh sẽ bám vào nó. Rồi anh cảm thấy bị thúc dục phải bảo vệ nó, trở nên ưa tranh cải và hay gây sự. "Ý?kiến" Voltaire nói," gây ra nhiều phiền toái trên đời này hơn tất cả những bệnh dịch và động đất."
 
 

9 CÓ CHẾ ÐỘ ĂN ÐẶC BIỆT CHO THIỀN KHÔNG?

NGƯỜI HỎI: Có chế độ ăn đặc biệt cho thiền không?

LÃO SƯ: Không, nó có vẻ mâu thuẫn. Ngay khi bạn công nhận một chế độ ăn của thiền, bạn sẽ trở nên lệ thuộc vào nó. Thiền dạy sự tự do chấp nhận hoặc từ chối không có sự bắt buộc hay hối tiếc. Thế thì làm sao có một" học thuyết ăn kiên của Thiền để kéo dài cuộc sống" hoặc các loại ăn kiên Thiền khác? Có một điều đáng nói là dễ khép mình vào Thiền và được đắc ngộ, khi sinh khí nền tảng của bạn mạnh, và chế độ ăn điều hoà các thức ăn dinh dưỡng chưa bị tinh chế sẽ giúp bạn tới đích. Nó hoàn toàn khác với khăng khăng một chế độ ăn kiên của Thiền.

Thật là đáng ngạc nhiên vì qúa ít người biết rằng ngay cả những thức ăn tốt cũng gây hại khi nó được nấu và phục vụ bởi một người lo âu hay sợ sệt, hay người có đầu óc luôn giận dữ hay bực tức. Những phản ứng hóa học xảy ra trong cơ thể bởi những rung động bất tịnh đó có sức làm "độc " thức ăn bị xúc chạm bởi những cá nhân như vậy, gây cho người nhạy cảm ăn nó có những phản ứng như nhức đầu, đau bụng hay các bịnh tương tự. Ðó là lý do tại sao ở các thiền viện, duy chỉ những người tinh tấn trong tu tập với cái tâm trong sáng nhất, công bằng nhất, mới được phép làm công việc nấu nướng. Không cần phải nói tâm của chính người ăn cũng có ảnh hưởng đến khả năng tiêu hoá.

NGƯỜI HỎI: Nhưng nếu ăn trong nhà hàng làm sao thầy có thể biết trạng thái tinh thần của người đầu bếp?

LÃO SƯ: Bạn không thể. Ðó là lý do tại sao người tu luyện nghiêm túc thường né tránh việc dùng bửa ở nhà hàng bất cứ khi nào có thể được.

NGƯỜI HỎI: Thế những nhà hàng của những nhóm tôn giáo điều hành thì sao?

LÃO SƯ: Khi thức ăn được xem như đồ cúng, lý tưởng khi nó ở trong những nơi như thế , nó được chuẩn bị và phục vụ với tình yêu và dâng hiến; vì vậy nó trở nên pha trộn với những rung động trong sạch hơn đó.

NGƯỜI HỎI: Tôi chú ý là bửa ăn trưa hôm nay có những thức ăn tự nhiên cho người ăn chay. Tôi mong đợi điều này ở Trung tâm thiền, nhưng dường như điều thích thú là ngày nay có rất nhiều người dùng những thực phẩm tự nhiên. Ngay cả quán ăn trường tôi có mở cửa hàng bán thức ăn bổ dưỡng. Ý nghĩa của phong trào này là gì?

LẢO SƯ: Ước muốn làm trong sạch thân xác thật sự phản ánh một ước mong trong tiềm thức hoàn thành ước nguyện của chính mình. Nhưng nhiều người đã sa lầy vào vấn đề sức khoẻ thể chất và chính nó trở thành quan trọng. Họ qúa say mê với những biểu đồ thức ăn, với những tính toán tánh Âm-Dương của thức ăn, về tập thể dục đến nổi không bao giờ rời khỏi sự quan tâm về cơ thể, để đạt được sự giải thoát thật sự về mặt tâm linh. Ở những người này, vẫn không có hiểu biết và ý thức về sự trở nên xa lạ của họ với cái tôi, không có cảm giác đau khổ của ngã để thúc đẩy họ tìm kiếm câu hỏi về ý nghĩa của cuộc sống và cái chết. Ngộ nói lên sự cởi bỏ thân tâm.

NGƯỜI HỎI THỨ BA: Phải tránh ăn thịt để trở nên một phật tử tốt phải không?

LÃO SƯ: Có qúa nhiều yêu cầu căn bản hơn là ăn hay không ăn thịt. Song nó không phải là vấn đề đơn giản nên hay không nên. Khi tu luyện thâm sâu, nỗi sợ tiềm thức và thói quen bắt buộc dần phai đi và thân-tâm thu được một sự nhạy cảm tinh tế sắc bén ngày hơn nhiều, vì thế người ta phát triển một cách tự nhiên cái ý thích thức ăn chay hơn những thức ăn thô như thịt.

Có nhiều thứ để nói về một cách ăn đơn giản. Hầu hết mọi người ăn quá mức và theo sự quan sát của Seneca, con người không chết tự nhiên mà tự giết mình bằng dao và nĩa. Thực trạng này có từ xưa đến nay. Không ai tỏ ra khó chịu vì chứng khó tiêu, táo bón kinh niên, và những bệnh có chung một gốc do ăn uống quá độ gây ra. Kết qủa của việc ăn qúa nhiều hay ăn thức ăn qúa nhiều dinh dưỡng là chướng ngại cho việc hành Thiền có hiệu qủa. Ðặc biệt là người thường ngồi một chổ để làm việc, ít tập thể dục, thiền nhiều giờ thì ăn ít lại tốt hơn ăn nhiều. Nói cách khác, một bửa ăn thanh đạm có ích cho việc tọa thiền ,làm tắt khao khát xác thịt và những ảo tưởng. Thực ra, trong trạng thái định sâu ,cơ thể ít đòi hỏi năng lượng, do đó hành giả có thể ăn ít hay không cần ăn, mà dường như nó được nuôi từ việc rút ra một loại dinh dưỡng khác từ không khí.

Cho đến khi bạn đạt đến trình độ này, tuy nhiên, thật là thiếu khôn ngoan khi từ bỏ thịt cá cùng một lúc, vì sự từ bỏ đột ngột những món ăn đã quen thuộc với cơ thể có thể gây phản ứng và tạo ra bệnh , làm chấm dứt việc tọa thiền. Ðưa những thay đổi vào cách ăn một cách từ từ, để cho các chất hóa học của cơ thể có thời gian điều chỉnh.

Sự thật là chúng ta bị yếu đi nhiều vì tư niệm tham, sân, si hơn là không đủ lượng chất đạm hay các sinh tố (vitamin). Tọa thiền bằng cách tập trung và điều khiển tâm làm tăng cường sự chú ý và thanh lọc tình cảm, giúp người ta cuối cùng xóa tan những tư niệm có hại từ bên ngoài. Một người khỏe mạnh về tinh thần là người đã phát triển khả năng này, đã nhìn vào chân tánh của sự vật, và có thể thích nghi một cách sáng tạo với môi trường- đó là, đáp lại một cách tự do đầy đủ những hoàn cảnh thay đổi không có sự lo âu. Cuối cùng, đàng sau những chứng bịnh kinh niên là sự bất an về tinh thần. Cảm giác không thỏa mãn đang gặm nhấm làm cơ thể bịnh, và cơ thể bịnh tạo nên tâm bịnh.
 
 

10 ÐỌC VỀ GIÁC NGỘ GIỐNG NHƯ GẢI CÁI CHÂN NGỨA MÀ KHÔNG CỞI GIẦY

NGƯỜI HỎI: Tôi có vẻ hơi liều, nhưng dù sao tôi phải hỏi điều này. Thường sau khi đọc về giác ngộ tôi dường như hiểu rất rõ nó là gì, và nhiều lần tôi hoàn toàn cảm thấy sự giống nhau của tất cả sự sống. Nhưng có gì khác nhau giữa loại hiểu biết này và tỉnh thức của thiền?

LÃO SƯ: Ðọc về ngộ giống như đọc về chất dinh dưỡng khi bạn đói. Thế nó có làm bạn no không? Rõ là không. Chỉ khi bạn nếm nhai và nuốt chúng bạn mới cảm thấy thỏa mãn, nó có thể so sánh với ngộ, hoặc tỉnh thức. Rồi ngay cả thức ăn bạn đã ăn cũng không nuôi bạn cho đến khi sự tiêu hóa và hấp thu xảy ra. Cũng giống như vậy, đến khi bạn hội nhập vào cuộc sống hàng ngày những gì bạn nhìn thấy, sự ngộ vẫn chưa làm gì cho bạn-nó sẽ không làm thay đổi cuộc đời bạn. Và như bước cuối cùng của thức ăn là loại bỏ, vì thế người ta phải đương nhiên loại chính mình khỏi khái niệm " Tôi được giác ngộ.? Lúc đó chỉ có bạn " bước tự do giữa đất trời."

Bây giờ giả sử bàn chân bạn ngứa. Bạn có cảm thấy tốt hơn khi gải bàn chân không giày hay gải chổ ngứa mà không cởi giày?

NGƯỜI HỎI: Dĩ nhiên gải bàn chân không giày.

LÃO SƯ: Ðọc về ngộ giống như gải chổ ngứa mà không cởi giày.
 
 

11 ÐỌC HAY KHÔNG NÊN ÐỌC?

NGƯỜI HỎI: Có hai điểm liên quan đến đọc sách làm tôi bối rối. Thầy nói là đến lúc ngộ người ta cần từ bỏ suy nghĩ về tôi-người khác và ngưng chơi đùa với những khái niệm, thầy ám chỉ là việc đọc nuôi dưỡng những quan niệm và những tư niệm ngẫu nhiên, phải bỏ đi. Tôi biết là có nhiều thiền tăng uyên bác ở Trung hoa và Nhật thời xưa, họ rõ ràng chắc đã đọc rất nhiều.

Ðiểm thứ hai thuộc về cá nhân. Tôi đang học trở thành bác sĩ thần kinh và không có cách nào khác là phải đọc nhiều, không chỉ trong lĩnh vực của tôi mà còn trong những phạm vi có liên quan.

LÃO SƯ: Việc đọc " trong những phạm vi có liên quan " này là gì?
NGƯỜI HỎI: Ví dụ, để hiểu vấn đề của người dân ở các nước khác, đọc giúp tôi làm quen với cách diễn đạt và lối suy nghĩ của họ. Mọi thứ đều liên quan đến việc đọc. Nhưng nếu đọc làm hại việc tọa thiền của tôi và tôi bỏ mọi thứ sách báo, cả những tạp chí khoa học, làm sao tôi tiến bộ và có thể giúp cho bệnh nhân của tôi tốt hơn?

LÃO SƯ: Những gì tôi đã nói là đọc bừa bải phải bị bỏ, không phải là tất cả. Sinh viên như bạn và những người chuyên nghiệp nào đó cần đọc và nghiên cứu; những hoạt động như vậy phải được xem như một phần của tọa thiền của bạn. Và toạ thiền thường xuyên, do tăng sự tập trung hay thư giản đầu óc sẽ làm bạn học tốt hơn cũng như lưu giữ những gì đã học. Nhiều hội viên của chúng tôi là sinh viên, thầy giáo và những chuyên gia.

NGƯỜI HỎI:Thầy định nghiã thế nào là đọc bừa bải?

LÃO SƯ: Ðọc bừa bải là đọc thái qúa sách báo tạp chí, tiểu thuyết và vấn đề tương tự không thiết yếu hoặc liên quan với công việc hay nghiên cứu của bạn. Chú ý từ "thái qúa." Bạn có từng quan sát người ta ở trạm xe buýt, sân bay, hoặc nhà ga không? Thường thường nếu họ ở đó một mình, ngay khi ngồi xuống họ lấy sách, báo hoặc tạp chí ra đọc. Rất ít người có thể thiền hoặc chỉ ngồi yên lặng. Ðọc tiêu hao năng lượng, trong khi thiền gìn giữ và tập trung nó. Nếu trong tọa thiền bạn, cho phép trọng lực đặt ở khu vực rộng cở bàn tay phía dưới rún, bạn lập một giếng năng lượng ở đó làm mạnh mẽ toàn thân. Bạn có thể so sánh qui trình này với máy phát điện sạc bình ác -qui.

Thầy tôi thường bảo với môn đồ là càng ít đọc sách triết hay về Thiền thì càng ngộ nhanh. Tại sao lại như vậy? Vì ông biết rằng loại sách này đặc biệt cản trở tâm bằng những quan niệm, khái niệm nặng nề. Có một lần lão sư Ðại vân, từng là một giáo sư, nói rằng kinh nghiệm ngộ độc đáo của Lục Tổ khi nghe một ông tăng lang thang đọc kinh Kim cương, có thể nhờ một phần do sự mù chữ của ngài--đó là, muốn nói tâm của ông thoát khỏi những suy đoán vu vơ được nuôi dưỡng bởi đọc và nghiên cứu rộng.

Người mới tu trong thiền viện được khuyến khích chỉ nên đọc những mẩu chuyện về cuộc đời của các thiền sư và chư Tổ, dù vậy họ cũng phải thuộc lòng một số kinh để tụng. Họ có thể nghe trực nhận chân lý từ người thầy, mà không cần phải qua trung gian của qua những trang giấy in. Ngôn ngữ và văn tự có thể làm lệch cái ý nghĩa chân xác của cái ' như thật'. Thiền nhấn mạnh," nghe sự thật, tin nhận, hành trì." Nghe sự thật , vì sự thật được kể từ người đã chứng nghiệm nó, rung động với một sức mạnh vô địch bởi những lời hùng biện nhất.

Coi chừng việc đọc qúa mức các loại sách báo, giống như một liều thuốc qúa lớn, đè nặng tâm và làm cùn khả năng suy nghĩ sáng tạo. Ðọc bừa bải cũng có thể nuôi dưỡng sự tham lam vì những sự kiện vô ích và lòng kiêu hãnh trong sự chiếm hữu những phẩm chất?không dẫn đến sự tiến bộ tâm linh. Cuối cùng, chân tuệ gồm khả năng đọc được những cuốn sách chưa được viết ra. Nietzsche viết rằng khi thị lực của ông trở nên quá kém đến nỗi ông không còn có khả năng đọc sách nữa, cuối cùng ông bắt đầu đọc về chính mình.

Ðọc và tọa thiền không bổ xung cho nhau. Ðọc những đề tài có phạm vi rộng lớn, đặc biệt là về những sự kiện và lý thuyết làm mệt óc và làm cơ thể yếu đi, làm tê liệt ý muốn tọa thiền. Mặc khác, sau khi toạ thiền tâm bạn sẽ cảm thấy rất trong sáng và tỉnh táo đến nổi bạn không muốn bị che phủ bằng cách đọc những loại đó.

NGƯỜI HỎI THỨ HAI: Nhưng tôi nghĩ là đọc những lời dạy của thầy sẽ gây hứng thú và cũng giúp ích để nghiên cứu những nguyên tắc Phật giáo.

LÃO SƯ: Nếu anh làm việc gần gủi với một người thầy, anh có thể suy đoán những nguyên tắc từ chính việc tọa thiền. Tâm bạn càng thoát khỏi những sự kiện, lý thuyết thì càng nhận rõ lời dạy và dự tiến bộ của bạn nhanh hơn.

Tuy nhiên sau ngộ, đọc kinh và những lời dạy của thầy có thể rất hữu ích. Những gì vừa được đề cập đến là dành cho những người có vị thầy hướng dẫn về tinh thần. Nếu bạn không có, thì đối với bạn, loại sách đọc tốt nhất là cái làm tăng đức tin và có sức thuyết phục. Ðừng rơi vào thói quen đọc sách mới về thiền hay yoga hoặc về bất cứ truyền thống nào bạn thích. Có hay không có người thầy, bạn cần phải khám phá chiếu thiền và học cách kỷ luật chính mình. Và một khi bạn tin rằng có nhu cầu về tu luyện và kỷ luật tinh thần, hãy tìm một vị thầy và bắt đầu đi theo đường đạo.

NGƯỜI HỎI THỨ BA: Thế còn đọc tiểu thuyết chỉ vì thú vui đơn thuần thì sao?

LÃO SƯ: Nó hoàn toàn lệ thuộc sự háo hức cở nào của anh đối với sự ngộ. Nếu bạn khao khát chân ngộ, bạn sẽ thức dậy lúc ba giờ sáng, không cầm lấy tiểu thuyết mà hướng tới gối thiền và sẽ không có gì có thể tách bạn ra khỏi nó.

NGƯỜI HỎI THỨ TƯ: Ðọc loại sách nào là tốt nhất khi thầy có một cuộc sống tâm linh?

LÃO SƯ: Emerson nói," cuốn sách tốt đặt tôi vào trạng thái làm việc." Nếu bạn muốn hiểu chân tánh -- không chỉ tiên đoán về chúng --cuốn sách tốt là khi có hàm chứa ý nghĩa sâu xa được khám phá qua kinh nghiệm cá nhân. Một cuốn sách khuấy động tâm, đốt cháy khả năng tưởng tượng, và dẫn đến quyết tâm không để cái gì cản lối của ngộ. Tóm lại, nó đưa bạn ra khỏi ghế đến với chiếu thiền.

NGƯỜI HỎI THỨ NĂM: Những quyển sách nào thầy đặt biệt khuyên đọc?

LÃO SƯ: Tôi chú thích một danh sách các quyển sách mà tôi tự nhận thấy cảm hứng và dùng để dạy.[ xem "bản chú thích tài liệu đọc." ] một số tựa sách hay được bỏ đi vì nó không còn được in.

Ðừng nghĩ rằng qúi vị cần phải đọc từng cuốn trong danh sách được đề nghị hay tất cả chúng. Ngay cả những cuốn bạn đã đọc , lệ thuộc vào sự mong mõi , và sự phát triển tâm linh của bạn. Nếm từ đầu lưỡi cũng đủ cho một số người, số khác có thể cong lưỡi lại như nếm rượu ngon, và một số thì thưởng thức và nuốt với sự thích thú của người không ăn gì trong nhiều ngày.

Từng cuốn sách này, cho tôi nhấn mạnh gắn vào cái nhãn:" Coi chừng: tạo thành thói quen. Có hại nếu dùng những liều lớn."
 
 

12 CÁI GÌ THẬT SỰ LÀ THẬT?

NGƯỜI HỎI: Nếu tôi hiểu thầy đúng, và tôi nghĩ thầy đang trích dẫn lời của Phật, thầy nói không có gì tồn tại.

LÃO SƯ: Anh không hiểu điều này trực tiếp. Tôi trích dẫn lời Ðức Phật khi nói mọi vật không tồn tại cũng không phải không tồn tại. Ðiều này hoàn toàn khác từ những gì bạn nói.

NGƯỜI HỎI: Ðúng vậy, tôi hiểu đúng. Nhưng nếu mọi vật không tồn tại cũng không phải không tồn tại, cái gì là thật--cái gì thật sự là thật?

LÃO SƯ: Hãy đến gần đây.

[Người hỏi lên bục giảng. Lảo sư nghiên người thì thào vào tai anh ta. Cả hai điều cười và bắt tay.]

Chỉ có điều đó thật sự là thật!
 
 
 
 

13 LÀM CÁCH NÀO TÌM ÐƯỢC NGƯỜI THẦY CHO MÌNH ?

NGƯỜI HỎI: Thầy có nói trước đây trong một cuộc hội thảo là không nên có hơn một người thầy. Tôi có đọc được một lời nói của một vị thầy Ấn độ ở Vùng Duyên Hải Phiá Tây," Người ta có thể giao phó cho hơn một người thầy tinh thần cùng một lúc. Một con ong hút mật từ nhiều bông hoa, một người vì thế có thể học thuốc từ một người thầy và học luật từ một người khác. Không có sự xung đột. Tại sao thầy không đồng ý với ý kiến của ông ta?

LÃO SƯ:Thế anh hiện đã giao phó cho một người thầy nào chưa?

NGƯỜI HỎI: Chưa, tôi là con ong đang bay từ bông hoa này sang bông hoa khác.

LÃO SƯ: Thế thì chừng nào anh làm ra mật?

NGƯỜI HỎI: Tôi hy vọng là chẳng bao lâu nữa. Tôi đang thu lượm mật hoa ở bất cứ nơi nào tôi tìm thấy.

LÃO SƯ:Ðừng quên rằng con ong tạo ra mật chỉ sau khi nó ngừng bay từ hoa này sang hoa khác. Và anh cũng thu được mật tốt, chẳng hạn, từ con ong cũng vào hút hoa cây quất hay hoa kiều mạch.

Trở lại câu nói ban đầu: điều mà tôi đã nói, " trước khi yêu cầu sự giúp đở của một vị thầy thì việc 'tranh thủ ' những thầy khác cũng tốt thôi, nhưng một khi anh đã chính thức giao phó bản thân mình như một môn đệ, anh không được ngó ngây dại đến người thầy khác." Tuy nhiên, sau khi đã được huấn luyện với một người thầy và ngộ dưới sự hướng dẫn của ông ta. Anh có thể có lợi khi tiếp xúc với những người thầy đã ngộ khác.

NGƯỜI HỎI: Thầy muốn ám chỉ gì khi nói " ngó ngây dại"?

LÃO SƯ: Ðừng lừa thầy. Sự ngoại tình tinh thần không tốt hơn ngoại tình về thể xác. Nếu anh muốn theo đuổi những vị thầy khác giống như chong chóng thời tiết xoay theo từng hướng gió mới, anh chỉ thành công trong việc làm mình rối lên và không thu được gì.

NGƯỜI HỎI: Có nghĩa là người ta phải phục tùng ngoan ngoãn người thầy hay không?

LÃO SƯ: Không, anh phải học cách suy nghĩ độc lập và tuân theo chính trực giác và kinh nghiệm sống của anh. Ngay trước khi Ðức Phật nhập diệt, Ngài nói với đám đệ tử quay quanh mình, một số đang khóc với ý nghĩ là mất, sắp mất đi người thầy thân yêu:" Hãy đốt đuốc lên mà đi… nương tựa vào Pháp. Ðừng trông chờ vào sự giúp đở của ai ngoài chính mình."

Trong Thiền, mục đích của người thầy, ngoài việc dìu dắt người môn đồ đi đến giác ngộ, là giữ cho họkhông chịu ảnh hưởng của mình. Ông không muốn kiểm soát cuộc sống của môn đồ, mà chỉ làm anh ta đủ sức làm chủ cuộc sống của mình thay vì làm nô lệ cho nó. Trong một số truyền thống tôn giáo, như anh biết đấy, người thầy thật sự điều khiển cuộc sống của môn đồ, đến mức độ nói với họ lấy vợ và có con hay không. Lời của ông ta là luật. Nếu khả năng tâm linh của ông ta sâu thì ít nguy hiểm. Nếu không, chỉ có Trời mới có thể giúp được người học trò đó!

Hãy tránh những người thầy nói," Ta được đắc ngộ." Hãy cảnh giác với những vị thầy tuyên bố là một vị thần, một tái sinh , Thánh hay Phật. Và hơn hết, nên tránh người" thầy" cho phép tín đồ của mình ca tụng với hai tay giơ lên trong một buổi tụ tập quần chúng, và ca ngợi ông ta là thánh thiện nhất trong những bậc thánh thiện. Ô?g ta là điều đe dọa lớn nhất.

Người thầy chân chính phản ứng như thế nào với sự ca ngợi? Có một lần ngài A nan đà , thị giả của Ðức Phật, nói với Phật," Bạch Ðức Thế Tôn. Con nghĩ là trong qúa khứ chưa hề có vị thầy nào vĩ đại như ngài, và trong tương lai cũng sẽ không có ai vĩ đại như ngài," Phật đáp, " Ngươi biết hết tất cả chư Phật trong qúa khứ sao?"

"Không, bạch Ðức Thế Tôn."

"Này, A nan, ngươi có phép thần thông biết được tất cả chư Phật của vị lai hay sao?

" Không , bạch Ðức Thế Tôn."

" Vậy , này A nan, thế thì chắc ngươi biết trọn vẹn tâm của Như lai phải không ?

" Không, bạch Ðức Thế Tôn."

"Vậy tại sao," Ðức Phật hỏi," ngươi có thể khẳng định một cách mạnh mẽ như vậy?"

NGƯỜI HỎI THỨ HAI: Một thiền sư có giấy chứng nhận, đại loại như là bằng cấp chứng nhận trình độ văn hoá, có chứng nhận vị ấy dạy Thiền hay không?

LÃO SƯ: Có một giấy chứng nhận viết chữ đẹp ghi là thầy cấp cho học viên của mình khi ông ấn chứng sự giác ngộ của anh ta, nhưng nó không thể gọi là giấy chứng nhận để dạy học được, vì sự huấn luyện Thiền thật sự bắt đầu sau khi ngộ. Học viên hoàn tất tất cả các công án mà người thầy qui định, nhận cái được gọi là ấn chứng. Nhưng ấn chứng tự nó không tạo nên một người thầy giỏi hơn là tốt nghiệp từ trường thuốc đào tạo nên một bác sĩ đủ tài. Trong Thiền, theo một số truyền thống Á châu khác, một đồ đệ sẵn sàng dạy khi thầy anh ta bảo anh ta dạy. Ðiều này tự nhiên đặt rất nặng trách nhiệm lên đôi vai người thầy. Nếu ông ta khôn ngoan và có phẩm chất cao, ấn chứng là biện pháp bảo vệ đối với công chúng. Nếu ông ta tầm thường, có ấn chứng hay không, đồ đệ ông ta cũng sẽ rời bỏ vì không thoả mãn.

NGƯỜI HỎI THỨ HAI:Thật là lộn xộn. Không phải lão sư theo định nghĩa là thầy và hẳn phải khôn ngoan sao?

LÃO SƯ : Nhiều người hiểu lầm về nghĩa của từ "lão sư " và " thiền sư." Lão sư nghĩa đen là người thầy đáng kính-- đó là, người được tôn kính vì lý do tuổi tác hay phẩm chất cao đẹp. Tu viện trưởng, thầy trụ trì chùa hoặc thầy giáo cư sĩ ngoài tuổi năm mươi được gọi là lão sư và tước hiệu này ám chỉ sự kính trọng sâu sắc. Ở Nhật lão sư được sử dụng kính cẩn, phần lớn bởi đồ đệ và môn đồ của chính vị thầy ấy; nó không là tước hiệu tượng trưng cho việc hoàn tất một khóa học quy định hay công nhận sự chứng đắc cao về mặt tâm linh. Tước hiệu chuyển tải một ý niệm hoàn toàn mới. Thiền sư là người có nội kiến và tuệ giác, người cảm nghiệm tánh Không và Vô thường của các pháp, và lối sống của vị ấỵ phản ảnh những nhận thức như vậy. Trong quyển " Những điều cần biết trong huấn luyện Phật tử", mà thiền sư Ðạo Nguyên trước tác vào năm 1235, định nghĩa sư là người đắc ngộ đầy đủ, sống với những gì ngườ? ấy biết là thật, và được chân truyền của thầy mình. Với những tiêu chuẩn này chỉ một ít lão sư được gọi là sư. Dù vậy, hai từ thường được dùng thay thế nhau.

NGƯỜI HỎI THỨ BA: Dù lão sư có phải là sư hay không, chắc chắn ông ta đủ khôn ngoan để nhận biết một học trò nào có khả năng dạy hay không, phải không?

LÃO SƯ : Anh tin thế à?

NGƯỜI HỎI THỨ BA:Thế tại sao ông ta cho phép học trò của mình dạy sớm?

LÃO SƯ : Lão sư cũng có những sai lầm như con người-- dù ít hơn những người trung bình-- và họ có thể sai lầm trong phán đóan.

NGƯỜI HỎI THỨ TƯ: Nhưng không phải ngộ xóa đi những sự bất toàn và những thiếu sót cá nhân hay sao?

LÃO SƯ: Không, chúng xuất hiện! Trước khi ngộ, người ta có thể dễ dàng làm ngơ hay thích nghi với tật xấu của mình, nhưng sau ngộ thì không còn có thể như vậy; thiếu sót của ai hiển nhiên cũng gây khó chịu. Tuy nhiên, đồng thời một quyết tâm mạnh mẽ phát triển để loại chúng ra. Ngay khi tâm nhãn đầy đủ cũng không tức thời tỏ ra lạnh lùng thanh lọc rốt ráo những tình cảm. Tiếp tục tu luyện sau khi ngộ là điều cần thiết để tịnh hoá những tình cảm. Vì thế cách cư xử của ta xứng hợp với ngộ. Ðiểm cốt tử này phải được hiểu rõ.

Ở phương Tây một lão sư được xem là giống như Phật, hạnh kiểm của ông tịnh không một vết nhơ.Theo một nghĩa nào đó, nó là sự ca tụng việc tu thiền. Nhưng cái nhìn lý tưởng này có thể che mắt người ta khiến họ không nhìn thấy mật hạnh của người thầy. Ở Nhật, tôi biết có một lão sư uống rượu rất nhiều, mặc dù vậy, hiếm khi say. Môn đệ ông vẫn rất kính trọng ông. Tôi hỏi một người trong họ, một bác sĩ, " Lão sư của anh uống rượu qúa nhiều, không làm phiền lòng anh sao?

Không--tại sao phải như vậy? Ông là người khôn ngoan và từ bi, dù có uống rượu."

" Nhưng không phải ông ta nghiện rượu hay sao?"

" Không, ông ta có thể hoặc uống hoặc bỏ rượu; ông thích uống rượu."

Khi tôi kể chuyện này với những đồ đệ cũa tôi; nhiều người ngạc nhiên hỏi," Làm thế nào những lão sư điều hòa việc uống rượu với giới cấm thứ năm,' không uống rượu vì nó làm tâm mê mờ?' Ta có thể thông cảm việc thỉnh thoảng uống rượu nhưng không uống liên tục như ông ta. Tấm gương gì ông đã nêu đối với môn đệ?"

Người Á châu độ lượng hơn trong những vấn đề như vậy so với người phương Tây; vì vậy họ không dứt khoát từ chối người thầy mà họ khám phá ra là ít giống Phật, vì họ biết một người có thể là người thầy tốt, tuy là chưa tự diệt trừ hết tất cả những ô trược. Một người Nhật có kinh nghiệm lâu dài trong Thiền một lần nói với tôi," Lão sư có những khiếm khuyết về tình cảm, tuy nhiên, trong các người thầy tôi có chỉ có ông dạy tôi thiền thật sự và tôi thật sự biết ơn ông, nhưng nghiệp của ông còn nặng.

NGƯỜI HỎI THỨ BA: Có lần tôi nghe thầy nói," người thầy thật sự là chính tâm bạn"

LÃO SƯ: Chính nó là lời dạy , phải không?

NGƯỜI HỎI THỨ BA: Tất cả đều như nhau, lão sư dạy người ta cái gì?

LÃO SƯ: Ông ta không cho qúi vị cái gì mà qúi vị chưa có, nhưng ông có thể lấy đi nhiều thứ vốn xa lạ với chân tánh của qúi vị: những đức tin nặng nề, những quan niệm bệnh hoạn, những giải thích tầm ruồng, những ý nghĩ mơ mộng và những tư niệm mê hoặc, tất cả chúng cầm tù qúi vị trong một cái kén. Và khi tâm qúi vị chín muồi lão sư có thể, bằng lời nói hay hành động, đẩy nhẹ cái tâm trở nên ngộ. Lúc này ông giống như con gà mái mổ vào vỏ trứng khi gà con đã sẳn sàng nở ra.

Lão sư trao cho qúi vị chính bản thân ông ta, nó là rất nhiều và cũng là không có gì cả. Một thiền sư nổi tiếng có lần nói," Tay không, tôi đến với thầy và bây giờ trở về tôi lại tay không."

Thầy hỏi một người khác " Anh có mang theo gì không?" người ấy đáp " Ðó là cái chưa bao giờ mất ngay cả trước khi tôi đến với người thầy củ của tôi."

" Nếu là như thế, tại sao anh đến với ông ta ?

"Nếu tôi không đến ông ta, làm sao tôi biết nó chưa bao giờ mất?"
Vậy qúi vị cần người thầy để biết là không có gì để học. Và tại sao không có gì để học? Vì tất cả đã được học từ kiếp này đến kiếp khác. Tuy nhiên, có một lão sư là thiết yếu. Ngay cả Ðức Phật cũng có những người thầy. Một lão sư-phát-triển-toàn-diện là hiện thân của sự cởi mở, từ bi, và tuệ giác. Những phẩm chất mà qúi vị hi vọng thành hiện thực vốn sẳn có nơi qúi vị. Nên nhớ rằng ông ta từng tranh đấu trong đau khổ, thất bại, tuyệt vọng mà qúi vị cảm thấy. Trong lúc qúi vị còn ấp ủ hoài nghi, qúi vị bị bao bởi bóng đen và cảm thấy vô vọng về sự luyện tập của mình, lão sư có thể rót vào qúi vị một sự can đảm và một lần nữa xoay bạn theo hướng mặt trời chân lý.

Vai trò cốt tử khác của ông là kiểm tra khi qúi vị nghĩ là mình đã đắc ngộ. Thiền sư chế ra một phương pháp kiểm tra hoàn hảo, vì không có gì hại hơn là nghĩ mình đã ngộ khi qúi vị chỉ trải qua sự đê mê, mộng tưởng, hôn trầm hay ảo giác, trong thiền gọi là ma cảnh, còn xa lắm mới đến chân ngộ. Và ngay cả khi ngộ thật sự , người thầy cần thiết để đẩy lui sự tự kiêu phản phất nảy sinh cái cảm giác," Tôi đã chứng ngộ." Việc kiểm tra của lão sư cũng có nghĩa đo độ sâu của ngộ, vì nông là kiến tánh và sâu là ngộ.

NGƯỜI HỎI THỨ BA: Làm cách nào người ta tìm kiếm nghiêm túc phân biệt người thầy thật sự với kẻ bất tài?

LÃO SƯ: Trong thời gian tôi sống ở những nơi ẩn dật và những trung tâm thiền ở Ðông Nam Á tôi nghe người ta nói dù người thầy có phẩm chất cao đến đâu đi nữa nếu rõ là chạy theo đồng tiền hoặc dan díu với một học trò nữ của mình, những ô uế này sẽ làm hỏng việc dạy dổ của ông ta. Vì vậy một học viên triển vọng tốt nhất nên tránh ông ta.

NGƯỜI HỎI THỨ TƯ: Giả sử có một lão sư không có tật xấu đó. Nếu thầy là người mới vào học, làm thế nào thầy chắc là ông ta đắc ngộ và có tâm linh phát triển?

LÃO SƯ: Trừ phi qúi vị tu luyện tâm linh từ lâu, nếu không qúi vị không thể biết chắc. Ðiều duy nhất có thể biết chắc là qúi vị có mối quan hệ tốt với người thầy hay không. Nó quan trọng, nhưng bản thân nó không đủ để tiếp tục, vì tuỳ thuộc vào việc qúi vị cảm thấy dể chịu với ai đóng vai người thầy, người ấy có thể ít hay không được huấn luyện. Qúi vị có thể dựa vào lời khuyên của những người bạn thông thạo.

Hóm hỉnh làm sao một khi quan sát việc tiến hành lễ cưới áp dụng như trong mối quan hệ thầy-trò là: Trước khi đi vào mở cả hai mắt --sau đó chỉ một mắt. Nhưng ngay cả khi mở hai mắt, qúi vị không thể mong thấy sự hoàn hảo nơi người thầy. NGƯỜI HỎI THỨ BA: " Mở hai mắt" chính xác có ý nghĩa gì trong nội dung này? LÃO SƯ: Qúi vị đừng do dự hỏi thầy, ông ta là ai và ông được thầy mình huấn luyện bao lâu. Ðọc sách của ông ta nếu ông ấy có viết. Nếu qúi vị thích những gì ông đã viết và qúi vị cảm thấy gì về nội dung, sắp xếp gặp mặt ông ta. Ðặt câu hỏi, trực nhận tinh thần của ông ta, thưởng thức sự yên lặng của ông.

NGƯỜI HỎI THỨ BA: Hãy cho là tôi quan tâm đến một lão sư đắc ngộ. Làm cách nào tôi chắc ông ta là thầy của tôi ?

LÃO SƯ: Một lão sư có thể ngộ sâu , có nhiều môn đồ, tuy vậy là người thầy xấu của bạn. Tại sao như thế? Vì ông ta không khơi dậy cảm giác tự tin và sùng mộ trong qúi vị để qúi vị có thể bằng lòng cúi mình trước ông như một đứa trẻ nhận lời dạy của ông. Qúi vị có thể nói với một niềm xác tín," Ông ta là thầy của tôi--là người mà tôi tìm kiếm!" Và lúc đó bạn thét lên" Ô, hãy giúp tôi! Tôi cần giúp đở!" qúi vị sẳn sàng nhận người thầy đích thực cho qúi vị.

NGƯỜI HỎI THỨ NHẤT: Trở lại câu nói của vị thầy Ấn độ "người ta có thể học thuốc từ một thầy và học luật từ một thầy khác"--không đúng hay sao?

LÃO SƯ: Anh đang nói về nghề luật và nghề y, không phải tu luyện tinh thần. Mối quan hệ giữa thầy-trò trong bất cứ truyền thống tôn giáo nào đều khác với những quan hệ thầy- trò ở trường học.

NGƯỜI HỎI THỨ THỨ NHẤT: Khác nhau gì?

LÃO SƯ: Trong buổi đàm luận này, tôi đã dùng từ " học viên" "đồ đệ" " thầy" "sư" một cách không chính xác. Ðúng ra, học viên liên quan đến thầy, đồ đệ với sư phụ. Mối quan hệ thầy trò lý tưởng là trong đó học viên kính trọng thầy như chủ sở hữu một bộ phận kiến thức nào đó hay về kỷ năng mà người học trò muốn có, trong khi người thầy đánh giá cao học viên vì lòng háo hức và khả năng thu thập kiến thức mà ông ta cố truyền đạt lại. Mối liên hệ của họ phần lớn là vô tư và giới hạn; điều để duy trì nó là sự cùng chung mối quan tâm đến việc học này. Quan hệ sư phụ-đồ đệ, trái lại, là cá nhân và sâu thẳm và bắt nguồn từ sự giống nhau về nghiệp. Ðiều đẩy đệ tử theo hướng sư phụ không phải vì kiến thức của sư phụ và ngay cả không vì tuệ giác của ông ta, mà là cá tính và nhân cách của ông, vì đệ tử cảm thấy là qua phẩm chất đó anh ta sẽ có thể tự bổ xung mình. Ở Trung tâm của tôi, có ba loại kết nạp: hội viên, học trò riêng và đồ đệ. Mỗi mối quan hệ có quyền lợi và trách nhiệm khác nhau.

NGƯỜI HỎI THỨ TƯ: Người học trò riêng có trách nhiệm gì?

LÃO SƯ:Trách nhiệm chính là trung thành với người thầy dạy, không gì hơn là thành thật với những cảm xúc sâu kín nhất của mình và không quan hệ ngầm với lão sư khác hay thầy Ấn hay Lama. Trong việc làm cam kết chính thức, bạn hứa với mình cũng như với thầy là thực hiện hết sức mình và chân thật dưới sự hướng dẫn của người.

NGƯỜI HỎI THỨ NHẤT: Sao học viên lại không được phong phú gấp đội, khi có hai người thầy?

LÃO SƯ: Thật ra, anh ta nghèo nàn hơn. Sớm muộn gì, chắc chắn anh trở nên bối rối. Kết quả, anh ta sẽ hoặc hờ hững với cả hai người thầy, hoặc rời bỏ họ. Học viên nào cố gắng đáp ứng hai người thầy, sẽ làm thất vọng cả hai. Và anh ta là người chịu thiệt thòi, vì không ai đối đãi với anh như con người có khát vọng nghiêm túc. Học viên hờ hững sẽ mời gọi sự đáp ứng hờ hững của người thầy.

Ngay cả trong cùng một truyền thống, các thầy có những phương pháp khác nhau, lệ thuộc vào sự huấn luyện mà họ đã nhận được, cá tính và độ sâu ngộ của họ người thầy đầu tiên có thể bảo bạn một điều và người khác bảo điều gì dường như ngược lại. Họ không mâu thuẫn với nhau, nếu cả hai có tâm linh phát triển, mỗi hướng dẫn họ đều có giá trị. Nhưng đối với học viên mới, sự mâu thuẩn nhỏ này có thể đặt ra những khó khăn như tự nhiên hùng vĩ làm nản chí anh ta và làm hao mòn năng lực anh ta.

Sự khác nhau giữa các truyền thống dường như mâu thuẫn hơn. Giả sử anh là học viên của một thiền sư đồng thời có một thầy Hồi giáo. Thầy có thể bảo bạn, chẳng hạn, " Ðừng trao chính mình cho thế giới hiện tượng: nó là ảo ảnh không thật. Chỉ phạm hạnh là thật." Nhưng thiền sư có lẽ nói," Tự dấn thân vào các sắc giới qúa hoàn toàn đến nổi bạn siêu việt chúng." Người đắc ngộ sẽ không khó khăn hiểu hai câu trên và điều hoà chúng. Do vậy, đối với người mới bắt đầu, sự lộn xộn có thể đáng sợ-- giống như con tắc kè đổi màu cho hợp với cái khăn choàng vuông
 
 

14- KHÔNG CÓ THẦY VỀ THIỀN.

NGƯỜI HỎI: Ðây không có nghĩa là một câu hỏi sổ sàng, nhưng thầy có thể nói với chúng tôi về phẩm chất của một thiền sư hay thầy dạy Thiền hay không?

LÃO SƯ:Tôi không phải là một thiền sư, kém hơn người thầy, vì vậy tôi không biết.

NGƯỜI HỎI: Thế thầy đang làm gì nếu không phải là dạy học?

LÃO SƯ: Người ta có thể dạy người khác cái gì? Hoàn toàn giả dối khi nghĩ như vậy.

NGƯỜI HỎI:Thầy dường như đang làm khá tốt công việc về nó.

LÃO SƯ: Trong cuốn sách về công án gọi là vô môn quan ,có câu," chân chưa nhấc đã tới, miệng chưa mở đã dạy xong." Hiểu không?

NGƯỜI HỎI: Không, nó có nghĩa gì?

LÃO SƯ: Nếu không có gì ngoài chúng ta, có nơi nào để đi? Có cái gì để hiểu?

NGƯỜI HỎI: Nhưng không phải thầy có học viên ở Trung tâm Rochester mà thầy dạy sao?

LÃO SƯ: Tôi chỉ chia sẻ với họ những gì tôi đang nghiêm túc làm cho mình.

NGƯỜI HỎI: Thế còn những người thầy thật sự của thầy? Trong Ba trụ thiền thầy có nói có ba người thầy là thiền sư. Không phải họ dạy thầy cái gì sao? Thầy ở với họ, tôi nghĩ với mười ba năm, thầy chắc hẳn cảm thấy thầy học được cái gì mới ở lâu như vậy.

LÃO SƯ: Nếu tôi học cái gì ở ho,?chính là không có gì để học. Vì thế tôi không học, tôi thất học. Tôi không được, tôi mất--nhiều sự rối loạn và những quan niệm sai.

NGƯỜI HỎI: Tôi vẫn không hiểu tại sao thầy nói thầy không phải là thầy?

LÃO SƯ: Câu chuyện này giúp qúi vị hiểu. Một thiền sư nổi tiếng một lần nói với học trò " Các ngươi, tất cả là những kẻ nuốt cặn bả, nếu cứ tiếp tục đi quanh như thế này, kết qủa của nó sẽ là gì? Ngươi không biết trong cả nước Trung hoa không có một người thầy có kỹ năng về Thiền hay sao?

Vị tăng nói,' làm thế nào mà thầy nói không có thầy dạy Thiền khi có hàng ngàn tăng ở vô số chùa như vậy?

"Ta không nói không có Thiền, mà là không có thầy dạy thiền."

NGƯỜI HỎI: Ðó là công án phải không?

LÃO SƯ: Ðúng, nó của anh đó!
 
 

15 THAM THIỀN NHẬP ÐỊNH: AI SIÊU VIỆT CÁI GÌ?

NGƯỜI HỎI: Thầy nghĩ gì về tham thiền nhập định?

LÃO SƯ: Anh có tự tham thiền nhập định hay không?

NGƯỜI HỎI: Tôi đang quan tâm đến nó.

LÃO SƯ: Nó cũng tốt--nhưng đừng đi quá xa.

NGƯỜI HỎI: Có thể đắc ngộ qua tham thiền hay không?

LÃO SƯ [mĩm cười]

NGƯỜI HỎI THỨ HAI: Tôi đọc tạp chí Khoa học [1/ 1976] một nhóm các nhà tâm lý học của Viện đại học Oa-sinh-tơn tại Seattle tiến hành thí nghiệm với năm thiền giả, trong đó bốn người là thầy dạy tham thiền, thấy rằng trong nữa thời gian thiền của họ là đang ngủ chứ không phải thiền.

NGƯỜI HỎITHỨ BA: [ nói với người thứ hai] Chỉ một thí nghiệm có thể thuyết phục hay không? Những nghiên cứu khác cho thấy giá trị tham thiền. Dù sao, nếu người ta ngủ khi thiền, vì người ta cần ngủ.

LÃO SƯ: Hoàn toàn đúng như thế. Nhưng tại sao cần ngủ?

NGƯỜI HỎI THỨ BA: Bởi vì họ mệt.

LÃO SƯ: Tại sao người ta bị mệt và buồn ngủ? Thường vì mắt sụp xuống và người đó không ngồi ổn định, tư thế thẳng, không thở đúng, không dùng tâm đúng cách. Thực hành đúng cách, thiền làm khoẻ ra, không làm kiệt sức. Tâm trở nên sắc bén như dao cạo, với nhận thức được nâng cao. Cơ thể ủ rủ, mềm lả tạo ra tâm đờ đẩn, buồn ngủ.

Hãy nói cho tôi biết, anh đã tham thiền bao lâu rồi?

NGƯỜI HỎI THỨ BA: Khoảng một năm.

LÃO SƯ: Thế thì anh có thể trả lời câu hỏi này rồi: trong tham thiền nhập định ai siêu việt hơn cái gì?

[Không trả lời]
 
 
 
 

16- MÁY HỒI TIẾP SINH HỌC (Biofeedback Machine): THIỀN ÐIỆN TỬ?

NGƯỜI HỎI: Thầy có biết máy hồi tiếp sinh học không? Tôi nghe nói nó được gọi là "Thiền điện tử." Nó hoạt động như thế nào?

LÃO SƯ: Theo người bảo trợ, ý tưởng về hồi tiếp sinh học là dạy người ta biết kiểu sóng não của mình bằng cách quan sát chúng trên biểu đồ, hay nghe nó được chuyển thành âmthanh và bằng cách này thu được theo ý muốn sóng điện não, điều mà người ta cho là làm cho thư giản và bình tỉnh. Nhưng điều đặc biệt của sóng Alpha là gì? Một hội viên của Trung tâm làm một máy Alpha, tự thử mình trong lúc tọa thiền như một thí nghiệm và thấy rằng sau mười phút khởi động anh ta đã ghi điều đặn sóng điện não lên máy. Sau này, anh ta thuật lại rằng lúc đó anh ta cảm thấy ít tập trung hơn lúc bình thường khi tọa thiền.

NGƯỜI HỎI:Trong lúc giải lao tôi có nói chuyện với một học trò của thầy về máy hồi tiếp sinh học. Ông ta nói thầy có kinh nghiệm thích thú với loại máy này. Xin thầy hoan hĩ kể về nó?

LÃO SƯ[ do dự] À, chuyện đó lâu rồi.

NGƯỜI HỎI: Chúng tôi không thể nghe nó sao?

LÃO SƯ: Ðược, nó xảy ra trong một hội nghị quốc gia của Hội Tâm Lý Học Nhân Văn tại Florida, tôi được mời tới đó để tổ chức một hội thảo về Thiền. Một học viên của tôi, một nhà tâm lý lâm sàng, nói rằng anh ta có một người bạn thân, một kỹ sư, người rất muốn tôi kiểm tra một máy hồi tiếp sinh học do anh ta thiết kế vừa đưa ra bán trên thị trường. Vì vậy, chúng tôi đến một phòng riêng, nơi có mười đến mười lăm người đang chờ đợi để xem việc thử. Máy nhỏ nắm vừa lòng bàn tay và bán, tôi nghĩ, khoản hai trăm đô-la.

Họ buột một sợi dây da có gắn trên đó các điện cực, quanh đầu tôi và cắm máy vào người tôi. Rồi chụp tai được gắn vào. Ngay sau đó tôi có thể nghe" bíp, bíp," trước hết những tiếng đứt quãng, rồi trôi điều. Tôi chắc đã tới trạng thái như vào Ðịnh, kế tiếp tôi nhớ là nghe một giọng nói la lên, " Tại sao, ông ta làm máy ngưng hoạt động! Nó chưa bao giờ như thế ! Sau khi gở máy khỏi tôi viên kỹ sư và người phụ tá nhìn nhăn nhó, nói " trở lại những bản vẽ!"

Tôi do dự kể lại sự kiện này vì nó có vẻ khoe khoang , nhưng điều xảy ra với tôi không đáng kể-- nó có thể xảy ra với bất cứ thiền giả nào có kinh nghiệm.

NGƯỜI HỎI: Thầy có cảm thấy thư giản không?

LÃO SƯ: Chắc chắn, ai mà không thư giản sau khi ngồi yên 20 hay 30 phút? Qúi vị có thể có được sự thư giản và hơn nữa với tọa thiền-- không phải tiêu hai trăm đô-la cho cái máy đồ chơi. Ðồ chơi dành cho trẻ con, không phải cho người lớn!

NGƯỜI HỎI THỨ HAI: Tôi đã đọc ở đâu đó là hồi tiếp sóng não sẽ mang đến kết qủa giống như cái đòi hỏi nhiều năm nổ lực trong thiền, sau đúng vài tuần hay vài tháng.

LÃO SƯ [cười]: Anh chắc nói đùa! Tuyên bố là ngộ tâm linh và biến đổi nhân cách có thể hoàn thành--nói chi qúa nhanh--chỉ bởi mắc vào một cái máy là ngây thơ và buồn cười. Cho dù người ta có thể khi "cắm vào" làm dịu sang trạng thái thư giản, điều đó cũng khó mà mang đến trạng thái tâm yên lặng sâu hoặc bình an kéo dài. Nó không giải đáp câu hỏi căn bản của hiện hữu; nó không biến cuộc sống con người bằng cách thật nào đó, ngộ trong thiền làm tất cả điều đó.

Một nhà tâm lý học ở cùng hội nghị đó chứng minh người ta có ý định dùng một máy hồi tiếp sinh học lớn cho bệnh nhân nhập viện hay bệnh liệt giường để giúp giảm cao huyết áp và trị các bệnh khác. Dường như đó là việc sử dụng có giá trị của máy hồi tiếp sinh học.

Có người gởi tôi một bài báo viết về máy hồi tiếp sinh học, Tiến sĩ Frederick Gibbs của trường Y khoa thuộc Ðại học đường Illinois nói rằng cái rút ra được "nhiều" từ máy hồi tiếp sóng alpha là" sự thủ dâm não"-- một mô tả đúng. Người thường xuyên gắn vào máy để thư giản, làm giảm khả năng hành động từ tiềm năng sâu sắc nhất và thay vì làm chủ máy, trở thành nô lệ nó. Ðó không là thiền. Thiền phát triển tự do, không là sự lệ thuộc thần kinh.
 
 
 
 

17 TÔI CÓ THỂ THỰC HÀNH THIỀN VỪA LÀ TÍN ÐỒ TỐT CỦA ÐẠO DO THÁI (HAY THIÊN CHÚA GIÁO) HAY KHÔNG?

NGƯỜI HỎI: Tôi là một người Do thái và tôi tự hào về nó. Tôi có thể thực hành Thiền và đồng thời là một người Do thái tốt hay không?

LÃO SƯ: Anh là gì trước khi là người Do thái?

NGƯỜI HỎI:Tôi không biết.

LÃO SƯ: Hãy tìm xem! Thế gốc Do thái không là tối hậu trong tâm anh à!

NGƯỜI HỎI: Làm cách nào tìm ra?

LÃO SƯ: Tự hỏi mình ngày đêm, với khao khát muốn biết và sức thuyết phục rằng ta có thể biết được. Học cách sống như con cá bơi dưới nước hay con chim bay trên trời một cách tự nhiên--không tự ý thức. Bỏ đi tham vọng--nó dẫn đến thái độ thù hận. Ý thức và thông cảm. Tay phải làm điều gì cũng liên quan đến tay trái. Tránh những phán đoán không cần thiết. Hãy khiêm tốn và không tự phụ; đưa ý kiến chỉ khi được yêu cầu. Quên việc làm tốt của mình và thú nhận hành động xấu của mình. Ðừng bao giờ quên luật tương quan nhân qủa.

NGƯỜI HỎI:Tôi không thể làm tất cả những điều đó như một người Do thái tu hành sao?

LÃO SƯ: Nếu có thể , tốt, nếu không…
 
 

NGƯỜI HỎI:Tôi có thể thực hành thiền và là một người Thiên chúa tốt, được không?

LÃO SƯ: Nếu anh luyện Thiền thì có thể, nhưng nếu anh thực hành Thiền của Phật giáo anh không thể.

NGƯỜI HỎI: Tại sao không?

LÃO SƯ: Ðể thực hành Thiền Phật giáo, có nghĩa là vượt qua cái tôi, vượt qua cái tôi có nghĩa quên cái tôi. Khi điều đó xảy ra, bạn không là người Thiên chúa giáo tốt cũng không là Phật tử tốt được.

NGƯỜI HỎI:Thế tôi là ai?

LÃO SƯ: Vậy, thế anh là ai?
 
 

Nguồn: www.quangduc.com

Về danh mục

tiến 泰卦 khong nen danh nhau khi dang tuc gian 佛說父母 佛教中华文化 Pháp lÃ Æ 機十心 hay chung song than ai voi cac ban dac biet tuÃÆ ha tinh Sốt trong thai kỳ làm tăng nguy cơ trẻ tu dong co va nguyen vong Suy nhược thần kinh bệnh dễ nhầm hỏi vầng úng hay dem tam tu hanh cung duong duc phat nhan mua nhu Thap nhi nhan duyen giau so Kinh luÃƒÆ 正信的佛教 em đốt đời mình đằng con nguoi la mot loai virut dang so nhat bão Cuộc lịch sử và ý nghĩa của chuông trống phap sinh tu nhu sam chop Món nào tốt hơn Vi Suy nhược thần kinh bệnh dễ nhầm từ savega đến pasada den chuột Huy Một nữ tu đất cố đô Hoằng Những biểu hiện khi cơ thể thiếu giã Nhớ thầy là nhớ Pháp 不空羂索心咒梵文 phát hoa leo phÃÆt thể Vn Kiên Giang Ni trưởng Thích nữ Liễu Liên gieo nhan nao gat qua ngọn song sao cho vua long nhau chiêm ngưỡng đại tượng phật a di đà trọn Nhóm trẻ nào có nguy cơ tử vong cao truyện cây bút hom chua trung khanh Lễ Lợi ích của Thiền Vipassana cho bản thân tuong phat ngoc hoa binh the gioi duoc hinh thanh cuÑi