.
BÍCH NHAM LỤC
Tác giả:Thiền sư Viên Ngộ - Việt dịch: HT. Thích Thanh Từ
Tu viện Chân Không 1980
ML
01
02
03
04
05
06
07
08
09
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
TẮC 51: TUYẾT PHONG LÀ CÁI GÌ

LỜI DẪN: Vừa có phải quấy, lăng xăng mất tâm; chẳng rơi giai cấp, lại không dò tìm. Hãy nói thả đi là phải, nắm đứng là phải ? Đến trong đây còn có mảy tơ đường hiểu, vẫn kẹt nói bàn, còn mắc cơ cảnh, trọn là nương cỏ gá cây. Dù cho liền đến chỗ độc thoát, chưa khỏi muôn dặm trông quê nhà, lại nắm được chăng ? Nếu chưa nắm được, chỉ lý hội công án hiện thành, thử cử xem ?

CÔNG ÁN: Khi Tuyết Phong ở am có hai vị Tăng đến lễ bái. Tuyết Phong thấy đến, lấy tay đẩy cửa am, phóng thân ra ngoài, nói: Là cái gì ? Tăng cũng nói: Là cái gì ? Tuyết Phong cúi đầu về am. Vị Tăng sau đến Nham Đầu, Nham Đầu hỏi: Ở đâu đến ? Tăng thưa: Lãnh Nam đến. Nham Đầu hỏi: Từng đến Tuyết Phong chưa ? Tăng thưa: Từng đến. Nham Đầu hỏi: Có những ngôn cú gì ? Tăng thuật lại việc trước. Nham Đầu hỏi: Ông ấy nói gì ? Tăng thưa: Không nói, chỉ cúi đầu về am. Nham Đầu nói: Ôi ! Ta hối hận buổi đầu chẳng nói với y câu rốt sau, nếu nói với y thì người trong thiên hạ làm gì được lão Tuyết. Tăng đến cuối hạ nhắc lại việc trước thưa hỏi. Nham Đầu hỏi: Sao không hỏi sớm ? Tăng thưa: Chưa dám khinh thường. Nham Đầu nói: Tuyết Phong tuy cùng ta đồng điều sanh, chẳng cùng ta đồng điều tử, cần biết câu rốt sau chỉ là thế.

GIẢI THÍCH: Phàm là người phù trì tông giáo phải biện rõ đương cơ, biết tiến thoái phải quấy, rành giết sống giữ tha. Nếu như con mắt mờ mờ mịt mịt đến nơi gặp hỏi thì hỏi, gặp đáp thì đáp, không biết lỗ mũi ở trong tay người khác. Tuyết Phong, Nham Đầu đồng tham kiến Đức Sơn. Vị Tăng này tham vấn Tuyết Phong kiến giải chỉ đến thế ấy, cho đến yết kiến Nham Đầu cũng chẳng từng thành được một việc, luống phiền hai vị lão Tôn túc, một hỏi một đáp, một giữ một tha, thẳng đến ngày nay người trong thiên hạ thành khúc mắc rối loạn, phân giải không ra. Hãy nói khúc mắc rối loạn ở tại chỗ nào ? Tuyết Phong tuy trải khắp nơi, rốt sau ở quán trọ Ngao Sơn nhờ Nham Đầu kích phát mới được dứt bặt đại triệt. Nham Đầu sau bị sa thải, ở bên hồ làm người đưa đò, hai bên bờ treo mỗi bên một cái bản, có người cần qua gõ một tiếng bản. Nham Đầu nói: Ông qua bờ kia, liền trong lùm lau múa chèo chui ra. Tuyết Phong về Lãnh Nam ở am, vị Tăng này cũng là người cửu tham, Tuyết Phong thấy đến lấy tay đẩy cửa am phóng thân ra ngoài nói là cái gì ? Như hiện nay có hỏi thế ấy, liền chụp lấy nghiền ngẫm. Vị Tăng này cũng lạ, chỉ đáp lại là cái gì ? Tuyết Phong cúi đầu về am. Thường thường bảo đây là vô ngữ hội vậy. Vị Tăng này dò tìm chẳng được. Có người nói Tuyết Phong bị một câu hỏi của vị Tăng này khiến phải lặng câm về am. Đâu chẳng biết ý Tuyết Phong có chỗ độc hại. Tuyết Phong tuy được tiện nghi đâu ngờ giấu thân lại bày bóng. Sau vị Tăng mang công án này từ Tuyết Phong đến Nham Đầu nhờ phán xét. Đến nơi, Nham Đầu hỏi: Ở đâu đến ? Tăng thưa: Lãnh Nam đến. Hỏi: Từng đến Tuyết Phong chăng ? Nếu cần thấy Tuyết Phong chỉ một câu hỏi này khéo để mắt xem thấy. Đáp: Từng đến. Hỏi: Có ngôn cú gì ? Lời này cũng chẳng phải qua suông. Vị Tăng chẳng hiểu, chỉ thiết chạy theo ngữ mạch kia chuyển. Hỏi: Ông ấy nói gì ? Đáp: Sư cúi đầu không nói về am. Vị Tăng này đâu chẳng biết Nham Đầu mang giày cỏ đi trong bụng ông mấy lượt rồi. Nham Đầu nói: Ôi ! Ta hối hận buổi đầu chẳng nói với y câu rốt sau, nếu nói với y câu rốt sau thì người trong thiên hạ làm gì được lão Tuyết. Nham Đầu cũng là giúp mạnh chẳng giúp yếu. Vị Tăng như trước vẫn tối mịt mịt chẳng phân đen trắng, ôm một bụng nghi, cho thật là Tuyết Phong chẳng hội, đến cuối hạ lại nhắc việc ấy để thưa thỉnh. Nham Đầu bảo: Sao chẳng hỏi sớm ? Lão già này mưu mô làm sao ! Tăng thưa: Chẳng dám khinh thường. Nham Đầu nói: Tuyết Phong tuy cùng ta đồng điều sanh, chẳng cùng ta đồng điều tử, cần biết câu rốt sau chỉ là thế. Nham Đầu quá mực chẳng tiếc lông mày, các ông cứu cánh làm sao hội ? Tuyết Phong ở trong hội Đức Sơn làm phạn đầu một hôm trai trễ, Đức Sơn ôm bát đến pháp đường, Tuyết Phong nói: Chuông chưa kêu, trống chưa đánh, ông già ôm bát đi đâu ? Đức Sơn không nói, cúi đầu về phương trượng. Tuyết Phong thuật lại với Nham Đầu. Nham Đầu nói: Cả nhà Đức Sơn chẳng hội câu rốt sau. Đức Sơn nghe, bảo thị giả gọi đến phương trượng hỏi: Ông chẳng nhận Lão tăng sao ? Nham Đầu thưa thầm ý này. Đến hôm sau, Đức Sơn thượng đường chẳng giống bình thường. Nham Đầu ở trước Tăng đường vỗ tay cười to, nói: Đáng mừng ông già hiểu câu rốt sau, sau này người trong thiên hạ không làm gì được ông, tuy nhiên như thế, chỉ được ba năm. Công án này như Tuyết Phong thấy Đức Sơn đều không nói. Sẽ bảo là được tiện nghi, đâu biết làm giặc rồi vậy. Bởi Sư từng làm giặc, sau này cũng khéo làm giặc. Vì thế, cổ nhân nói: Một câu rốt sau mới đến cửa chắc (lao quan). Có người nói Nham Đầu hơn Tuyết Phong. Hẳn là hiểu lầm rồi vậy. Nham Đầu thường dùng cơ này dạy chúng: “Kẻ mắt sáng không hang ổ, bỏ vật là thượng, theo vật là hạ, câu rốt sau giả sử thân thấy Tổ sư đến cũng lý hội chẳng được.” Trai trễ, Đức Sơn ôm bát đến pháp đường. Nham Đầu nói cả nhà Đức Sơn chưa hội được câu rốt sau. Tuyết Đậu niêm: Từng nghe nói độc nhãn long nguyên lai chỉ đủ một con mắt. Đâu chẳng biết Đức Sơn là con cọp không răng, nếu chẳng phải Nham Đầu biết được, sao biết hôm qua cùng ngày nay chẳng đồng. Các ông cần hội câu rốt sau chăng ? Chỉ cho lão Hồ biết, chẳng cho lão Hồ hiểu. Từ xưa đến nay, công án muôn sai ngàn khác như rừng gai góc, nếu ông thấu được thì người trong thiên hạ không làm gì được ông, chư Phật ba đời đứng ở dưới gió. Nếu ông thấu chẳng được thì tham: Nham Đầu nói “Tuyết Phong tuy cùng ta đồng điều sanh chẳng cùng ta đồng điều tử”, chỉ một câu này tự nhiên có chỗ xuất thân. Tuyết Đậu tụng ra:

TỤNG:Mạt hậu cú

            Vị quân thuyết

            Minh ám song song để thời tiết

            Đồng điều sanh dã cộng tương tri

            Bất đồng điều tử hoàn thù tuyệt.

            Hoàn thù tuyệt

            Huỳnh đầu bích nhãn tu chân biệt

            Nam Bắc Đông Tây qui khứ lai

            Dạ thâm đồng khán thiên nham tuyết.

DỊCH: Câu rốt sau

            Vì anh nói

            Sáng tối song song đấy thời tiết

            Đồng điều sanh mọi người cùng biết

            Chẳng đồng điều tử lại đặc biệt.

            Lại đặc biệt

            Đầu vàng mắt biếc nên phân rõ

            Đông Tây Nam Bắc về lại qua           

            Đêm khuya đồng thấy tuyết ngàn núi.

GIẢI TỤNG: “Câu rốt sau, vì anh nói”, Tuyết Đậu tụng câu rốt sau này, ý kia vì nhau toàn rơi trong cỏ, tụng dù có tụng tột cũng chỉ được đôi chút màu lông. Nếu cần thấy thấu cũng chưa được. Thế mà dám há miệng nói to “sáng tối song song đấy thời tiết”, vì ông mở một đường tàn, cũng vì ông một câu đập chết rồi vậy. Rốt sau lại vì ông chú giải. Như một hôm Chiêu Khánh hỏi La Sơn: Nham Đầu nói thế ấy thế ấy, chẳng thế ấy, chẳng thế ấy, ý chỉ thế nào ? La Sơn gọi: Đại sư ! Khánh ứng thinh: Dạ ! La Sơn bảo: Hai sáng cũng hai tối. Khánh lễ tạ rồi đi. Sau ba ngày, Khánh lại hỏi: Ngày trước nhờ lòng từ bi của Hòa thượng chỉ dạy, nhưng khán chẳng vỡ. La Sơn nói: Tận tình vì ông rồi. Khánh thưa: Hòa thượng cầm lửa đi. La Sơn bảo: Nếu thế ấy, cứ chỗ Đại sư nghi hỏi ra. Khánh thưa: Thế nào là hai sáng hai tối ? La Sơn bảo: Đồng sanh cũng đồng tử. Khánh lễ tạ rồi đi. Sau có vị Tăng hỏi Chiêu Khánh: Khi đồng sanh cũng đồng tử thì thế nào ? Khánh đáp: Ngậm lấy miệng chó. Tăng thưa: Đại sư nhận lấy miệng ăn cơm. Vị Tăng ấy lại đến hỏi La Sơn: Khi đồng sanh chẳng đồng tử thì thế nào ? La Sơn đáp: Như trâu không sừng. Tăng hỏi: Khi đồng sanh cũng đồng tử thì thế nào ? La Sơn đáp: Như cọp mọc sừng. Câu rốt sau chính là đạo lý này.

Trong hội La Sơn có vị Tăng lấy ý này đến hỏi Chiêu Khánh. Khánh đáp: Kia đây đều biết, cớ sao ? Nếu ta đến Đông Thắng Thần Châu nói một câu, Tây Cù Da Ni Châu cũng biết, trên trời nói một câu, nhân gian cũng biết, tâm tâm biết nhau, mắt mắt chiếu nhau. Đồng điều sanh vẫn là dễ thấy, chẳng đồng điều tử lại đặc biệt. Thích-ca, Đạt-ma cũng dò tìm chẳng được. “Đông Tây Nam Bắc về lại qua”, cảnh giới có đôi chút đẹp. “Đêm khuya đồng thấy tuyết ngàn núi”, hãy nói là song minh hay song ám, là đồng điều sanh hay đồng điều tử ? Thiền tăng đủ mắt sáng thử phân rành xem ?

?

TẮC 52: TRIỆU CHÂU ĐỘ LỪA ĐỘ NGỰA

CÔNG ÁN: Tăng hỏi Triệu Châu: Nghe tiếng cầu đá Triệu Châu đã lâu, đến nơi chỉ thấy cầu khỉ. Triệu Châu bảo: Ông chỉ thấy cầu khỉ, nên chẳng thấy cầu đá. Tăng hỏi: Thế nào là cầu đá ? Triệu Châu đáp: Độ lừa độ ngựa.   GIẢI THÍCH: Thành Triệu Châu có cây cầu đá do Lý Ưng tạo, đến nay nổi tiếng trong thiên hạ. Cầu khỉ tức là cây cầu bắc một cây. Vị Tăng này cố ý làm giảm uy quang Triệu Châu, nên hỏi: Nghe tiếng cầu đá Triệu Châu đã lâu, đến nơi chỉ thấy cầu khỉ. Triệu Châu đáp: Ông chỉ thấy cầu khỉ nên chẳng thấy cầu đá. Cứ chỗ hỏi của vị Tăng giống như lối nói chuyện bình thường. Triệu Châu dùng câu để câu y, quả nhiên y bị mắc câu. Theo sau y hỏi: Thế nào là cầu đá ? Triệu Châu đáp: Độ lừa độ ngựa. Quả thật, trong lời tự có chỗ xuất thân. Triệu Châu không giống Lâm Tế, Đức Sơn dùng gậy dùng hét, chỉ dùng ngôn cú sống chết. Công án này khéo khéo xem, chỉ giống như bình thường đấu cơ phong. Tuy nhiên như thế, cũng thật khó nương gá. Một hôm, Triệu Châu cùng Thủ tọa xem cầu đá. Châu hỏi: Là người nào tạo ? Thủ tọa đáp: Lý Ưng tạo. Châu hỏi: Khi tạo nhằm chỗ nào hạ thủ ? Thủ tọa đáp không được. Châu bảo: Bình thường nói cầu đá, hỏi đến chỗ hạ thủ cũng không biết. Một hôm, Triệu Châu quét đất, có vị Tăng hỏi: Hòa thượng là thiện tri thức vì sao lại có bụi ? Châu đáp: Bên ngoài đến. Tăng hỏi: Già-lam thanh tịnh vì sao lại có bụi ? Châu đáp: Lại có một điểm. Có vị Tăng hỏi: Thế nào là đạo ? Châu đáp: Ngoài tường ấy. Tăng thưa: Chẳng phải hỏi đạo này, hỏi đại đạo. Châu đáp: Đại đạo thấu Trường An. Triệu Châu riêng dùng cơ này, Sư đến chỗ bình thật an ổn, vì người cũng không chạm bén đứt tay, tự nhiên cao vót, dùng được cơ này quá khéo. Tuyết Đậu tụng ra:

TỤNG:   Cô nguy bất lập đạo phương cao

                Nhập hải hoàn tu điếu cự ngao

                Kham tiếu đồng thời Quán Khê lão

                Giải vân phách tiễn diệc đồ lao.

DỊCH:    Vút siêu chẳng lập đạo mới cao

                Vào biển cần câu được cá ngao

                Cười ngất đồng thời cùng lão Quán

                Bảo rằng chụp tiễn uổng công lao.

GIẢI TỤNG: Câu “vút siêu chẳng lập đạo mới cao”, Tuyết Đậu tụng Triệu Châu chỗ bình thường vì người, chẳng lập huyền diệu, chẳng lập cao vút. Như các nơi nói: Đập nát hư không, đập nát Tu-di, đáy biển sanh bụi, Tu-di vỗ sóng, mới gọi là đạo của Tổ sư. Do đó, Tuyết Đậu nói: “Vút siêu chẳng lập đạo mới cao.” Vách đứng muôn nhẫn, bày chỗ linh nghiệm kỳ đặc của Phật pháp, tuy là cô nguy cao vót chẳng bằng không lập cô nguy. Chỉ bình thường tự nhiên lăn trùng trục chẳng lập mà tự lập, chẳng cao mà tự cao, cơ thoát cô nguy mới thấy huyền diệu. Vì thế, Tuyết Đậu nói: “Vào biển cần câu được cá ngao.” Xem Sư là bậc Tông sư mắt sáng, thong thả buông một câu, dùng một cơ, chẳng câu tôm tép ốc trai, chỉ câu cá ngao to, quả là bậc tác gia. Một câu này dùng bày rõ phần đầu công án. Câu “cười ngất đồng thời cùng lão Quán”, có vị Tăng hỏi Quán Khê: Nghe danh Quán Khê đã lâu, đến nơi chỉ thấy cái ao ngâm gai. Quán Khê đáp: Ông chỉ thấy cái ao ngâm gai nên chẳng thấy Quán Khê. Tăng hỏi: Thế nào là Quán Khê ? Quán Khê đáp: Chụp tên gấp. Lại Tăng hỏi Hoàng Long: Nghe tiếng Hoàng Long đã lâu, đến nơi chỉ thấy con rắn khoang đỏ. Long đáp: Ông chỉ thấy con rắn khoang đỏ nên chẳng thấy Hoàng Long. Tăng hỏi: Thế nào là Hoàng Long ? Long đáp: Kéo dài lê thê. Tăng hỏi: Bỗng gặp Kim sí điểu đến thì sao ? Long đáp: Tính mạng khó còn. Tăng hỏi: Thế thì bị chim ăn rồi ? Long đáp: Cám ơn ông cúng dường. Đây là lập cô nguy, phải thì phải, chẳng khỏi phí công, không bằng Triệu Châu dùng lối bình thường. Thế nên, Tuyết Đậu nói: “Bảo rằng chụp tiễn uổng công lao.” Chỉ như Quán Khê, Hoàng Long thì gác lại, đến Triệu Châu nói “độ lừa độ ngựa” làm sao hội, thử biện xem ?

?

TẮC 53: BÁ TRƯỢNG CON NGỖNG

LỜI DẪN: Khắp cõi chẳng giấu, toàn cơ riêng bày, chạm đến không kẹt, rõ ràng có cơ xuất thân. Dưới câu không riêng, mỗi mỗi có ý giết người. Hãy nói cổ nhân cứu kính nhằm chỗ nào thôi hết, thử cử xem ?

CÔNG ÁN: Mã Tổ cùng Bá Trượng dạo vườn, thấy bầy vịt trời bay qua. Mã Tổ hỏi: Là cái gì ? Bá Trượng thưa: Bầy vịt trời. Mã Tổ hỏi: Đi đâu rồi ? Bá Trượng thưa: Bay qua rồi. Mã Tổ liền nắm lỗ mũi Bá Trượng vặn mạnh. Bá Trượng đau quá la lên. Mã Tổ bảo: Đâu từng bay qua.

GIẢI THÍCH: Chánh nhãn xem ra, lại là Bá Trượng đủ chánh nhân. Mã Tổ không gió dậy sóng. Các ông cần cùng Phật, Tổ làm mười thầy tham lấy Bá Trượng, cần tự cứu chẳng xong tham lấy Mã Tổ. Xem cổ nhân trong mười hai giờ chưa từng chẳng ở trong ấy. Bá Trượng xuất gia từ thuở bé, học tập giới  định tuệ, gặp lúc Mã Tổ xiển hóa ở Nam Xương tận tâm nương đỗ, hai mươi năm làm thị giả, cho đến tái tham dưới tiếng hét mới được đại ngộ. Hiện nay có người nói: Vốn không chỗ ngộ, làm cái cửa ngộ, dựng lập việc này. Nếu kiến giải thế ấy, như trùng trong thân sư tử ăn thịt sư tử. Đâu chẳng thấy cổ nhân nói: Nguồn chẳng sâu thì dòng không dài, trí chẳng lớn thì thấy chẳng xa. Nếu hiểu là dựng lập thì Phật pháp đâu đến ngày nay. Xem Mã Tổ cùng Bá Trượng đi dạo vườn thấy bầy vịt trời bay qua, Mã Tổ đâu không biết vịt trời, tại sao lại hỏi thế ấy ? Hãy nói ý Ngài rơi tại chỗ nào ? Bá Trượng chỉ biết chạy theo sau. Mã Tổ nắm lỗ mũi Sư vặn mạnh, Bá Trượng chịu đau không nổi la lên. Mã Tổ bảo: Đâu từng bay qua. Bá Trượng liền tỉnh. Ngày nay có người hiểu lầm, vừa hỏi đến liền la lên, buồn cười nhảy chẳng ra. Hàng Tông sư vì người phải chỉ dạy cho thấy tột. Nếu họ chưa hiểu, chẳng nệ chạm bén đứt tay, chỉ cốt dạy họ rõ được việc này. Vì thế nói, hội thì giữa đường thọ dụng, chẳng hội thì thế đế lưu bố. Mã Tổ đương thời, nếu chẳng nắm đứng thì chỉ thành thế đế lưu bố. Phải là thấy cảnh gặp duyên xoay trở, dạy trở về chính mình, trong mười hai giờ không chỗ khiếm khuyết, gọi đó là tánh địa minh bạch. Nếu chỉ nương cỏ gá cây, nhận cái trước lừa sau ngựa, có dùng vào chỗ gì ? Xem Mã Tổ, Bá Trượng dụng thế ấy, tuy giống như sáng tỏ tinh lanh, mà chẳng ở chỗ sáng tỏ tinh lanh. Bá Trượng chịu đau không nổi la lên, nếu thấy thế ấy thì khắp cõi chẳng giấu, mỗi mỗi hiện thành. Vì thế nói, một chỗ thấu thì ngàn chỗ muôn chỗ đồng thời thấu. Hôm sau, Mã Tổ lên toà, chúng vừa tụ họp, Bá Trượng ra cuốn chiếu. Mã Tổ xuống tòa về phương trượng, hỏi Bá Trượng: Ta vừa lên tòa chưa nói pháp, vì sao ông lại cuốn chiếu ? Bá Trượng thưa: Hôm qua bị Hòa thượng nắm lỗ mũi đau. Mã Tổ hỏi: Hôm qua ông nhằm chỗ nào lưu tâm ? Bá Trượng thưa: Ngày nay lỗ mũi lại chẳng đau. Mã Tổ bảo: Ông biết sâu việc ngày nay. Bá Trượng làm lễ, trở về liêu thị giả khóc. Đồng sự thị giả hỏi: Ông khóc cái gì ? Bá Trượng nói: Huynh đến hỏi Hòa thượng. Thị giả đến hỏi Mã Tổ. Mã Tổ bảo: Ông hỏi lấy y xem ? Thị giả lại về liêu hỏi Bá Trượng. Bá Trượng cười hả hả ! Thị giả nói: Ông vừa rồi khóc, giờ đây tại sao lại cười ? Bá Trượng nói: Tôi vừa rồi khóc, giờ đây cười. Xem Sư sau khi ngộ lăn trùng trục ngăn chặn chẳng đứng, tự nhiên linh hoạt. Tuyết Đậu tụng ra:

TỤNG:            Dã áp tử

                        Tri hà hứ

                        Mã Tổ kiến lai tương cộng ngữ

                        Thoại tận sơn vân hải nguyệt tình

                        Y tiền bất hội hoàn phi khứ.

                        Dục phi khứ

                        Khước bả trụ              

                        Đạo ! Đạo !

DỊCH:             Con vịt trời

                        Biết là mấy

                        Mã Tổ thấy rồi cùng nhau nói

                        Nói tột biển trăng mây núi lòng

                        Như xưa chẳng hội lại bay mất.

                        Muốn bay mất

                        Lại nắm đứng

                        Nói ! Nói !

GIẢI TỤNG: Tuyết Đậu ngay đầu liền tụng “con vịt trời, biết là mấy”, hãy nói có nhiều ít ? “Mã Tổ thấy rồi cùng nhau nói”, tụng này Mã Tổ hỏi Bá Trượng “là cái gì”, Bá Trượng đáp “bầy vịt trời”. “Nói tột biển trăng mây núi lòng” là tụng hỏi Bá Trượng “đi đâu rồi”. Mã Tổ vì Sư ý chỉ tự nhiên thoát thể. Bá Trượng như trước chẳng hội, lại nói “bay qua rồi”. Hai lớp lầm qua. Hai câu “muốn bay mất, lại nắm đứng”, Tuyết Đậu cứ bản án kết tội. Lại nói “nói ! nói !” đây là chỗ Tuyết Đậu chuyển thân. Hãy nói, nói cái gì ? Nếu la đau là lầm. Nếu chẳng la đau, lại làm sao hội ? Tuy nhiên, Tuyết Đậu tụng thật khéo, song cũng nhảy không khỏi.

?

TẮC 54: VÂN MÔN LẠI XÒE NGỬA HAI TAY

LỜI DẪN: Thoát khỏi sanh tử, xoay lăn cơ quan, thảnh thơi cắt sắt chặt đinh, tùy chỗ che trời che đất. Hãy nói là chỗ hành lý của người nào, thử cử xem ?

CÔNG ÁN: Vân Môn hỏi Tăng: Vừa rời chỗ nào ? Tăng thưa: Tây Thiền. Vân Môn hỏi: Gần đây Tây Thiền có ngôn cú gì ? Tăng liền xòe ngửa hai bàn tay. Vân Môn đánh một tát. Tăng thưa: Thoại đầu của con còn. Vân Môn lại xòe ngửa hai bàn tay. Tăng không nói được. Vân Môn liền đánh.

GIẢI THÍCH: Vân Môn hỏi vị Tăng vừa rời chỗ nào, Tăng thưa Tây Thiền. Cái này là đương diện thoại, giống như điện chớp. Vân Môn hỏi gần đây có ngôn cú gì, cũng chỉ là thuyết thoại bình thường. Vị Tăng này quả thật là bậc tác gia, lại lật ngược để nghiệm Vân Môn, liền xòe ngửa hai bàn tay. Nếu là người tầm thường gặp phải cái nghiệm này, liền thấy tay chân rối loạn. Vân Môn có cơ chọi đá nháng lửa, làn điện chớp, liền đánh một tát. Tăng nói đánh tức là phải, làm gì được thoại đầu của con. Vị Tăng này có chỗ chuyển thân. Vì thế, Vân Môn buông ra xòe ngửa hai bàn tay. Vị Tăng không nói được. Vân Môn liền đánh. Xem Vân Môn tự là tác gia, đi một bước biết chỗ rơi một bước, khéo xem trước lại giỏi ngó sau, chẳng mất đường lối. Vị Tăng này chỉ khéo xem trước, chẳng giỏi ngó sau.

TỤNG:   Hổ đầu hổ vĩ nhất thời thâu

                Lẫm lẫm oai phong tứ bách châu

                Khước vấn bất tri hà thái hiểm

                Sư vân phóng quá nhất trước.

DỊCH:   Đầu cọp đuôi cọp một lúc thâu

               Lẫm lẫm oai phong bốn trăm châu            

               Lại hỏi tại sao mà quá hiểm

               Sư rằng  phóng qua một nước.

GIẢI TỤNG: Tuyết Đậu tụng thoại này rất dễ hiểu, đại ý chỉ tụng cơ phong của Vân Môn. Vì thế nói: “Đầu cọp đuôi cọp một lúc thâu”. Cổ nhân nói: Chận đầu cọp thâu đuôi cọp, câu thứ nhất rõ tông chỉ. Tuyết Đậu chỉ căn cứ bản án kết tội, thích Vân Môn giỏi chận đầu cọp lại khéo nắm đuôi cọp. Vị Tăng xòe ngửa hai tay, Vân Môn liền đánh là chận đầu cọp. Vân Môn xòe ngửa hai tay, Tăng không nói được, liền đánh là nắm đuôi cọp. Đầu đuôi đồng thâu, mắt như sao băng, tự nhiên như chọi đá nháng lửa, tợ làn điện xẹt. Liền được “Lẫm lẫm oai phong bốn trăm châu”, khiến cho cả thế giới gió thổi vèo vèo. “Lại hỏi tại sao mà quá hiểm”, quả là có chỗ hiểm. Tuyết Đậu nói “phóng qua một nước”. Hãy nói hiện nay khi chẳng phóng qua lại là sao ? Người cả đại địa thảy nên ăn gậy. Hàng thiền hòa tử ngày nay đều nói: “Đợi khi Vân Môn xòe ngửa hai tay, cũng là trả lại cho ông ta bổn phận thảo liệu.” Giống thì cũng giống, phải thì chưa phải. Vân Môn không thể chỉ thế ấy bảo ông thôi, vẫn còn có việc khác.

?

TẮC 55: ĐẠO NGÔ ĐẾN NHÀ CÚNG ĐIẾU

LỜI DẪN: Ẩn mật toàn chân, đương đầu nhận chứng, dẫm trên nước để chuyển vật, ngay đó thừa đương, nhằm trong chọi đá nháng lửa, làn điện chớp, ngồi dứt lầm lẫn. Ở chỗ chận đầu cọp nắm đuôi cọp, vách đứng ngàn nhẫn thì gác lại, phóng một đường, lại có chỗ vì người hay không, thử cử xem ?

CÔNG ÁN: Đạo Ngô cùng Tiệm Nguyên đến nhà Phật tử cúng điếu. Tiệm Nguyên vỗ quan tài nói: Sanh ư ? Tử ư ? Đạo Ngô nói: Sanh cũng chẳng nói, tử cũng chẳng nói. Tiệm Nguyên hỏi: Vì sao chẳng nói ? Đạo Ngô đáp: Chẳng nói chẳng nói. Hai thầy trò về đến giữa đường, Tiệm Nguyên thưa: Hòa thượng mau vì con nói, nếu chẳng nói đánh Hòa thượng. Đạo Ngô nói: Đánh thì mặc đánh, nói tức chẳng nói. Tiệm Nguyên liền đánh. Sau Đạo Ngô tịch, Tiệm Nguyên đến Thạch Sương thuật lại lời trước. Thạch Sương nói: Sanh cũng chẳng nói, tử cũng chẳng nói. Tiệm Nguyên hỏi: Vì sao chẳng nói ? Thạch Sương nói: Chẳng nói chẳng nói. Tiệm Nguyên ngay lời nói liền có tỉnh. Một hôm, Tiệm Nguyên cầm cái mai ở trên pháp đường đi từ Đông qua Tây, từ Tây qua Đông. Thạch Sương hỏi: Làm gì ? Tiệm Nguyên nói: Tìm linh cốt tiên sư. Thạch Sương bảo: Nước dâng lênh láng, sóng dậy ngập trời, tìm cái gì là linh cốt tiên sư ? (Tuyết Đậu trước ngữ: Trời xanh ! Trời xanh !) Tiệm Nguyên nói: Nên khéo gắng sức. (Thái Nguyên Phù nói: Linh cốt tiên sư vẫn còn.)

GIẢI THÍCH: Đạo Ngô cùng Tiệm Nguyên đến nhà Phật tử cúng điếu. Tiệm Nguyên vỗ quan tài nói: Sanh ư ? Tử ư ? Đạo Ngô nói: Sanh cũng chẳng nói, tử cũng chẳng nói. Nếu nhằm dưới câu nhập được, dưới lời biết trở về, chỉ chỗ này là then chốt thấu thoát sanh tử. Nếu không được thế, thường thường đối diện lầm qua. Xem cổ nhân đi đứng nằm ngồi chẳng ngại lấy việc này làm niệm. Vừa đến nhà người điếu tang, Tiệm Nguyên liền vỗ quan tài nói: Sanh ư ? Tử ư ? Đạo Ngô chẳng dời một mảy tơ, đáp rằng: Sanh cũng chẳng nói, tử cũng chẳng nói. Tiệm Nguyên đối diện lầm qua chạy theo ngữ cú, hỏi vì sao chẳng nói. Đạo Ngô nói chẳng nói chẳng nói. Đạo Ngô đáng gọi là lòng son mảnh mảnh, đem lầm đến lầm. Tiệm Nguyên vẫn chẳng tỉnh, về đến giữa đường lại nói Hòa thượng mau vì con nói, nếu không nói đánh Hòa thượng. Kẻ này biết gì tốt xấu, nên nói tâm tốt chẳng được báo tốt. Đạo Ngô như trước tâm lão bà tha thiết, nói với y: Đánh thì mặc đánh, nói tức chẳng nói. Tiệm Nguyên liền đánh. Tuy nhiên như thế, lại là kia thắng một nước. Đạo Ngô vì kia máu tuôn giọt giọt thế ấy mà Tiệm Nguyên vẫn chẳng lãnh hội. Đạo Ngô bị y đánh, liền nói với y: Ông hãy đi, e trong viện Tri sự dò biết việc này sẽ gây họa cho ông. Thầm bảo Tiệm Nguyên đi, Đạo Ngô thật rất mực từ bi. 

Sau Tiệm Nguyên đến một viện nhỏ, nghe cư sĩ tụng phẩm Phổ Môn: “nên dùng thân Tỳ-kheo được độ, liền hiện thân Tỳ-kheo mà vì thuyết pháp…”, bỗng nhiên đại ngộ. Sư nói: Khi xưa ta lầm trách tiên sư, đâu biết việc này chẳng ở trên ngôn cú. Người xưa nói: Bậc đại nhân không lường, bị ngữ mạch xoay đi. Có nhóm người tình giải nói: Đạo Ngô bảo chẳng nói chẳng nói, tức là nói rồi vậy, gọi là đánh lưng thì nhào lộn, khiến người dò tìm chẳng được. Nếu hiểu thế ấy làm sao bình ổn. Nếu người chân đạp đất thật thì chẳng cách một mảy tơ. Như chuyện Thất hiền nữ đi dạo rừng Thi-đà, có vị chỉ tử thi hỏi: Tử thi tại đây, người ở chỗ nào ? Chị cả đáp: Làm gì ? Làm gì ? Cả chúng nghe đều chứng vô sanh pháp nhẫn. Thử nói có bao nhiêu cái, ngàn cái muôn cái chỉ là một cái. Sau Tiệm Nguyên đến Thạch Sương thuật lại việc trước. Thạch Sương như xưa nói: Sanh cũng chẳng nói, tử cũng chẳng nói. Tiệm Nguyên hỏi: Vì sao chẳng nói ? Thạch Sương bảo: Chẳng nói chẳng nói. Tiệm Nguyên liền ngộ. Hôm khác, Tiệm Nguyên cầm cái mai ở trước pháp đường đi từ Đông qua Tây, từ Tây qua Đông, ý muốn trình kiến giải của mình. Thạch Sương hỏi: Làm gì ? Tiệm Nguyên nói: Tìm linh cốt tiên sư. Thạch Sương liền cắt đứt gót chân y nói: Ta trong ấy, nước dâng lênh láng, sóng dậy ngập trời, tìm cái gì là linh cốt tiên sư ? Tiệm Nguyên đã tìm linh cốt tiên sư, tại sao Thạch Sương lại nói thế ấy ? Đến trong đây là chỗ sanh cũng chẳng nói, tử cũng chẳng nói, ngay lời này tiến được mới biết từ thủy chí chung toàn cơ thọ dụng. Nếu ông khởi đạo lý suy nghĩ tìm hiểu tức là khó thấy. Tiệm Nguyên nói: Nên khéo gắng sức. Xem Sư sau khi ngộ, nói được tự nhiên kỳ đặc. Mảnh xương trên đảnh của Đạo Ngô như màu vàng, khi đánh liền phát ra tiếng đồng. Tuyết Đậu trước ngữ: “trời xanh ! trời xanh !” ý tại hai bên. Thái Nguyên Phù nói “linh cốt tiên sư vẫn còn”, tự nhiên nói được ổn đáng. 

Đoạn văn này đồng thời đưa ra một bên. Hãy nói thế nào là chỗ tỉnh yếu ? Thế nào là chỗ gắng sức ? Đâu chẳng nghe nói: Một chỗ thấu, ngàn chỗ muôn chỗ đồng thời thấu. Nếu nhằm chỗ chẳng nói chẳng nói thấu được, là ngồi cắt đầu lưỡi người trong thiên hạ. Nếu thấu chẳng được, phải tự tham tự ngộ, chẳng nên dễ dàng qua ngày, đáng tiếc thay ngày tháng ! Tuyết Đậu tụng ra:

TỤNG:   Thố mã hữu giác

                Ngưu dương vô giác

                Tuyệt hào tuyệt ly

                Như sơn như nhạc

                Huỳnh kim linh cốt kim du tại

                Bạch lãng thao thiên hà xứ trước.

               Vô xứ trước

               Chích lý Tây qui tằng thất khước.

DỊCH:    Thỏ ngựa có sừng

                Trâu dê không sừng

                Bặt lông bặt sợi

               Như núi như non

                Linh cốt vàng ròng nay vẫn còn

                Sóng dậy ngập trời chỗ nào đến.

                Không chỗ đến

                Chiếc dép về Tây từng lạc mất.

GIẢI TỤNG: Tuyết Đậu riêng hội chú cước, Sư là con cháu Vân Môn, phàm trong một câu đủ ba câu tôi luyện, nhằm chỗ khó nói nói phá, nhằm chỗ vạch chẳng ra vạch ra. Nhằm thẳng chỗ khẩn yếu kia tụng ra “thỏ ngựa có sừng, trâu dê không sừng”. Hãy nói thỏ ngựa vì sao có sừng ? Trâu dê vì sao không sừng ? Nếu thấy được lời trước, mới biết Tuyết Đậu có chỗ vì người. Có người hiểu lầm nói: Chẳng nói là nói, không câu là có câu, thỏ ngựa không sừng lại nói có sừng, trâu dê có sừng lại nói không sừng. Thế thật là không dính dáng. Đâu chẳng biết cổ nhân thiên biến vạn hóa, hiện thần thông như thế, chỉ vì đả phá cái hang quỉ tinh linh này của ông. Nếu thấu được chẳng tiêu một chữ liễu. “Thỏ ngựa có sừng, trâu dê không sừng, bặt lông bặt sợi, như núi như non”, bốn câu này như viên ma-ni bảo châu, Tuyết Đậu nhả ra trọn vẹn trước mặt ông. Phần sau chỉ là căn cứ bản án kết tội. “Linh cốt vàng ròng nay vẫn còn, sóng dậy ngập trời chỗ nào đến”, đây là tụng lời của Thạch Sương và Thái Nguyên Phù, vì cớ sao không chỗ đến ? “Chiếc dép về Tây từng lạc mất”, rùa linh lê đuôi, đây là chỗ Tuyết Đậu chuyển thân vì người. Cổ nhân nói: Kia tham câu sống chẳng tham câu chết. Đã là mất đi một đóm lửa kia, vì sao lại đua nhau tranh ?

ML
01
02
03
04
05
06
07
08
09
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
c

Nguồn: www.quangduc.com

Về danh mục

NÃƒÆ cuu tong giam muc rowan williams phat giao giup Doi Ước mơ của con và 10 bông hoa gạo giïa Anh Mùng hai vị vua hai phương trời một hạnh n廕簑 là Entry quả báo nhãn tiền HÃÆn những su dan sinh cua duc phat song cham lai tuong phat bi danh cap hàng chuong v khuong tang hoi Gạo lứt muối mè Ăn sao cho khoẻ hòn tuoi đừng quá dõi theo người khác mà đánh 回向文 tot Chỉ Lời Gió con duong dan den hanh phuc nguyen rượu cac nha su chau a tren dat my chùa nhổn hối thien tai thuong xuyen ẩm Mong duc ta loi nguoi Chay thien tinh khong hai Chợ trưa với Mẹ lá Ÿ Nhà Giòn nhận