Tổ Sư Thiền - Vườn Thiền Rừng Ngọc, Việt dịch: Thông Thiền (sách)

 


 
 
.
VƯỜN THIỀN RỪNG NGỌC
THIỀN UYỂN DAO LÂM
Việt dịch: Thông Thiền Nhà xuất bản Thành Phố Hồ Chí Minh
Lời đầu sách
Tiểu sử tác giả
Về người chú thích
Thể lệ chung
Chánh Văn:
001 — 100.
101 — 202.
203 — 302.
303 — 402.
403 — 502.
503 — 602.
602 — 706.
 

Nguyên thủy vầng hồng reo nắng ấm
Vườn Thiền vạn đóa sắc thường tươi
Rừng ngọc muôn châu màu vẫn thắm
Kết lại thành thơ kính tặng người

Lời đầu sách

Vào đời Ðường, Lí Hãn có trước một thiên »Mông Cầu« tiện cho kẻ sơ cơ học thuộc. Từ đó về sau, có một ít người phỏng tác loại sách Mông Cầu. Ở đây xin nêu ra một vài quyển như: Thuần chính mông cầu, Tân mông cầu, Tục mông cầu v.v… 

Quyển sách này có tên »Thiền uyển mông cầu dao lâm« là do phối hợp hai phần: phần I tức quyển Thiền uyển mông cầu và phần II tức quyển Thiền uyển dao lâm. 

Quyển Thiền uyển mông cầu trên là do Sư Chí Minh soạn ở chùa Thiếu Lâm, non Tung Sơn vào đời Nam Tống. Thiền sư Chí Minh bắt chước theo Lí Hãn, trích dẫn sử truyện, căn cứ vào các Tổ Lục rồi biên tập việc làm của các đời Tổ sư trong Thiền Lâm, trên từ Phật Thích-ca đến cuối là Hòa thượng Huyền Minh. Mỗi câu bốn chữ, cả thảy gồm trong 562 tắc thiền ngữ, dưới thể thơ Ngẫu đối, lời lẽ hài hòa hợp thành âm vận, giúp người học thuộc dễ dàng, từ vốn liếng này có thể soi lòng và biện đạo. 

Ba mươi năm sau đó, cũng đời Nam Tống, vào niên hiệu Bảo Hựu thứ 3 (1255), tại Yên Kinh nơi chùa Ðại Vạn Thọ, Thiền sư Ðức Giản hiệu Tuyết Ðường, tham khảo trích dẫn các bộ loại như kinh Phổ diệu, Truyền đăng lục, Phổ đăng lục, Ngũ đăng hội nguyên, Phật Tổ thống kỉ, Tăng bảo lục v.v… chú thích sách này rõ ràng, làm cho mỗi câu thêm thi vị, rồi giao cho Ngọc Khê tiến hành việc khắc bản, lấy tên là Thiền uyển dao lâm, được xếp vào Tục tạng chữ Vạn 卐 tập thứ 148. 

Về sự lưu hành này tại Trung Quốc, đến nay cũng chưa biết rõ ràng, các tác giả ghi chép về Thiền học có Hòa thượng Nghĩa Ðế cho rằng: »Sách được lưu hành khá lâu ở Nhật Bản, tuy nhiên ở Trung Hoa thì chẳng còn. Theo ông Viễn Môn Trụ trong Ngũ đăng tục lược thì vị tăng tên Tuyết Ðường Giản này thuộc môn hạ của Vạn Tùng«. 

Nhờ sự kiện trên chúng ta có thể thấy ở Trung Hoa, sách này truyền bá chẳng được rộng rãi. Về niên đại truyền sang Nhật Bản cũng chưa rõ lắm: Nhờ bản chép tay thời Túc Lợi, khoảng niên hiệu Ðại Vĩnh (1521-1527), chúng ta mới biết có sách này lưu hành trong chốn tùng lâm từ trước. Ðến thời đại Ðức Xuyên (1615-1867), nó được khắc bản trước sau hai lần, thời gần đây lại được biên vào Tục tạng kinh. Thế thì, sách này há lại rơi vào điều hiềm nghi về văn tự thiền ư? 

Than ôi! Tông phong Vạn Tùng làm sách này cốt muốn cho người chân tham thật chứng, trái lại bọn người cạn cợt lấy đó làm vốn riêng gây thành đề tài cho các cuộc tranh luận. Ðâu phải là trống đánh xuôi mà kèn thổi ngược? 

Thế nhưng, theo chỗ nhận định của cư sĩ Sư Hiên thì »Sách này gồm có 2000 lời, phát minh 500 việc, lời lẽ sáng tỏ mà đầy đủ, sở học cuả Sư sâu mà rộng, đáng cho là cao tột trong Thiền môn. Biển pháp được đúc kết thành tiêu đề, khiến kẻ hậu học bớt được mười năm nhọc nhằn, thành tựu trí nhớ hơn nửa tạng. Vậy thì, công lao cùng lòng từ bi của Sư cũng đủ cho chúng ta thấy«. 

Ở đây, miễn bàn những lời tán dương rườm rà, chỉ biết quyển Mông Cầu này ra đời nhằm mục đích giúp cho người mới vào cửa Thiền có tài liệu học tập và các điệu trong chùa giải trí bằng cách ngâm nga các thi kệ. 

Các cư sĩ: Nhàn, Sư Hiên, Long Sơn đề tựa. 
 
 

Tiểu sử tác giả

Tác giả là Thiền sư Chí Minh, tự là Bá Hôn, hiệu Lạc Chân Tử, lại có hiệu là Thố Am, người đời Tống ở An Châu (nay là huyện An Tân, Hà Bắc), con nhà họ Hác. Tính tình của Sư rất mực thước, dáng bên ngoài trong quê mùa chất phác, nhưng tinh thần bên trong rất là sáng suốt. 

Ban đầu Sư ở chùa Hương Lâm (nay thuộc huyện Vấn, Tứ Xuyên). Nơi đây, Sư thụ giới cụ túc với Tịnh Công và ngày đêm tham cứu chẳng chút biếng trễ, lại đến thưa hỏi nơi thất Tịnh Phổ. Sau đó, tại chùa Ðông Lâm (nay thuộc Lô Sơn tỉnh Giang Tây), Sư triệt chứng. Ít lâu sau, Sư được tuyển vào chùa Siêu Hóa. Thời Nam Tống trong những năm 1226-1227, Sư nhận lời đại chúng mời về trụ chùa Thiếu Lâm thuộc Tung Sơn, Hà Nam. Chính tác phẩm Thiền uyển mông cầu được hoàn thành trong lúc này. 

Về sau, Sư tự làm một thiên trường ca rồi ra đi, đại chúng giữ lại chẳng được khiến mọi người càng kính ngưỡng cao đức của Sư. Ðiểm đáng tiếc là chúng ta chẳng rõ Sư mất vào năm nào, ở đâu, cùng tuổi hạ được bao nhiêu, chỉ biết Sư thuộc pháp phái Vạn Tùng. 

Sau đây là một phần trong thiên trường ca do Sư làm trước khi ra đi: 

Quán cơm trước núi mở cửa rồi, 
Bánh to như đấu, bánh như rây, 
Lạc Dương thành ấy nhiều đàn tín, 
Ðua nhau bày cúng: chuyện vua tôi. 
Lão nghèo nàn, tài kém cỏi, 
Do đâu lão đến múa rối tồi!
Chống gậy thẳng lên Tung Dương Lộ 
Cười chỉ núi xanh, về đi thôi!

Về người chú thích

Người chú thích sách này tên là Ðức Giản, tự Vô Tránh, hiệu Tuyết Ðường, nối pháp Thiền sư Hành Tú thuộc phái Vạn Tùng tông Tào Ðộng, trụ ở chùa Ðại Vạn Thọ ở Yên Kinh. 

Ðời Nam Tống, triều vua Lí Tông, trong niên hiệu Bảo Hựu (1253 — 1258), Sư tìm tòi và dẫn các Kinh lục để chú giải cho quyển Thiền mông cầu, lấy tên là Thiền uyển dao lâm. Sách này gồm sáu muôn lời, căn cứ vào nguyên bản của sư Chí Minh mà làm, thật là trên gấm lại thêm hoa. 

Ðáng tiếc là không làm sao biết rõ được tự truyện của Sư. 

Thể lệ chung

Bản tiếng Việt này được dịch từ ba quyển: 1. Thiền uyển mông cầu của Thiền sư Chí Minh; 2. Thiền uyển dao lâm của Thiền sư Tuyết Ðường; 3. Thiền uyển mông cầu thập di của Thiền sư đời Tống. 

Về quyển thứ nhất và quyển thứ hai ở bản Hán được ghép chung và còn có các tên khác như: Thiền uyển dao lâm chú, Thiền uyển dao lâm, Thiền uyển mông cầu, Thiền mông cầu gồm 562 tắc (đã được nói rõ ở lời đầu sách). Riêng quyển 3, do một vị khuyết danh (mà người ta đoán là một Thiền sư đời Tống) ra công sưu tập các tắc còn sót lại được 144 tắc. 

Như thế, quyển »Vườn Thiền Rừng Ngọc« sẽ có trên 700 mẩu truyện Thiền và được trình bày giống như sách giáo khoa, nghĩa là cứ 4 câu là 1 bài, sắp xếp theo thứ tự như sau: a. Nguyên tắc chữ Hán; b. Phiên âm; c. Dịch nghĩa; d. Chú thích. 

Trong phần chú thích, chúng tôi nhận thấy có 44 tắc mà Thiền sư Tuyết Ðường không tìm được xuất xứ. Riêng về phần chúng tôi trong khi đọc các sách Thiền khác, tình cờ tìm được phần chú thích cho 6 tắc dưới đây: 1. Qui Tông duệ thạch, tắc 65; 2. Tứ Hiền vấn đạo, tắc 81; 3. Tam Phật hạ ngữ, tắc 82; 4. Phần Dương lục nhân, tắc 199; 5. Thứ Công điểm nhãn, tắc 377; 6. Quốc sư thủy oản, tắc 522. 
 

Thông Thiền
 
 

08-31-2008 11:23:46
 

c

Nguồn: www.quangduc.com

Về danh mục

le Bàn phap ăn chay 8 cách giúp bạn cai thuốc lá hiệu quả Cảm trên nền nhạc Contemplation 因地當中 nhật ký bạn bảo phật 一日禅修 宾州费城智开法师的庙 æ³ ä¼š Tản ghpgvn tren ban do phat giao the gioi 印顺法师关于大般涅槃经 回向文 vấn đề tâm thể trong tâm lý học phật Dẫu nhung 佛頂尊勝陀羅尼 dòng 唐朝的慧能大师 dạy trường hoãƒæ nguoi kheo tu phat gia dinh se duoc binh an hanh màu ban Những Cái Sư bà Diệu Không tu sĩ 地藏王菩萨圣号 VẠphần 2 trá Ÿ quÃƒÆ 山地剝 高島 白話 đức phật trong kinh hoa nghiêm và đức 上人說要多用心 chà Hải giua cửa Nụ お墓の建て方 おすすめ