.
BÍCH NHAM LỤC
Tác giả:Thiền sư Viên Ngộ - Việt dịch: HT. Thích Thanh Từ
Tu viện Chân Không 1980
ML
01
02
03
04
05
06
07
08
09
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
TẮC 76: ĐƠN HÀ ĂN CƠM RỒI CHƯA

LỜI DẪN: Nhỏ như hạt gạo bể, lạnh tợ băng sương, bít lấp càn khôn, lìa sáng dứt tối, chỗ thấp thấp xem đó có dư, chỗ cao cao bình đó chẳng đủ, nắm đứng buông đi, thảy ở trong đây. Lại có chỗ xuất thân hay không, thử cử xem ?

CÔNG ÁN: Đơn Hà hỏi Tăng: Từ đâu đến ? Tăng thưa: Dưới núi đến. Đơn Hà hỏi: Ăn cơm rồi chưa ? Tăng thưa: Ăn cơm rồi. Đơn Hà hỏi: Người đem cơm cho ông ăn có đủ mắt chăng ? Tăng không đáp được. Trường Khánh hỏi Bảo Phước: Đem cơm cho người ăn có phần đền ơn, vì sao lại chẳng đủ mắt ? Bảo Phước đáp: Người thí kẻ thọ cả hai đều mù. Trường Khánh nói: Tột cơ kia đến, lại thành mù chăng ? Bảo Phước nói: Bảo ta mù được chăng ?

GIẢI THÍCH: Thiền sư Thiên Nhiên ở núi Đơn Hà tại Đặng Châu, chẳng biết người xứ nào. Buổi đầu Sư học tập Nho sắp vào Trường An ứng thí, nghỉ ở quán trọ, chợt mộng   thấy hào quang trắng đầy nhà. Người bàn mộng nói: Là điềm hiểu Không. Gặp một Thiền khách hỏi: Nhân giả đi đâu ? Sư đáp: Đi thi làm quan. Thiền khách nói: Thi làm quan đâu bằng thi làm Phật. Sư hỏi: Thi Phật phải đến chỗ nào ? Thiền khách nói: Nay Mã Đại sư ở Giang Tây khai đường dạy chúng là trường thi Phật, nhân giả nên đến đó. Sư liền đi thẳng đến Giang Tây, vừa thấy Mã Đại sư, liền lấy hai tay lột cái mũ trên đầu. Mã Đại sư nhìn kỹ, nói: Tôi không phải thầy của ông, hãy sang Nam Nhạc Thạch Đầu đi. Sư đi thẳng đến Thạch Đầu, lại làm như ý trước. Thạch Đầu bảo: Xuống nhà trù đi. Sư lễ tạ, vào nhà cư sĩ theo chúng làm công tác, đến ba năm. Một hôm Thạch Đầu bảo chúng: Sáng mai hớt cỏ trước điện Phật. Đến hôm sau, đại chúng cầm liềm hái đến trước điện Phật hớt cỏ, riêng Sư múc một thau nước sạch, quì gối trước Thạch Đầu. Thạch Đầu thấy thế cười, vì Sư cạo tóc, tiếp nói giới. Sư bịt lỗ tai đi ra. Thẳng đến Giang Tây yết kiến Mã Tổ. Chưa tham lễ, Sư đi thẳng vào Tăng đường leo ngồi trên cổ tượng Thánh tăng. Đại chúng thấy kinh ngạc, chạy báo cho Mã Tổ. Mã Tổ đích thân đến xem, nói: Con ta Thiên Nhiên. Sư bước xuống lễ bái thưa: Tạ Thầy ban pháp hiệu. Nhân đây gọi là Thiên Nhiên. Cổ nhân Thiên Nhiên như thế thường giải thoát, nên nói thi quan không bằng thi Phật. Trong Truyền Đăng Lục chép ngữ cú của Sư thật là vách đứng ngàn nhẫn, mỗi câu đều có thủ đoạn vì người nhổ đinh tháo chốt. Giống như hỏi vị Tăng này: Ở đâu đến ? Tăng thưa: Ở dưới núi đến. Vị Tăng này lại chẳng thông chỗ đi, giống như người có mắt khám phá ngược lại chủ nhà. Đương thời, nếu chẳng phải Đơn Hà cũng khó nắm được y. Đơn Hà lại hỏi: Ăn cơm chưa ? Ban đầu thảy chưa thấy được, lần thứ hai này khám phá được y. Tăng thưa: Ăn cơm rồi. Kẻ mù mịt vốn là chẳng hiểu. Đơn Hà hỏi: Người đem cơm cho ông ăn có đủ mắt chăng ? Tăng không đáp được. Ý Đơn Hà nói, kẻ vì ông đem cơm kham làm việc gì ? Vị Tăng này nếu là kẻ khác thử cho Sư một tát xem Sư làm gì ? Tuy nhiên như thế, Đơn Hà cũng chưa buông ông. Vị Tăng kia con mắt chớp lia không có lời để đáp. Bảo Phước, Trường Khánh đồng ở trong hội Tuyết Phong, thường cử công án của cổ nhân để thương lượng. Trường Khánh hỏi Bảo Phước: Đem cơm cho người ăn là có phần đền ơn, tại sao không đủ mắt ? Không hẳn hỏi hết việc trong công án này, đại cương mượn lời này làm thoại đầu, cần nghiệm chỗ chân thật của kia. Bảo Phước nói: Người thí kẻ thọ cả hai đều mù. Thích thay! Đến trong đây chỉ luận việc đương cơ, trong nhà có con đường xuất thân. Trường Khánh nói: Người tột cơ kia đến, lại thành mù chăng ? Bảo Phước nói: Bảo ta mù được sao ? Ý Bảo Phước nói ta đủ mắt thế ấy, vì ông nói rồi, lại nói ta mù được chăng ? Tuy nhiên như thế, là nửa nhắm nửa mở. Khi ấy nếu là Sơn tăng đợi y nói “người tột cơ kia đến, lại thành mù chăng”, chỉ nói với y “mù”. Đáng tiếc Bảo Phước khi ấy nếu hạ được một chữ “mù”, khỏi bị Tuyết Đậu có nhiều thứ sắn bìm. Tuyết Đậu chỉ dùng ý này tụng:

TỤNG:            Tận cơ bất thành hạt

                        Án ngưu đầu khiết thảo

                        Tứ thất nhị tam chư Tổ sư

                        Bảo khí trì lai thành quá cựu.

                        Quá cựu thâm, vô xứ tầm

                        Thiên thượng nhân gian đồng lục trầm.

DỊCH:             Tột cơ chẳng thành mù

                        Chận đầu trâu ăn cỏ

                        Ba mươi ba chư vị Tổ sư

                        Bảo khí đến giờ thành quấy lỗi.

                        Quấy lỗi sâu, không chỗ tìm

                        Trên trời nhân gian đồng ngập chìm.

GIẢI TỤNG: Câu “tột cơ chẳng thành mù”, Trường Khánh nói người tột cơ kia đến, lại thành mù chăng ? Bảo Phước nói “bảo ta mù được chăng”, giống như “chận đầu trâu ăn cỏ”. Phải đồng với kia tự ăn mới được, trong ấy lại chận đầu trâu ăn cỏ. Tuyết Đậu tụng thế ấy tự nhiên thấy ý Đơn Hà. “Ba mươi ba chư vị Tổ sư, bảo khí đến giờ thành quấy lỗi”, chẳng những chỉ đới lụy Trường Khánh, cho đến Tây thiên hai mươi tám Tổ, Trung Hoa sáu Tổ, đồng thời chôn vùi. Đức Phật Thích-ca bốn mươi chín năm nói một Đại Tạng kinh, rốt sau chỉ truyền một bảo khí này. Vĩnh Gia nói: “Chẳng phải tiêu hình việc truyền suông, gậy báu Như Lai còn dấu vết.” Nếu khởi kiến giải của Bảo Phước thì bảo khí giữ đến giờ trọn thành quấy lỗi. “Quấy lỗi sâu, không chỗ tìm”, cái này vì ông nói chẳng được, chỉ tìm chỗ ngồi yên, nhằm trong câu này kiểm điểm xem ? Đã là quấy lỗi sâu, tại sao lại không chỗ tìm ? Đây không phải lỗi nhỏ, vì đem việc lớn của Tổ sư một lúc ở trên đất bằng làm chìm ngập hết. Vì thế Tuyết Đậu nói “trên trời nhân gian đồng ngập chìm”.

?

TẮC 77: VÂN MÔN BÁNH HỒ

LỜI DẪN: Hướng thượng chuyển thì khả dĩ xỏ lỗ mũi người trong thiên hạ, giống như chim cắt chụp chim cưu. Hướng hạ chuyển thì lỗ mũi mình trong tay người khác, như rùa ẩn trong vỏ. Trong đây nếu có người ra nói: xưa nay không hướng thượng không hướng hạ, dùng chuyển làm gì, chỉ nói với y: Ta cũng biết ông nhằm trong hang quỉ làm kế sống. Hãy nói làm sao biện được trắng đen ? Im lặng giây lâu, nói: Có cành vin cành, không cành vin nhánh, thử cử xem ?

CÔNG ÁN: Tăng hỏi Vân Môn: Thế nào là nói siêu Phật việt Tổ ? Vân Môn đáp: Bánh hồ.

GIẢI THÍCH: Vị Tăng hỏi Vân Môn: Thế nào là nói siêu Phật việt Tổ ? Vân Môn đáp: Bánh hồ. Nghe có cảm giác rợn óc lông dựng đứng chăng ? Hàng Thiền khách hỏi Phật hỏi Tổ, hỏi thiền hỏi đạo, hỏi hướng thượng hướng hạ xong, lại chỗ không thể đặt thành câu hỏi, mà hỏi nói siêu Phật việt Tổ. Vân Môn là tác gia, nước lớn thì thuyền cao, đất nhiều thì Phật lớn, đáp rằng: Bánh hồ. Đáng gọi là nói không luống rỗng, công chẳng uổng bày. Vân Môn dạy chúng: Ông chớ khởi liễu, nghe người nói đến ý Tổ sư liền hỏi đạo lý siêu Phật việt Tổ. Ông hãy nói thế nào là Phật, thế nào là Tổ, rồi sẽ hỏi siêu Phật việt Tổ. Như hỏi ra khỏi tam giới, ông đem tam giới lại xem ? Có cái thấy nghe hiểu biết gì cách ngại được ông ? Có thanh sắc Phật pháp gì cho ông nên liễu ? Liễu cái bát gì ? Do kiến giải gì làm sai thù ? Cổ Thánh kia có làm gì được ông ? Thân đi ngang là vật, nói cả thân toàn chân, mỗi vật thấy thể, không thể được. Tôi nói với ông thẳng đó là việc gì ? Sớm đã chôn vùi rồi vậy. Hiểu được lời này liền biết được bánh hồ. Ngũ Tổ nói: Phân lừa sánh xạ hương. Nên nói “Cắt thẳng cội nguồn Phật đã ấn, vạch lá tìm cành tôi chẳng hay.” Đến trong đây muốn được thân thiết chớ đem hỏi đến hỏi. Xem vị Tăng này hỏi thế nào là siêu Phật việt Tổ, Vân Môn nói: Bánh hồ. Lại biết hổ thẹn chăng ? Lại hiểu ló đuôi chăng ? Có một nhóm người đổ soạn nói Vân Môn thấy thỏ thả chim ưng, nên nói bánh hồ. Nếu thế ấy đem bánh hồ cho là siêu Phật việt Tổ làm chỗ thấy, làm sao có con đường sống ? Chớ khởi bánh hồ hội, lại chẳng khởi siêu Phật việt Tổ hội, mới là con đường sống. Sánh với “ba cân gai”, “biết đánh trống” cùng một loại. Tuy nhiên chỉ nói bánh hồ quả thật khó thấy. Người sau phần nhiều khởi đạo lý nói: Nói thô và lời tế đều về đệ nhất nghĩa. Nếu hiểu thế ấy, hãy đi làm Tọa chủ, một đời gầy dựng được nhiều tri nhiều giải. Hiện nay Thiền khách nói: Khi siêu Phật việt Tổ thì chư Phật đạp tại gót chân, Tổ sư cũng đạp tại gót chân. Vì thế Vân Môn chỉ nhằm kia nói bánh hồ. Đã là bánh hồ há hiểu siêu Phật việt Tổ, thử tham kỹ xem ? Các nơi tụng rất nhiều, trọn nhằm chỗ hỏi mà tạo ngôn ngữ, duy Tuyết Đậu tụng rất hay, thử cử xem ?

TỤNG:   Siêu đàm thiền khách vấn thiên đa

                Phùng há phi ly kiến dã ma

                Hồ bính áp lai du bất trụ

                Chí kim thiên hạ hữu hào ngoa.

DỊCH:   Siêu đàm thiền khách hỏi thiên nhiều

               Chắp vá mở rời thấy đó chăng

               Bánh hồ lấp lại còn không đứng

               Đến nay thiên hạ vẫn hào ngoa.

GIẢI TỤNG: Câu “siêu đàm thiền khách hỏi thiên nhiều”, lời này Thiền khách riêng thích hỏi. Đâu chẳng thấy Vân Môn nói: Quí vị vác ngang cây gậy nói ta tham thiền học đạo, liền tìm cái đạo lý siêu Phật việt Tổ. Tôi hỏi ông trong mười hai giờ đi đứng ngồi nằm, đi tiểu đi đại, đến như con trùng trong hầm cỏ, mua bán thịt dê ở ngoài chợ, lại có đạo lý siêu Phật việt Tổ chăng ? Nói được ra đây, nếu không, chớ chướng ta đi Đông đi Tây, liền xuống tòa. Có người lại chẳng biết tốt xấu, vẽ một vòng tròn, trên đất thêm bùn, thêm gông kẹt cùm. Câu “chắp vá mở rời thấy đó chăng”, kia đặt chỗ hỏi có tính cách chắp vá. Vân Môn thấy chỗ hỏi kia mở rời, vì thế đem bánh hồ đắp vá lấp bít chận đứng. Vị Tăng kia vẫn tự chẳng chịu đứng, trở lại hỏi. Thế nên Tuyết Đậu nói “bánh hồ lấp lại còn không đứng, đến nay thiên hạ vẫn hào ngoa”. Thiền khách chỉ quản ở trên bánh hồ mà hiểu, chẳng thế thì ở chỗ siêu Phật việt Tổ làm đạo lý. Đã chẳng ở hai đầu này, cứu kính ở chỗ nào ? Ba mươi năm sau, đợi Sơn tăng hoán cốt trở lại sẽ nói với ông.

?

TẮC 78: KHAI SĨ VÀO TẮM

CÔNG ÁN: Xưa có mười sáu vị Khai sĩ đến nhà tắm chúng Tăng theo thứ lớp vào tắm, chợt ngộ nhân nước. Chư Thiền đức làm sao hiểu, Ngài nói: “Diệu xúc tuyên minh thành Phật tử trụ.” Cũng phải bảy xoi tám phủng mới được.

GIẢI THÍCH: Trên hội Lăng Nghiêm, Bồ-tát Bạt-đà-bà-la cùng mười sáu vị Khai sĩ, mỗi vị tu phạm hạnh, mỗi vị nói nhân sở chứng pháp môn viên thông, đây cũng là một trong số hai mươi lăm môn viên thông. Ngài nhân đến nhà tắm chúng Tăng theo thứ lớp vào tắm, chợt ngộ nhân nước, nói: “Đã chẳng rửa bụi cũng chẳng rửa thân.” Hãy nói rửa cái gì ? Nếu hội được, khoảng giữa an nhiên rỗng rang, ngàn người muôn người gần bên chẳng được. Nên nói do không sở đắc là chân Bát nhã, nếu có sở đắc là tương tợ Bát-nhã. Tổ Đạt-ma bảo Nhị Tổ: Đem tâm ra, ta vì ông an. Nhị Tổ thưa: Tìm tâm trọn chẳng thể được. Chút ít trong đây là tánh mạng căn bản của Thiền khách. Lại thảy chẳng tiêu nhiều thứ sắn bìm, chỉ tiêu cái chợt ngộ nhân nước, tự nhiên liễu ngộ. Đã chẳng rửa bụi cũng chẳng rửa thân, hãy nói ngộ cái gì ? Đến loại điền địa này, một điểm cũng dính chẳng được, nói chữ Phật cũng phải kỵ tránh. Ngài nói: “Diệu xúc tuyên minh thành Phật tử trụ”, chữ tuyên là hiển, diệu xúc là minh. Đã ngộ diệu xúc thành Phật tử trụ, tức là trụ Phật địa. Như người nay cũng vào nhà tắm cũng rửa nước, cũng xúc thế ấy tại sao chẳng ngộ ? Bởi tại trần cảnh che mờ, dính da kẹt xương, vì thế không thể liền tỉnh tỉnh. Nếu nhằm trong này rửa cũng không sở đắc, xúc cũng không sở đắc, nhân nước cũng không sở đắc. Hãy nói là diệu xúc tuyên minh hay chẳng phải diệu xúc tuyên minh ? Nếu nhằm trong đây liền đó thấy được, là diệu xúc tuyên minh thành Phật tử trụ. Người nay cũng xúc lại thấy chỗ diệu chăng ? Diệu xúc phi thường xúc, cùng người xúc hiệp thì làm xúc, ly thì phi. Huyền Sa leo núi dập đầu một ngón chân, cho đến gậy của Đức Sơn, há chẳng phải diệu xúc ? Tuy nhiên thế ấy, cũng phải bảy xoi tám phủng mới được. Nếu chỉ nhằm trên thân tìm kiếm thì có gì giao thiệp. Nếu ông bảy xoi tám phủng thì đâu cần vào nhà tắm, liền ở trên một đầu mảy lông hiện cõi Bảo Vương, nhằm trong vi trần chuyển đại pháp luân, một chỗ thấu được, ngàn chỗ muôn chỗ đồng thời thấu. Chớ nên giữ một hang một ổ, tất cả chỗ trọn là cửa Quan Âm nhập lý. Cổ nhân cũng có nghe tiếng ngộ đạo, thấy sắc rõ tâm. Nếu một người ngộ là phải, tại sao mười sáu vị Khai sĩ đồng thời ngộ ? Thế nên cổ nhân đồng tu đồng chứng đồng ngộ đồng giải. Tuyết Đậu niêm giáo ý kia khiến người đến chỗ diệu xúc ngộ lấy. Tụng ra con mắt giáo lý kia, khiến người thoát khỏi lưới giáo lý che phủ nửa say nửa tỉnh. Cốt cho người liền đó sạch trơn thong dong đi.

TỤNG:  Liễu sự Nạp tăng tiêu nhất cá

               Trường liên sàng thượng triển cước ngọa

               Mộng trung tằng thuyết ngộ viên thông

               Hương thủy tẩy lai mạch diện thóa.

DỊCH:  Xong việc Thiền tăng tiêu một cái

              Nằm dài trên chõng chân duỗi thẳng

              Trong mộng từng nói ngộ viên thông

              Hương thủy rửa xong thẳng mặt nhổ.

            GIẢI TỤNG: Câu “xong việc Thiền tăng tiêu một cái”, hãy nói xong được việc gì ? Hàng tác gia Thiền khách nghe nhắc đến đứng dậy liền đi, giống như Thiền tăng thế ấy chỉ tiêu được một cái, đâu cần thành đoàn kết nhóm. Câu: “nằm dài trên chõng chân duỗi thẳng”, cổ nhân nói: “Rõ ràng không pháp ngộ, ngộ xong lại là mê, duỗi thẳng hai chân ngủ, không ngụy cũng không chân.” Vì thế trong ngực không một việc, đói đến ăn cơm, mệt ngủ khò. Ý Tuyết Đậu nói, nếu ông nói vào nhà tắm ngộ được diệu xúc tuyên minh, ở trên phần Thiền tăng vô sự chỉ giống trong mộng nói mộng. Vì thế nói: “Trong mộng từng nói ngộ viên thông, hương thủy rửa xong thẳng mặt nhổ.” Giống thế ấy chỉ là nước dơ đổ thẳng trên đầu, nói cái gì là viên thông ? Tuyết Đậu nói như hạng người này chính nên nhổ ngay đầu ngay mặt. Sơn tăng nói trên đất thêm bùn thêm một lớp.

?

TẮC 79: ĐẦU TỬ TẤT CẢ TIẾNG PHẬT

LỜI DẪN: Đại dụng hiện tiền chẳng còn khuôn phép, bắt sống giam chẳng nhọc sức thừa. Hãy nói là người nào từng thế ấy đến, thử cử xem ?

CÔNG ÁN: Tăng hỏi Đầu Tử: Tất cả tiếng là tiếng Phật phải chăng ? Đầu Tử đáp: Phải. Tăng thưa: Hòa thượng chớ cho tiếng hạ phong tiếng khua bát. Đầu Tử liền đánh. Tăng lại hỏi: Lời thô và tiếng tế đều về đệ nhất nghĩa phải chăng ? Đầu Tử đáp: Phải. Tăng thưa: Kêu Hòa thượng là con lừa được chăng ? Đầu Tử liền đánh.

GIẢI THÍCH: Đầu Tử chất phác được tài hùng biện siêu quần. Phàm có người hỏi vừa mở miệng liền thấy mật, chẳng phí sức thừa, ngồi đoạn đầu lưỡi kẻ khác, đáng gọi là ngồi trong phòng kín tính toán quyết thắng ngoài ngàn dặm. Vị Tăng này đem kiến giải Phật pháp thanh sắc dán ở trên đầu gặp người liền hỏi. Đầu Tử là hàng tác gia gió đến biện rành. Vị Tăng này biết chỗ thật thà của Đầu Tử nên hạ một cái lồng bẫy khiến Đầu Tử vào trong, cho nên có lời sau. Đầu Tử lại sử dụng cái máy gài cọp, câu lời sau của y nói ra. Tăng nhận chỗ đáp kia, liền nói: Hòa thượng chớ cho tiếng hạ phong tiếng khua bát. Quả nhiên một phen câu liền mắc, nếu là người khác không làm gì được vị Tăng này. Đầu Tử đủ mắt sáng theo sau liền đánh, thủ đoạn nhai chó lợn phải trao lại cho hàng tác gia mới được, xoay bên trái tùy kia lăn trùng trục, xoay bên phải tùy kia lăn trùng trục. Vị Tăng này đã tạo cái lồng bẫy cần đến nhổ râu cọp. Đâu ngờ Đầu Tử đi trên lồng bẫy kia, nên liền đánh. Vị Tăng này đáng tiếc có đầu không đuôi. Khi ấy đợi Sư cầm gậy, liền lật ngược giường thiền, dù cho Đầu Tử toàn cơ cũng phải thoái lui ba ngàn dặm. Lại hỏi: Lời thô và tiếng tế đều về đệ nhất nghĩa phải chăng ? Đầu Tử cũng nói phải. Giống hệt câu hỏi trước không khác. Tăng nói: Kêu Hòa thượng là con lừa được chăng ? Đầu Tử lại đánh. Tuy nhiên vị Tăng này tạo sào huyệt quả thật kỳ đặc. Nếu là kẻ Trưởng lão không mắt ngồi trên giường gỗ cũng khó mà bẻ gãy y. Đầu Tử có chỗ chuyển thân. Vị Tăng này đã tạo đạo lý cốt làm đảo lộn giá trị của Ngài, cuối cùng như trước chẳng làm gì được lão Đầu Tử. Nham Đầu nói: Nếu luận chiến, mỗi mỗi đứng tại chỗ chuyển. Đầu Tử phóng đi rất chậm, thâu lại quá nhanh. Khi ấy vị Tăng này nếu biết chuyển thân thổ khí, há chẳng làm được cái kẻ miệng như chậu máu. Hàng Thiền khách một chẳng làm, hai chẳng thôi. Vị Tăng này đã chẳng giỏi nhảy né, lại bị Đầu Tử xỏ lỗ mũi.

TỤNG:            Đầu Tử ! Đầu Tử !

                        Cơ luân vô trở

                        Phóng nhất đắc nhị

                        Đồng bỉ đồng thử.

                        Khả lân vô hạn lộng triều nhân

                        Tất cánh hoàn lạc triều trung tử

                        Hốt nhiên hoạt

                        Bách xuyên đảo lưu náo quát quát.

DỊCH:             Đầu Tử ! Đầu Tử !

                        Cơ luân không trở

                        Buông một được hai

                        Đồng kia đồng đây.

                        Đáng thương vô hạn người đùa sóng

                        Rốt cuộc trong sóng đành chết chìm

                        Bỗng nhiên sống

                        Trăm sông chảy ngược tiếng ào ào.

GIẢI TỤNG: Hai câu “Đầu Tử ! Đầu Tử ! Cơ luân không trở”, Đầu Tử bình thường hay nói: Các ông thảy nói chỗ thật của Đầu Tử, bất chợt xuống núi ba bước, có người hỏi thế nào là chỗ thật của Đầu Tử, ông phải đáp làm sao ? Cổ nhân nói: Chỗ cơ luân chuyển, tác giả còn mê. Sư cơ luân chuyển trùng trục toàn không cách trở. Sở dĩ Tuyết Đậu nói: “Buông một được hai”. Như Tăng hỏi: Thế nào là Phật ? Đầu Tử đáp: Phật. Lại hỏi: Thế nào là đạo ? Đầu Tử đáp: Đạo. Lại hỏi: Thế nào là thiền ? Đầu Tử đáp: Thiền. Lại hỏi: Khi mặt trăng chưa tròn thì thế nào ? Đầu Tử đáp: Nuốt hết ba cái bốn cái. Lại hỏi: Sau khi tròn rồi thì thế nào ? Đầu Tử đáp: Mửa ra bảy cái tám cái. Đầu Tử tiếp người thường thường dùng cơ này. Đáp vị Tăng ở đây cũng chỉ là một chữ “phải”. Vị Tăng này hai lần bị đánh, thế nên Tuyết Đậu nói “đồng kia đồng đây”. Bốn câu này tụng Đầu Tử xong. Rốt sau tụng vị Tăng này nói: “Đáng thương vô hạn người đùa sóng”, vị Tăng dám giựt cờ cướp trống nói “Hòa thượng chớ cho tiếng hạ phong tiếng khua bát”. Lại nói “kêu Hòa thượng là con lừa được chăng”, đây là chỗ đùa sóng. Vị Tăng làm hết khả năng, như trước chết trong câu Đầu Tử. Đầu Tử liền đánh. Vị Tăng bèn là “rốt cuộc trong sóng đành chết chìm”. Tuyết Đậu cứu vị Tăng nói “bỗng nhiên sống”, liền lật ngược giường thiền, Đầu Tử cũng phải thoái lui ba ngàn dặm. Liền được “trăm sông chảy ngược tiếng ào ào”, chẳng những giường thiền chấn động, cho đến núi sông ngập lụt trời đất tối tăm. Nếu là mỗi mỗi đều như thế, Sơn tăng phải đánh trống thoái lui, quí vị nhằm chỗ nào an thân lập mạng ?

?

TẮC 80: TRIỆU CHÂU HÀI TỬ MỚI SANH

CÔNG ÁN: Tăng hỏi Triệu Châu: Hài tử mới sanh lại đủ sáu thức hay không ? Triệu Châu đáp: Trên nước chảy nhanh đánh cầu. Tăng lại hỏi Đầu Tử: Trên nước chảy nhanh đánh cầu ý nghĩa thế nào ? Đầu Tử đáp: Niệm niệm chẳng dừng chảy.

GIẢI THÍCH: Sáu thức này các nhà kinh điển lập làm gốc chánh, núi sông, đại địa, mặt trời, mặt trăng, sao đều nhân nó mà sanh, đến là tiên phong đi là điện hậu. Cổ nhân nói: Ba cõi duy tâm, muôn pháp duy thức. Nếu chứng Phật địa chuyển tám thức thành bốn trí, nhà kinh điển gọi là chuyển tên mà chẳng đổi thể. Căn trần thức là ba, tiền trần vốn chẳng biết phân biệt, thắng nghĩa căn hay phát sanh thức, thức hay hiển sắc phân biệt, tức là ý thức thứ sáu. Thức thứ bảy tên Mạt-na thức hay gìn giữ tất cả ảnh sự thế gian, khiến người phiền não không được tự do tự tại đều do thức thứ bảy. Thức thứ tám gọi là A-lại-da thức, cũng gọi là Hàm tàng thức, hàm tàng tất cả chủng tử thiện ác. Vị Tăng này biết giáo ý nên đem lại hỏi Triệu Châu: “Hài tử mới sanh lại có đủ sáu thức hay không ?” Hài nhi mới sanh tuy đủ sáu thức, mắt hay thấy tai hay nghe, song chưa từng phân biệt sáu trần, tốt xấu dài ngắn phải quấy được mất, khi ấy nó thảy chẳng biết. Người học đạo cần như anh hài, vinh nhục công danh nghịch tình thuận cảnh trọn động nó không được. Mắt thấy sắc cùng mù đồng, tai nghe tiếng cùng điếc đồng, như ngu như ngốc, tâm nó chẳng động như núi Tu-di. Cái này là chỗ Thiền khách chân thật đắc lực. Cổ nhân nói: “Trùm chăn phủ đầu muôn sự thôi, khi này Sơn tăng trọn chẳng hiểu.” Nếu hay như thế mới có ít phần tương ưng. Tuy nhiên như thế, dù cho một điểm cũng chẳng lừa y được, núi như xưa là núi, nước như xưa là nước, không tạo tác không duyên lự. Như mặt trời mặt trăng vận hành trong hư không chẳng từng tạm nghỉ, cũng chẳng nói ta có bao nhiêu danh tướng. Như trời che khắp, tợ đất chở khắp, vì không tâm nên trưởng dưỡng vạn vật, cũng chẳng nói ta có bao nhiêu công hạnh. Trời đất vì không tâm nên trường cửu, nếu có tâm ắt có chừng hạn. Người đắc đạo cũng lại như thế, ở trong cái không công dụng mà bày công dụng, tất cả điều trái tình thuận cảnh đều dùng từ tâm nhiếp thọ. Đến trong đây cổ nhân còn quở trách nói: Liễu liễu khi liễu không sở liễu, huyền huyền chỗ huyền còn phải rầy. Lại nói: Việc việc thông chừ vật vật sáng, người đạt đạo nghe đó trong tối sợ. Lại nói: “Vào Thánh siêu phàm chẳng tạo thanh, rồng nằm hằng sợ suối trong xanh, người đời nếu được hằng như thế, đại địa đâu hay để một tên.” Song tuy thế ấy, lại phải nhảy ra khỏi sào huyệt mới được. Há chẳng thấy trong kinh nói: “Bồ-tát Bất Động Địa thứ tám lấy trí vô công dụng ở hạt bụi chuyển đại pháp luân, ở trong tất cả thời đi đứng ngồi nằm chẳng nệ được mất, hồn nhiên trôi vào biển Tát-bà-nhã.” Hàng Thiền tăng đến trong đây cũng không thể chấp trước, chỉ tùy thời tự tại, gặp trà uống trà, gặp cơm ăn cơm, việc hướng thượng này chấp chữ “định” cũng chẳng được, chấp chữ “bất định” cũng chẳng được. Hòa thượng Thiện Đạo ở Thạch Thất dạy chúng: “Ông chẳng thấy tiểu nhi khi ra khỏi thai, đâu từng nói ta biết xem kinh, chính khi ấy cũng chẳng biết có nghĩa Phật tánh, không nghĩa Phật tánh, đến khi lớn lên học các thứ tri giải, liền nói ta hay ta hiểu, chẳng biết là khách trần phiền não. Trong mười sáu quán hạnh, hạnh anh nhi là hơn hết, khi đa đa hòa hòa là dụ người học đạo lìa tâm phân biệt thủ xả, nên khen ngợi hạnh anh nhi, lấy đó làm thí dụ. Nếu bảo anh nhi là đạo, là người thời nay hiểu lầm”. Nam Tuyền nói: Ta trên mười tám tuổi mới biết tạo kế sống. Triệu Châu nói: Ta trên mười tám tuổi mới biết phá nhà tan cửa. Lại nói: Ta ở phương Nam hai mươi năm trừ hai thời cơm cháo là chỗ tạp dụng tâm. Tào Sơn hỏi Tăng: Bồ-tát trong định nghe voi lớn qua sông rõ ràng, là xuất phát ở kinh nào ? Tăng thưa: Kinh Niết-bàn. Tào Sơn hỏi: Trước định nghe hay sau định nghe ? Tăng thưa: Hòa thượng trôi vậy. Tào Sơn nói: Dưới bãi tiếp lấy. Kinh Lăng Nghiêm nói: Lặng vào hiệp lặng là vào bên mé thức. Kinh Lăng-già nói :“Tướng sanh chấp ngại, tưởng sanh vọng tưởng, lưu chú sanh thì theo vọng lưu chuyển”. Nếu đến địa vô công dụng vẫn còn ở trong tướng lưu chú, phải ra khỏi cái tướng lưu chú sanh thứ ba mới sống vui thích tự tại. Vì thế Qui Sơn hỏi Ngưỡng Sơn: Huệ Tịch con thế nào ? Ngưỡng Sơn thưa: “Hòa thượng hỏi kiến giải của con hay hỏi hạnh giải của con ? Nếu hỏi hạnh giải của con thì con chẳng biết, nếu hỏi kiến giải như nước trong một bình rót vào trong một bình.” Nếu được như thế mới đáng làm thầy một phương. Triệu Châu nói: “trên nước chảy nhanh đá cầu”, sớm đã lăn trùng trục. Lại khi nhằm trên nước chảy nhanh đánh, con mắt vừa liếc là đã qua. Như kinh Lăng Nghiêm nói: Như dòng nước chảy nhanh, trông dường như lặng lẽ. Cổ nhân nói: Thí như nước chảy nhanh, dòng nước không dừng đứng, mỗi mỗi chẳng biết nhau, các pháp cũng như thế. Chỗ đáp của Triệu Châu, ý hàm chứa loại này.

Vị Tăng kia lại hỏi Đầu Tử: Trên nước chảy nhanh đá cầu là thế nào ? Đầu Tử đáp: Niệm niệm chẳng dừng chảy. Tự nhiên chỗ hỏi kia hợp nhau. Cổ nhân công hạnh miên mật, đáp được chỉ giống một cái, chẳng cần suy tính. Ông vừa hỏi, các ngài đã sớm biết chỗ rơi của ông rồi. Sáu thức của hài nhi tuy nhiên không công dụng, vẫn là niệm niệm chẳng dừng, như dòng nước chảy ngầm. Đầu Tử đáp thế ấy, đáng gọi là biện thấu gió đến. Tuyết Đậu tụng:

TỤNG:  Lục thức vô công thân nhất vấn

                Tác gia tằng cộng biện lai đoan

                Mang mang cấp thủy đả cầu tử

                Lạc xứ bất đình thùy giải khan ?

DỊCH:    Sáu thức không công bày một hỏi

                Tác gia từng hợp biện nguyên do

                Mênh mông nước chảy đánh cầu ấy

                Chỗ rụng chẳng dừng ai biết xem ?

GIẢI TỤNG: Câu “sáu thức không công bày một hỏi”, cổ nhân học đạo nuôi dưỡng đến chỗ này, gọi là công không công cùng anh nhi một loại. Tuy có mắt tai mũi lưỡi thân ý mà không thể phân biệt sáu trần, bởi không công dụng vậy. Đã đến điền địa này chính là hàng rồng phục cọp, ngồi thoát đứng chết. Người nay chỉ đem muôn cảnh trước mắt một lúc hết sạch, đâu hẳn Bát địa trở lên mới là như thế. Tuy nhiên chỗ không công dụng, như trước núi là núi nước là nước. Phần trước Tuyết Đậu tụng “trong sống có mắt lại đồng chết, thuốc kỵ đâu cần xét tác gia”. Bởi vì Triệu Châu, Đầu Tử là tác gia, nên nói: “Tác gia từng hợp biện nguyên do, mênh mông nước chảy đánh cầu ấy.” Đầu Tử nói: “niệm niệm chẳng dừng chảy”, các ông lại biết chỗ rơi không ? Tuyết Đậu rốt sau bảo người tự để mắt xem, thế nên nói: “Chỗ rụng chẳng dừng ai biết xem ?” Đây là câu sống của Tuyết Đậu, hãy nói rơi ở chỗ nào ?

ML
01
02
03
04
05
06
07
08
09
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
c

Nguồn: www.quangduc.com

Về danh mục

tu tanh di da 1 Ä Æ sóng quÃ Æ thì cành mai vẫn nở c½u Bơi luật chua yen lac đức phật ở đâu Mộc miên do Ð Ñ Ñ Những di tích lịch sử văn hóa liên quan phat va dao phat Ký ức về mùa Phật đản Chìa trí tuệ chìa khoá mở ra tầm nhìn về Chất tạo ngọt có làm tăng tron hành phap duyen khoi trong con mat thien quan lăng già ở nơi đó có hoa dã quỳ Tưởng niệm Đại đức khai sơn chùa nam VẠphát 燒指 chao hoan hy gieo yêu thương Cao Tin Lễ Bầu Ông và tục thờ Bạch hổ tuc Bá t Ngà Ăn chay phân hai loc dau nam coi chung phai toi CÃn Nhân sâm có tác dụng điều trị cảm nhan qua gián Dâu co