Ðức
Phật đã diễn tả rất rõ ràng con đường đi đến giải
thoát. Con đường này gồm có sự phát triển của bảy tâm
hành hay là bảy chi nhánh của sự giác ngộ, còn được gọi
là Thất Giác Chi. Khi những tâm hành này được vun trồng,
nuôi dưỡng đến mức trưởng thành, ta sẽ được giải thoát
ra mọi sự trói buộc, mọi khổ đau. Tất cả những phương
pháp tu tập khác nhau, cũng chỉ với mục đích là để phát
triển một vài hay tất cả bảy chi nhánh của sự giác ngộ
này.
1.-
Chi nhánh giác ngộ đầu tiên là Niệm. Niệm tức là khả
năng ghi nhận, ý thức được những gì đang xảy ra trong giờ
phút hiện tại, không để tâm rơi vào sự quên lãng. Ðức
Phật nói rằng ngài không biết có một yếu tố nào hùng
mạnh bằng Niệm, vì Niệm có một khả năng vun trồng những
tâm thiện và làm suy giảm những tâm bất thiện. Chúng ta
không cần làm một việc gì đặc biệt để diệt trừ những
tâm xấu và phát huy những tâm tốt, ngoại trừ có ý thức
trong giờ phút hiện tại. Chánh niệm tự nó là một năng
lực thanh lọc.
Trong
một bài pháp nổi tiếng, đức Phật dạy rằng chính sự
tu tập bốn lãnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ) là con đường
duy nhất để đi đến giải thoát. Chánh niệm, tỉnh thức
được gọi bằng nhiều tên khác nhau trong những truyền thống
khác nhau. Nhưng vấn đề danh xưng không quan trọng. Chính sự
khai triển khả năng tỉnh thức, chánh niệm mới thật sự
là con đường giải thoát.
Có
bốn lãnh vực để ta áp dụng chánh niệm:
a.
Lãnh vực đầu tiên là chánh niệm nơi Thân: Hơi thở, cảm
giác, những cử động và oai nghi khác nhau. Ý thức và cảm
nhận được mọi sự thay đổi của thân thể.
b.
Lãnh vực thứ hai của chánh niệm là Cảm thọ, tức những
tính chất dễ chịu, khó chịu hay trung hòa khởi lên trong
giây phút của tâm. Mỗi đối tượng đều có một cảm thọ
đi kèm theo. Khi những cảm thọ này trội lên hơn hết, khi
ta có một cảm giác dễ chịu hay khó chịu mạnh mẽ, chúng
trở thành đề mục của thiền quán. Cảm thọ vô cùng quan
trọng, vì chúng làm điều kiện cho sự ưa thích của ta. Vì
cảm thọ dễ chịu mà ta ham muốn một sự vật gì. Vì cảm
thọ khó chịu mà ta tức giận hay có ác cảm đối với một
việc gì. Sự áp dụng thứ hai của chánh niệm là ghi nhận
những cảm thọ này mỗi khi chúng sanh lên và diệt đi, không
ưa thích những gì dể chịu, không ghét bỏ những gì khó
chịu.
c.
Lãnh vực thứ ba của chánh niệm là Tâm thức. Ý thức được
mọi tâm hành cùng những thức tùy tùng của nó. Khi ta có
một sự tức giận, ý thức được tâm nóng giận; khi ta có
một sự ái dục, ý thức được tâm ái dục đó, hay là tâm
sợ hãi khi nó có mặt. Ý thức được tâm của mình khi nó
bị nhuộm màu bởi những yếu tố khác nhau, mà không thương
ghét, không phê phán, không đánh giá, không thêm bớt. Cái
giận không phải là ta, nó chỉ là một tâm hành đang nhuộm
màu tâm thức của ta trong giây phút ấy. Ngồi lại và nhìn
sự đến rồi đi của chúng. Với một thái độ quan sát không
chọn lựa, ta không còn một tâm hành nào có khả năng chi
phối tâm của ta. Chúng chỉ là một màn của một tuồng hát
qua đường. Chẳng có gì đáng để ta phải hớn hở hay lo
buồn. Chỉ giản dị giữ chánh niệm, tỉnh thức.
d.
Lãnh vực cuối cùng của chánh niệm là Pháp, tức là sự
nhận thức chân lý, luật tự nhiên, ba tính chất của hiện
hữu và Tứ Diệu Ðế. Thấy được khổ đau, nguyên nhân
của khổ đau, sự chấm dứt khổ đau và con đường đi đến
sự chấm dứt khổ đau. Có chánh niệm về những trí tuệ
này khi chúng khởi lên. Chánh niệm về Pháp.
Có
nhiều phưong pháp thực hành Vipassana khác nhau, mỗi cách thức
chú trọng vào một vài hay tất cả bốn lãnh vực vừa kể.
Thực hành theo bất cứ cách nào cũng sẽ đạt được mục
đích là đem tâm ta đến một trạng thái sáng suốt, quân
bình. Tùy theo tánh khí, kinh nghiệm, tánh tình và điều kiện,
mà những phương pháp khác nhau thích hợp cho những hạng người
khác nhau. Nhưng ta không nên chấp vào phương pháp, điều quan
trọng là phải phát triển chánh niệm.
2.-
Chi thứ hai của giác ngộ là Trạch pháp, hay là khảo sát
giáo pháp. Trạch pháp có nghĩa là tìm hiểu, khám phá, phân
tách một cách sâu sắc tiến trình của thân tâm, không dùng
tư tưởng, không dùng khái niệm, nhưng với một tâm thức
yên lặng và an lạc. Sử dụng trực giác và kinh nghiệm, để
trực tiếp tìm hiểu coi hoạt động của toàn thể tiến trình
xảy ra như thế nào. Ðây cũng là một tên gọi khác của
trí tuệ, ánh sáng trong tâm soi sáng tất cả những việc gì
đang xảy ra. Khi Trạch pháp được trau dồi, ta sẽ thấy rằng
mọi hiện tượng trong tâm và thân ta luôn luôn ở trong một
trạng thái chuyển động. Không có gì thưuờng hằng, mọi
vật sanh lên và diệt đi liên tục. Cả hai tâm thức và đối
tượng của chúng, đến và đi không ngừng nghỉ. Không có
một nơi nào để nương tựa, không có chốn nào để ta có
thể ẩn náo. Mọi sự đều đang ở trong một trạng thái
chuyển hóa không ngừng. Với chi Trạch pháp này, kinh nghiệm
về vô thường sẽ phối hợp, ăn sâu vào trong nhận thức
của ta. Chúng ta sẽ kinh nghiệm được, trên một bình diện
sâu xa hơn, tâm thức chỉ là một dòng sông trôi chảy của
các hiện tượng, tư tưởng, hình ảnh, tình cảm, tánh khí.
Thân ta chỉ là một tập hợp của sự rung động cảm giác,
không có thể đặt, không có gì để ta giữ lại. Từ những
kinh nghiệm về vô thường này phát sinh ra một trực kiến
rằng không có gì trong tiến trình thân tâm này là có thể
đem lại một hạnh phúc vĩnh cữu hết. Không có một sự
thỏa mãn nào là lâu bền. Không có gì là hoàn tất mãi mãi,
vì tất cả đều sẽ tiếp tục đi qua. Nó cũng giống như
đi tìm hạnh phúc an ổn trong một bong bóng nước. Vừa khi
đụng đến là nó vỡ tung. Sự hủy hoại có mặt trong mỗi
giây phút. Một bản chất bất an ninh. Cùng với sự vô thường
và tính chất bất an, là một nhận thức về vô ngã. Không
có một nơi nào trong thân và tâm mà ta có thể tìm được
một thực thể nào là thường hằng, để có thể gọi đó
là Ta, là ngã. Không có một ai ở phía sau các tiến trình
hành động cả.
"Trong
sự thấy chỉ có cái bị thấy; trong sự nghe chỉ có cái
bị nghe; trong cảm giác chỉ có cái bị cảm; trong sự suy
nghĩ chỉ có cái bị suy nghĩ". Tất cả chỉ là một dòng
sông trôi chảy của tiến trình. Sự thấy, sự nghe, sự ngữi,
sự nếm, sự đụng chạm và sự suy nghĩ. Toàn thể vũ trụ
của ta chỉ thu gồm trong sáu tiến trình này. Những hiện
tượng rỗng không tiếp tục trôi lăn. Không có Tôi, không
có ngã. Các đặc tính đó được trực nghiệm trên một bình
diện thâm sâu, khi chi Trạch pháp được phát triển. Nó là
trí tuệ soi sáng tâm thức của ta.
Một
trong những trợ lực bên ngoài cho sự khai triển trí tuệ
là yếu tố Tịnh, hay là sự sạch sẽ của thân thể, của
quần áo, của ngoại cảnh. Thí dụ như một ngọn đèn dầu.
Nếu lồng kiếng, tim đèn, dầu, tất cả đền dơ bẩn, ánh
sáng tỏa từ ngọn đèn không được sáng tỏ cho lắm. Còn
nếu như kiếng trong trẻo, tim và dầu đều sạch thì ánh
sáng sẽ rất là tỏ, và ta có thể thấy mọi vật dễ dàng.
3.-
Chi thứ ba của giác ngộ là Tinh tấn. Không có một việc
gì thành công mà không có một cố gắng. Nếu chúng ta muốn
đạt được bất cứ một điều gì trên cuộc đời, tiền
bạc hay là một năng khiếu nào đó, ít nhất ta phải bỏ
ra một chút nỗ lực. Những gì chúng ta đang làm nơi đây
là vun trồng một lợi ích cao thượng. Ta phải biết nỗ lực,
tinh tấn. Ðức Phật chỉ là người chỉ đường, mỗi chúng
ta phải tự mình đi. Không có ai có thể giác ngộ dùm một
kẻ khác được. Tham, sân, si hiện hữu trong tâm của ta. Không
có ai đem nó vào. Không có ai có thể lấy nó ra. Chúng ta phải
tự thanh lọc. Mỗi người chúng ta phải tự nỗ lực để
đi trên con đường thanh tịnh. Tinh tấn là một yếu tố rất
mãnh liệt, khi được trau dồi và phát triển nó có thể loại
trừ được những hôn trầm, lười biếng, dã dượi trong
tâm. Khi gặp phải những khó khăn, trở ngại trên đường,
nỗ lực tinh tấn sẽ nâng cao tinh thần. Ðây là một trợ
lực quan trọng, một phần ắt có của con đường đi đến
giải thoát.
4.-
Chi thứ tư của giác ngộ là Phỉ. Phỉ có nghĩa là sự đam
mê vào một đối tượng. Nó được diễn tả như là một
niềm vui hớn hở. Một niềm vui thú ham thích chuyện đang
xảy ra trước mặt. Ví dụ như có người đi lạc nhiều ngày
trong sa mạc, nóng bức và mệt mỏi, dơ và khát. Cách đó
không xa, anh thấy một hồ nước trong vắt. Tâm của anh lúc
đó chỉ biết hồ nước trước mặt, niềm sung sướng của
anh bây giờ cũng tương tự như là chi giác ngộ Phỉ lạc.
Phỉ lạc là khoảng không gian thênh thanh trong tâm, vì không
cố chấp, bám víu hay nắm chặt vào sự vật.
Một
phương cách để trau dồi yếu tố này là quán tưởng về
mười sự hoàn toàn trong sự giác ngộ của đức Phật. Sự
hoàn toàn trong việc bố thí. Bố thí vì muốn làm vơi đi
khổ đau của mọi loài. Ðức Phật không hề dừng lại để
thắc mắc, người này đáng được cho, còn người kia thì
không. Lòng độ lượng vô bờ bến. Sự hoàn toàn trong việc
giữ giới. Không làm hại một sinh vật nào. Từ bỏ. tinh
tấn. Trí tuệ. Kiên trì, luôn luôn gìn giữ. Kiên nhẫn là
một đức tinh rất quí trên con đường tu tập. Lòng từ bi.
Sự bình an. Ðức cương quyết. Lòng chân thật. Những đúc
tánh này đem lại sự hoàn toàn cho sự giác ngộ của đức
Phật. Chúng ta có thể làm yếu tố Phỉ lạc phát huy trong
ta bằng cách quán tưởng về đức Phật và ý thức rằng
ta cũng đang vun trồng những dức tánh ấy. Trong mỗi hành
động bố thí, trong mỗi sự kiên nhẫn hay chân thật và những
đức khác, chúng ta đang cùng chia xẻ sự hoàn toàn của một
Phật tánh. Quán tưởng về những việc làm tốt và sự tu
tập của mình, sẽ đem lại một niềm vui. Suy nghĩ về giáo
pháp: Tứ Diệu Ðế, Vô thường, Vô ngã - những chân lý cho
mọi thời, mọi người. Quán tưởng về sự chân thật của
giáo pháp, qua chính kinh nghiêm của mình, và tính chất "hãy
thử rồi sẽ thấy" hơn là "bạn phải tin" của đạo Phật.
Sự tán dưong chân lý mang lại cho ta một niềm vui lớn và
phát huy sự Phỉ lạc trong tâm. Niềm hạnh phúc siêu diệu
khi đi vào chân lý sẽ đem lại cho ta một tâm vô cùng thanh
nhẹ.
5.-
Chi thứ năm của giác ngộ là An tĩnh. Một thí dụ về sự
an tĩnh này là giống như một người đang đi đường mệt
lả, dừng chân lại dưới một tàng bóng mát mẻ dưới một
gốc cây. Cảm giác tươi mát, dễ chịu của người đó giống
như là yếu tố An tĩnh. Khi mọi tham dục đã không còn, tâm
ta sẽ trở lại tươi mát vì không còn bị lửa sân hận,
ái dục thiêu đốt.
6.-
Chi thứ sáu của giác ngộ là Ðịnh. Ðịnh có nghĩa là khả
năng tập trung tư tưởng lại vào một điểm duy nhất, giữ
tâm yên ở đó mà không bị xao động. Một tâm không có định
thì rất là nông cạn, nó sẽ lang thang từ một đối tượng
này sang đối tượng khác. Ðịnh đem một sức mạnh và khả
năng quán chiếu lại cho tâm. Có hai loại định. Loại thứ
nhất được tập luyện bằng cách đặt tâm mình vào một
điểm, và phát triển cho đến mức nó thấm sâu vào trong
đề mục ấy. Loại định này là căn bản cho một số thần
thông. Còn loại định thứ hai, được phát triển trong thiền
quán, được gọi là định nhất thời. Loại định này tập
trung tâm ý vào nhiều đối tượng khác nhau. cũng chính loại
định thứ hai này, phối hợp với những yếu tố giác ngộ
khác, đưa ta đến sự giải thoát.
7.-
Chi cuối cùng của sự giác ngộ là Xả. Xả có nghĩa là một
tâm không thiên vị. Khi mọi việc suông sẻ, không có sự
hân hoan quá trớn. Khi gặp khó khăn, trở ngại, không buồn
nản hay thất vọng. Xả có nghĩa là không thiên vị đối
với bất cứ một hiện tượng nào, coi mọi sự việc bình
đẳng như nhau. Một thí dụ về yếu tố Xả là ánh sáng
mặt trời chiếu xuống mặt đất. Mặt trời không hề chọn
lựa chiếu soi một nơi này mà từ chối một nơi khác. Nó
chiếu tỏa ánh nắng một cách bình đẳng đến mọi vật.
Yếu tố Xả tức là chấp nhận và tiếp đải mọi vật như
nhau. Một phưong pháp để trau dồi yếu tố Xả, nhất là
trong việc đối xử với kẻ khác, là nhớ rằng chúng ta chỉ
là người thừa tự những nghiệp quả của mình. Thế cho
nên khi gặp người đang hạnh phúc, ta có thể chung vui với
họ trong một tâm Xả, vì hiểu rằng, họ dang hưởng những
quả trái của kiếp trước. Hoặc khi thấy người đang bị
khổ đau, ta có thể khởi lòng từ bi, làm vơi đi nỗi khổ
của họ, nhưng với một tâm không động, vì hiểu rằng đây
chỉ là sự bù trừ của luật nhân quả. Nhưng tâm Xả không
phải là một sự lãnh đạm, thờ ơ, mà là một sự quân
bình của tâm. Trong thiền quán, khi tâm ta đạt đến một
trình độ có thể ý thức được tiến trình biến đổi một
cách thật chi tiết và chính xác, yếu tố Xả giữ cho mọi
sự được quân bình, an tĩnh.
Có
bảy chi nhánh của giác ngộ mà ta cần phải khai triển trong
con đường tu tập. Ba chi thuộc về những yếu tố làm phát
khởi, và ba chi thuộc về những yếu tố làm an tâm. Trí tuệ,
tinh tấn và Phỉ lạc làm khích động tâm, khiến cho nó được
tỉnh thức và mẫn tiệp. An tĩnh, Ðịnh và Xả làm cho tâm
trở nên yên ổn, lặng lẻ. Những yếu tố ấy phải hoàn
toàn hòa hợp với nhau: nếu có nhiều sự khích động quá
ta sẽ trở nên bồn chồn, còn nhiều sự an tĩnh quá ta lại
trở nên hôn trầm. Yếu tố Niệm thật vô cùng quan trọng,
vì nó chẳng những hỗ trợ cho những yếu tố giác ngộ khác
mà còn giữ cho chúng ở trong một sự hòa hợp, quân bình.
Sự
tiến hoá của tâm trong đoạn đường này có thể đem lại
cho ta một niềm khích lệ và phấn khởi vô biên. Hãy tưởng
tượng một tâm khi đã được khai triển đầy đủ những
yếu tố Niệm, Trí tuệ, Tinh tấn, Phỉ lạc, An tĩnh, Ðịnh
và Xả. Tâm ấy sẽ chói sáng và tràn đầy hạnh phúc. Ðó
là những gì mà chúng ta đang tu tập ở đây. Những chi nhánh
của giác ngộ không những chỉ mang lại hạnh phúc trong giờ
phút hiện tại, mà còn xuôi hướng về Niết bàn, về giác
ngộ, về giải thoát.
Ngày
qua ngày, đôi khi chúng ta dễ quên đi lý do vì sao mình lại
ngồi đối diện với những sự bức rức, đau đớn, nhức
mỏi, lo ra. Nhưng những gì đang xảy ra mà ta không nhận thấy
được - một cách chắc chắn, đều đặn và tấn tới - là
sự phát triển của những chi nhánh giác ngộ này. Ðây là
một công trình vĩ đại. Ðây là một tiến hóa cao tột nhất
của tâm.
Hỏi:
Giác ngộ đến một cách dần dần (tiệm ngộ) hay xảy ra
trong chớp nhoáng (đốn ngộ).
Ðáp:
Cả hai. Giác ngộ lúc nào cũng là chớp nhoáng, theo nghĩa nó
là một trực nhận của trí tuệ. Ðây không phải là chuyện
mà ta có thể suy nghĩ ra được. Nó phát xuất từ một tâm,
im lặng, một trực kiến, bất ngờ, một sự hiểu biết không
thể nghĩ bàn. Nhung trực giác ấy không phải xảy ra một
cách ngẩu nhiên. Trong tâm phải đạt đến một sự quân bình
đáng kể nào đó, thì sự giác ngộ này mới có thể xảy
ra.
Hỏi:
Và khi một người có được một sự hiểu biết nào đó,
họ có hành động theo trí tuệ ấy không. Dường như bây
giờ tôi có được một chút nào hiểu biết, nhưng tôi thấy
mình không làm đúng theo nó.
Ðáp:
Chỉ cần sự thật là bạn có chánh niệm hơn một chút là
cũng đã thay đổi hành động của bạn rồi. Chánh niệm rất
có hiệu lực. Một khi bạn đã thử tập ngồi nhìn những
sự việc xảy ra, bạn sẽ khó mà có thể bị lôi cuốn vào
những phản ứng như khi xưa, mặc dù hoàn cảnh cũng giống
hệt như vậy. Cũng giống như có một tiếng nói trong bạn:
"Mình đang làm gì thế?" Một chút chánh niệm tu tập ấy sẽ
trở thành một năng lực mãnh liệt. Và dần dần, sự hiểu
biết sẽ phối hợp vào với hành đông của ta một cách trọn
vẹn hơn.
Hỏi:
Tôi có một thắc mắc về sự vô thường của hạnh phúc.
Tôi biết có những người yêu thượng đế một cách mãnh
liệt và dường như họ lúc nào cũng phát ra một nguồn an
lạc, hạnh phúc cả?
Ðáp:
Ðiều này có thể hiểu bằng hai cách: thứ nhất, mọi trạng
thái đều vô thường trong nhất thời; có nghĩa là, hạnh
phúc không thể thường hằng trong tâm, vì tâm tự nó sanh
diệt trong mỗi giây phút. Trên căn bản đó, giây phút của
tâm thức, thì nó là vô thường. Không có gì là thường hằng,
không có gì là bất động. Theo cách hiểu thứ nhì, thì những
người yêu thượng đế, họ muốn trở về với thượng đế,
ý thức được thượng đế qua một phương pháp thiền định.
Họ có thể hưởng được một hạnh phúc lâu dài. Mặc dù
nó ở trong một tiến trình thay đổi, nhưng những trạng thái
ấy liên tục nhau. Cũng vậy, trạng thái ấy tuy dài lâu nhưng
vẫn là vô thường. Khi mà điều kiện thương yêu thượng
đế vẫn còn đó, và khi mà định lực vẫn còn đầy đủ,
nó sẽ sinh ra quả hạnh phúc. Nhưng khi có một sự mê mờ
nào khởi lên trong tâm, mà hạnh phúc được duy trì là nhờ
có định lực thì tâm ta lại trở nên mờ mịt vì những
tham, sân, si. Ðịnh lực có khả năng đè nén những tâm bất
thiện, khi nào định lực còn đầy đủ, mọi vật sẽ an
vui, hạnh phúc. Ðến chừng khi định lực bị suy chuyển,
những tâm bất thiện bị dồn nén sẽ trở lại hoạt động
như xưa. Bởi vậy cho nên điều quan trọng là ta phải biết
dùng trí tuệ để nhổ tận gốc rễ của khổ đau, để chúng
không còn khả năng khởi lên được nữa.
Hỏi:
Ðức Phật là một đấng đại từ, đại bi, thế tại sao
ngài không ở lại cuộc đời mà giúp chúng sanh?
Ðáp:
Ðức Phật là một hóa thân của giáo pháp. Ngài không phải
là một cái gì đứng bên ngoài sự chi phối của luật tự
nhiên. Ðã có sanh ra thì sẽ có bệnh và có chết. Cho dù bạn
có giác ngộ hay không giác ngộ, đây là một phần của luật
tự nhiên. Nhưng chân lý thì bất biến, khi đã học được
con đường của sự hiểu biết, chúng ta không cần phải dựa
vào bất cứ ai khác, ngoại trừ mình.
Hỏi:
Tôi để ý rằng tình thương không phải là một chi nhánh
của sự giác ngộ. Nếu ta trở nên quá khô khan, lạnh lùng,
điều ấy có nguy hiểm không?
Ðáp:
Việc quan trọng là ta phải hiểu những ý nghĩa khác nhau của
tình thương. Loại thứ nhất là loại mà ta đã nói tới,
tình thương có tính cách trao đổi. Chúng ta thương nhưng muốn
phải có một cái gì để đáp lại. Loại thứ hai là lòng
mong muốn mọi người đều được hạnh phúc, một tình thương
vô bờ bến. Ðây là một loại tình thương không có giới
hạn, vô điều kiện. Nhưng nó vẫn còn sử dụng khái niệm,
như là đàn ông, đàn bà, chúng sanh. Những ý niệm này không
phải là những sự thật tuyệt đối. Con người thật của
chúng ta chỉ là một tập hợp của những yếu tố theo nhau
sanh và diệt trong từng giây phút. Có một loại tình thương
thứ ba cao thượng hơn cả loại tình thương vô điều kiện.
Tình thương này là một sự hoà hợp tự nhiên, phát sinh từ
sự phá bỏ những biên giới tạo nên bởi ý niệm về một
tự thể riêng biệt. Không có "Tôi", không có "người khác".
Tình thương này sanh ra nhờ trí tuệ, và trên bình diện này
thì "tình thương" và "rỗng không" đều cùng một ý nghĩa
như nhau. Không hề có một ý niệm "Tôi đang thương". Hoàn
toàn không bị chi phối bởi ý niệm về Ngã, về một cái
Tôi. Khi bạn đạt đến loại tình thương cao tột nhất này,
thì bạn cũng sẽ biểu lộ được những loại tình thương
kia. Hãy nhìn chung quanh, quan sát những vị thầy mà bạn kính
phục. Các ngài cũng đầy tình thương vá ánh sáng, nhưng không
hề có một ý nghĩ là họ phải làm như vậy. Nó là một
biểu lộ tự nhiên của giáo pháp.
Bài
Đọc Thêm:
Giới
Thiệu về Thiền Vipassana
Thực
tập Thiền Minh Sát
Những
Bài Giảng Tóm Tắt của Khóa Thiền Minh Sát Mười Ngày
Bốn
Sự Thật Nhiệm Mầu, Joseph Goldstein-Nguyễn Duy Nhiên dịch
Tứ
Như ý Túc, Joseph Goldstein-Nguyễn Duy Nhiên dịch