.
BÍCH NHAM LỤC
Tác giả:Thiền sư Viên Ngộ - Việt dịch: HT. Thích Thanh Từ
Tu viện Chân Không 1980
ML
01
02
03
04
05
06
07
08
09
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
TẮC 21: TRÍ MÔN HOA SEN LÁ SEN

LỜI DẪN: Dựng pháp tràng lập tông chỉ, trên gấm thêm hoa. Lột dây dàm, tháo yên cương là thời tiết thái bình. Hoặc là biện được câu cách ngoại nêu một rõ ba, bằng chưa như thế, như trước lắng nghe xử phân.

CÔNG ÁN: Tăng hỏi Trí Môn: Khi hoa sen chưa ra khỏi nước thì thế nào ? Trí Môn đáp: Hoa sen. Tăng hỏi: Sau khi ra khỏi nước thì thế nào ? Trí Môn đáp: Lá sen.

GIẢI THÍCH: Trí Môn nếu là ứng cơ tiếp vật, còn xa đôi phần. Nếu là cắt đứt các dòng thì ngàn dặm muôn dặm. Hãy nói, hoa sen ra khỏi nước cùng chưa ra khỏi nước, là một là hai ? Nếu thế ấy thấy được, hứa ông có chỗ vào. Tuy nhiên như thế, nếu nói là một thì lẫn lộn Phật tánh, lộn xộn Chân như. Nếu nói là hai thì tâm cảnh chưa quên, rơi trên đường tri giải, chạy biết bao giờ dừng. Thử nói ý cổ nhân thế nào ? Kỳ thật không có nhiều việc. Vì thế Đầu Tử nói: “Ông chỉ chớ kẹt danh ngôn số cú, nếu rõ các việc tự nhiên chẳng kẹt, tức không có nhiều vị thứ chẳng đồng, ông nhiếp tất cả pháp, tất cả pháp nhiếp ông chẳng được, vốn không được mất, mộng huyễn danh mục nhiều như thế, không nên gắng gượng vì nó an lập danh tự, dối gạt các ông được chăng ? Vì các ông hỏi nên có nói, nếu các ông chẳng hỏi, bảo tôi nhằm các ông nói cái gì ? Chính được tất cả việc đều do các ông đem được đến, trọn chẳng can gì việc của ta.” Cổ nhân nói: Muốn biết nghĩa Phật tánh, phải xem thời tiết nhân duyên. Vân Môn nhắc việc Tăng hỏi Linh Vân: Khi Phật chưa ra đời thì thế nào ? Linh Vân dựng đứng cây phất tử. Tăng hỏi: Sau khi ra đời thì thế nào ? Linh Vân cũng dựng đứng cây phất tử. Vân Môn nói: Đầu trước đánh được, đầu sau đánh chẳng được. Lại nói: Chẳng nói ra đời cùng chẳng ra đời, chỗ nào có thời tiết y hỏi: Cổ nhân một hỏi một đáp, hợp thời hợp tiết, không có nhiều việc. Nếu ông tìm lời theo câu, trọn không giao thiệp. Nếu ông trong lời nói thấu được lời nói, trong ý thấu được ý, trong cơ thấu được cơ, buông đi khiến được thảnh thơi, mới thấy chỗ đáp thoại của Trí Môn. Những câu hỏi: Khi Phật chưa ra đời thì thế nào ? Khi Ngưu Đầu chưa thấy Tứ Tổ thì thế nào ? Khi lẫn lộn trong đá hỗn độn chưa phân thì thế nào ? Khi cha mẹ chưa sanh thì thế nào ? Vân Môn nói: Từ xưa đến nay chỉ là một đoạn sự, không phải không quấy, không được không mất, không sanh cùng chưa sanh. Cổ nhân đến trong ấy tung một đường, có ra có vào. Nếu là người chưa liễu thì sờ rào mò vách, nương cỏ gá cây. Hoặc dạy y buông sạch đi, hoặc đánh cho y chạy vào rừng hoang rậm rạp mênh mang. Nếu là người được suốt mười hai giờ chẳng gá nương một vật, tuy chẳng gá nương một vật, mà bày một cơ một cảnh làm sao mò tìm ? Ông Tăng này hỏi: Khi hoa sen chưa ra khỏi nước thì thế nào ? Trí Môn đáp: Hoa sen. Đó chỉ là ngăn hỏi. Một câu đáp này quả là kỳ đặc. Các nơi đều gọi là lời điên đảo, vì sao như thế ? Nham Đầu nói: Thường quí trước khi chưa mở miệng, vẫn còn so sánh đôi phần. Cổ nhân chỗ bày cơ đã là ló đuôi rồi. Hiện nay, học giả chẳng hiểu ý cổ nhân, chỉ cần lý luận, đã ra khỏi nước cùng chưa ra khỏi nước, có dính dáng chút nào ? Có vị Tăng hỏi Trí Môn: Thế nào là Bát-nhã thể ? Trí Môn đáp: Con trai ngậm trăng sáng. Tăng hỏi: Thế nào là Bát-nhã dụng ? Trí Môn đáp: Con thỏ mang thai. Xem Sư đối đáp như thế, người khắp thiên hạ thảo luận về ngữ mạch của Sư chẳng được. Hoặc có người hỏi Giáp Sơn: Khi hoa sen chưa ra khỏi nước thì thế nào ? Giáp Sơn đáp: Cột cái, lồng đèn. Hãy nói cùng hoa sen là đồng là khác ? Tăng hỏi: Sau khi ra khỏi nước thì thế nào ? Đáp: Đầu gậy khêu nhật nguyệt, dưới chân sình rất sâu. Ông thử nói phải hay chẳng phải ? Chớ lầm nhận trái cân bàn (một tiêu chuẩn cố định). Tuyết Đậu quá ư từ bi đập phá tình giải người, tụng ra:

TỤNG:   Liên hoa hà diệp báo quân tri

                Xuất thủy hà như vị xuất thì

               Giang Bắc, Giang Nam vấn Vương lão

               Nhất hồ nghi liễu nhất hồ nghi.

DỊCH:     Hoa sen lá sen bảo anh tri

                Khỏi nước sao bằng chưa khỏi thì

                Giang Bắc, Giang Nam hỏi Vương lão

                Một hồ nghi lại một hồ nghi.

GIẢI TỤNG: Trí Môn vốn là người đất Chiết, thường vào đất Xuyên tham vấn Hương Lâm, đã thấu triệt, trở về trụ trì chùa Trí Môn ở Tùy Châu. Tuyết Đậu là đích tử của Sư, thấy được chỗ cùng huyền cực diệu, nên nói: “Hoa sen lá sen bảo anh tri, khỏi nước sao bằng chưa khỏi thì.” Trong đây cốt người ngay đó bèn hội. Sơn tăng nói: Khi chưa khỏi nước thế nào ? - Cột cái, lồng đèn - Sau khi ra khỏi nước thế nào ? - Đầu gậy khêu nhật nguyệt, dưới chân sình rất sâu. Ông chớ lầm nhận trái cân bàn (một tiêu chuẩn cố định). Hiện nay, người gặm ngôn cú có chừng bao nhiêu ? Ông nói khi chưa ra khỏi nước là thời tiết gì ? Khi ra khỏi nước là thời tiết gì ? Nếu nhằm trong đây thấy được, bảo ông thân thấy Trí Môn. Tuyết Đậu nói: Nếu ông chẳng thấy thì đến “Giang Bắc, Giang Nam hỏi Vương lão”. Ý Tuyết Đậu nói ông chỉ quản đến Giang Bắc, Giang Nam, hỏi tôn túc ra khỏi nước cùng chưa ra khỏi nước. Giang Nam thêm hai câu, Giang Bắc thêm hai câu, một lớp thêm một lớp, lần lượt sanh nghi. Thử nói đến bao giờ được hết nghi ? Như con chồn hoang đa nghi, đi trên khối băng lắng nghe tiếng nước, nếu chẳng có tiếng mới dám qua sông. Người tham học nếu “Một hồ nghi lại một hồ nghi”, đến khi nào được bình ổn ?

?

TẮC 22: TUYẾT PHONG CON RẮN TO

LỜI DẪN: Lớn không gì ngoài, nhỏ bằng lân hư, bắt thả chẳng phải ai, cuộn lại buông ra tại ta. Nếu muốn gỡ niêm mở trói, cần phải lấp dấu nuốt tiếng, người người ngồi đoạn yếu tân, mỗi mỗi vách đứng ngàn nhẫn. Hãy nói là cảnh giới của người nào, thử nêu xem ?

CÔNG ÁN: Tuyết Phong dạy chúng: Núi Nam có con rắn to, cả thảy các ông cần phải khéo xem. Trường Khánh nói: Ngày nay trong nhà có người tan thân mất mạng. Có vị Tăng kể lại cho Huyền Sa nghe, Huyền Sa nói: Phải là Lăng huynh mới được, tuy nhiên như thế, tôi thì chẳng vậy. Tăng hỏi: Hòa thượng thế nào ? Huyền Sa đáp: Dùng núi Nam làm gì ? Vân Môn lấy cây gậy ném trước Tuyết Phong, làm thế sợ.

GIẢI THÍCH: Nếu ông an ổn mặc tình an ổn, nếu ông đập phá mặc tình đập phá. Tuyết Phong cùng Nham Đầu, Khâm Sơn là bạn đồng hành, ba phen đến Đầu Tử, chín lần lên Động Sơn, sau tham Đức Sơn mới đập bể thùng sơn. Một hôm, Sư hối thúc Nham Đầu đi tìm Khâm Sơn, đến quán trọ tại Ngao Sơn gặp trở tuyết. Nham Đầu mỗi ngày chỉ ngủ khò, Tuyết Phong một bề tọa thiền. Nham Đầu nạt: Ngủ đi ! Mỗi ngày ngồi trên giường giống như thổ địa trong bảy thôn, ngày sau ma mị nam nữ nhà người. Tuyết Phong tự chỉ trong ngực nói: Tôi trong ấy chưa ổn, chẳng dám tự dối. Nham Đầu bảo: Tôi bảo ông về sau lên ngọn cô phong cất chiếc am cỏ truyền bá đại giáo, sao vẫn còn nói lời này. Tuyết Phong nói: Tôi thật chưa ổn. Nham Đầu bảo: Nếu ông thật như thế, cứ chỗ thấy của ông mỗi mỗi thông qua, chỗ phải tôi chứng minh cho ông, chỗ chẳng phải tôi dẹp bỏ. Tuyết Phong bèn thuật lại: Khi thấy Diêm Quan thượng đường nói về nghĩa sắc không liền được chỗ vào. Nham Đầu bảo: Cái này ba mươi năm tối kỵ nhắc lại. Tuyết Phong kể tiếp: Thấy bài tụng qua cầu của Động Sơn liền được chỗ vào. Nham Đầu bảo: Nếu thế ấy tự cứu chẳng xong. Tuyết Phong kể: Sau đến Đức Sơn hỏi “Việc trong Tông thừa về trước, con có phần chăng”, Đức Sơn đánh một gậy, hỏi cái gì ? Khi ấy tôi như thùng lủng đáy. Nham Đầu nạt bảo: Ông chẳng nghe nói “Từ cửa vào chẳng phải của báu trong nhà” ? Tuyết Phong hỏi: Sau này thế nào mới phải ? Nham Đầu bảo: Ngày sau nếu muốn truyền bá đại giáo thì mỗi mỗi phải từ hông ngực mình lưu xuất, mai kia sẽ cùng ta che trời che đất đi. Tuyết Phong ngay lời này đại ngộ, lễ bái, đứng dậy kêu liên hồi: Ngày nay mới thành đạo ở Ngao Sơn. Sau Sư trở về xứ Mân ở núi Tượng Cốt tự làm kệ lưu lại:

TỤNG:   Nhân sanh thúc hốt tạm tu du

                Phù thế na năng đắc cửu cư

                Xuất lãnh tài đăng tam thập nhị

                Nhập Mân tảo thị tứ tuần dư.

                Tha phi bất dụng tần tần cử

                Kỷ quá ưng tu triền triền trừ

                Phụng báo mãn triều chu tử quí

                Diêm vương bất phạ bội kim ngư.

DỊCH:   Kiếp người nhanh chóng tợ phù du

               Cõi tạm ai từng được ở lâu

               Ba chục thêm hai vừa xuất lãnh

               Bốn mươi tuổi lẻ trở về Mân.

               Kia sai chẳng thiết thường thường nhắc

               Mình quấy cần nên gấp gấp trừ

               Kính bảo cả triều hàng sang quí

               Diêm vương chẳng sợ mũ kim ngư.

Sư thượng đường dạy chúng: Mỗi mỗi che trời che đất, lại chẳng nói huyền nói diệu, cũng chẳng nói tâm nói tánh, đột nhiên bỗng hiện, như đống lửa lớn, gần nó bị cháy cả mặt mày, như kiếm Thái A vừa huơi thì tan thân mất mạng. Nếu là trầm ngâm suy nghĩ thì chẳng dính dáng. Bá Trượng hỏi Hoàng Bá: Ở đâu đến ? Hoàng Bá thưa: Nhổ nấm dưới núi Đại Hùng đến. Bá Trượng hỏi: Thấy cọp chăng ? Hoàng Bá liền làm tiếng cọp rống. Bá Trượng cầm búa ra bộ chặtï. Hoàng Bá vỗ Bá Trượng một cái. Bá Trượng lẩm bẩm cười. Bá Trượng về, lên tòa bảo chúng: Núi Đại Hùng có con cọp, cả thảy các ông phải khéo xem, ngày nay chính Lão tăng bị cắn một cái. Triệu Châu thấy Tăng liền hỏi: Từng đến đây chưa ? Tăng thưa: Từng đến. Hoặc: Chẳng từng đến. Triệu Châu đều đáp: Uống trà đi. Viện chủ thưa: Hòa thượng bình thường hỏi Tăng từng đến với chẳng từng đến, thảy bảo uống trà đi là ý chỉ thế nào ? Triệu Châu gọi: Viện chủ ! Viện chủ ứng thanh: Dạ ! Triệu Châu bảo: Uống trà đi.

Tử Hồ ở dưới cửa có làm tấm bia, trên tấm bia viết: Tử Hồ có một con chó, trên đầu người, giữa lưng người, dưới chân người, suy nghĩ ắt tan thân mất mạng. Hoặc có Tăng đến vừa xem, Sư liền kêu: Coi chừng chó ! Tăng xoay đầu lại, Sư trở về phương trượng.

Chính như Tuyết Phong nói: Núi Nam có một con rắn to, tất cả các ông cần phải khéo xem. Ngay lúc này ông làm sao đáp được ? Chẳng bắt chước theo vết trước, mời thử đáp xem ? Đến trong ấy cần phải hiểu câu cách ngoại mới được, tất cả công án ngữ ngôn nhắc lại liền biết chỗ rơi. Xem Sư dạy chúng thế ấy, chẳng cùng ông nói hạnh nói giải, lại đem tình thức đo lường được chăng ? Là con cháu trong nhà Sư, tự nhiên nói khế hợp. Vì thế, cổ nhân nói: Nương lời phải hiểu tông, chớ tự lập qui củ. Lời phải có cách ngoại, câu cần phải thấu quan. Nếu là lời chẳng lìa hang ổ thì rơi trong biển độc. Tuyết Phong dạy chúng thế ấy, đáng gọi là lời nói vô vị, bít lấp miệng người. Trường Khánh, Huyền Sa đều là người ở trong nhà đó, mới hiểu được nói thoại của Sư. Tuyết Phong nói núi Nam có một con rắn to, các ông biết chỗ rơi chăng ? Đến trong đó phải đủ con mắt thông phương mới được. Đâu chẳng thấy Chơn Tịnh tụng:

TỤNG:   Đả cổ lộng tỳ bà

                 Tương phùng lưỡng hội gia

                 Vân Môn năng xướng hòa

                 Trường Khánh giải tùy da

                 Cổ khúc vô âm vận

                 Nam Sơn niết tỷ xà

                 Hà nhân tri thử ý

                 Đoan đích thị Huyền Sa.

DỊCH:    Đánh trống khảy tỳ bà

                Gặp nhau hai nhà hiểu

                Vân Môn khéo xướng hòa

                Trường Khánh giỏi theo à. 

                Nhạc xưa không âm vận

                Rắn to ở núi Nam

                Người nào biết ý đó

                Quả thật là Huyền Sa.

Trường Khánh đáp như thế là ý thế nào ? Đến trong ấy phải nhanh như chọi đá nháng lửa, như làn điện chớp, mới có thể chụp được. Nếu còn mảy tơ sợi tóc bỏ chẳng dứt thì chụp kia chẳng được. Đáng tiếc nhiều người nhằm dưới lời nói của Trường Khánh sanh tình giải, nói: Trong nhà vừa có người nghe liền tan thân mất mạng. Hoặc nói: Vốn không có một việc cỏn con, trên chỗ bình thường ban ngày. Nói loại thoại này cho người nghi, người nghe Sư nói “núi Nam có một con rắn to” liền khởi nghi. Nếu hiểu thế ấy nào có giao thiệp. Chỉ trên ngôn ngữ ông ta mà làm kế sống. Đã chẳng hiểu thế, phải hiểu thế nào ? Sau này có vị Tăng thuật lại cho Huyền Sa, Huyền Sa nói: Phải là Lăng huynh mới được, tuy nhiên như thế, tôi thì chẳng vậy. Tăng hỏi Hòa thượng thì thế nào, Huyền Sa đáp: Dùng núi Nam làm gì ? Chỉ xem trong lời nói của Huyền Sa liền có chỗ xuất thân. Bèn nói dùng núi Nam làm gì, nếu chẳng phải là Huyền Sa thật khó mà đáp được. Như Tuyết Phong nói: Núi Nam có một con rắn to, hãy nói nó ở chỗ nào ? Đến trong đây phải là người hướng thượng mới hiểu được lời nói này. Cổ nhân nói: Tạ Tam Lang trên thuyền thả câu, chẳng thích núi Nam con rắn to. Đến lượt Vân Môn lấy cây gậy ném trước mặt Tuyết Phong, ra bộ sợ. Vân Môn có tài giỡn rắn, chẳng chạm mũi nhọn, bên sáng đánh được, bên tối cũng đánh được. Sư bình thường vì người như múa kiếm Thái A, có khi phi đến trên mày mắt của người, có khi phi đến ngoài ba ngàn dặm lấy đầu người. Vân Môn ném cây gậy ra bộ sợ, vả lại chẳng phải đùa tinh hồn, đâu không phải Sư tan thân mất mạng sao ? Bậc tác gia Tông sư trọn chẳng trên một lời một câu mà làm kế sống. Tuyết Đậu vì thích Vân Môn khế chứng được ý Tuyết Phong, nên tụng:

TỤNG:   Tượng Cốt nham cao nhân bất đáo

                Đáo giả tu thị lộng xà thủ

                Lăng Sư, Bị Sư bất nại hà

                Tán thân thất mạng hữu đa thiểu ?

                Thiều Dương tri, trùng bác thảo

                Nam Bắc Đông Tây vô xứ thảo

                Hốt nhiên đột xuất trú trượng đầu

                Phao đối Tuyết Phong đại trương khẩu.

                Đại trương khẩu hề đồng thiểm điện

                Dịch khởi mi mao hoàn bất kiến

                Như kim tàng tại Nhũ Phong tiền 

                Lai giả nhất nhất khán phương tiện.

DỊCH:   Tượng Cốt núi cao người chẳng đến

               Người đến phải là tay đùa rắn

               Sư Lăng, Sư Bị chẳng làm gì

               Tan thân mất mạng có nhiều ít ?

               Thiều Dương biết, lại vạch cỏ

               Nam Bắc Đông Tây không chỗ xét

               Bỗng nhiên đột xuất cây gậy này

               Ném trước Tuyết Phong miệng há hốc.

               Miệng há hốc chừ đồng điện chớp 

               Vén hết lông mày lại chẳng thấy

               Hiện nay ẩn tại ngọn Nhũ  Phong

               Người đến mỗi mỗi xem phương tiện.

               Tuyết Đậu to tiếng quát: Xem dưới chân ! 

GIẢI TỤNG: Hai câu “Tượng Cốt núi cao người chẳng đến, người đến phải là tay đùa rắn”, dưới núi Tuyết Phong có núi Tượng Cốt. Tuyết Phong cơ phong cao vót ít có người đến được chỗ Sư. Tuyết Đậu là người trong nhà Sư, lông cánh tương tợ, đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu, phải là tác gia thông phương mới cùng chứng minh nhau. Chỉ con rắn to này thật khó đùa, phải là tay khéo đùa mới được. Nếu chẳng phải là tay khéo đùa, sẽ bị rắn cắn. Ngũ Tổ tiên sư nói: Con rắn to này, phải là tay tài khéo mới khỏi bị rắn cắn, gần đầu nó độ bảy tấc (0,28m), nắm một cái đứng khựng, bèn cùng Lão tăng nắm tay đồng đi. Trường Khánh, Huyền Sa có tay khéo này. Tuyết Đậu nói: “Sư Lăng, Sư Bị chẳng làm gì ?” Câu này nhiều người nói: Trường Khánh, Huyền Sa chẳng làm gì, vì thế Tuyết Đậu riêng khen Vân Môn. Quả là không dính dáng. Đâu chẳng biết trong ba người cơ không được mất, chỉ có thân sơ mà thôi. Thử hỏi quí vị chỗ nào là chỗ Sư Lăng, Sư Bị chẳng làm gì ? Câu “tan thân mất mạng có nhiều ít” là Trường Khánh nói “Ngày nay trong nhà có nhiều người tan thân mất mạng”. Đến trong ấy phải là tay đùa rắn, cẩn thận mới được. Tuyết Đậu xuất thân trong dòng Vân Môn, cho nên bác hết, riêng để một mình Vân Môn, nói “Thiều Dương biết lại vạch cỏ”, bởi vì Vân Môn biết chỗ rơi của Tuyết Phong, nói “Núi Nam có một con rắn to”, vì thế “Lại vạch cỏ”. Tuyết Đậu tụng đến trong đây lại có chỗ diệu, nói “Đông Tây Nam Bắc không chỗ xét”. Ông nói ở chỗ nào ? “Bỗng nhiên đột xuất cây gậy này”, xưa nay chỉ là trong ấy. Ông chớ nên nhằm trên cây gậy làm kế sống. Vân Môn lấy cây gậy ném trước mặt Tuyết Phong, làm thế sợ. Vân Môn dùng cây gậy làm cái dụng con rắn to. Có khi Vân Môn nói: “Cây gậy hóa làm rồng nuốt hết càn khôn, núi sông đất liền chỗ nào còn ?” Chỉ một cây gậy, có khi làm rồng, có khi làm rắn. Vì sao như thế ? Đến trong đó mới biết cổ nhân nói: “Tâm theo muôn cảnh chuyển, chỗ chuyển thật u vi.” Hai câu “Ném trước Tuyết Phong miệng há hốc, miệng há hốc chừ đồng điện chớp”, Tuyết Đậu có dư tài, đưa con rắn độc của Vân Môn ra, nói “Miệng há hốc chừ đồng điện chớp”. Ông vừa nghĩ nghị liền tan thân mất mạng. “Vén hết lông mày lại chẳng thấy”, nhằm chỗ nào đi ? Tuyết Đậu tụng xong phải đến chỗ sống vì người, đem con rắn của Tuyết Phong tự nắm tự đùa, chẳng ngại sống chết lâm thời. Cần thấy chăng ?  Nói “Hiện nay ẩn tại ngọn Nhũ Phong”, Nhũ Phong là tên núi Tuyết Đậu. Tuyết Đậu có tụng: “Cửa đá bốn bên nhìn trời hẹp, vắng tanh chẳng cho mây trắng bay.” Trường Khánh, Huyền Sa, Vân Môn đùa xong mà chẳng thấy. Lại nói: “Hiện nay ẩn tại ngọn Nhũ Phong, người đến mỗi mỗi xem phương tiện.” Tuyết Đậu vẫn kẹt chút ít. Không nói liền dùng, lại to tiếng quát: “Xem dưới chân !” Từ trước đến nay có nhiều người niêm lộng, hãy nói lại từng chạm đến người, chẳng từng chạm đến người ? Sư liền đánh.

?

TẮC 23: BẢO PHƯỚC, TRƯỜNG KHÁNH DẠO NÚI

LỜI DẪN: Ngọc đem lửa thử, vàng lấy đá thử, kiếm dùng lông thử, nước dùng gậy dò, đến trong cửa Thiền tăng một lời một câu, một cơ một cảnh, một ra một vào, một xô một đẩy, cốt thấy sâu cạn, cốt thấy thuận nghịch, hãy nói đem cái gì thử, mời cử xem ?

CÔNG ÁN: Bảo Phước, Trường Khánh dạo núi. Bảo Phước lấy tay chỉ nói: Chỉ trong đây là ngọn Diệu Phong. Trường Khánh nói: Phải thì phải, đáng tiếc thay ! (Tuyết Đậu trước ngữ: Ngày nay cùng kẻ này dạo núi mong làm cái gì ? Lại nói: Trăm ngàn năm sau chẳng nói không, chỉ là ít.) Sau thuật lại cho Cảnh Thanh nghe, Cảnh Thanh nói: Nếu chẳng phải Tôn Công, liền thấy đầu lâu đầy đất. 

GIẢI THÍCH: Bảo Phước, Trường Khánh, Cảnh Thanh đều là kế thừa Tuyết Phong. Ba người đồng đắc đồng chứng, đồng kiến đồng văn, đồng niêm đồng dụng, một ra một vào, thay nhau xô đẩy. Bởi vì những vị này đồng điều sanh, nên nói đến liền biết chỗ rơi. Ở trong hội Tuyết Phong thường vấn đáp chỉ có ba vị này. Cổ nhân đi đứng ngồi nằm lấy đạo này làm chỗ niệm, do đó cử đến liền biết chỗ rơi. Một hôm dạo núi, Bảo Phước lấy tay chỉ nói: Chỉ trong đây là đảnh Diệu Phong. Nếu như Thiền tăng hiện nay hỏi đến thế ấy, miệng tợ tấm biển, cũng may là hỏi Trường Khánh. Ông nói Bảo Phước nói thế ấy là mong làm gì ? Cổ nhân như thế, cốt nghiệm kia có mắt không mắt, là người ở trong nhà ấy, tự nhiên biết chỗ rơi. Nên đáp: Phải thì phải, đáng tiếc thay ! Hãy nói, Trường Khánh nói thế ấy là ý chỉ làm sao ? Không thể một bề thế ấy mà đi, giống thì giống, ít được thảnh thơi không một việc, may là Trường Khánh biết rõ kia. Tuyết Đậu trước ngữ: Ngày nay cùng kẻ này dạo núi mong làm gì ? Hãy nói rơi chỗ nào ? Lại nói: Trăm ngàn năm sau chẳng nói không, chỉ là ít. Tuyết Đậu khéo điểm ngực, giống như Hoàng Bá nói “chẳng nói không thiền, chỉ là không Sư”. Tuyết Đậu nói thế quả là hiểm hóc, nếu chẳng phải đồng thanh tương ứng, thì đâu thể cô nguy kỳ quái như thế. Đây gọi là trước ngữ rơi tại hai bên, tuy rơi hai bên mà chẳng trụ hai bên. Sau thuật lại cho Cảnh Thanh nghe, Cảnh Thanh nói: Nếu chẳng phải là Tôn Công liền trông thấy đầu lâu đầy đất. Tôn Công là họ của Trường Khánh. 

Có vị Tăng hỏi Triệu Châu: Thế nào là đảnh Diệu Phong ? Triệu Châu bảo: Lão tăng không đáp câu hỏi này của ông. Tăng hỏi: Tại sao không đáp câu hỏi này ? Triệu Châu nói: Nếu ta đáp ông sợ e rơi xuống đất bằng.

Trong kinh Hoa Nghiêm nói: “Tỳ-kheo Đức Vân ở trên đảnh Diệu Phong từ lâu không xuống núi. Thiện Tài đến tham vấn bảy ngày không gặp, một hôm tại ngọn khác gặp nhau. Yết kiến xong, Đức Vân vì Thiện Tài nói một niệm ba đời, pháp môn tất cả chư Phật trí tuệ quang minh phổ kiến.” Đức Vân đã từ lâu không xuống núi, tại sao lại gặp nhau ở ngọn núi khác ? Nếu bảo Đức Vân xuống núi, trong kinh nói Tỳ-kheo Đức Vân từ lâu không xuống núi, thường ở trên đảnh Diệu Phong. Đến trong đây, Đức Vân, Thiện Tài quả là ở đâu ? Về sau, Lý Thông Huyền tạo sắn bìm, tạo rất khéo, nói: “Ngọn Diệu Phong là pháp môn nhất vị bình đẳng, mỗi mỗi đều chân, mỗi mỗi đều toàn, nhằm chỗ không được không mất, không phải không quấy riêng bày. Vì thế, Thiện Tài không thấy đến chỗ xứng tánh, như con mắt chẳng tự thấy, lỗ tai chẳng tự nghe, ngón tay chẳng tự xúc, đao chẳng tự cắt, lửa chẳng tự đốt, nước chẳng tự rửa.” Đến đây, chúng ta thấy trong kinh thật đại từ bi có chỗ vì nhau. Vì thế, phóng một đường nói về nghĩa môn thứ hai, lập khách lập chủ, lập cơ lập cảnh, lập vấn lập đáp. Do đó nói: Chư Phật chẳng ra đời, cũng không có Niết-bàn, vì phương tiện độ chúng sanh, hiện việc như thế. Hãy nói cứu kính làm sao khỏi được Cảnh Thanh, Tuyết Đậu nói thế ấy ? Khi đó, nếu không phải cung nhịp tương ưng thì, hẳn là người cả quả đất thấy đầu lâu đầy đất. Cảnh Thanh chứng thế ấy đưa ra, hai người kia dùng thế ấy đưa ra. Tuyết Đậu dưới đây tụng rất rõ ràng:

TỤNG:            Diệu Phong cô đảnh thảo ly ly

                        Niêm đắc phân minh phó dữ thùy 

                        Bất thị Tôn Công biện đoan đích

                        Độc lâu trước địa kỷ nhân tri.

DỊCH:             Diệu Phong cao vót cỏ xanh rì

                        Nắm được rõ ràng gởi đến ai

                        Chẳng phải Tôn Công bàn thấu đáo

                        Đầu lâu khắp đất mấy người hay.

GIẢI TỤNG: Câu “Diệu Phong cao vót cỏ xanh rì”, trong cỏ nghiền ngẫm có ngày nào xong. Câu “nắm được rõ ràng gởi đến ai”, chỗ nào là chỗ rõ ràng ? Ý câu tụng này nói, Bảo Phước nói chỉ trong này là ngọn Diệu Phong. Câu “chẳng phải Tôn Công bàn thấu đáo”, Tôn Công thấy đạo lý gì liền nói: Phải thì phải, đáng tiếc thay ! Đến câu “đầu lâu khắp đất mấy người hay”, các ông lại hay chăng ? Mù !

?

TẮC 24: LƯU THIẾT MA TRÂU CÁI GIÀ

LỜI DẪN: Đứng cao vót trên ngọn Cao Phong, ma ngoại không thể biết. Đi sâu trong biển sâu, con mắt Phật nhìn cũng chẳng thấy. Dù cho mắt tợ sao băng, cơ như điện chớp, chưa khỏi như rùa linh lê đuôi. Đến trong ấy nên làm sao ? Thử cử xem ?

CÔNG ÁN: Lưu Thiết Ma đến Qui Sơn, Qui Sơn bảo: Trâu cái già, ngươi mới đến. Lưu Thiết Ma thưa: Ngày mai ở Đài Sơn có đại hội trai, Hòa thượng có đi dự chăng ? Qui Sơn buông thân nằm xuống. Lưu Thiết Ma liền đi ra.

GIẢI THÍCH: Bà Ni Lưu Thiết Ma như chọi đá nháng lửa, tợ làn điện chớp, nghĩ nghị thì tan thân mất mạng. Thiền đạo nếu đến chỗ khẩn yếu, đâu có nhiều việc. Hai vị là hàng tác gia gặp nhau, như cách tường thấy sừng liền biết là trâu, cách núi thấy khói liền biết là lửa, đẩy đến liền động, kéo lại liền xoay. Qui Sơn nói: Sau khi Lão tăng trăm tuổi đến nhà thí chủ ở dưới núi làm một con trâu, hông trái có viết năm chữ “Qui Sơn Tăng Linh Hựu”. Chính khi ấy gọi Qui Sơn Tăng là phải, gọi con trâu là phải ? Như hiện nay bị người hỏi đến cam chịu bối rối. Lưu Thiết Ma là bậc tham thiền đã lâu, cơ phong cao vót, thời nhân gọi là Lưu Thiết Ma (Lưu mài sắt), cất am cách Qui Sơn độ mười dặm. Một hôm đến phỏng vấn Qui Sơn, Qui Sơn thấy đến liền nói: Trâu cái già, ngươi mới đến. Lưu Thiết Ma thưa: Ngày mai ở Đài Sơn có đại hội trai, Hòa thượng có đi dự chăng ? Qui Sơn buông thân nằm xuống. Lưu Thiết Ma liền đi ra.

Ông xem kia dường như nói chuyện thường,  chẳng phải thiền cũng chẳng phải đạo, gọi là vô sự hiểu được không ? Qui Sơn cách Đài Sơn đến mấy ngàn dặm, tại sao Lưu Thiết Ma lại hỏi Qui Sơn đi thọ trai ? Hãy nói ý chỉ như thế nào ? Bởi bà lão này hiểu được lời nói của Qui Sơn, nên tơ đến thì chỉ đi, một  buông một  bắt, đối  đáp  lẫn nhau, như hai gương soi nhau, không có ảnh tượng nào khá thấy, cơ cơ xứng nhau, cú cú hợp nhau. Như người nay ba phen kéo chẳng xoay đầu, còn bà lão này một điểm gạt bà chẳng được. Chỗ này chẳng phải là thế đế tình kiến, gương sáng trên đài, minh châu trong tay, Hồ đến hiện Hồ, Hán đến hiện Hán. Do kia biết có việc hướng thượng, cho nên như thế. Hiện nay chỉ chú trọng hiểu là vô sự. Hòa thượng Diễn nói: “Chớ đem hữu sự làm vô sự, hữu sự thường từ vô sự sanh.” Nếu ông tham được thấu, thấy kia nói thế ấy, giống như người bình thường thuyết thoại, phần nhiều bị ngôn ngữ cách ngại, cho nên không hiểu, chỉ là tri âm mới hội được kia. Như Càn Phong dạy chúng: Cử một chẳng được cử hai, bỏ qua một bậc rơi tại thứ hai. Vân Môn đứng dậy thưa: Hôm qua có Tăng từ Thiên Thai đến, lại sang Nam Nhạc. Càn Phong nói: Điển tọa ! Ngày nay chẳng được phổ thỉnh. Xem hai vị này buông thì cả hai đều buông, thâu thì cả hai đều thâu. Dưới tông Qui Ngưỡng gọi đó là cảnh trí gió thổi bụi dấy cỏ lay, tham cứu đến tận đầu mối, cũng gọi là cách thân cú, ý thông mà ngữ cách. Đến trong đó phải là vạch trái xoay phải, mới là tác gia.

TỤNG: Tằng kỵ thiết mã nhập trùng thành

               Sắc hạ truyền văn lục quốc thanh

               Du ác kim tiên vấn qui khách

               Dạ thâm thùy cộng ngự nhai hành.

DỊCH:   Từng cỡi ngựa sắt vào trùng thành

               Sắc lệnh truyền ra sáu nước thanh

               Vẫn nắm roi vàng hỏi qui khách

               Đêm khuya, đường vua ai đồng hành.

GIẢI TỤNG: Bài tụng này của Tuyết Đậu, các nơi cho là hay tột. Trong một trăm bài tụng, bài tụng này rất đủ yếu lý, đến chỗ cực diệu, hiện thể phân minh tụng ra, “Từng cỡi ngựa sắt vào trùng thành” là nói Lưu Thiết Ma đến như thế. Câu “Sắc lệnh truyền ra sáu nước thanh” là nói Qui Sơn hỏi như thế. Câu “Vẫn nắm roi vàng hỏi qui khách” là Lưu Thiết Ma nói ngày mai ở Đài Sơn có đại hội trai, Hòa thượng có đi dự chăng ? Câu “Đêm khuya đường vua ai đồng hành” là Qui Sơn buông thân nằm xuống, Lưu Thiết Ma đi ra. Tuyết Đậu có loại tài điệu này, chỗ cấp thiết thì tụng cấp thiết, chỗ hòa hoãn thì tụng hòa hoãn. Phong Huyệt cũng từng niêm đồng với ý Tuyết Đậu. Tụng này các nơi đều khen hay:

TỤNG:   Cao Cao Phong đảnh lập

                Ma ngoại mạc năng tri

                Thâm thâm hải để hành

                Phật nhãn thứ bất kiến.

DỊCH:    Trên đảnh Cao Phong đứng

                Ma ngoại nào hiểu chi

                Dưới đáy biển sâu đi

                Mắt Phật xem chẳng thấy.

Xem một người buông thân nằm xuống, một người liền đi ra. Nếu lại che khắp đồng thời tìm đường chẳng thấy. Tuyết Đậu tụng ý rất hay, “Từng cỡi ngựa sắt vào trùng thành”. Nếu chẳng phải đồng hành đồng chứng thì đâu thể nói được như thế. Thử nói được ý gì ? Đâu chẳng thấy vị Tăng đến hỏi Phong Huyệt: Qui Sơn nói trâu cái già ngươi mới đến, là ý chỉ gì ? Phong Huyệt đáp: Chỗ mây trắng dầy rồng vàng múa. Tăng hỏi: Lưu Thiết Ma nói ngày mai ở Đài Sơn có đại hội trai, Hòa thượng có đi dự chăng, là ý chỉ thế nào ? Phong Huyệt đáp: Trong lòng sóng biếc mặt trăng động. Tăng hỏi: Qui Sơn làm thế nằm là ý chỉ thế nào ? Phong Huyệt đáp: Già đến thân gầy ngày vô sự, nằm cao rảnh ngủ ngọn núi xanh. Ý này cũng đồng với Tuyết Đậu.

?

TẮC 25: LIÊN HOA PHONG CẦM CÂY GẬY

LỜI DẪN: Cơ chẳng rời vị rơi trong biển độc, lời chẳng kinh quần rơi vào lưu tục. Chợt trong lúc chọi đá nháng lửa biện biệt trắng đen, trong khoảng điện chớp biện được sống chết, khả dĩ ngồi dứt mười phương, vách đứng ngàn nhẫn. Lại biết có thời tiết thế ấy chăng, thử cử xem ?

CÔNG ÁN: Am chủ Liên Hoa Phong cầm cây gậy đưa lên dạy chúng: Cổ nhân đến trong đây vì sao không chịu trụ, chúng không đáp được. Tự đáp thế: Vì kia đường sá chẳng đắc lực. Lại nói: Cứu kính thế nào ? Tự đáp thế: Cây gậy tức lật vác ngang chẳng đoái người, đi thẳng vào ngàn ngọn muôn ngọn.

GIẢI THÍCH: Các ông lại biện biệt được Am chủ Liên Hoa Phong chăng ? Gót chân cũng chưa chấm đất. Thời quốc sơ, Sư cất am trên chót Liên Hoa ở núi Thiên Thai, cổ nhân sau khi đắc đạo ở trong nhà tranh thất đá, nấu rễ rau rừng trong nồi mẻ ăn qua ngày, chẳng cầu danh lợi, phóng khoáng tùy duyên, buông một chuyển ngữ cốt đền ơn Phật Tổ, truyền tâm ấn của Phật. Vừa thấy Tăng đến, Sư cầm cây gậy lên nói: Cổ nhân đến trong đây vì sao không chịu trụ ? Trước sau hơn hai mươi năm mà không có người đáp được. Chỉ một câu hỏi này có quyền có thật, có chiếu có dụng. Nếu người biết được cái bẩy của Sư thì chẳng tiêu một cái ấn tay. Ông hãy nói vì sao hai mươi năm chỉ hỏi như thế ? Đã là Tông sư cớ sao chỉ giữ một cái cọc ? Nếu nhằm trong đây thấy được, tự nhiên chẳng chạy trên tình trần. Trong hai mươi năm có nhiều người cùng Sư phê phán đối đáp, trình kiến giải, làm hết mọi cách. Dù có người nói được cũng chẳng đến chỗ cực tắc của Sư. Huống là việc này, tuy chẳng ở trong ngôn cú, mà không phải ngôn cú thì không thể biện luận. Đâu chẳng nghe nói “đạo vốn không lời, nhân lời hiển đạo” ? Vì thế, nghiệm người đến chỗ cùng tột, mở miệng bèn là tri âm. Cổ nhân buông một lời nửa câu cũng không có gì khác, cốt thấy ông “tri hữu” hay “chẳng tri hữu”. Sư thấy người không hội nên đáp thay: Vì kia đường sá chẳng đắc lực. Xem Sư nói tự nhiên khế lý khế cơ, chưa từng mất tông chỉ. Cổ nhân nói: Nương lời cần hiểu tông, chớ tự lập qui củ. Người nay chỉ quản lôi được đi là xong, được thì được vẫn là hỗn độn tạp nhạp. Nếu trước bậc tác gia đem ba yếu ngữ “ấn không, ấn nê, ấn thủy” mà nghiệm, liền thấy cây vuông ráp lỗ tròn, không có chỗ vào vậy. Đến trong đây tìm một người đồng đắc, đồng chứng, khi ấy căn cứ vào đâu mà tìm ? Nếu người “tri hữu” mở lòng thông tin tức thì có gì là khó. Nếu chẳng gặp tri âm nên cuộn lại để trong lòng. Thử hỏi các ông, cây gậy là đồ dùng tùy thân của Thiền tăng, tại sao nói đường sá chẳng đắc lực ? Cổ nhân đến đây chẳng chịu trụ.  Kỳ thật mạt vàng tuy quí, rơi vào mắt cũng thành bệnh. Hòa thượng Thiện Đạo ở Thạch Thất đương thời bị sa thải, thường lấy cây gậy dạy chúng: Chư Phật quá khứ cũng thế ấy, chư Phật vị lai cũng thế ấy, chư Phật hiện tại cũng thế ấy.

Tuyết Phong một hôm ở trước Tăng đường cầm cây gậy đưa lên dạy chúng: Cái này chỉ vì người trung, hạ căn. Có vị Tăng ra hỏi: Chợt gặp người thượng thượng căn đến thì sao ? Tuyết Phong cầm gậy lên rồi đi. Vân Môn nói: Tôi chẳng giống Tuyết Phong đập phá tan hoang. Tăng hỏi: Chưa biết Hòa thượng thế nào ? Vân Môn liền đánh. Phàm tham vấn không có nhiều việc, vì ông ngoài thấy có núi sông đất liền, trong thấy có thấy nghe hiểu biết, trên thấy có chư Phật để cầu, dưới thấy có chúng sanh để độ, cần phải một lúc mửa hết, nhiên hậu trong mười hai giờ đi đứng ngồi nằm làm thành một mảnh. Tuy ở trên đầu sợi lông mà rộng như đại thiên sa giới; tuy ở trong vạc dầu lò lửa mà như ở cõi nước an lạc; tuy ở trong bảy trân tám bảo như ở dưới nhà tranh, vách lá.Việc này nếu là hàng thông phương tác giả đến chỗ thật của cổ nhân, tự nhiên chẳng phí lực. Sư thấy không có người hiểu được ý mình, nên tự gạn lại: Cứu kính thế nào ? Lại không ai làm gì được, Sư tự nói: Cây gậy tức lật vác ngang chẳng đoái đến người, đi thẳng vào ngàn ngọn muôn ngọn. Ý này lại thế nào ? Hãy nói chỉ nơi nào là địa đầu ? Quả là trong câu có mắt, ngoài lời có ý, tự đứng tự ngã, tự buông tự thâu. Há chẳng thấy Tôn giả Nghiêm Dương đi đường gặp một vị Tăng, liền đưa cây gậy lên hỏi: Là cái gì ? Tăng thưa: Chẳng biết ! Tôn giả nói: Một cây gậy cũng chẳng biết. Tôn giả lại lấy cây gậy khơi dưới đất một lỗ, hỏi: Lại biết chăng ? Tăng thưa: Chẳng biết ! Tôn giả nói: Cái lỗ đất cũng chẳng biết. Tôn giả lấy cây gậy để trên vai nói: Hội chăng ? Tăng thưa: Chẳng hội ! Tôn giả nói: Cây gậy tức lật vác ngang chẳng đoái đến người, đi thẳng vào ngàn ngọn muôn ngọn.

Cổ nhân đến trong đó vì sao không chịu trụ ? Tuyết Đậu có tụng: “Ai đương cơ, nêu chẳng lầm lại ít có. Phá hoại cao vót, nung chảy huyền vi. Nhiều lớp cổng to từng mở rộng. Tác giả chưa đồng về. Thỏ ngọc chợt tròn chợt khuyết, quạ vàng tợ bay chẳng bay. Lão Lô chẳng biết đi đâu tá ? Mây trắng nước trôi thảy nương nhau.” Bởi cớ sao ? Sơn tăng nói: “Dưới đầu thấy má, chớ cùng lại qua, vừa khởi so sánh, liền là trong núi đen, hang quỉ làm kế sống.” Nếu thấy được triệt, tin được đến, ngàn người muôn người bủa vây, tự nhiên không thể chận đứng được, động đến, chạm đến tự nhiên có chết có sống. Tuyết Đậu hiểu được ý kia nói, thẳng vào ngàn ngọn muôn ngọn, mới tạo thành tụng. Cần biết chỗ rơi, xem tụng của Tuyết Đậu:

TỤNG:  Nhãn lý trần sa nhĩ lý thổ

               Thiên phong vạn phong bất khẳng trụ

               Lạc hoa lưu thủy thái man man

               Dịch khởi mi mao hà xứ khứ ?

DỊCH:   Bụi cát trong mắt, đất lỗ tai

               Ngàn ngọn muôn ngọn chẳng chịu dừng

               Hoa rơi nước chảy trôi bát ngát

               Vạch đứng lông mày xem nơi nào ?

GIẢI TỤNG: Tuyết Đậu tụng thật hay có chỗ chuyển thân, chẳng giữ một góc. Liền nói “bụi cát trong mắt, đất lỗ tai”, câu tụng này ý nói Am chủ Liên Hoa Phong khi Thiền khách đến thì trên không ngửa vin, dưới bặt chính mình, trong tất cả thời như khờ tợ dại. Nam Tuyền nói: Người học đạo như kẻ si độn cũng khó được. Thiền Nguyệt thi: Thường nhớ lời hay của Nam Tuyền, như kia si độn vẫn còn ít. Pháp Đăng nói: Người nào biết ý này, khiến ta nhớ Nam Tuyền. Nam Tuyền lại nói: “Bảy trăm Cao tăng trọn là người hiểu Phật pháp, duy ông cư sĩ Lư chẳng hiểu Phật pháp, chỉ hiểu đạo thôi, vì thế được y bát của Ngũ Tổ.” Hãy nói Phật pháp với đạo cách nhau xa gần ? Tuyết Đậu niêm: “Trong mắt dính cát chẳng được, trong tai dính nước chẳng được. Nếu có kẻ tin được đến, nắm được đứng, chẳng bị người lừa thì lời dạy của Phật Tổ có khác gì tiếng khua bát. Mời treo đãy bát trên cao, bẻ gậy bỏ, chỉ giữ một kẻ đạo nhân vô sự.” Lại nói: Trong mắt để được núi Tu-di, trong tai chứa được nước biển cả, bậc này chịu người thương lượng. Lời dạy của Phật Tổ như rồng gặp nước, như cọp tựa núi, lại nêu quảy đãy bát, vác cây gậy, cũng là một kẻ đạo nhân vô sự. Lại nói: Thế ấy cũng chẳng được, chẳng thế ấy cũng chẳng được, nhiên hậu không còn dính dáng gì.

Trong ba vị đạo nhân vô sự, cốt chọn một người làm thầy, chính là người có khả năng đúc sắt thành dụng cụ. Vì sao ? Vì người này gặp cảnh giới ác, hoặc gặp cảnh giới kỳ đặc, đến trước mắt thảy đều giống như mộng, chẳng biết có sáu căn, cũng chẳng biết có sáng chiều. Dù cho đến loại điền địa này, tối kỵ giữ tro lạnh nước chết, thẳng vào chỗ tối mờ mịt, phải có một con đường chuyển thân mới được. Cổ nhân nói: Chớ giữ núi lạnh cỏ xanh lạ, ngồi đợi mây bay trọn chẳng khéo. Vì thế, Am chủ Liên Hoa Phong nói “vì kia đường sá chẳng đắc lực”, phải là đạp trên ngàn ngọn muôn ngọn mới được. Hãy nói, bảo cái gì là ngàn ngọn muôn ngọn ? Tuyết Đậu chỉ thích Sư nói “cây gậy tức lật vác ngang chẳng đoái đến người, đi thẳng vào ngàn ngọn muôn ngọn”, vì đó tụng ra. Hãy nói đi chỗ nào ? Lại có biết được chỗ đi chăng ? Câu “hoa rơi nước chảy trôi bát ngát”, hoa rơi loạn xạ, nước chảy mênh mông. Người có cơ điện chớp, trước mắt là cái gì ? Câu “vạch đứng lông mày xem nơi nào”, vì sao Tuyết Đậu cũng chẳng biết đi nơi nào ? Như sơn tăng nói: Cây phất tử đưa khi nãy, thử nói hiện giờ ở chỗ nào ? Các ông nếu thấy được cùng Am chủ Liên Hoa Phong đồng tham. Nếu chưa thấy được thì dưới ba cây đòn tay, trước cái đơn bảy tấc, thử tham cứu tường tận xem ?

ML
01
02
03
04
05
06
07
08
09
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
c

Nguồn: www.quangduc.com

Về danh mục

đôi điều suy nghĩ về hành thiền dừng lại giao ý Cơm tấm chay chua vinh khanh chua tram gian tu lam the nao de huong dan mot doi song dao duc Bạn đọc viết Vườn Lâm tỳ ni của giao duc bến những thứ chúng ta đánh mất giữa vòng phat Đường Ùng 2 lich su thien tong nhat ban Xác trà túi lọc có nhiều công dụng hay bo phải tích Bảy cách giảm cân hiệu quả bồ tát hạnh trong kinh viên loi that thi mat long nao bí quyết dạy con thông minh của người Phật giáo æ vĩnh doi mat cua me viec thánh gandhi những bữa cơm thâm tình phát chướng nam dieu dao duc nguoi phat tu chan chinh can thuc khai niem niet ban trong phat giao giau sang hay ngheo hen deu boi ï¾å テ ngồi Gởi lại đóa Xuân Vấn bat tuyen tap 10 bai so 135 tức Cư sĩ Tăng Quang người Gia trưởng bao 不空羂索心咒梵文 kiên cuối quyết Nước có cồn ç an chay 白骨观 危险性 Một thời làm điệu quen va nho trong cuoc song hien tai 真言宗金毘羅権現法要 buc Đại GiÃi trùng cai toi va minh triet ve cai toi hoc cach cui dau chuyển 放下凡夫心 故事 chung dao