.
BÍCH NHAM LỤC
Tác giả:Thiền sư Viên Ngộ - Việt dịch: HT. Thích Thanh Từ
Tu viện Chân Không 1980
ML
01
02
03
04
05
06
07
08
09
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
TẮC 61: PHONG HUYỆT  NƯỚC NHÀ 

HƯNG THẠNH 

LỜI DẪN: Dựng pháp tràng lập tông chỉ lại là hàng bổn phận Tông sư. Định rắn rồng, rành đen trắng, phải là hàng tri thức tác gia. Trên kiếm bén luận sống chết, trên đầu gậy biện cơ nghi thì gác lại, hãy nói việc riêng đứng trong hoàn vũ, một câu làm sao thương lượng, thử cử xem ?

CÔNG ÁN: Phong Huyệt dạy: Nếu lập một hạt bụi thì nước nhà hưng thạnh, chẳng lập một hạt bụi thì nước nhà tan mất. Tuyết Đậu cầm gậy nói: Lại có Thiền tăng đồng sanh đồng tử chăng ?

GIẢI THÍCH: Như Phong Huyệt dạy chúng nói: Nếu lập một hạt bụi thì nước nhà hưng thạnh, chẳng lập một hạt bụi thì nước nhà tan mất. Hãy nói lập một hạt bụi tức phải, chẳng lập một hạt bụi tức phải ? Trong đây phải là đại dụng hiện tiền mới được. Thế nên nói: Giả sử trước câu nói tiến được, vẫn là kẹt vỏ quên niêm, dù cho dưới câu tinh thông, chưa khỏi chạm phải cuồng kiến. Phong Huyệt là bậc tôn túc trong tông Lâm Tế, dùng thẳng bổn phận thảo liệu. Nếu lập một hạt bụi thì nước nhà hưng thạnh, lão quê buồn rầu, ý ở lập quốc an bang phải nhờ mưu thần dũng tướng, nhiên hậu mới kỳ lân xuất hiện, phụng hoàng bay về, là điềm tốt thái bình. Người ở trong thôn ba nhà kia nào biết có việc ấy. Chẳng lập một hạt bụi thì nước nhà tan mất, gió thổi vèo vèo, lão quê vì sao hát ca ? Chỉ vì nước nhà tan mất. Trong tông Tào Động gọi đó là chỗ chuyển biến, không Phật không chúng sanh, không phải không quấy, không tốt không xấu, bặt âm vang tung tích. Vì thế nói: Mạt vàng tuy quí, rơi trong con mắt cũng thành bệnh. Lại nói: Mạt vàng trong mắt là bệnh, y châu trên pháp là trần, kỷ linh còn chẳng trọng, Phật Tổ là người gì ? Bảy xoi tám phủng thần thông diệu dụng chẳng cho là kỳ đặc. Đến trong đây, “trùm chăn phủ đầu muôn việc thôi, khi này Sơn tăng trọn chẳng hội”. Nếu lại nói tâm nói tánh, nói huyền nói diệu đều dùng chẳng được. Vì sao ? Vì nhà kia tự có cảnh thần tiên. Nam Tuyền dạy chúng: Ở Hoàng Mai bảy trăm vị Cao tăng đều là người hiểu Phật pháp, mà chẳng được y bát của Tổ, chỉ có ông cư sĩ họ Lư chẳng hiểu Phật pháp, cho nên được y bát của Tổ. Lại nói: Chư Phật ba đời chẳng tri hữu, mèo nhà trâu trắng lại tri hữu. Lão quê hoặc buồn rầu, hoặc ca hát, hãy nói làm sao hiểu ? Lão quê đủ con mắt gì lại thế ấy ? Nên biết trước cửa lão quê riêng có điều chương. Tuyết Đậu nêu cả hai lên rồi, lại cầm gậy nói, lại có Thiền tăng đồng sanh đồng tử chăng ? Khi ấy nếu có một người ra nói được một câu lẫn làm chủ khách, khỏi bị lão Tuyết Đậu phần sau tự chỉ ngực.

TỤNG:   Dã lão tùng giao bất triển mi

                Thả đồ gia quốc lập hùng ki

                Mưu thần dũng tướng kim hà tại !

                Vạn lý thanh phong chỉ tự tri.

DỊCH:    Lão dốt từ đây chẳng nhướng mày

                Vả mong nước nhà lập nền tài

                Mưu thần dũng tướng nay đâu tá !

                Muôn dặm gió lành chỉ tự hay.

GIẢI TỤNG: Vừa rồi song đề vậy, trong đây lại nắm một bên, buông một bên, bồi dài bổ ngắn, bỏ nặng theo nhẹ. Vì thế nói: “Lão dốt từ đây chẳng nhướng mày, vả mong nước nhà lập nền tài, mưu thần dũng tướng nay đâu tá.” Tuyết Đậu cầm cây gậy nói: “Lại có Thiền tăng đồng sanh đồng tử chăng ?” Giống như nói lại có mưu thần dũng tướng chăng ? Một cái miệng nuốt tất cả người rồi vậy. Do đó nói: Đất rộng người thưa, gặp nhau rất ít. Lại có biết nhau chăng, ra đây một hầm chôn hết. “Muôn dặm gió lành chỉ tự hay”, chính là chỗ Tuyết Đậu chỉ ngực vậy.

?

TẮC 62: VÂN MÔN TRONG CÓ MỘT HÒN NGỌC

LỜI DẪN: Lấy trí vô sư phát diệu dụng vô tác, lấy lòng từ vô duyên làm bạn tốt chẳng thỉnh. Nhằm trong một câu có chết có sống, ở trong một cơ có tha có bắt. Hãy nói người nào từng thế ấy đến, thử cử xem ?

CÔNG ÁN: Vân Môn dạy chúng: Trong càn khôn giữa vũ trụ, ở trong có hòn ngọc báu ẩn tại hình sơn, cầm lồng đèn đến trong điện Phật, đem ba cửa đến trên lồng đèn.

GIẢI THÍCH: Vân Môn nói trong càn khôn giữa vũ trụ, ở trong có hòn ngọc báu ẩn tại hình sơn, hãy nói Vân Môn ý tại cần câu, ý tại lồng đèn ? Đây là mấy câu trong luận Bảo Tạng của Triệu Pháp sư, Vân Môn trích ra dạy chúng. Khi Triệu Công ở vườn Tiêu Dao thời Hậu Tần làm luận, viết kinh Duy-ma-cật, mới biết Lão Trang chưa phải hay tột. Triệu Công lễ La Thập làm thầy, lại đến tham vấn Bồ-tát Bạt-đà-ba-la ở chùa Ngõa Quan, vốn là đệ tử được truyền tâm ấn của Tổ thứ hai mươi bảy ở Ấn Độ. Triệu Công thâm nhập được chỗ sâu kín. Một hôm, Triệu Công bị nạn sắp hành hình, xin hẹn lại bảy ngày viết xong bộ luận Bảo Tạng. Vân Môn trích bốn câu trong luận dạy chúng. Đại ý nói làm sao lấy được hòn ngọc báu vô giá ẩn trong ấm giới. Lời nói trong luận cùng lối thuyết thoại trong tông môn phù hợp nhau. Cảnh Thanh hỏi Tào Sơn: Lý thanh hư khi cứu kính không thân thì thế nào ? Tào Sơn đáp: Lý tức như thế, sự lại làm sao ? Thanh thưa: Như lý như sự. Tào Sơn bảo: Lừa một mình Tào Sơn thì được, đối với con mắt chư Thánh làm gì được. Thanh thưa: Nếu không có con mắt chư Thánh, đâu biết chẳng thế ấy. Tào Sơn bảo: công chẳng cho lọt mũi kim, tư thì xe ngựa cũng qua. Vì thế nói: Trong càn khôn, giữa vũ trụ, trong có hòn ngọc báu ẩn tại hình sơn. Đại ý nói người người đầy đủ, mỗi mỗi viên thành. Vân Môn trích ra dạy chúng đã là thập phần hiện thành, không thể giống như Tọa chủ lại vì ông chú giải. Sư vẫn mở lòng từ bi, vì ông chú cước nói “cầm lồng đèn đến trong điện Phật, đem ba cửa đến trên lồng đèn”. Thử nói Vân Môn nói thế ấy, ý tại chỗ nào ? Cổ nhân nói: “Thật tánh vô minh tức Phật tánh, thân không huyễn hóa tức Pháp thân.” Lại nói “chính phàm tâm mà thấy Phật tâm”. Hình sơn tức là tứ đại ngũ ấm. Trong có hòn ngọc báu ẩn tại hình sơn, cho nên nói: “Chư Phật tại đầu tâm, người mê chạy ngoài tầm, trong ôm báu vô giá, chẳng biết một đời thôi.” Lại nói: “Phật tánh rõ ràng hiển hiện, trụ tướng hữu tình khó thấy, nếu ngộ chúng sanh vô ngã, mặt ta nào khác mặt Phật. Tâm là tâm xưa nay, mặt là mặt thuở bé, kiếp thạch khá đổi dời, cái kia không cải biến.” Có người chỉ nhận cái sáng tỏ linh minh là ngọc báu, thế là chẳng được cái dụng của nó, cũng chẳng được cái diệu của nó. Vì thế, động chuyển chẳng được, xô lăn chẳng xong. Cổ nhân nói: Cùng thì biến, biến thì thông. Câu “cầm lồng đèn đến trong điện Phật”, nếu là thường tình còn có thể lường xét được. Câu “đem ba cửa đến trên lồng đèn” lại lường xét được chăng ? Vân Môn một lúc vì ông đả phá tình thức ý tưởng, được mất phải quấy rồi. Tuyết Đậu nói: Tôi mến Thiều Dương tân định cơ, một đời vì người tháo đinh nhổ chốt. Lại nói: Ngồi trên giường gỗ biết bao nhiêu, đao bén cắt đi khiến người mến. Vân Môn nói cầm lồng đèn vào trong điện Phật, một câu này đã cắt đứt rồi vậy. Lại đem ba cửa đến trên lồng đèn, nếu luận việc này như chọi đá nháng lửa, tợ làn điện chớp. Vân Môn nói: “Nếu ông tương đương hãy tìm đường vào. Chư Phật như vi trần ở dưới gót chân ông, ba tạng thánh giáo ở trên đầu lưỡi ông, chẳng bằng hãy ngộ đi. Hòa thượng con ! Chớ vọng tưởng, trời là trời, đất là đất, núi là núi, nước là nước, Tăng là Tăng, tục là tục.” Sư im lặng giây lâu, nói tiếp: Đem án sơn trước mặt lại cho ta xem ? Có vị Tăng ra hỏi: Học nhân khi thấy núi là núi, nước là nước thì thế nào ? Vân Môn bảo: Ba cửa vì sao từ trong này qua, e ông chết đi. Sư bèn lấy tay vẽ một nét nói: Khi biết được là thượng vị đề-hồ, nếu biết chẳng được trở thành độc dược. Vì thế nói: “Liễu liễu, khi liễu không sở liễu, huyền huyền, chỗ huyền cần phải chê.”

Tuyết Đậu niêm rằng: “Trong càn khôn giữa vũ trụ trong có hòn ngọc báu ẩn tại hình sơn, treo ở trên vách, Đạt-ma chín năm chẳng dám để mắt nhìn thẳng, nay Thiền tăng cần thấy, nhằm ngay xương sống liền đánh.” Xem Sư là bổn phận Tông sư trọn chẳng đem thật pháp trói buộc người. Huyền Sa nói: Bủa vây chẳng chịu đứng, kêu gọi chẳng quay đầu, tuy nhiên thế ấy cũng là rùa linh lê đuôi. Tuyết Đậu tụng ra:

TỤNG:            Khán khán

                        Cổ ngạn hà nhân bả điếu can

                        Vân nhiễm nhiễm

                        Thủy man man

                        Minh nguyệt lô hoa quân tự khan.

DỊCH:             Xem xem

                        Bờ xưa người nào cầm cần câu

                        Mây mịt mịt

                        Nước mênh mông

                        Trăng sáng hoa lau anh tự xem.

GIẢI TỤNG: Nếu biết được lời Vân Môn liền thấy chỗ Tuyết Đậu vì người. Sư nhằm hai câu sau của Vân Môn dạy chúng liền vì ông chú cước: “Xem xem.” Ông liền giương mày trừng mắt hội, vẫn không dính dáng. Cổ nhân nói: “Linh quang riêng sáng, vượt khỏi căn trần, thể bày chân thường, chẳng nêä văn tự, tâm tánh không nhiễm, vốn tự viên thành, chỉ lìa vọng duyên, tức như như Phật.” Nếu chỉ nhằm chỗ giương mày trừng mắt, ngồi như chết đâu thể thoát được căn trần. Tuyết Đậu nói: Xem ! Xem ! Vân Môn giống như ở trên bờ xưa cầm cần câu. Mây lại mịt mịt, nước lại mênh mông, trăng sáng chiếu hoa lau, hoa lau chiếu trăng sáng, chính ngay khi này là cảnh giới gì ? Nếu thẳng đó thấy được thì trước sau chỉ giống như một câu.

?

TẮC 63: NAM TUYỀN CHẶT CON MÈO

LỜI DẪN: Đường ý chẳng đến nên khéo đề ra, nói năng chẳng kịp phải mau để mắt. Nếu là điện xẹt sao băng liền hay nghiêng hồ lộn núi. Trong chúng có người biện được chăng, thử cử xem ?

CÔNG ÁN: Ở Nam Tuyền, một hôm nhà Đông nhà Tây tranh nhau một con mèo. Nam Tuyền thấy liền đề khởi: Nói được thì chẳng chặt. Chúng không nói được. Nam Tuyền chặt con mèo làm hai khúc.

GIẢI THÍCH: Hàng Tông sư một động một tịnh, một ra một vào, hãy nói ý chỉ thế nào ? Câu chuyện chặt con mèo, trong tùng lâm khắp nơi bàn tán xôn xao. Có người nói: Chỗ đề khởi liền phải. Có người nói: Ở chỗ chặt. Hoàn toàn không dính dáng. Nam Tuyền nếu khi chẳng đề khởi khắp nơi cũng tạo tác đạo lý. Đâu chẳng biết, cổ nhân có con mắt định càn khôn, có cây kiếm định càn khôn. Ông hãy nói cứu kính là ai chặt con mèo ? Chỉ khi Nam Tuyền đề khởi: nói được tức chẳng chặt, chính khi ấy bỗng có người nói được thì Nam Tuyền chặt hay không chặt ? Vì thế nói: Chánh lệnh đương hành, ngồi đoạn mười phương, thoát ra xem ngoài trời, ai là người trong ấy ? Kỳ thật đương thời vốn chẳng chặt, thoại này cũng chẳng ở chỗ chặt cùng chẳng chặt. Việc này thật biết rõ ràng như thế, chẳng ở trên tình trần ý kiến mà tìm. Nếu nhằm trên tình trần ý kiến mà tìm thì cô phụ Nam Tuyền. Chỉ nhằm trên mũi nhọn kiếm bén xem thì có cũng được, không cũng được, chẳng có chẳng không cũng được. Vì thế cổ nhân nói: Cùng tắc biến, biến tắc thông. Người nay chẳng hiểu biến thông, chỉ nhằm trên ngôn cú chạy. Nam Tuyền đề khởi thế ấy, không thể bảo người hạ được lời gì ? Chỉ cần bảo người tự tiến, mỗi mỗi tự dụng tự biết. Nếu chẳng hiểu thế ấy, chợt dò tìm không đến. Tuyết Đậu đương đầu tụng ra:

TỤNG:   Lưỡng đường câu thị đổ thiền hòa

                Bác động yên trần bất nại hà

                Lại đắc Nam Tuyền năng cử lệnh

                Nhất đao lưỡng đoạn nhậm thiên pha.

DỊCH:    Hai nhà đều hạng khách thiền xoàng

                Khói bụi vạch tung vẫn mơ màng

                Nhờ được Nam Tuyền hay hành lệnh

                Một đao hai khúc mặc thiên bàn. 

GIẢI TỤNG: Câu “hai nhà đều hạng khách thiền xoàng”, Tuyết Đậu chẳng nhằm chết dưới câu, cũng chẳng nhằm trước lừa, sau ngựa. Có chỗ vạch tung liền nói “khói bụi vạch tung vẫn mơ màng”. Tuyết Đậu cùng Nam Tuyền nắm tay cùng đi, một câu nói xong vậy. Thủ tọa hai nhà không có chỗ hết, đến nơi chỉ quản vạch tung khói bụi mà không làm gì được. Nhờ được Nam Tuyền vì kia đoạn công án này, thâu sạch hết kia, song trước chẳng đến thôn, sau chẳng tới quán. Vì thế nói: “Nhờ được Nam Tuyền hay hành lệnh, một đao hai khúc mặc thiên bàn.” Liền đó cho một đao thành hai khúc, chẳng quản có thiên lệch. Hãy nói Nam Tuyền y cứ lệnh gì ?

?

TẮC 64: TRIỆU CHÂU ĐẦU ĐỘI GIÀY CỎ

CÔNG ÁN: Nam Tuyền thuật lại thoại đầu này hỏi Triệu Châu. Triệu Châu liền cởi giày cỏ đội trên đầu đi ra. Nam Tuyền nói: Nếu khi ấy có mặt ông, đã cứu được con mèo.

GIẢI THÍCH: Triệu Châu là đích tử của Nam Tuyền, nói đầu hiểu đuôi, cử đến là biết chỗ rơi. Nam Tuyền đến chiều thuật lại lời khi sáng hỏi Triệu Châu, Triệu Châu là lão tác gia, liền cởi giày cỏ đội trên đầu đi ra. Nam Tuyền nói: Khi ấy nếu có mặt ông, đã cứu được con mèo. Thử nói thật thế ấy, chẳng thật thế ấy ? Nam Tuyền nói: “nói được thì không chặt”, như chọi đá nháng lửa, tợ làn điện chớp. Triệu Châu liền cởi giày cỏ đội trên đầu đi ra. Sư tham câu sống chẳng tham câu chết, ngày ngày mới, giờ giờ mới, ngàn Thánh dời đổi một mảy tơ cũng chẳng được. Phải là vận dụng được của báu nhà mình, mới thấy toàn cơ đại dụng của Sư. Sư nói ta là vua pháp, đối với pháp được tự tại. Nhiều người hiểu lầm nói Triệu Châu quyền biến đem giày cỏ làm con mèo. Có người nói: Đợi kia bảo, nói được thì không chặt, liền đội giày cỏ đi ra, tự là ông chặt con mèo, chẳng can việc của tôi. Vẫn không dính dáng, chỉ là đùa tinh hồn. Đâu chẳng biết ý cổ nhân như trời khắp che, tợ đất khắp chở. Cha con Sư hợp nhau, cơ phong khế nhau, bên này đưa đầu bên kia liền hiểu đuôi. Học giả thời nay chẳng biết chỗ cổ nhân chuyển, chạy rỗng trên đường ý suy tính. Nếu cần thấy, chỉ đến chỗ chuyển của Nam Tuyền, Triệâu Châu liền thấy.

TỤNG:   Công án viên lai vấn Triệu Châu

                Trường An thành lý nhậm nhàn du

                Thảo hài đầu đới vô nhân hội

                Qui đáo gia sơn tức tiện hưu.

DỊCH:    Công án tròn rồi hỏi Triệu Châu

                Trường An thành ấy mặc nhàn du

                Đầu đội giày cỏ không người hiểu

                Về đến gia sơn thì mới thôi.

GIẢI TỤNG: “Công án tròn rồi hỏi Triệu Châu”, Tạng chủ Khánh nói: Giống như người kết án tám gậy là tám gậy, mười ba là mười ba, đã đoạn rồi. Lại đem ra hỏi Triệu Châu. Triệu Châu là con trong nhà ấy, hiểu ý chỉ của Nam Tuyền, là người thấu triệt, đè đến chọi đến liền chuyển, đầy đủ đầu mắt của bậc bổn phận tác gia, vừa nghe nhắc đến liền đứng dậy đi ra. Tuyết Đậu nói: “Trường An thành ấy mặc nhàn du”, ló đuôi chẳng ít. Cổ nhân nói: Trường An tuy vui chẳng nên ở lâu. Lại nói: Trường An rất ồn, nước tôi an ổn. Phải là biết cơ nghi, rành tốt xấu mới được. “Đầu đội giày cỏ không người hiểu”, chỗ đội giày cỏ, một tí xíu này không có nhiều việc. Vì thế nói: “duy ta hay biết, duy ta hay chứng”, mới thấy được Nam Tuyền, Triệâu Châu, Tuyết Đậu chỗ đồng đắc đồng dụng. Hãy nói nay làm sao hội ? “Về đến gia sơn thì mới thôi”, chỗ nào là gia sơn của kia ? Nếu chẳng hội ắt chẳng nói thế ấy. Kia đã hội, hãy nói gia sơn ở chỗ nào ? Liền đánh.

?

TẮC 65: NGOẠI ĐẠO NGỰA HAY BÓNG ROI

LỜI DẪN: Không tướng mà hiện đầy mười phương mà phương rộng, không tâm mà ứng dụng khắp sát hải mà chẳng phiền. Cử một rõ ba, mục cơ thù lượng. Dù cho gậy như mưa rơi, hét tợ sấm dậy cũng chưa xứng với hành lý của người hướng thượng. Hãy nói thế nào là việc người hướng thượng, thử cử xem ?

CÔNG ÁN: Ngoại đạo hỏi Phật: Chẳng hỏi có lời, chẳng hỏi không lời ? Thế Tôn lặng thinh giây lâu. Ngoại đạo tán thán: Thế Tôn đại từ đại bi vẹt mây mù cho con, khiến con được vào. Ngoại đạo đi rồi, A-nan hỏi Phật: Ngoại đạo chứng được cái gì mà nói được vào ? Phật bảo: Như ngựa hay ở đời, thấy bóng roi liền chạy.

GIẢI THÍCH: Việc này nếu ở trên ngôn cú thì tam thừa mười hai phần giáo há không có ngôn cú. Hoặc nói không nói là phải. Vậy Tổ sư Tây sang làm gì ? Từ trước đến đây khá nhiều công án, cứu kính làm sao thấy được chỗ rơi ? Một công án này có nhiều người hiểu khác nhau. Có người nói làm thinh, có người nói ngồi yên, có người nói lặng lẽ chẳng đáp. Tức cười không dính dáng, biết bao giờ mò tìm đến được ? Việc này hẳn chẳng ở trên ngôn cú, cũng chẳng lìa ngôn cú, nếu vừa có nghĩ nghị liền cách xa ngàn dặm muôn dặm. Xem ngoại đạo kia, sau khi tỉnh ngộ mới biết, cũng chẳng ở đây, cũng chẳng ở kia, cũng chẳng ở phải, cũng chẳng ở chẳng phải. Hãy nói là cái gì ? Hòa thượng Thiên Y Hoài tụng: “Duy-ma chẳng nín chẳng làm thinh, ngồi yên thương lượng thành lỗi lầm, trong giáp suy mao ánh sáng lạnh, ngoại đạo thiên ma đều bó tay.” Hòa thượng Thường ở Bá Trượng đến tham vấn Pháp Nhãn, Pháp Nhãn dạy khán câu này. Một hôm Pháp Nhãn hỏi: Ông khán nhân duyên gì ? Thường thưa: Ngoại đạo hỏi Phật. Pháp Nhãn bảo: Thử cử xem.  Thường toan mở miệng, Pháp Nhãn bảo: Dừng ! Dừng ! Ông toan nhằm chỗ im lặng hội ư ? Thường ngay câu nói này bỗng nhiên đại ngộ. Sau Sư dạy chúng: “Bá Trượng có ba quyết, uống trà trân trọng hết, nghĩ nghị cùng tư duy, biết anh vẫn chưa triệt.” Thúy Nham chân điểm ngực niêm: “Lục hợp cửu hữu, xanh vàng đỏ trắng mỗi mỗi xen lẫn, ngoại đạo hiểu kinh, luận Tứ Phệ-đà, tự nói ta là người nhất thế trí. Nơi nơi tìm người nghị luận, y đặt câu hỏi cốt ngồi đoạn đầu lưỡi đức Thích-ca. Thế Tôn chẳng tốn mảy tơ khí lực, y liền tỉnh lấy, tán thán rằng: Thế Tôn đại từ đại bi vẹt mây mù cho con, khiến con được vào. Hãy nói thế nào là chỗ đại từ đại bi ? Thế Tôn một mắt thông tam thế, ngoại đạo hai tròng suốt ngũ thiên.” Chơn Như ở Qui Sơn niêm: “Ngoại đạo ôm ấp ngọc quí, Thế Tôn chính vì đề cao, sum la hiển hiện vạn tượng rõ ràng. Cứu kính ngoại đạo ngộ cái gì ? Như đuổi chó dồn vào tường, tột cùng ắt không có lối thoát, nó phải xoay đầu lại liền được linh động.” Nếu so tính phải quấy một lúc buông hết, tình sạch kiến trừ, tự nhiên triệt để phân minh. Ngoại đạo đi rồi, A-nan hỏi Phật: Ngoại đạo chứng cái gì mà nói được chỗ vào ? Phật bảo: Như ngựa hay ở đời, thấy bóng roi liền chạy. Sau này các nơi nói: Lại bị gió đùa âm điệu khác. Lại nói: Đầu rồng đuôi rắn. Chỗ nào là bóng roi của Thế Tôn ? Chỗ nào là thấy bóng roi ? Tuyết Đậu nói: Tà chánh chẳng phân, lỗi do bóng roi. Chơn Như nói: A-nan lại đóng chuông vàng, bốn chúng đồng nghe. Tuy nhiên như thế, rất giống hai con rồng giành hạt châu, thêm lớn uy phong của người trí. Tuyết Đậu tụng ra:

TỤNG:   Cơ luân tằng vị chuyển

                Chuyển tất lưỡng đầu tẩu

                Minh cảnh hốt lâm đài

                Đương hạ phân nghiên xú.

                Nghiên xú phân hề mê vân khai

                Từ môn hà xứ sanh trần ai

                Nhân tư lương mã khuy tiên ảnh

                Thiên lý truy phong hoán đắc hồi.

                Hoán đắc hồi, minh chỉ tam hạ.

DỊCH:    Cơ luân chưa từng chuyển

                Chuyển ắt chạy hai đầu

                Gương sáng chợt đến đài

                Liền đó phân tốt xấu. 

               Tốt xấu phân chừ mây mù khai

                Cửa từ đâu đấy sanh trần ai

                Nhân suy ngựa giỏi bóng roi thấy

                Ngàn dặm truy phong gọi được về.

                Gọi được về, khảy móng tay ba cái.

GIẢI TỤNG: Hai câu “cơ luân chưa từng chuyển, chuyển ắt chạy hai đầu”, cơ là linh cơ của ngàn Thánh, luân là mạng mạch của các người từ trước đến nay. Cổ nhân nói: “Linh cơ ngàn Thánh không dễ thân, rồng sanh rồng con chớ dõi theo, Triệu Châu đoạt được liền thành ngọc, Tần chúa Tương Như thảy táng thân.” Ngoại đạo nắm được đứng, làm được chủ, chưa từng động đến. Cớ sao ? Y nói: Chẳng hỏi có lời, chẳng hỏi không lời. Há chẳng phải chỗ toàn cơ ? Thế Tôn biết xem gió thả buồm, hợp bệnh cho thuốc. Vì thế im lặng giây lâu, toàn cơ đề khởi. Ngoại đạo hội được toàn thể, cơ luân liền lăn trùng trục, cũng chẳng chuyển về có, cũng chẳng chuyển về không, cũng chẳng rơi được mất, chẳng câu chấp phàm Thánh, hai bên một lúc dứt sạch. Thế Tôn vừa im lặng, y liền lễ bái. Người nay đa số rơi tại không, chẳng thế thì rơi vào có, chỉ quản tại chỗ có, không hai đầu chạy. Tuyết Đậu nói: “gương sáng chợt đến đài, liền đó phân tốt xấu”, cái này chẳng cần động đến, chỉ tiêu cái im lặng, giống như gương sáng đến đài, vạn tượng không thể trốn hình chất của nó. Ngoại đạo nói: “Thế Tôn đại từ đại bi, vẹt mây mù cho con, khiến con được vào.” Hãy nói chỗ nào là chỗ ngoại đạo vào ? Trong đây phải là mỗi người tự tham, tự cứu, tự ngộ, tự hội mới được. Ở tất cả chỗ đi đứng ngồi nằm chẳng hỏi cao thấp, một lúc hiện thành, lại chẳng dời đổi một mảy tơ. Vừa khởi so tính chừng một sợi tơ đạo lý, liền bít lấp chết người, lại không có phần đi vào. Phần sau tụng về “Thế Tôn đại từ đại bi, vẹt mây mù cho con, khiến con được vào”. “Liền đó phân tốt xấu, tốt xấu phân chừ mây mù khai, cửa từ đâu đấy sanh trần ai.” Cả quả đất là cửa đại từ đại bi của Thế Tôn, nếu ông thấu được chẳng tiêu một cái ấn tay, đây cũng là mở hoát cửa cổng. Đâu chẳng thấy Thế Tôn trong hai mươi mốt ngày suy nghĩ việc như thế, ta nên chẳng nói pháp, chóng vào Niết-bàn. “Nhân suy ngựa giỏi bóng roi thấy, ngàn dặm truy phong gọi được về.” Con ngựa hay đuổi gió thấy bóng roi đã chạy qua ngàn dặm, gọi về liền về. Ý Tuyết Đậu khen y nói, “nếu là hàng anh tuấn mới có thể một cái động liền chuyển, một lời gọi liền về. Nếu gọi được về, liền khảy móng tay ba cái”. Hãy nói là điểm phá ? là ném cát ?

ML
01
02
03
04
05
06
07
08
09
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
c

Nguồn: www.quangduc.com

Về danh mục

Thoát tội nhờ phóng sinh vÛi bạo Mẹ Và một chuyến đi Kiên Giang Húy kỵ lần thứ 9 cố ngay nao toi cung thay than tam an lac Bún Chữa trị bệnh trầm cảm bằng 9 loại thực phẩm giúp giảm cholesterol Tại sao nên kết hợp Đông Y trong sá c xuân ngủ Tròn đầy hạt lứt tiếng tự y nghia cua nghi thuc tam phat p1 muÑi em là ai Ngó co nen dat ten mon chay gia man hay khong nguon goc va dac diem cua phat giao mat chu nhung sai lam cua cha me de tao nen mot dua tre hu Cảnh những sai lầm của cha mẹ để tạo nên toa thuoc bo cho su bat luc Vì sao ung thư tuyến giáp ngày càng tăng giẠkhai mạc hội chợ ẩm thực chay lần Mùa Vu Lan nhìn lại chính mình mÃÆ tho phat le phat va cung phat thờ phật lễ phật và cúng phật tho phat thờ phật đức hiếu sinh 心中有佛 Phật giáo lễ phật và cúng phật như thế nào cho Mùa Quá gầy làm tăng nguy cơ mất trí nhớ ân đức mẹ hiền truyện thơ phật giáo Mẹo cần Thừa thờ phật tại nhà và những điều cần