c
[00] Mục Lục
[00-1] Lời nói đầu
[00-2] Lời tựa
PHẦN I : TIA SÁNG THIỀN ÐỊNH
[01-01] Dẫn nhập
[01-02] Ðối Thoại 01-17
[01-03] Ðối Thoại 18
[01-04] Ðối Thoại 19-24
[01-05] Ðối Thoại 25-27
[01-06] Ðối Thoại 28-30
PHẦN II : THỜI KỲ NHIẾP TÂM
[02-01] Dẫn nhập
[02-02] Ngày Thứ Tư, Lời bình về " Ba bất lực" Công Án 88 của Bích nham lục
[02-03] Ngày Thứ Năm, Lời bình về" Tôi không biết" Công Án 1 của Bích nham lục
[02-04] Ngày thứ sáu,-
Lời bình về " Một người ở trên một cái cây" Công Án 5  Vô môn quan của Vũ môn.  Ngày thứ bảy, Lời bình về " Suy nghĩ không tốt cũng không xấu"?Công Án 23 Vô môn quan của Vũ môn
[02-05] Mô Tả  Sự  Giác Ngộ
[02-06]Thật hân hạnh là một con người
PHẦN III : SỰ TỤNG NIỆM
[03-01] Dẫn nhập
[03-02] I / NHỮNG BÀI KỆ: Tứ hoằng thệ nguyện - Tâm kinh Bát Nhã - Bạch Ẩn Huệ Hạc toạ thiền ca - Tín tâm minh
[03-03] II/ MỘT LÁ THƯ VÀ MỘT LỜI ÐÁP: Thiền đạo?" nó làm tôi mất khí thế"
[03-04] III NHỮNG ÐỐI THOẠI: Không phải cúng dường cho Ðức Phật sao? Từ bi , giống như tình yêu, không phải là những gì người ta nói đến - Quán thế âm, vị Bồ tát của lòng từ bi, thật sự hiện hữu hay không? Sám hối những hành vi tội lỗi và che dấu những hành động tốt
PHẦN IV: ÐẠO ÐỨC VÀ TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI
[04-01] I NHỮNG BỨC THƯ VÀ LỜI ÐÁP: "Sống trên đời như là một Phật tử Thiền có ý nghĩa gì?"" Thiền là một cách trốn thoát?Bạn đang làm gì để giúp đở xã hội"" Tôi có phải từ bỏ gia đình để đắc ngộ trong Thiền hay không?"
[04-02] II CÁC ÐỐI THOẠI:  Ngộ đưa ra giải pháp cho những vấn đề đạo đức nan giải phải không? Thiền ở trên đạo đức nhưng đạo đức không thấp hơn Thiền - Nhà chứa và Phật giáo
[04-03] III THUYẾT PHÁP: Giới luật thứ nhất " đừng giết mà nên nuôi dưỡng những mầm sống" : tranh luận về giết thú vật, phá thai, chiến tranh, tự sát, giúp người bệnh chết nhẹ nhàng theo ý muốn. Lời cuối cùng? Một chú thích cá nhân
[05] Lời kết
c

 

cÐại Thừa Xuất bản 1998
THIỀN, ÁNH BÌNH MINH PHƯƠNG TÂY
Nguyên Tác: Roshi Philip Kapleau
Việt dịch : Huỳnh Công Hoàng
2 NGÀY THỨ NĂM
BÀI THUYẾT KHÍCH LỆ

Hãy lắng nghe những lời khuyên sau đây của một thiền sư thủa xưa:" Công việc thiền không chỉ bao gồm thuộc lòng một công án. Ðiều chính yếu là biết khởi nghi tình.' Nhưng như thế vẫn chưa đủ. Quí vị phải xuyên thẳng qua nó. Nếu cảm thấy dường như không thể làm được, hãy vận toàn lực, căng tất cả dây thần kinh và tiếp tục thử."

Cảm giác nghi ngờ này là gì? Nó là sự bối rối bừng cháy, một khối nghi ngờ, một câu hỏi cơ bản dai dẳng bám theo quí vị không cho quí vị một giây phút nghĩ ngơi. Chẳng hạn: Nếu mọi người vốn không tì vết, nhân chi sơ tánh bổn thiện, được phú cho đạo đức, từ bi, thì tại sao lại có qúa nhiều thù hận, ích kỹ, bạo tàn và đau khổ khắp mọi nơi? Có thể suy nghĩ về câu hỏi này bất cứ lúc nào khi bạn rãnh--lúc ở nhà, tại nơi làm việc. Nhưng tham công án thì lại khác. Ðó là lúc bạn ngồi trong tư thế kiết gìa, dùng thân-tâm một cách tập trung hơn để tham cứu một công án như "tánh KHÔNG là gì?" hay "Tôi là ai? Cùng là mối nghi ngờ nhưng theo cách này sự tập trung mãnh liệt hơn, sắc bén hơn.

Công án được phân cho qúi vị không thay thế cảm giác hoài nghi căn bản; nó chỉ mài bén nghi ngờ bằng cách nâng cao nhận thức. Cảm giác nghi ngờ căn bản như mũi khoan xuyên thẳng," Không là gì?"

Thoạt đầu KHÔNG có vẻ nhân tạo và là một cái gì ở bên ngoài, nhưng khi qúi vị dấn sâu hơn vào nó, KHÔNG trở nên một cái gì đó bức thiết trong chính cuộc sống của quí vị, vì KHÔNG chỉ là cái tên khác của Tâm--cái tâmthanh tịnh bao trùm cả thảy- quá quen thuộc với mọi người. Qúi vị có thể tự hỏi," Nếu tôi có sẵn tâm này, sao tôi không hề hay biết?" Xin trả lời," Là vì sự bất tịnh của qúi vị, những vọng tưởng về bản ngã và các tương duyên với thế giới bên ngoài che khuất ánh sáng của tâm này." Hãy khởi nghi tình, nghiền nát những ô nhiễm này. Qúi vị phải liên tục truy tìm cho đến khi nào tìm ra giải pháp. Chỉ có lúc đó, qúi vị mới có thể nhìn thấy chân tánh, thấy chính mình trong tâm này và được tái sinh vào một cuộc đời đích thực là đang sống.

Hãy tự nhắc nhở mình: KHÔNG là gối của tôi, KHÔNG chiếu của tôi, KHÔNG là thân của tôi. Và KHÔNG cũng là những gì không phải của tôi. KHÔNG dường như vừa là vật chất vừa là một phi vật chất. Về mặt lý luận, nó có vẻ mâu thuẫn, vì thế ở đây nghi tình lại phát sinh. Hay nếu thích, quí vị có thể trở lại công án trọn vẹn hơn và tự vấn," Tại sao Triệu Châu đáp ' VÔ!' ( KHÔNG) khi được hỏi,' Con chó có Phật tánh không?'" Vì kinh Phật dạy rằng tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, lời đáp của Triệu châu thật là mâu thuẫn, và nghi tình phát khởi. Làm cách nào qúi vị đẩy lui nghi tình này? Chừng nào mà qúi vị đi đến một điểm mà nơi đó không có sự phân cách, một khe hở dù bằng sợi tóc, giữa qúi vị và KHÔNG, "câu trả lời" có sẵn nơi đấy, vì câu hỏi và câu trả lời không phải là hai; chúng chỉ là như vậy đối với tâm nhị nguyên của qúi vị, nó phân biệt tôi với người khác, cái này với cái kia.

Thoạt đầu khi thực hành với công án KHÔNG, bạn giống như một người đang ăn một quả táo đang đung đưa. Quí vị cố cắn một miếng, nó lại trợt đi một phía. Quí vị thử lại một lần nữa và mọi việc y như cũ. Chúng ta thể ăn và nhai táo đến chừng nào cắn được nó. Cũng giống như vậy, trước khi hỏi,"KHÔNG là gì?" qúi vị cần có KHÔNG vững chắc trong tâm. Sau khi đã đi sâu hơn vào câu hỏi, ta không cần phải hỏi nguyên câu, chỉ cần tập trung đầy đủ vào từ " KHÔNG " hay từ "Ai" nếu qúi vị đang tham công án "Tôi là ai?" tiếng vang trong tiềm thức sẽ là "KHÔNG là gì?" hay " Tôi là ai?" bởi vì câu hỏi đã được trồng sẵn ở đó. Nên nhớ rằng, KHÔNG không phải là thần chú, nó là sự thâm nhập, xuyên suốt, một tra vấn mãnh liệt. Nhưng ngay cả ở điểm này, câu hỏi chỉ là một vết xước nhẹ trên bề mặt, nếu KHÔNG và AI chỉ lập đi lập lại một cách máy móc. Chỉ một câu hỏi "KHÔNG" cũng đủ làm cho bạn muốn biết KHÔNG là gì. Ðiều này giữ cho nghi tình sống động bởi nó được tiếp sức bởi những chuổi nghi ngờ và sức thuyết phục bạn có khả năng tìm ra câu giải đáp, tạo sức mạnh cho KHÔNG.

Một người đàn ông ngồi trong phòng làm việc, chợt ông ta nhận ra cái đồng hồ của mình đâu mất. Ông nhìn quanh và mong tìm thấy nó ở đâu đó bên mình nhưng không thấy. Ông phân vân không biết là ông có mang đồng hồ đến văn phòng hay không hoặc bỏ quên nó ở một nơi khác? Ông sẽ tìm kiếm qua loa hay nãn chí thôi không tìm nữa hay không suy đoán đồng hồ nằm ở một nơi nào khác. Nhưng nếu ông ta không đi đâu và không ai vào đó, và hơn nữa ông ta biết chắc mình có mang đồng hồ đến văn phòng, ông càng trở nên bối rối hơn và bắt đầu tìm kiếm khắp văn phòng. Biết chắc đồng hồ phải ở đấy, quyết tâm tìm ra và năng lượng đổ dồn vào cuộc truy tìm sẽ nhiều hơn và mạnh hơn mọi khi cho đến lúc ông ta quên đi mọi thứ khác. Nó đang khởi lên một nghi tình. Ðây là cách qúi vị hỏi về KHÔNG.

Nhưng để làm được điều này cần phải có niềm tin sâu rằng bạn có thể thông suốt công án này. Và xác tín rằng bằng cách giải quyết công án này bạn sẽ thấy chân tâm của mình. Như một thiền sư đã nói," Nghi lớn ngộ lớn; nghi nhỏ ngộ nhỏ; không nghi không ngộ."

Người ta thường tự hỏi " căng mọi dây thần kinh" phải chăng là nạt nộ, nghiến răng và la hét" KHÔNG, KHÔNG?" Có lẽ có nhiều người đã thử làm như vậy ngay sau đó họ tự nhận thấy điều này không mang lại kết quả. Căng mọi dây thần kinh có nghĩa là toàn dụng thân tâm vào tu tập, chứ không có nghĩa ngồi ngây ra đó để ngủ. Cứ nhìn vào dáng ngồi bất động của một con mèo đang rình mồi. Khi nó quan sát một con chuột xuất hiện từ ổ, toàn thân nó như đông cứng nhưng thật ra gần như đang run lên với sự tập trung cao độ. Ở đây không có sự tập trung điên cuồng hay hoang dại--chỉ là sự tập trung căng thẳng vào nhất điểm. Qúi vị cũng nhìn thấy điều đó nơi hình ảnh một con chó đói giữ cái xương trước mặt nó. Lúc đó toàn thế giới của con chó là màu sắc và kích thước của cái xương đó. Và cũng có những người trong khi ngồi bất động hoàn toàn trong yên lặng đã đổ mồ hôi trong thời điểm lạnh nhất của mùa Ðông, vì sự tập trung của họ quá quyết liệt. Trạng thái như-định này quí vị có thể tự cảm nghiệm qua sự nhất tâm tham công án.

Cuối cùng: Hãy nhớ rằng những lời ẩn dụ này chỉ có tính cách giúp đở cho qúi vị--lão sư và trưởng lớp bằng mọi cách cố gắng tấn, khuyến khích, và thúc đẩy những điều được coi là thích hợp với người này lại bất hợp lý với người khác. Do đó, qúi vị tuỳ nghi lựa chọn và áp dụng những gì được trình bày ở đây; nếu cảm thấy được, bằng không thì hãy bỏ đi. Không có cách phải làm, không có cách duy nhất, không có cách nên làm. Ðừng luôn dựa vào kỹ thuật vì chúng đến từ bên ngoài. Chúng thuộc về thế giới khoa học kỹ thuật không thuộc về thế giới tâm linh. Ðể áp dụng đầy đủ thân tâm, một số qúi vị cần phải quát tháo nếu cảm thấy tốt cho qúi vị, vì không làm theo cách này khó có thể huy động năng lượng cần thiết để bứt phá một mức nào đó. Ðiểm quan trọng là qúi vị phải tìm một lối đi cho riêng mình.
 
 

LỜI BÌNH VỀ " 'TÔI KHÔNG BIẾT' CỦA BỒ ÐỀ ÐẠT MA"-- CÔNG ÁN 1 CỦA BÍCH NHAM LỤC

CÔNG ÁN: Chú ý ! Vua Lương Võ Ðế hỏi Bồ Ðề Ðạt Ma," Chân lý cùng tột của đạo thánh là gì?" Ngài đáp," Trống rỗng hồn nhiên không gì là thánh." Vua lại hỏi," Trước mặt trẩm là ta?" Sư đáp," Tôi không biết."

Lời đáp rõ ràng dễ hiểu nhưng nhà vua không hiểu. Thấy không thể độ gì cho nhà vua, Ðạt ma bỏ đi vào đất Ngụy, ẩn ở chùa Thiếu Lâm, chín năm ngồi xoay mặt vào vách. Sau này vua đem vấn đề này ra hỏi với Thái tử Chính. Vị thân vương hỏi," Hoàng thượng có biết vị ấy là ai không?" vua đáp," Trẫm không biết." Thái tử nói," Vị ấy là Từ bi Bồ tát mang đến nước ta dấu ấn của Phật-tâm." Lương Võ Ðế lấy làm hối tiếc muốn sai người đi tìm sư. Nhưng Chính bảo:" Thưa hoàng thượng, thật là vô ích, cho dù tất cả thần dân đổ xô đi tìm, đại sư sẽ không bao giờ trở lại."

Ðến đây công án kết thúc.

Bồ Ðề Ðạt Ma là vị tổ thứ 28 của Phật giáo. Ngài đến miền Nam Trung hoa vào năm 520. Lúc đó ngài đã 109 tuổi. Sau khi thất bại trong việc thiết lập giáo lý của mình ở miền Nam, sư đi về hướng Bắc. ( chủ đề của công án này)

Là một vị vua mộ đạo, Lương Võ Ðế đã xây dựng rất nhiều chùa chiền, ấn tống nhiều kinh sách đã được dịch từ Phạn ngữ sang tiếng Trung hoa, khuyến khích dân chúng tu tập, cúng dường vật thực cho tăng chúng. Dưới ánh sáng của Phật giáo truyền thống thời ấy, ông tin một cách tự nhiên rằng những công đức như vậy có thể đưq ông tới sự giác ngộ.

Khi hay tin có một lão tăng từ đất Phật đến, vua lập tức cho người mời sư đến hoàng cung. Ðối với Lương Võ Ðế, công đức hữu vi là tối thượng, vì vậy khi đối mặt với Bồ Ðề Ðạt Ma, ông đề cập đến những công đức mà ông đã tạo dựng từ khi mới lên ngôi.

Lương Võ Ðế hỏi: "Từ khi tức vị đến nay trẩm cất chùa, chép kinh, độ tăng không biết bao nhiêu mà kể, có công đức gì không?"

Sư đáp " Ðều không có công đức."

Ðế nói:" Sao không có công đức?"

Sư nói:" Ðó chỉ là nhâh hữu lậu chỉ đem đến quả nhỏ của cõi người, cõi trời như bóng với hình, tuy có nhưng không có thực."

Ðế hỏi," Vậy công đức chân thực là gì?"

Sư nói:" Trí phải thanh tịnh, thể phải lắng không, đó là chân công đức, công đức ấy không thể lấy việc thế gian mà cầu được."

Lương Võ Ðế lại hỏi:" Chân lý cùng tột của của đạo thánh là gì?"

Sư đáp:" Trống rỗng hồn nhiên không gì là thánh."

Nhà vua chắc đã choáng váng biết bao với lời đáp đó. Vì Võ Ðế tin rằng ông ta có một lối đi riêng có thể sang đến" bến bờ kia", nên không còn cách nào khác hơn là đứ ra một câu hỏi mỉa mai," Chân lý cùng tột của đạo thánh là gì?"

Hãy nghiệm lại lời đáp dứt khoát của sư: " Trống rỗng hồn nhiên không gì là thánh."Thật từ bi biết bao. Lẽ ra Võ Ðế phải đập đầu tạ ơn mới phải. Nhưng ông ta bị kẹt cứng trong vỏ giáo điều chính thống khô khan của thời ấy, nên không kịp nắm bắt được ý thiền của Ðạt Ma sư tổ.

Tổ nói gì về cái không này? Nó không phải là lổ hổng lớn trong vũ trụ với?dấu hiệu của Phật ghi:" Trống rỗng. Không thiêng. Cho phép băng qua." Cũng không là một cái trống không trừu tượng đối nghịch với cái đầy đủ cụ thể. Cái không này là gì nếu không phải là nền tảng mà từ đó tất cả hiện tượng trồi lên và là nơi chúng chắc chắn sẽ quay trở lại? Sắc tức thị Không, Không tức thị sắc.

Khi tôi còn ở một thiền viện tại Nhật, có một giáo viên người Mỹ làm quen với Thiền qua sách vở, đến ở đây một thời gian ngắn. Ông được phân một gian phòng nhỏ hơi xa nhà vệ sinh chung. Mỗi khi mắc tiểu vào lúc nữa đêm, ông đi vào vườn thay vì phải đi bộ một đoạn khá xa đến nhà vệ sinh. Sau khi ông ta làm như vậy nhiều đêm, một hôm khi cả ba chúng tôi đang đứng trong vườn, vị lão sư nói với ông ta:

"Người ta nói anh đi tiểu trong vườn này, phải không?"

"Ðúng."

" Vườn là nơi thiêng liêng. Hãy dùng nhà vệ sinh."

" Tại sao vườn thiêng liêng? Không phải Bồ đề đạt ma đã nói' Hư không bao la không có gì thiêng liêng?'"

Nghe đến đó, lão sư đập ông ta," Không được tiểu trong vườn--vào nhà vệ sinh!"

Tại sao lão sư đánh ông ta? Không phải cái vườn này cũng trống không và không có gì thiêng liêng sao? Từ cái nhìn phối cảnh của tâm tuyệt đối, không có cái gì là thiêng liêng, cũng không có gì gọi là trần tục ca. Ðiều đó hoàn toàn đúng. Nhưng ở mức độ tương đối của xã hội về mặt đạo đức, quí vị không được vi phạm những thuần phong mỹ tục, tiêu chuẩn lịch sự bằng việc tiểu trong vườn của thiền viện, chỉ vì qúi vị qúa lười không chịu đi đến nhà vệ sinh. Cùng với sự tuyệt đối hay bình đẳng, khiá cạnh sống của chúng ta phải được sự nhìn nhận về mặt tương đối. Và ngược lại, sự nhận thức về những khác biệt tương đối đồng thời được cân bằng bởi sự bình đẳng.

Ở mộ? xã hội dân chủ như của chúng ta sự bình đẳng được nhấn mạnh và người ta có khuynh hướng cho rằng," Tôi cũng tốt như mọi người khác". Ðiều này dẫn đến hệ qủa là người ta ít tôn trọng những gì khác biệt với mình. Quan điểm như vậy là một chiều. Dĩ nhiên, người ta có thể có cùng một mối quan tâm hay cơ hội như nhau, nhưng như vậy không có nghĩa là mọi người sinh ra trên cỏi đời này đều phải thông minh, tài năng và ý chí như nhau hoặc tất cả đều vô minh như nhau. Công bằng một chiều là sự phân biệt giai cấp được tạo ra trong các xã hội có phân chia giai cấp. Phật giáo dạy chúng ta đều có Phật tánh như nhau, chỉ khác nhau ở biệt nghiệp. Sự giống nhau và khác nhau-- là hai mặt của một vấn đề. Tôi đã nói "một" phải không? Bỏ nó đi--và bỏ luôn "Phật tánh." Thế ta còn lại cái gì? [đột nhiên giơ nắm tay đưa thẳng lên trời.]

Qúi vị nghĩ gì về câu hỏi," Ai đang ở trước mặt trẫm?" của Lương Võ Ðế. Có phải nhà vua quá bối rối hay cố cứu vãn lòng tự cao bị tổn thương của mình? Dù sao câu hỏi vẫn bao hàm một ý nghĩa rõ ràng," Làm sao ngươi có thể nói không có gì thiêng liêng khi ngươi là một thánh nhân? Và rồi lời đáp khó hiểu của Tổ sư, một trong những câu nói nổi tiếng nhất trong thiền:"Tôi không biết." Cho tôi hỏi quí vị: có phải Bồ đề đạt ma thật sự trả lời câu hỏi của nhà vua hay đang tìm cách né tránh nó? Nếu đó là câu trả lời, ý của Tổ là gì?

Hiểu biết thông thường phát sinh từ mối quan hệ chủ thể-đối tượng. Khi qúi vị suy nghĩ về một đối tượng như công việc làm chẳng hạn, qúi vị xem xét, phân tích, suy luận rồi đi đến kết luận về nó. Nhưng phương pháp này thu được những thông tin rất hạn chế. Ðể thực sự hiểu một điều gì đó một cách rốt ráo, quí vị phải kinh qua một phạm trù mà trong phạm trù này trí phân biệt vẫn chưa bắt đầu hoạt động. Ai có thể nói gì về lĩnh vực này? Không có gì được dạy hay được đề cập đến, nó cần phải được cảm nghiệm. Vì bất cứ cái gì mà qúi vị hiểu bằng lý trí chỉ là một nữa của sự thật; cái mà quí vị không biết là hiểu thật sự.

"Phàm"và"Thánh "--không phải sự phân biệt độc đoán này có khuynh hướng tách rời một cái từ cái đã được đặt tên sao? Thiêng liêng thật sự-- toàn bộ--là không, hư vô, vô ngã, một điều kiện mà trong đó cái này không thể đứng tách rời mọi thứ khác. Có một lần thầy tôi nói rằng," Nếu một người có vẻ quá thánh thiện đến nổi có thể phong ông ta là thánh, thì sự tu luyện tâm linh của ông chưa viên mãn. Nếu ông ta phát triển trọn vẹn, sẽ không có gì để qúi vị có thể phát biểu về ông ta. Ông ta sẽ vượt ra ngoài sự phân loại."

Quí vị có thể hiểu sự vi diệu "Ta không biết" của Bồ đề đạt ma không? Giả sử ngài trả lời,"Ðúng, tôi là một thánh nhân." Như vậy ngài đã khẳng định một sự phân biệt vốn không tồn tại, phải không? Hơn nữa, tự cao tự đại như vậy sẽ là trái với" sự thiêng liêng" phải không? Nhưng nếu ngài trả lời," Không, tôi không là thánh" ngài đã từ chối một sự hiển nhiên. Thế ý tổ muốn nói gì trong câu đáp,"Ta không biết"? Chắc chắn ngài biết rõ khi nào ngài nóng hay lạnh, vui hay buồn, vì đâu phải ngài không có cảm giác. Nhưng trước hết, hầu như ngài biết rằng không có gì để biết, vì theo ý nghĩa sâu thẳm nhất, không có gì có thể biết được; tri kiến này là tuệ giác tối thượng. Khi tâm vượt qua khỏi ý niệm phàm thánh, rỗng hay đầy, tôi và người khác, chân lý luôn biểu lộ; đây là điều then chốt để hiểu tâm người khác. Ðây là điều kiện của tâm Bồ đề đạt ma. Nó không thật thánh thiện hay sao?

À, cái " Ta không biết" đó!--nó chống lại mọi cố gắng của lý trí tìm cách áp đặt lên nó. Thật sự để nắm bắt nó, qúi vị phải dẹp qua một bên tất cả khái niệm, lý thuyết và lao thẳng vào chiều sâu của tâm Bồ đề đạt ma, nơi mà những sóng "biết" và "không biết" không thể đến được.

Trở lại công án:" Lương Võ Ðế không hiểu. Thấy không thể độ gì cho nhà vua, Ðạt ma bỏ đi vào đất Nguỵ", ẩn ở chùa Thiếu Lâm, chín năm ngồi xoay mặt vào vách. Và chính nơi đây là nơi xảy ra cuộc hội ngộ đầy ấn tượng giữa Ðạt ma và Thần Quang, người sau này trở thành đại đệ tử của ngài--và là nhị tổ của Thiền tông tại Trung quốc.

Ngày nọ, có ông tăng tên là Thần Quang đến viếng sư, nhiệt thành cầu được khai ngộ pháp thiền, nhựng Ðạt ma lạnh lùng không thèm đoái hoài đến. Thần Quang không vì thế mà nãn lòng, lại cho rằng các bậc chí thánh thuở xưa đều phải trải qua đủ thứ thử thách chông gai mới thành được bổn nguyện. Một đêm kia ông đứng dầm mình trong tuyết chờ Ðạt ma lưu tâm ban pháp từ cho đến khi tuyết rơi đầm đià chôn vùi ông đến thắt lưng.

Bấy giờ, sư mới quay đầu lại hỏi"Ông muốn cầu gì?"

Quang đáp, giọng nghẹn ngào trong nước mắt: Ngưỡng mong Hoà thượng từ bi mở cam lồ, rộng độ chúng sanh.

Sư nói: Diệu đạo vô thượng của chư Phật phải nhiều kiếp tinh cần, khó làm, làm được, khó nhịn, nhịn được, hàng đức nhỏ trí cùn, lòng đầy khinh mạn, há có thể chịu nổi nhọc nhằn lao khổ cầu pháp chân thừa hay sao?

Quang nghe quở, bèn rút dao bén chặt lìa cánh tay trái và đưa lên trước mặt sư. Sư biết gặp được pháp khí, bèn nói: Chư Phật lúc phát tâm cầu đạo vì pháp bỏ thân, nay ông chặt tay trước mặt tôi, vậy muốn cầu gì?

Nói xong, sư bèn đổi tên Thần Quang ra Huệ Khả.

Khả bạch: Pháp ấn của chư Phật, có thể nghe chăng?

Sư nói: Pháp ấn của chư Phật không thể nhờ vào người khác.

Khả bạch: Nhưng tâm con không an, thỉnh sư làm cho tâm con an.

Sư nói: Ðưa tâm ngươi đây ta an cho.

Khả bạch: Con kiếm mãi mà chẳng thấy tâm đâu cả.

Sư nói: Thế là ta đã an cái tâm ngươi rồi đó."

Quí vị nhận thấy khó tin phải không? Qúi vị có cho nó là huyền thoại không? Ðược, cứ cho rằng nó là huyền thoại đi. Nhưng đừng quên huyền thoại không là một câu chuyện không thực, chỉ vì nó qúa sâu sắc, qúa tuyệt vời, không bao gồm những sự kiện đơn thuần. Không hi sinh, không đoạn lià những tư niệm cao ngạo, những đam mê bất tịnh, quí vị có thể đạt được mục đích tối hậu --NGỘ --hay không?

3 NGÀY THỨ SÁU

BÀI THUYẾT KHÍCH LỆ

Vào giai đoạn này của khóa nhiếp tâm, thường nghe những người trong buổi độc tham nói," Dù tôi có làm gì đi nữa, tôi cũng không thể vượt qua một điểm nào đó. Sự tập trung của tôi rất mạnh nhưng tôi cảm thấy như đang húc đầu vào tường. Tôi cố gắng hết sức để vượt qua chướng ngại nhưng không có dấu hiệu nào tỏ ra thành công. Sau cùng, tôi kết thúc bằng căng thẳng và kiệt sức. Tôi có thể làm gì hơn nữa? Những người này có lẽ làm việc chăm chỉ, nhưng không bao giờ có thể đi hết con đường. Hành động của họ giống hệt một kiểu như trong những khoá nhiếp tâm trước mà họ từng tham dự-" luôn luôn chạy đua nhưng không bao giờ tới đích."

Làm thế nào để giải quyết vấn đề này? Giống như họ đào một giao thông hào nhưng không dẫn đến đâu cả, không thể di chuyển ra khỏi đó, sang phải hay sang trái. Nếu qúi vị là người gặp chổ bế tắc này hết khoá này đến khóa khác, quí vị phải biết cần phá vỡ lối mòn quen thuộc này và tìm một lối đi mới. Cụ thể mà nói, nếu qúi vị quen với việc nghĩ ngơi buổi sáng trong giờ giải lao sau thời gian làm việc, hãy cương quyết với chính mình thay vì nghĩ nơi là ngồi thiền. Hay nếu qúi vị thường xuyên ăn ăn một ngày ba bửa trong khóa nhiếp tâm, thỉnh thoảng thử bỏ đi một bửa ăn và dùng thời gian đó để toạ thiền. Nếu quí vị chưa bao giờ thức khuya trể hơn một hay hai giờ sau buổi toạ thiền chính thức về đêm, quyết tâm ngồi đến ít nhất là nữa đêm và không từ bỏ vì buồn ngủ. Nếu trong lúc đó, qúi vị thường ngồi ở thiền đường, thay vì vậy, hãy lấy gối ra ngồi bên ngoài hay ngược lại.

Ở khoá nhiếp tâm cách đây không lâu, có một người đã kiến tánh sau nhiều khoá nhiếp tâm thức khuya và dậy lúc chuông đánh thức gõ, cuối cùng anh ta thử đi ngủ sớm và thức dậy lúc nữa đêm để thiền. Dù qúi vị trù tính phá vỡ cách thức trước đây, một khi qúi vị làm như vậy, năng lượng bắt đầu trôi và qúi vị tự nhận ra mình đang làm điều mà quí vị không thể làm ở những khóa nhiếp tâm khác. Nhưng đằng sau quyết tâm phải là nổ lực phấn khởi và tận tuỵ. Tôi đã từng nói: Ðối với một người yếu đuối, bức tường là một vách núi không thể vượt qua. Hãy tự vấn: Liệu một người yếu ớt trong tình trạng buồn ngủ có thể nào đồng hành với quí vị không?

Một cách âm thầm phải được đặc biệt kể tới cái có thể được gọi là ý chủ bại. Quí vị nào là con mồi của cách này thì phải hiểu là đây là thời điểm quyết định của khóa nhiếp tâm, khi tâm quí vị đột nhiên tràn đầy cảm giác bấc lực, quí vị tự nhủ thầm," Ta thất bại quá nhiều, không có cơ hội kiến tánh thì có khác gì đâu. Kiến tánh có lợi gì?" Một lần nữa, hoạt động tinh vi của bản ngã thiết lập mọi loại chướng ngại để tự bảo vệ nó. Sự hợp thức hoá thái độ chiến bại này nại ra nhiều lý do. " Nó thật sự không đáng--Ðiều gì sẽ xãy ra nếu tôi kiến tánh? Tại sao phải tiếp tục?" Hay nếu quí vị đau chân quá, quí vị tự nhủ ," Nếu ta tiếp tục cố gắng, ta có thể làm cho chính mình có tật vĩnh viễn. Vậy tốt nhất nên rút lui ngay bây giờ." Và trong cuộc sống của những người như vậy, nơi mức khởi hành họ tỏ ra mạnh bạo đi về một hướng nào đó, nhưng khi ý chủ bại xen vào, sự giải thích bắt đầu hoạt động, họ sẽ tìm cách thoái thác và kết thúc công việc trong cái mà chúng ta gọi là thất bại. Ðây đúng là một bản sao. Một sự không bằng lòng chấp nhận trách nhiệm mà quí vị mơ ước thành công sẽ mang đến. Quí vị tự dán cho mình cái nhãn hiệu " Tôi là người không thích hợp", quí vị có thể từ bỏ công việc đánh thức chân tâm của mình và né tránh những thách thức khác.

Quí vị, người bị truyền nhiễm cách sống này, có cơ hội tối thượng để nhổ nó ra lập tức và trên hết, ở khóa nhiếp tâm này, nơi mà quí vị có thể rút nguồn năng lượng tinh thần tích tụ của 54 con người khác làm việc cực nhọc suốt ngày đêm. Không có thời gian nào tốt hơn bây giờ, khi sức mạnh định lực của tập thể đã kiến lập trong suốt năm ngày rưỡi qua. Ðây chính là thời gian thử cái để tạo ra một cái gì mới mẽ, một sự bùng nổ năng lượng mới phá đi chổ dựa của lề thói cũ. Thiền sư Bạt tuỵ nói," Nếu quí vị đẩy về phiá trước sức lực cuối cùng ở chính điểm nơi con đường tư duy của quí vị bị cản trở ,và rồi, cái chướng ngại hoàn toàn bật ra từ tay quí vị bắn lên trên không và rơi vào vực thẳm khổng lồ của lửa phiá trước mặt quí vị, ngọn lửa bất tận của bản tính nguyên thủy của chính quí vị, rồi tất cả ý thức-ngã, tất cả cảm giác và tư niệm mê hoặc sẽ chết theo với cái gốc bản ngã của quí vị, nguồn gốc thật sự của chân tánh sẽ xuất hiện." Ðiều này có nghĩa là quí vị phải trở nên trần trụi, quí vị phải hàng phục mọi thứ . Hãy làm điều này và tất cả sẽ là của quí vị--quí vị sẽ là tất cả!


   
 
 

Nguồn: www.quangduc.com

Về danh mục

Vu lan xa mẹ Mắt 印手印 Rau củ trộn nước tương cay Maggi 首座 Nghiep Tuyệt hoc cach gieo nhan lanh de cuoc song tot dep hon Và Từ VÃÆ rÃ Æ vai suy nghi ve van de cau an va cau sieu 無量義經 個人墓地の種類と選び方 ト妥 Vấn đề trợ tử Ngày của mẹ ý nghĩa chuyện bà lão cúng đèn thời ve hu tuc dot va rai tien vang ma can phai bo the gioi hien dai va loi tu khong giai thoat 宝塔顶 không ban co tin thư gửi mẹ của con lời của một xuất thế gian 佛經 Suy nhươ c thâ n kinh bệnh dễ nhầm tìm hiểu về nhat 文殊八字法 tìm hiểu về tỉnh giác nhung giai tang phat trien Nhờ minh than giÃƒÆ điều kiện đến với kinh pháp hoa vo tinh tao nghiep Tiêu nham mat lai roi con se thay nam ân đức mẹ hiền Khoảng lặng cac vi dong tu chuc cac vi nam moi an lac 佛教四劫 修道 吾有正法眼藏