Lời Nói Đầu
Bài Tựa Thiền Lâm Bảo Huấn
Quyển Thứ Nhất
Trang 01
Trang 02
Trang 03
Quyển Thứ Hai
Trang 01
Trang 02
Trang 03
Quyển Thứ Ba
Trang 01
Trang 02
Trang 03
Quyển Thứ Tư
Trang 01
Trang 02
Trang 03

 

.
THIỀN LÂM BẢO HUẤN 
Hòa Thượng Thích Thanh Kiểm Dịch và Chú thích
Phật lịch 2516, Mùa Xuân năm Quý Sửu 1973
THIỀN LÂM BẢO HUẤN (1) 
Quyển Thứ Nhất 
Sa môn Tịnh Thiên (2) đất Ðông Ngô trùng tập. 
Sa môn Thích Thanh Kiểm, dịch và chú thích. 
Trang 01

THIỀN LÂM BẢO HUẤN 
Quyển Ðệ Nhất 
Sa môn Tịnh Thiên đất Ðông Ngô trùng tập. 

1.- CHỮ HÁN: Minh Giáo Tung Hòa Thượng viết: Tôn mạc tôn hồ đạo, mỹ mạc mỹ hồ đức. Ðạo đức chi sở tồn, tuy thất phu phi cùng dã, đạo đức cho sở bất tồn, tuy vương thiên hạ phi thông dã. Bá Di, Thúc Tề tích chi ngã phu dã, kim dĩ kỳ nhân nhi tỷ chi, nhi nhân gia hỷ. Kiệt, Trụ, U, Lệ tích chi nhân chủ dã, kim dĩ kỳ nhân nhi tỷ chi, nhi nhân giai nộ. Thị cố học giả hoạn đạo đức chi bất sung hồ thân, bất hoạn thế vị chi bất tại hồ kỷ. 
Ðàm Tân Tập. 

THIỀN LÂM BẢO HUẤN (1) 
Quyển Thứ Nhất 

Sa môn Tịnh Thiên (2) đất Ðông Ngô trùng tập. 
Sa môn Thích Thanh Kiểm, dịch và chú thích. 

1.- DỊCH NGHĨA: Minh giáo Tung (3) Hòa Thượng nói: Tôn chẳng gì tôn bằng đạo, đẹp chẳng gì đẹp bằng đức. Người có đạo đức tuy là kẻ thất phu (4) cũng không phải là cùng, kẻ không có đạo đức, tuy là đấng vương giả cũng không phải là thông. Bá Di, Thúc Tề (5) xưa kia là người chết đói; đời nay, nếu người ta lấy đó để so sánh thì mọi người đều mừng. Kiệt, Trụ (6), U, Lệ (7) xưa kia là đấng nhân chủ; đời nay, nếu người ta lấy đó để so sánh thì mọi người đều giận. Thế nên, người học giả chỉ lo phần đạo đức của mình không trọn vẹn, chứ đừng lo thế vị không đến với mình. 
Ðàm Tân Tập. 

CHÚ THÍCH: 

(1) Thiền Lâm Bảo Huấn: Thiền Lâm Bảo Huấn, hoặc còn gọi là Thiền Môn Bảo Huấn: Lời dạy quý báu trong rừng Thiền. 
(2) Ðông Ngô: Thuộc địa phương Dương Châu bên Trung Hoa. 
(3) Minh Giáo Tung: Pháp tự của Ðộng Sơn Hiểu Thông đời thứ 10 phái Thanh Nguyên, cũng có tên là Phật Nhật Khế Cảo, con họ Lý đất Tô Châu, trụ trì chùa Vĩnh Anh, trước tác các bộ sách: "Thiền Môn Ðịnh Tổ Ðồ", "Chính Tông Ký", "Phụ Giáo Thiên"... Ðời vua Nhân Tôn được ban tên hiệu là Minh Giáo. 
(4) Thất phu: Thất phu và thất phụ chỉ vào người bình dân. 
(5) Bá Di, Thúc Tề: Y vào Sử Ký Liệt Truyện, Bá Di và Thúc Tề đều là con vua nước Cô Trúc đời nhà Ân, nhường nhau làm vua, rồi bỏ nước trốn đi. Sau vua Vũ Vương đánh nhà Ân, hai người ra níu cương ngựa lại can. Vua Vũ Vương sau khi được nước, lập thành nhà Chu, hai anh em không thèm ăn gạo của nhà Chu, bỏ vào núi Thú Dương ở ẩn dật ăn rau, sau bị chết đói. 
(6) Kiệt, Trụ: Y vào Sử Ký thì vua Kiệt là con của Ðế Phát cuối đời nhà Hạ; Trụ là con vua Ðế Ất cuối đời nhà Thương, đều là hai bạo quân thời xưa. 
(7) U, Lệ: Theo Sử Ký Bản Kỷ, U Vương là con của Tuyên Vương đời nhà Chu; Lệ Vương là con của Di Vương cũng đời nhà Chu, đều là những ông vua hiếu lợi ngu ngốc. 

2.- CHỮ HÁN: Minh Giáo viết: Thánh hiền chi học, cố phi nhất nhật nhi cụ, nhật bất túc kế chi dĩ dạ, tích chi tuế nguyệt, tự nhiên khả thành. Cố viết: Học dĩ tụ chi, vấn dĩ biện chi. Tư ngôn, học phi vấn biện vô do phát minh. Kim học giả sở chí hãn hữu phát nhất ngôn vấn biện ư nhân giả, bất tri tương hà dĩ tỳ trợ tính địa, thành nhật tân chi ích hồ. 
Cửu Phong Tập. 

2.- DỊCH NGHĨA: Ngài Minh Giáo nói: Cái học của Thánh hiền, cố nhiên chẳng phải một ngày mà đủ, ngày chẳng đủ thì kế đêm, rồi chứa góp hàng tháng hàng năm tự nhiên sẽ thành tựu. Nên nói: Học để tu tập, nói để biện minh (1). Câu này có nghĩa là, nếu học mà không biện vấn thì không do đâu mà phát minh. Ðời nay ít có những người học thường nêu ra câu hỏi để vấn biện với người, như vậy không biết đem cái gì để giúp ích cho tính địa (2), trở thành cái lợi ích đổi mới mỗi ngày vậy ư! 
Cửu Phong Tập(3) . 

CHÚ THÍCH: 

(1) Học để tu tập, hỏi để biện minh: Văn lấy ở quẻ Càn trong Kinh Dịch: "Người quân tử học để tu tập, hỏi để biện minh. 
(2) Tính địa: Viết tắt ở chữ bản tính tâm địa. 
(3) Cửu Phong Tập: Tập này của Thiều Công soạn (nhưng không phải là định thuyết). 

3.- CHỮ HÁN: Minh Giáo viết: Thái Sử Công độc Mạnh Tử, chí Lương Huệ Vương vấn, hà dĩ lợi ngô quốc, bất giác tri quyển trường thán! Ta hồ lợi thành loạn chi thủy dã. Cố Phu Tử hãn ngôn lợi. Thường phòng kỳ nguyên giả. Nguyên giả thủy dã. Tôn sùng bần tiện, hiếu lợi chi tệ, hà dĩ biệt yên. Phù tại công giả, thủ lợi bất công tắc pháp loạn, tại tư giả, dĩ khi thủ lợi tắc sự loạn. Sự loạn tắc nhân tranh bất bình, pháp loạn tắc nhân oán bất phục. Kỳ bội lệ đấu tranh, bất cố tử vong giả, tự thử phát hỹ. Thị bất diệc lợi thành, loạn chi thuỷ dã. Thả Thánh hiền thâm giới, khử lợi tôn tiên nhân nghĩa. Nhi hậu thế thượng hữu thị lợi tương khi thương phong bại giáo giả hà hạn. Huống phục công nhiên, trương kỳ chinh lợi đạo nhi hành chi, dục thiên hạ phong tục chính nhi bất kiêu bất bạc, kỳ khả đắc hồ! 
Ðàm Tân Tập. 

3.- DỊCH NGHĨA: Ngài Minh Giáo nói: Thái Sử Công (1) đọc sách Mạnh Tử tới chỗ Lương Huệ Vương hỏi thầy Mạnh Tử (2), đem gì để lợi cho nước tôi, bất giác để sách xuống mà thở dài. Than ôi! Lợi cái mầm mống của loạn, nên Phu Tử (3) ngài ít nói đến lợi, để đề phòng cái gốc. Vì gốc là mầm móng phát sinh. Người tôn quý kẻ bần tiện, đối với cái tệ hiếu lợi thì đều giống nhau. Ôi! Người ở chỗ công, nếu lấy lợi không công bằng, thời làm rối loạn pháp luật, kẻ ở chỗ riêng, nếu lấy lợi bằng cách lừa bịp, thời làm rối loạn sự việc. Sự việc rối loại thời nhân sự bất bình, pháp luật rối loạn thời nhân dân chẳng phục. Gây ra mối họa xung đột rồi cùng nhau đấu tranh, chẳng đoái hoài đến cảnh chết chóc cũng vì thế mà phát sanh. Ðó chẳng phải chỉ vì lợi mà trở thành cái mầm mống rối loạn đấy ư? Như các bậc Thánh hiền xưa kia thì lại cảnh giới, bỏ cái lợi tôn điều nhân nghĩa, mà người đời sau lại cậy mối lợi để dối trá lẫn nhau, làm tổn thương đến phong tục, bại hoại đến thanh giáo không có giới hạn, lại còn công nhiên noi theo con đường tranh danh đoạt lợi để đi, mà muốn phong tục tốt trong thiên hạ không phải không mờ há lại được vậy ư! 
Ðàm Tân Tập. 

CHÚ THÍCH: 

(1) Thái Sử Công: Tên chức quan, chỉ vào Tư Mã Ðàm. Ðàm là con của Thái Sử Hỷ. 
(2) Mạnh Tử: Người đất Nghiệp thời đại Chiến Quốc tên là Kha, tên chữ là Tử Dư, môn đệ của Tử Tư, tường thuật ý của Trọng Ni, làm ra sách Mạnh Tử gồm bảy thiên, đời sau được tôn là Á Thánh, nghĩa là giỏi gần bằng đức Khổng Tử. 
(3) Phu Tử: Chỉ vào ngài Khổng Tử, người nước Lỗ thời Chiến Quốc (nhà Chu). Sanh ngày 17 tháng 8 năm thứ 21 đời Chu Linh Vương, mất năm thừ 40 đời Chu Kính Vương (B.C. 551 - 479), tên là Khưu, tên chữ là Trọng Ni, là ông tổ của Nho giáo, làm đến chức quan Ðại Tư Khấu ở nước Lỗ, vì bất đắc chí bèn đi chu du các nước trong mười ba năm, nhưng vẫn không đắc dụng, tới năm 68 tuổi Ông lại trở về nước Lỗ, soạn lại Kinh Thi, Kinh Thư, định lại Kinh Lễ, Kinh Nhạc, phê bình Kinh Dịch, làm ra Kinh Xuân Thu, học trò có đến ba ngàn người, đời sau được tôn xưng là "Chí Thánh Tiên Sư". 

4.- CHỮ HÁN: Minh Giáo viết: Phàm nhân sở vi chi ác, hữu hữu hình giả, hữu vô hình giả, Vô hình chi ác hại nhân giả dã, hữu hình chi ác sát nhân giả dã. Sát nhân chi ác tiểu, hại nhân chi ác đại. Sở dĩ du yến trung hữu chậm độc, đàm tiếu trung hữu qua mâu, đường áo trung hữu hổ báo, lân hạng trung hữu Nhung, Ðịch. Tự phi Thánh hiền tuyệt chi ư vị manh phòng chi ư lễ pháp, tắc kỳ vi hại dã, diệc bất thậm hồ. 
Tây Hồ Quảng Ký. 

4.- DỊCH NGHĨA: Ngài Minh Giáo nói: Phàm con người làm điều ác, có điều ác hữu hình, có điều ác vô hình. Phần ác vô hình là việc hại người, phần ác hữu hình là việc giết người. Cái ác giết người thì nhỏ, cái ác hại người thì lớn. Sở dĩ trong tiệc yến ẩm có chất độc của loài chim chậm (1), trong chỗ cười đùa có chứa ẩn các loài giáo mác, trong nhà sâu kín có hổ báo, trong ngõ hẻm bên có rợ Nhung, Ðịch (2). Nếu tự mình không phải là Thánh hiền, không tận diệt khi nó hãy chưa manh nha, không phòng ngừa bằng lễ, pháp (3), thời cái hại đó không thể lường được. 
Tây Hồ Quảng Ký. 

CHÚ THÍCH: 

(1) Chim Chậm: Hình thù giống chim ưng lớn như chim thứu, màu tía và xanh lợt, cổ dài bảy tám tấc, là loài chim rất độc, nếu đem cánh nó khuấy lên rượu uống thì chết ngay. 
(2) Rợ Nhung, Ðịch: Ngày xưa người Trung Hoa gọi những nguời chưa khai hóa ở phương Bắc là Ðịch. 
(3) Lễ Pháp: Gọi tắt ở chữ lễ nghĩa, giáo pháp. 

5.- CHỮ HÁN: Minh Giáo viết: Ðại Giác Liên Hòa Thượng, trụ Dục Vương. Nhân nhị Tăng tranh thí lợi bất dĩ. Chủ sự mạc năng đoán. Ðại Giác hô chí trách chi viết: "Tích Bao Công phán Khai Phong, dân hữu tự trần, dĩ bạch kim bách lạng ký ngã giả vong hỹ. Kim hoàn kỳ gia, kỳ tử bất thụ vọng công triệu ký tử hoàn chi. Công thán dị, tức triệu kỳ tử ngữ chi. Kỳ tử từ viết, tiên phụ tồn nhật vô bạch kim tư ký tha thất. Nhị nhân cố nhượng cửu chi, công bất đắc dĩ trách, phó tại thành tự quán, tu minh phúc dĩ tiến vong giả". Dư mục đổ kỳ sự. Thả trần lao trung nhân, thượng năng sơ tài mộ nghĩa như thử. Nhĩ vi Phật đệ tử, bất thức liêm sĩ nhược thị. Toại y Tùng lâm pháp thấn chi. 
Tây Hồ Quảng Ký. 

5.- DỊCH NGHĨA: Ngài Minh Giáo nói: Ðại Giác Liên Hòa thượng (1) khi ở chùa Dục Vương. Nhân có hai ông Tăng tranh cãi nhau về phần thí lợi (2), vị chủ sự (3) không hay quyết đoán được. Ðại Giác Hòa thượng liền gọi đến mắng rằng: "Trước Bao Công làm tài phán (4) ở đất Khai Phong, có người dân đến tự trình bày: - Có người đem số bạc 100 lạng gởi tôi rồi mất, nay tôi đem số bạc đó trả lại cho người con của ông ta, nhưng người đó không chịu nhận, vậy mong Ông cho gọi người đó để trả lại hộ. Ông rất kinh dị, liền cho gọi người con đó nói rõ sự việc, nhưng người đó cố từ và nói: - Ngày sinh thời, cha tôi không hề có bạc riêng để gởi người khác. Hai người cố nhường nhau mãi, ông bất đắc dĩ phải đem số bạc cúng vào chùa, làm việc phúc thiện để truy tiến cho người mất". Ta mục kích thấy việc đó. Kìa như, trong chốn trần lao (5), cũng còn hay khinh tài trọng nghĩa như vậy, huống hồ các người là đệ tử Phật lại chẳng biết liêm sĩ hay sao? Hòa thượng liền y pháp của Tùng lâm đuổi hai vị Tăng ra khỏi chùa. 
Tây Hồ Quảng Ký. 

CHÚ THÍCH: 

(1) Ðại Giác Liên Hòa thượng: Ðại Giác Liên Hòa thượng trụ trì chùa Dục Vương thuộc Minh Châu, pháp tự của ngài Hoài Trừng đời Thanh Nguyên thứ 14. 
(2) Thí lợi: Của bố thí. Hàng Tăng thì đem pháp của đức Phật giảng cho người nghe gọi là pháp thí, trái lại khi các tín đồ đem đồ vật của cải cúng dường chư Tăng, gọi là tài thí, nên gọi là thí lợi. 
(3) Chủ sự: Vị duy Na trong chốn Tùng lâm. 
(4) Bao Công làm tài phán: Bao Công, tên chữ là Hy Nhân làm quan đến chức Ngự Sữ. Thiên tính nghiêm khắc, chưa từng có cười cợt, ngày làm việc quan ở đất Khai Phong, có người dân là Lý Giác An sanh con còn nhỏ dại, nhân bị bịnh bèn đem 100 lạng bạc gởi Trương Huệ Minh rồi Giác An mất. Sau Huệ Minh đem bạc trả lại người con của Giác An, nhưng người con không chịu nhận. Một bên bảo vì của nên trả lại. Một bên bảo cha không có của nên không nhận. Tài phán là tòa án xét hỏi và phán quyết. 
(5) Trần lao: Người tại gia. Kinh Lăng Nghiêm nói: "Ô nhiễm gọi là trần, phiền não làm rối loạn gọi là lao". 

6.- CHỮ HÁN: Ðại Giác Liên Hòa thượng, sơ du Lư Sơn. Viên Thông Nột thiền sư nhất kiến trực dĩ đại khí kỳ chi. Hoặc viết: "Hà tự nhi tri chi". Nột viết: "Tư nhân trung chính bất ỷ, động tĩnh tôn nghiêm, gia dĩ đạo học, hành nghị, ngôn giản tận lý. Phàm nhân tư bẩm như thử, tiển bất hữu thành khí giả". 
Cửu Phong Tập. 

6.- DỊCH NGHĨA: Ðại Giác Liên Hòa thượng, lần đầu tiên du hành đến Lư Sơn (1), Viên Thông Nột thiền sư (2) thoạt thấy, liền đem đại khí (3) để kỳ vọng ở người. Hoặc có kẻ nói: "Ngài căn cứ vào đâu mà biết?" Nột thiền sư đáp:"Người ấy trung chính (4) không nghiêng ngả, động tĩnh tôn nghiêm, lại thêm vào đó phần đạo học, làm việc ngay thẳng, nói ít mà lý chu. Phàm con người có tư bẩm như thế, ít có ai mà chẳng thành đại khí". 
Cửu Phong Tập. 

CHÚ THÍCH: 

(1) Lư Sơn: Núi Lư Sơn ở phía Tây Bắc phủ Nam Khang Trung Quốc. 
(2) Viên Thông Nột: Pháp tự của Ðổng Sơn Tử Vinh thiền sư, trụ trì chùa Viên Thông Giang Châu. 
(3) Ðại khí: Ðồ quí, ví cho người có tài năng hay làm được việc lớn. 
(4) Trung chính: Trung nghĩa là làm đúng mức, chính là không thiên lệch. 

7.- CHỮ HÁN: Nhân Tổ Hoằng Hựu sơ, khiển ngân đang tiểu sứ trì lục đề xích nhất thư, triệu Viên Thông Nột, trụ Hiếu Từ đại già lam. Nột xưng tật bất khởi. Biểu sớ Ðại Giác ứng chiếu. Hoặc viết: "Thánh Thiên Tử kỳ sùng đạo đức, ân bị tuyển thạch, sư hà cố từ". Nột viết: "Dư lạm sý Tăng luân, thị thính bất thông, hạnh an lâm hạ, phạn sơ ẩm thủy, tuy Phật Tổ hữu sở bất vi, huống kỳ tha dã?" Tiên triết hữu ngôn: "Ðại danh chi hạ, nan dĩ cửu cư". Dư bình sinh hành tri túc chi kế, bất dĩ thanh lợi tự lụy. Nhược yếm vu tâm, hà nhật nhi túc. Cố Ðông Pha thường viết: "Tri an tắc vinh, tri túc tắc phú". Tỵ danh toàn tiết, thiện thủy thiện chung, tại Viên Thông đắc chi hỹ. 
Hành Thực. 

7.- DỊCH NGHĨA: Năm đầu niên hiệu Hoằng Hựu thời vua Nhân Tổ (1), vua phái khiển sứ giả đem chiếu thư (2), triệu Viên Thông Nột thiền sư trụ trì Hiếu Từ đại già lam (3). Nột thiền sư cáo tật không trở dậy, phái Ðại Giác Hòa thượng tiếp nhận chiếu biểu. Có người nói: "Thánh Thiên Tử sùng chuộng đạo đức, ơn gội khắp núi rừng, ngài tại sao lại cố từ?" Nột thiền sư đáp: "Ta lạm nhập vào hàng Tăng, sự thấy nghe chưa thông suốt, may mắn được an phận ở dưới rừng, ăn rau uống nước lã, tuy là việc Phật Tổ cũng còn có chỗ làm chẳng được, huống hồ làm việc khác vậy ư". Tiên triết có nói: "Dưới chỗ đại danh (4) khó thể ở lâu được". Ta từ thuở bình sinh, thực hành kế tri túc, tự mình không bận vào đường danh lợi. Nếu đã chán trong nơi tâm thì ngày nào mà chả đủ. Nên Ðông Pha (5) thường nói: "Biết an thời vinh hiển, biết đủ thời giàu sang". Vậy nên lánh được danh thì toàn tiết, trước và sau toàn thiện; đó là những điểm sở đắc ở Viên Thông vậy. 
Hành Thực. 

CHÚ THÍCH: 

(1) Nhân Tổ: Vua Nhân Tôn đời nhà Tống. 
(2) Sứ giả đem chiếu chư: Dịch ở chữ Ngân đang tiểu sứ tri lục đề xích nhất thư. Ngân đang tiểu sứ tức là chức hoạn quan hầu cận vua. Lục đề xích nhất thư, nghĩa là tờ chiếu viết vào tấm lụa màu xanh dài một thước một tấc. 
(3) Ðại già lam: Ngôi chùa kiến trúc rộng rãi quy mô, có đông Tăng chúng cư trụ. 
(4) Ðại danh: Danh vọng to lớn, tên tuổi lừng lẫy. 
(5) Ðông Pha: tức Tô Ðông Pha, một văn hào Trung Quốc. 

8.- CHỮ HÁN: Viên Thông Nột Hòa thượng viết: Tích mệnh giả tại trượng, thất trượng tắc điên. Ðộ giả mệnh tại chu, thất chu tắc nịch. Phàm lâm hạ nhân, tự vô sở thủ, hiệp ngoại thế dĩ vi trọng giả, nhất đán thất kỳ sở hiệp, giai bất năng miễn điên nịch chi hoạn dã. 
Lư Sơn Dã Lục. 

8.- DỊCH NGHĨA: Viên Thông Nột Hòa thượng nói: Tính mệnh của người khoèo (1) nhờ vào gậy, mất gậy thì bị ngã. Tính mệnh của kẻ qua đò nương vào thuyền, mất thuyền thì đắm. Phàm người ở chốn tùng lâm, tự mình không duy trì lấy đạo đức ở nội tâm, lại nương cậy vào quyền thế ở bên ngoài, nhất đán cái thế đó mất đi, đều không thế tránh khỏi cái họa khuynh đảo (2). 
Lư Sơn Dã Lục. 

CHÚ THÍCH: 

(1) Khoèo: Bị tật què cả hai chân. 
(2) Khuynh đảo: Nghiêng ngửa đổ vỡ. 

9.- CHỮ HÁN: Viên Thông Nột viết: Tích Bách Trượng Ðại Trí thiền sư kiến tùng lâm, lập qui củ, dục cứu Tượng, Quý bất chính chi tệ. Tằng bất tri, Tượng, Quý học giả, đạo qui củ, dĩ phá Bách Trượng chi tùng lâm. Thượng cổ chi thế, tuy sào cư huyệt xứ, nhân nhân tự luật. Ðại trí chi hậu tuy cao đường quảng hạ, nhân nhân tự phế. Cố viết: "An nguy đức giả, hưng vong số dã". Cẩu đức khả tương, hà tất tùng lâm cẩu số khả bằng hạt dụng quy củ. 
Dã Lục. 

9.- DỊCH NGHĨA: Viên Thông Nột thiền sư nói: Ngày xưa Bách Trượng Ðại Trí (1) thiền sư kiến lập tùng lâm, đặt ra qui củ (2) muốn cứu vãn cái tệ bất chính đời Tượng Quý (3). Nào ngờ đâu, người học ở đời Tượng Quý, lại trộm qui củ để phá hoại tùng lâm của Bách Trượng. Người đời thượng cổ, tuy nằm hang ở lỗ, nhưng ai nấy đều tự đặt mình trong luật lệ. Người đại trí trở về sau, tuy thênh thang trong nhà cao cửa rộng, nhưng ai nấy đều tự bỏ mất mẫu mực. Cho nên nói: "An nguy ở đức (4) vậy, hưng vong ở số vậy". Nếu nương vào đức thì hà tất phải dựng ra tùng lâm, nếu bằng vào số thời cần gì phải dùng đến quy củ. 
Dã Lục. 

CHÚ THÍCH: 

(1) Bách Trượng Ðại Trí: Truyền Ðăng Lục quyển 6 chép: "Bách Trượng là pháp tự của Mã Tổ Ðạo Nhất tên là Hoài Hải, ở núi Bách Trượng thuộc Hàng Châu, tên hiệu là Ðại Trí, soạn bộ Bách Trượng Thanh Qui cho thiền tông". 
(2) Qui củ: Qui là cái đồ làm hình tròn; củ là cái khuôn làm hình vuông, nên qui củ có nghĩa là luật lệ. 
(3) Tượng, Quí: Ðức Phật tịch diệt sau 500 năm thì giáo pháp của ngài thuộc thời chánh pháp, sau 1000 năm là thời Tượng pháp, sau 10.000 năm là thời Mạt pháp. 
(4) An nguy ở đức: Lời của Tấn Ðàm Tử: An nguy đức dã, hưng vong số dã. Ðức là người có đức thì chốn tùng lâm an, không có đức thì chốn tùng lâm nguy. Số là thời vận; nghĩa là an nguy ở người nhưng hưng vong ở thời vận. 

10.- CHỮ HÁN: Viên Thông vi Ðại Giác viết: Cổ thánh trị tâm ư vị mạnh, phòng tình ư vị loạn. Cái dự bị tắc vô hoạn. Sở dĩ trùng môn kích thác dĩ đãi bạo khách, nhi thủ chư dự dã, sự dự vi chi tắc dị, thốt vi chi cố nan. Cổ chi hiền triết hữu chung thân chi ưu nhi vô nhất triêu chi hoạn giả, thành tại vu tư. 
Cửu Phong Tập. 

10.- DỊCH NGHĨA: Viên Thông thiền sư bảo Ðại Giác rằng: Bậc thánh xưa kia trị tâm ở lúc chưa manh nha, ngừa tình ở lúc chưa rối loạn. Vì lẽ dự bị thời không có lo sợ. Sở dĩ làm cửa ải, điểm mõ canh (1) để ngừa bạo khách (2) mà cần phải dự bị. Vậy nên, việc gì có dự bị trước khi thực hiện thời dễ, cẩu thả thời khó. Hiền triết thời xưa kia, vì chung thân lo lắng (3) nên không có cái hoạn nạn bất ngờ. Chính thực là nghĩa ấy vậy. 
Cửu Phong Tập. 

CHÚ THÍCH: 

(1) Làm cửa ải, điểm mõ canh: Dịch ở chữ "Trùng môn kích thác", thuộc quẻ Lôi Ðịa Dự trong kinh Dịch. Quẻ này Khôn ở dưới, Chấn ở trên. Chấn có tính động, Khôn có tính thuận, hành động mà thuận hòa nên vui vẻ, vậy mới đặt tên là quẻ Dự. Dự có nghĩa là vui vẻ sung sướng. Họ Dương nói: "Sông ngòi và đường cái thông suốt, thời kẻ bạo khách sẽ qua lại dễ dàng, nên phải có kế hoạch để đề phòng. Vậy nên cần phải dự bị trước. Nghĩa là phải làm cửa ải để ngăn họ, phải điểm mõ canh để cảnh giác họ, khiến họ không có lối tự do xâm nhập. Vì hai hào âm ở trên là tượng trưng cho "trùng môn"; một hào dương ở dưới là tượng trưng cho "kích thác"; ba hào âm ở trong là tượng trưng cho "duyệt dự". Tóm lại nghĩa là có phòng bị thì được vui vẻ. 
(2) Bạo khách: Trộm cướp. 
(3) Chung thân lo lắng: Chung thân ưu, thiên Ly Lâu trong sách Mạnh Tử chép: "Quân tử hữu chung thân chi ưu, vô nhất triêu chi hoạn dã". Nghĩa là người quân tử suốt đời lo lắng làm sao tiến kịp với thánh hiền, nên không có cái tai họa bất ngờ đưa lại. 

11.- CHỮ HÁN: Ðại Giác Liên Hòa thuợng viết: Ngọc bất trác bất thành khí, nhân bất học bất tri lý. Kim chi sở dĩ tri cổ, hậu chi sở dĩ tri tiên. Thiện giả khả dĩ vi pháp, ác giả khả dĩ vi giới. Lịch quan tiền bối lập thân dương danh ư đương thế giả, tiển bất học vấn nhi thành chi hỹ. 
Cửu Phong Tập. 

11.- DỊCH NGHĨA: Ðại Giác Liên Hòa thượng nói: Ngọc chẳng dũa thời không thành đồ dùng, người chẳng học thời không biết đạo lý. Nay sở dĩ biết được xưa (1), sau sở dĩ biết được trước. Ðiều thiện thì đáng được bắt chước, điều ác thì lấy giới làm răn. Các bậc tiền bối nối tiếp nhau lập thân dương danh ở đương thời, ít có ai chẳng nương vào học vấn mà thành tựu. 
Cửu Phong Tập. 

CHÚ THÍCH: 

(1) Nay sở dĩ biết được xưa: Trong tờ Thực Lục Biểu Trạng của Hàn Dũ dâng vua Thuận Tôn hoàng đế có câu: "Kim chi sở dĩ tri cổ, hậu chi sở dĩ tri kim, bất khả khẩu truyền, tất bằng chư sử". Nghĩa là ngày nay sở dĩ biết được việc xưa kia, sau sở dĩ biết được việc ngày nay, không thể bằng ở khẩu truyền, tất nhiên phải y cứ vào sử sách". 

12.- CHỮ HÁN: Ðại Giác viết: Diệu đạo chi lý, thánh nhân thường ngụ chi ư Dịch. Chí Chu suy tiên vương chi pháp hoại, lễ nghĩa vong, nhiên hậu kỳ ngôn dị thuật giáng xuất nhi loạn tục. Ðãi ngã Thích Ca nhập Trung thổ, truân dĩ Ðệ nhất nghĩa đế thị nhân nhi thủy mạt thiết vi từ bi dĩ hóa quần sanh, diệc sở dĩ xu thời dã. Tự sinh dân dĩ lai, thuần phác vị tán, tắc Tam Hoàng chi giáo, giản nhi tố Xuân dã. Cập tình đậu nhật tạc, tắc Ngũ Ðế chi giáo tường nhi văn Hạ dã. Thời dữ thế dị, tình tùy nhật thiên, cố Tam vương chi giáo mật nhi nghiêm Thu dã. Tích Thương Chu chi cao thệ, hậu thế học giả cố hữu bất năng hiểu, tỷ đương thời chi dân thính chi nhi bất vi, tắc tục dữ kim như hà dã. Cập kỳ tệ nhi vi Tần Hán dã, tắc vô sở bất chi hỹ. Cố nhiên thiên hạ hữu bất nhẫn nguyện văn giả. Ư thị ngã Phật Như Lai nhất suy chi, dĩ tính mệnh chi lý Ðông dã. Thiên hữu tứ thời tuần hoàn dĩ sinh thành vạn vật, Thánh nhân thiết giáo, điệt tương phù trì, dĩ hóa thành thiên hạ, diệc do thị nhi dĩ hỹ. Nhiên chí kỳ cực dã, giai bất năng vô tệ. Tệ giả tích dã. Yếu đương hữu thánh hiền giả, thế khởi nhi cứu chi. Tự Tần Hán dĩ lai, thiên hữu dư tải, phong tục my my du bạc. Thánh nhân chi giáo, liệt nhi đỉnh lập hỗ tương để tý, đại đạo liêu liêu mạc chi phản, lương khả thán dã. 
Ðáp Thị Lang Tôn Tân Lão thư. 

12.- DỊCH NGHĨA: Ðại Giác Hòa thượng nói: Cái lý của diệu đạo (1), Thánh nhân thường ngụ ở Dịch (2). Ðời nhà Chu suy, thời pháp của tiên vương hoại, lễ nghĩa mất. Sau đó những kỳ ngôn dị thuật đua nhau xuất hiện mà phong tục loạn. Kịp đến lúc đạo của Phật Thích Ca ta du nhập Trung thổ (3), thuần đem Ðệ nhất nghĩa đế (4) để dạy đời, trước sau thuyết giáo đều lấy Từ bi để tiếp hóa quần sanh, đó cũng chỉ là tùy theo ở thời thế vậy. Từ lúc có sinh dân trở lại, tính thuần phác chưa tan, thời cái giáo của Tam Hoàng (5) giản dị mà tố phác, đó là mùa Xuân vậy. Ðến lúc tâm tình mỗi ngày một mỏng, cái giáo của Ngũ Ðế(6) tường tận mà văn vẻ, đó là mùa Hạ. Thời cùng thế khác nhau, tình cũng theo đó mà ngày một thay đổi, nên cái giáo của Tam Vương (7) mật mà nghiêm, đó là mùa Thu. Các bài Cáo, Thệ (8) của Thương, Chu xưa kia, người học ở đời sau cũng còn chẳng hiểu, thế nhưng dân đương thời nghe theo mà không trái. Nếu đem so sánh thời biết cái phong tục giữa xưa và nay như thế nào rồi vậy! Cho đến đời nhà Tần, nhà Hán, thời cái tệ đó thật quá sâu rộng, đến nỗi người trong thiên hạ có chỗ chẳng còn muốn nghe. Bởi thế đức Phật Như Lai ta xét sự kiện ấy mà dạy cho cái lý tính mệnh (9), đó là mùa Ðông vậy. Trời có bốn mùa tuần hoàn để sanh thành vạn vật. Thánh nhân đặt ra giáo lý phù trì lẫn cho nhau để hóa thành thiên hạ, cũng chỉ bởi thế thôi. Nhưng cái gì đã đến chỗ cùng cực, thời không thể tránh khỏi cái tệ thoái trào, cái tệ đó chính là dấu vết vậy. Cho nên lại cần có những bậc Hiền thánh xuất hiện ở đời để cứu cái tệ đó. Tù nhà Tần, nhà Hán trở lại, trải qua hàng ngàn năm, phong tục bời bời ngày càng phai lạt. Giáo lý của Thánh nhân thì phân liệt, rồi đua nhau thiết lập, chê trách lẫn nhau, không thể nào trở lại được đạo lớn mênh mang, thực đáng tiếc vậy. 
Thư đáp Thị Lang Tôn Tân Lão (10)[/b]. 

CHÚ THÍCH: 

(1) Lý diệu đạo: Cái chân lý đạo lớn thật nhiệm mầu. 
(2) Thánh nhân thường ngụ ở Dịch: Hệ Từ Thượng Truyện trong kinh Dịch chép: "Thiên tôn, địa ty, càn, khôn định hỹ. Ty cao dĩ trần, quí tiện vị hỹ. Ðông tĩnh hữu thường, cương nhu đoán hỹ. Phương dĩ loại tụ, vật dĩ quần phân, cát hung sinh hỹ. Tại thiên thành tượng, tại địa thành hình, biến hóa kiến hỹ. Thị cố, cương nhu tương ma, bát quái tương dạng". Nghĩa là: "Xem trời cao đất thấp mà định được càn khôn, bày rõ được cao thấp, định ngay được quí tiện. Ðộng tịnh có thói thường, mà phán đoán được cương nhu. Tùy mỗi nhóm để hợp thành từng loài, tùy mỗi vật để chia thành từng nhóm, nhân đó mà sinh ra cát hung. Xem ở trời mà thành ra vô số tượng, xem ở đất mà thấy được vô số hình, nhân thế mà thấy quái hào trong Dịch âm biến ra dương, dương hóa ra âm. Vì thế cương nhu cùng mài sát lẫn nhau mà thành ra tám quẻ, rồi tám quẻ lại luân chuyển mà thành những quẻ khác. 
(3) Trung thổ: Trung quốc, nước Tàu. 
(4) Ðệ nhất nghĩa đế: Tiếng Phạn là Para martha-satya. Tàu dịch là Ðệ nhất nghĩa đế, hoặc gọi là chân đế, hay Thánh đế có nghĩa là chân lý xác thực thứ nhất. Cũng còn gọi là Niết bàn, chân như, thực tướng, trung đạo, pháp giới... 
(5) Tam Hoàng: Ba đời vua xưa kia ở bên Tàu: Thái Hạo, Viêm Ðế và Hoàng Ðế. 
(6) Ngũ Ðế: Năm đòi vua xưa kia ở bên Tàu: Phục Hy, Thần Nông, Hoàng Ðế, Ðường Nghiêu, Ngu Thuấn. 
(7) Tam Vương: Nhà Hạ, Ân, Chu. 
(8) Cáo, Thệ: Cáo là lời bố cáo hiểu dụ cho dân chúng trong thiên hạ. Thệ là những bài hịch tuyên đọc trước tướng sĩ để răn trước những hình phạt theo quân lệnh. 
(9) Cái lý tính mệnh: Thuyết quái trưyện trong kinh Dịch chép: "Tích giả Thánh nhân chi tác Dịch giả, tương dĩ thuận tính mệnh chi lý". Nghĩa là Thánh nhân sở dĩ làm ra Dịch là chỉ muốn thuận theo cái lý của tính mệnh". Vì lý tính mệnh có cả Thiên đạo, nhân đạo và địa đạo. 
(10) Thị Lang Tôn Tân Lão: Thị Lang là tên một chức quan. Tôn Tân làm quan Thị lang đời Tống, tên là Giác, tên chữ là Tôn Tân Lão, người đất Cao Bưu. 

13.- CHỮ HÁN: Ðại Giác viết: Phù vi nhất phương chủ giả, dục hành sở đắc chi đạo nhi lợi ư nhân. Tiên tu khắc kỷ, huệ vật, hạ tâm ư nhất thiết, nhiên hậu thị kim bạch như phẩn thổ, tắc tứ chúng tôn nhi qui chi hỹ. 
Dữ Cửu Tiên Hủ Hòa Thượng thư. 

13.- DỊCH NGHĨA: Ðại Giác Hòa thượng nói: Ôi! Người làm chủ ở một phương muốn thực hành chỗ sở đắc để lợi người, thời trước hết phải nên khắc kỷ(1), khoan dung với người, để tâm đến hết thảy. Vậy sau coi vàng lụa như phân đất, thời được bốn chúng (2) tôn sùng và quy thuận. 
Tờ gởi Cửu Tiên Hủ Hòa thượng. 

CHÚ THÍCH: 

(1) Khắc kỷ: Chế ngự cái thị hiếu của mình. 
(2) Bốn chúng: Tỳ khưu, Tỳ khưu Ni, Ưu Bà tắc, Ưu bà di. 

14.- CHỮ HÁN: Ðại Giác viết: Tiền bối hữu thông minh chi tư, vô an nguy chi lự. Như Thạch Môn Thông, Thê Hiền Thuấn, nhị nhân giả, khả vi giới hỹ. Nhiên tắc nhân sinh định nghiệp, cố nan minh biện. Tế tường kỳ nguyên, an đắc bất tri kỳ vi hốt mạn bất tư chi quá dư? Cố viết: "Họa hoạn tàng ư ẩn vi, phát ư nhân chi sở hốt". Dụng thị quan chi, vưu nghi cẩn úy. 
Cửu Phong Tập. 

14.- DỊCH NGHĨA: Ðại Giác nói: Bậc tiền bối có tư chất thông minh, không có cái lo sợ phần an nguy. Như hai sự việc của Thông Thiền Sư chùa Thạch Môn (1), Thuấn Lão Phu chùa Thê Hiền (2) cũng lấy đó làm răn vậy. Vẫn biết định nghiệp của kiếp người (3) rất khó mà biện minh, nhưng xét kỹ ở nguyên nhân thời sao lại không biết được cái lỗi cẩu thả chẳng suy nghĩ đấy ư? Vậy nên có câu: "Cái họa hoạn nó ẩn náu ở chỗ vi tế, rồi bộc phát ra từ cái chỗ bất cẩn của con người". Lấy đó mà suy xét thời càng phải nên cẩn thận sợ hãi. 
Cửu Phong Tập. 

CHÚ THÍCH: 

(1) Thông Thiền sư chùa Thạch Môn: Chính tên là Thông Uẩn thiền sư trong năm niên hiệu Hàm Bình, trụ trì chùa Thạch Môn, vì có sự tương tranh với quan Thái thú ở Tương Châu, nên bị cái nhục đánh đòn. 
(2) Thuấn Lão Phu chùa Thê Hiền: Thuấn Lão Phu vì có tư oán với quan Hòe Ðô, nên đã bị bức bách phải hoàn tục mất hơn nửa năm trời. 
(3) Ðịnh nghiệp: Tội nghiệp đã ước định từ trước. Nhưng thực sự, nghiệp là tự mình tạo ra nên mình phải chịu lấy quả báo. 

15.- CHỮ HÁN: Vân Cư Thuấn Hòa thượng, tự Lão Phu, trụ Lư Sơn Thê Hiền nhật, dĩ quận thú Hòe Ðô quan tư phẫn, lụy hoành nghịch dân kỳ y. Vãng kinh đô phỏng Ðại Giác, Chí Sơn Dương, trở tuyết lữ tể. Nhất tịch hữu khách, huề nhị bộc phá tuyết nhi chí, kiến Lão Phu như cựu thức, dĩ nhi dịch y bái ư tiền. Lão Phu vấn chi. Khách viết: "Tích tại Ðổng Sơn, tùy sư hà đảm, chi Hán Dương Cán Bộc Tống Vinh dã". Lão Phu cộng ngữ trù tích, khách ta thán chi cửu. Lăng thần bị phạn tặng bạch kim ngũ lạng, nhưng hoán nhất bộc. Khách viết: "Thử nhi lai vãng kinh thành xác hỹ, đạo đồ gián quan bị tất, sư hành cố vô lư hồ". Lão Phu do thị đắc đạt liễn hạ, suy thử ích tri kỳ nhị nhân bình tích sở tồn hỹ. 
Cửu Phong Tập. 

15.- DỊCH NGHĨA: Vân Cư Thuấn Hòa thượng,tên chữ là Lão Phu, ngày còn trụ trì chùa Thê Hiền ở Lư Sơn, vì có mối tư oán với quan quận thú Hòe Ðô, nên bị cưỡng bách phải hoàn tục. Ngài sau đó tới kinh đô thăm Ðại GHiác Hòa thượng, khi đến đất Sơ Dương (1), bị tuyết làm ngăn trở, nên phải ở trọ một lữ quán (2). Vào một buổi chiều, có một người khách đem theo hai người hầu phá con đường tuyết mà tới, chợt thấy Lão Phu như là người quen biết cũ. Rồi ông khách thay áo tới trước thi lễ. Lão Phu liền hỏi nguyên do. Người khách đáp: "Tôi trước thường theo hầu thầy ở Ðổng Sơn, tên là Cán Bộc Tống Vinh ở Hán Dương vậy". Người khách cùng với Lão Phu cùng nhau kể chuyện cũ tới khuya. Sáng hôm sau người khách lại làm cơm thết đãi, tặng Lão Phu năm lạng, còn gọi một người hầu tới. Rồi người khách nói: "Ðứa trẻ này thường hay lui tới tốn kinh thành, biết tất cả đoạn đường gian nan nguy hiểm, nay cho đi đưa đường, xin thầy an tâm chớ lo ngại". Vì thế mà Lão Phu tới được chốn Kinh thành (3). Xét như vậy, thì cái lợi ích về chỗ quen biết xưa kia của hai người thật là thắm thiết. 
Cửu Phong Tập. 

CHÚ THÍCH: 

(1) Sơn Dương: Thuộc Sở Châu. 
(2) Lữ quán: Quán trọ. Ngày xưa dùng chữ lữ tể. Tể có nghĩa là đi đến và trở về. Ngày nay dùng chữ lữ thay cho chữ tể. Theo chế độ nhà Hán, nơi quán trọ ở các quận, huyện thì gọi là "xá", ở chốn kinh đô gọi là "tể", nay đều gọi là lữ quán. 
(3) Kinh thành: Dịch từ chữ Liễn hạ. Là loại xe riêng cho các vua chúa ngồi,vì thế chữ Liễn hạ là ám chỉ cho chốn kinh thành. 

16.- CHỮ HÁN: Ðại Giác viết: Thuấn Lão Phu phú tính giản trực, bất thức quyền hành hóa thực đẳng sự. Nhật hữu định khóa, tằng bất thiểu dịch. Tuy chích đăng tảo địa, giai cung vi chi. Thường viết: "Cổ nhân hữu nhất nhất bất tác nhất nhật bất thực" chi giới, dư hà nhân dã. Tuy thùy lão kỳ chí ích kiên. Hoặc viết: "Hà bất sử tả hữu nhân". Lão phu viết: "Kinh thiệp hàn thử, khởi tọa bất thường, bất dục lao chi". 

16.- DỊCH NGHĨA: Ðại Giác nói: Thuấn Lão Phu phú tinh thì giản dị và trung thực, không biết mọi việc quyền hành (1) hóa thực. Hằng ngày có định khóa, từng không thay đổi thời khắc nào, tuy là những việc thắp đèn quét đất cũng đều tự mình làm lấy. Ngài thường nói: "Cổ nhân đều có răn dạy một ngày chẳng làm thời một ngày chẳng ăn (2). Vậy ta là người thế nào vậy?" Ta tuy tuổi đã già, nhưng chí đó cần phải bền chắc. Hoặc có người nói: "Tại sao không sai khiến người thân cận". Lão Phu nói: "Bạt thiệp nóng lạnh, đứng ngồi bất thường, nên chẳng muốn phiền nhọc họ". 

CHÚ THÍCH: 

(1) Quyền hành hóa thực: Quyền hành là quả cân để đo lường nặng nhẹ. Hóa thực nghĩa là kinh doanh buôn bán, ý nói làm việc mà biết cân nhắc lựa chọn thì gọi là quyền hành hóa thực. 
(2) Một ngày chẳng làm thời một ngày chẳng ăn: Lời răn của Bách Trượng Ðại Trí thiền sư. 

17.- CHỮ HÁN: Thuấn Lão Phu viết: Truyền trì thử đạo, sở quý nhất thiết chân thật. Biệt tà chính khử vọng tình, nãi trị tâm chi thực. Thức nhân quả minh tội phúc, nãi tháo lý chi thực. Hoằng đạo đức tiếp phương lai, nãi trụ trì chi thực. Lương tài năng thỉnh chấp sự, nãi dũng nhân chi thực, sát ngôn hành định khả phủ, nãi cầu hiền chi thực. Bất tồn kỳ thực, đồ huyễn hư danh, vô ích ư lý. Thị cố nhân chi tháo lý, duy yếu thành thực, cẩu chấp chí bất du, tuy di hiểm khả dĩ nhất chí. 
Nhị sự Thản Nhiên Am tập. 

17.- DỊCH NGHĨA: Thuấn Lão Phu nói: Truyền trì đạo pháp, quý nhất ở chỗ chân thật với hết thảy. Phân biệt điều tà chính, gạt bỏ mọi vọng tình, đó là cái thật trị tâm. Biết nhân quả rõ tội phúc, đó là cái thật tháo lý (1). Hoằng đạo đức, tiếp thập phương lui tới, đó là cái thật của trụ trì. Lượng tài năng, giao phó việc, đó là cái thật dùng người. Xét ngôn và hành, quyết định nên hay không nên, đó là cái thật cầu hiền. Nếu không giữ lòng thành thật, chỉ chuộng lừa dối hư danh, đối với đạo lý thời chẳng có lợi ích gì. Vây nên cái tháo lý của con người, cần nhất ở chỗ thành thật. Nếu cứ giữ một mực như thế không biến đổi, thì dù rằng việc di hiểm (2) đến đâu cũng có thể nhất chí được. 
Hai việc trên ở Thản Nhiên Am tập. 

CHÚ THÍCH: 

(1) Tháo lý: Giữ gìn tiết tháo trong sạch ở những công việc làm hằng ngày. 
(2) Di hiểm nhất chí: Giữ cho bình tĩnh ở trường hợp bình thường cũng như lúc nguy hiểm. 

18.- CHỮ HÁN: Thuấn Lão Phu vị Phù Sơn Viễn Lục Công viết: Dục cứu vô thượng diệu đạo, cùng tắc ích kiên, lão đương ích tráng, bất khả tuần tục, cẩu thiết thanh lợi, tự táng chí đức. Phù ngọc quý khiết nhuận, cố đan tử mạc năng du kỳ chất, tùng biểu tuế hàn, cố sương tuyết mạc năng điêu kỳ tháo. Thị tri, tiết nghĩa vi thiên hạ chi đại. Duy công tiêu chí khả thượng, đắc bất tự cường. Cổ nhân vấn: "Dật cách độc tường, cô phong tuyệt lữ, nghi kỳ nhiên hỹ". 
Quảng Lục. 

18.- DỊCH NGHĨA: Thuấn Lão Phu bảo Viễn Lục Công (1) ở núi Phù Sơn: Nếu muốn nghiên cứu diệu đạo vô thượng, thì khi cùng cần phải bền (2), khi già cần phải gắng, không nên noi theo thế tục, đua chen thanh lợi để bỏ mất đức lớn. Ôi! Ngọc quý tiêu biểu ở chỗ nhuận khiết, nên dù màu son tía cũng chẳng hay phai được chất. Tùng cội tiêu biểu ở chỗ tuế hàn (3), nên dù sương tuyết cũng chẳng hay mất tiết tháo. Thế nên biết, tiết nghĩa là điều lớn trong thiên hạ. Duy cái chỗ tiết tháo của ông đáng chuộng nên ông cần phải tự cường. Cổ nhân nói: "Một cánh chim liệng vút trên cao thật chẳng dễ bì, làn gió mạnh xé tung bầu trời thật không sánh kịp. Nên ta cần phải như thế vậy". 
Quảng Lục. 

CHÚ THÍCH: 

(1) Viễn Lục Công: Chính tên là Pháp Viễn viên Giám thiền sư, người đất Trịnh Châu. Vì trước là con quan đầu huyện Tân Diệp, thông hiểu về việc xử trị dân, nên đời gọi là Viễn Lục Công. 
(2) Cùng cần phải bền: Dịch ở chữ cùng tắc ích kiên. Truyện Mã Viện đời Hậu Hán chép: "Trượng phu vi chí, cùng đương ích kiên, lão đương ích tráng. 
(3) Tuế hàn: Năm cực rét, Tùng, Trúc, Mai gọi là "Tuế hàn tam hữu". 

19.- CHỮ HÁN: Phù Sơn Viễn Hòa thượng viết: Cổ nhân thân sự trạch hữu, hiểu tịch bất cảm tự đãi. Chí ư chấp thoán phụ thung, lục trầm tiện dịch, vị thường đạn lao. Dư tại Diệp Huyện, bị tằng thí chi. Nhiên nhất hữu cố lợi hại giảo đắc thất chi tâm, tắc y vi cô tức, my sở bất chí. Thả thân ký bất chính, hựu an năng học đạo hồ. 
Nhạc Thị Giả Pháp Ngữ. 

19.- DỊCH NGHĨA: Phù Sơn Viễn Hòa thượng nói: Cổ nhân tìm thầy chọn bạn, sớm tối không dám lười biếng, đến những việc như thổi cơm giả gạo cũng vẫn âm thầm chịu đựng, chưa từng tỏ vẻ e ngại vất vả. Ta khi ở Diệp Huyện (1) đã từng trải những công việc đó. Nhưng có một điều, nếu tâm mình đoái đến lợi hại, so sánh hơn thua, thời y nhiên sa đọa vào lỗi lầm (2) không hợp với đạo lý (3). Vậy, nếu thân đã bất chính thì sao hay học đạo được ư". 
Pháp Ngữ của Nhạc Thị Giả (4). 

CHÚ THÍCH: 

(1) Diệp Huyện: Chỉ vào Qui Tỉnh thiền sư ở Viện Quảng Giáo thuộc Diệp Huyện. 
(2) Sa đọa vào lỗi lầm: Dịch ở chữ Y vi, có nghĩa là mưu làm điều thiện thì không thành, rồi lại y vào điều bất thiện mà thành. 
(3) Không hợp với đạo lý: Dịch ở chữ Cô tức. Cô nghĩa là đàn bà, tức nghĩa là trẻ con, ý nói tâm bị lạc vào thủ đoạn cẩu thả thấp hèn, không phù hợp với đạo lý. Sách Lễ Ký chép: "Quân tử ái nhân dã dĩ đức, tiểu nhân chi ái nhân dã chi cô tức" (thương yêu người bởi nỗi nhường nhịn tạm thời). 
(4) Nhạc thị giả: Pháp tự của Phù Sơn Viễn Hòa thượng. 

20.- CHỮ HÁN: Viễn Công viết: Phù thiên địa chi gian, thành hữu dị sinh chi vật. Sử nhất nhật bộc chi, thập nhật hàn chi, diệc vị kiến hũu năng sinh giả. Vô thượng diệu đạo, chiêu chiêu nhiên tại ư tâm mục chi gian, cố bất nan kiến. Yếu tại chí chi kiên, hành chi lực, tọa lập khả đãi. Kỳ hoặc nhất nhật tín chi nhi thập nhật nghi chi, triêu tắc cần nhi tịch tắc đạn chi, khởi độc mục tiền nan kiến, dư khủng chung kỳ thân nhi bội chi hỹ. 
Vân Thủ Tọa thư. 

20.- DỊCH NGHĨA: Viễn Công nói: Ôi! Trong khoảng trời đất, thật có những vật sinh trưởng rất dễ dàng (1), nếu thời tiết cứ một ngày ấm mà mười ngày rét, thời cũng không thể nào hay sinh được. Diệu đạo vô thượng tỏ rõ ngay trong tâm trước mắt, vì thế nên không phải là điều khó thấy. Chỉ cần nơi bền chắc của chí, chỗ tận lực của hành, thì ngay lúc đứng hay ngồi cũng hay tới được. Giả hoặc, một ngày thì tin rồi mười ngày lại ngờ vực, sớm thì siêng mà chiều lại chán nản, há phải chỉ những việc ngay trước mắt khó thấy, mà ta sợ suốt đời còn trái với diệu đạo vậy. 
Thư gởi Vân Thủ Tọa. 

CHÚ THÍCH: 

(1) Ðoạn này trích trong thiên Cáo Từ sách Mạnh Tử: "Tuy hữu thiên hạ dị sinh chi vật dã, nhất nhật bộc chi thập nhật hàn chi, vị hữu năng giả dã". 

21.- CHỮ HÁN: Viễn Công viết: Trụ trì chi yếu, mạc tiên thẩm thủ xả. Thủ xả chi cực định ư nội, an nguy chi manh định ư ngoại hỹ. Nhiên an phi nhất nhật chi an, nguy phi nhất nhật chi nguy. Giai tòng tích niệm, bát khả bất sát. Dĩ đạo đức trụ trì tích đạo đức. Dĩ lễ nghĩa trụ trì tích lễ nghĩa. Dĩ khắc bác trụ trì tích oán hận. Oán hận tích tắc trung ngoại ly bội. Lễ nghĩa tích tắc trung ngoại hòa duyệt. Ðạo đức tích tắc trung ngoại cảm phục, thị cố đạo đức lễ nghĩa hiệp tắc trung ngoại lạc. Khắc bác oán hận cực, tắc trung ngoại ai. Phù ai lạc chi cảm, họa phúc tư ứng hỹ. 

21.- DỊCH NGHĨA: Viễn Công nói: Cái yếu vụ của trụ trì trước hết phải xét phần thủ xả (1). Chỗ cùng cực của thủ xả định ở bên trong thời cái mầm mống an nguy định ở bên ngoài. An chẳng phải cái an ở một ngày, nguy chẳng phải cái nguy ở một ngày, mà nó đều chứa góp dần dần, nên không thể không xét nét cẩn thận. Nếu lấy đạo đức trụ trì thì tích phần đạo đức, lấy lễ nghĩa trụ trì thì tích phần lễ nghĩa. Lấy oán bốc lột trụ trì thì tích phần oán hận. Tích oán hận thời trong ngoài lìa tan, tích lễ nghĩa thì trong ngoài hòa vui, tích đạo đức thời trong ngoài cảm phục. Vì thế, thấm nhuần đạo đức lễ nghĩa thời trong ngoài vui vẻ, bốc lột oán hận cùng cực thời trong ngoài đau thuơng. Ôi! Cái cảm của vui buồn, tất sẽ ứng với họa phúc vậy. 

CHÚ THÍCH: 

(1) Thủ xả: Viết tắt ở chữ thủ thiện xả ác. 

22.- CHỮ HÁN: Viễn Công viết: Trụ trì hữu tam yếu: viết nhân, viết minh, viết dũng. Nhân giả hành đạo đức, hưng giáo hóa, an thượng hạ, duyệt vãng lai. Minh giả tuân lễ nghĩa, thức an nguy, sát hiền ngu, biện thị phi. Dũng giả sự quả quyết, đoán bất nghi, gian tất trừ, nịnh tất khử. Nhân nhi bất minh như hữu điền bất canh. Minh nhi bất dũng, như hữu miêu bất vân. Dũng nhi bất nhân do như ngải nhi bất tri chủng. Tam giả bị tắc tùng lâm hưng, khuyết nhất tắc suy, khuyết nhị tắc nguy, tam gia vô nhất tắc trụ trì chi đạo phế hỹ. 
Nhị sự dữ Tịnh Nhân Trăn Hòa Thượng thư. 

22.- DỊCH NGHĨA: Viễn Công nói: Trự trì có ba điểm cần thiết là "Nhân, Minh, Dũng" (1). Nhân nghĩa là thực hành đạo đức, phát triển việc giáo hóa, an trên dưới, làm đẹp lòng người đi kẻ lại. Minh là giữ lễ nghĩa, biết an nguy, xét hiền ngu, biện phải trái. Dũng nghĩa là phải quả cảm với công việc, trừ người gian, bỏ kẻ nịnh. Nhân mà không có minh, như người có ruộng chẳng cày. Minh mà không có dũng, như có lúa non chẳng làm cỏ. Dũng mà chẳng có nhân, cũng như chỉ biết cắt cỏ mà chẳng biết gieo hạt giống. Ba điểm thiết yếu như trên mà đầy đủ, thời chốn tùng lâm hưng thịnh, thiếu một thời suy, thiếu hai thời nguy, thiếu tất cả thời cái đạo của trụ trì tất hỏng vậy. 
Hai việc trên là thư gởi cho Tịnh Nhân Trăn Hòa thượng (2).

CHÚ THÍCH: 

(1) Ba điểm cần thiết: Dịch ở chữ Tam Yếu, tức là ba điểm cần thiết của việc tu tâm luyện tánh. Lời của Tư Mã Quang trong văn sớ dâng Nhân Tôn Hoàng Ðế có nóiđến ba yếu tố: "Viết Nhân, viết Minh, viết Dũng". Viễn Công Hòa thượng mượn lời này để làm ba yếu điển của ngôi trụ trì. 
(2) Tịnh Nhân Trăn Hòa Thượng: Pháp tự của Phù Sơn Viễn thiền sư. 

23.- CHỮ HÁN: Viễn Công viết: Trí ngu hiền bất tiếu, như thủy hỏa bất đồng khí, hàn thử bất đồng thời. Cái tố phân dã, hiền trí chi sĩ, thuần ý đoan hậu, dĩ đạo đức nhân nghĩa thị mưu. Phát ngôn hành sự, duy khủng bất hợp nhân tình, bất thông vật lý. Bất tiếu chi giả, gian hiểm trá nịnh, căng kỷ sính năng, thị dục cẩu lợi, nhất thiết bất cố. Cố thiền lâm đắc hiền giả, đạo đức tu, cương kỷ lập, toại thành pháp tịch. Trắc nhất bất tiếu giả tại kỳ gian, giảo quần loạn chúng, trung ngoại bất an, tuy đại trí lễ pháp, túng hữu hà dụng. Trí ngu hiền bất tiếu, ưu liệt như thử nhĩ, ô đắc bất trạch yên. 
Huệ Lực Phương Hòa thượng thư. 

23.- DỊCH NGHĨA: Viễn Công nói: Người trí kẻ ngu, người hiền kẻ bất tiếu, cũng như nước với lửa không thể cùng chung một đồ vật (1), như lạnh với nóng không thể đến cùng một thời. Nếu chia chẻ cho rõ ràng, kẻ trí hiền sĩ thì thuần ý đoan hậu (2), lấy đạo đức nhân nghĩa làm mưu kế, phát ra một lời nói, hay làm một công việc, chỉ sợ chẳng hợp với nhân tình, chẳng thông với lý của sự vật. Kẻ bất tiếu thì gian hiểm, dối trá, nịnh bợ, cậy mình khoe hay, ham danh trục lợi, chẳng đoái tới hết thảy. Nếu chốn Thiền lâm được người hiền thời lấy đạo đức làm bản vị tu hành, lấy cương kỷ (3) làm mẫu mực, pháp tịch cũng do đó mà thành. Nếu không may gặp kẻ bất tiếu, thì chỉ làm cho rối quần loạn chúng, gây cho trong ngoài không yên, dầu là đại trí lễ pháp, cũng không thể đem ra thi thố được. Người trí kẻ ngu, người hiền kẻ bất tiếu, hơn kém là như thế, nên cần phải lựa chọn cẩn thận. 
Thư gởi Huệ Lực Phương Hòa thượng (4). 

CHÚ THÍCH: 

(1) Nước với lửa không thể cùng chung một đồ vật: Trích câu của Hàn Phi Tử: "Phù thủy thán bất đồng khí nhi cửu, hàn thử bất kiêm thời nhi chí". 
(2) Thuần ý đoan hậu: Lược ở chữ thuần túy, ý mỹ, đoan nghiêm, đôn hậu. 
(3) Cương kỷ: Trật tự và quy luật của thiền gia hay quốc gia. 
(4) Huệ Lực Phương: Pháp tự của Phù Sơn Viễn thiền sư. 

24.- CHỮ HÁN: Viễn Công viết: Trụ trì cư thượng, đương khiêm cung dĩ tiếp hạ. Chấp sự tại hạ, yếu tận tình dĩ phụng thượng. Thượng hạ ký hòa, tắc trụ trì chi đạo thông hỹ. Cư thượng giả kiêu cứ tự tôn, tại hạ giả đãi mạn tự sơ, thượng hạ chi tình bất thông, tắc trụ trì chi đạo tắc hỹ. Cổ đức trụ trì, nhàn hạ vô sự, dữ học giả thung dung nghị luận, mỹ sở bất chí. Do thị nhất ngôn bán cú, tải vu truyện ký, đãi kim xứng chi, kỳ cố hà tai? Nhất tắc dục sở thượng tình hạ thông, đạo vô ủng tế, nhị tắc dự tri học giả, tài tính năng phủ, kỳ ư tiến thoái chi gian, giai hợp kỳ nghi, tự nhiên thượng hạ ung túc, hà nhĩ qui kính. Tùng lâm chi hưng, do thử chí nhĩ. 
Dữ Thanh Hoa Nghiêm Thư. 

24.- DỊCH NGHĨA: Viễn Công nói: Người trụ trì ở ngôi trên phải nên khiêm cung (1) tiếp kẻ dưới. Người chấp sự ở dưới cũng phải tận tình để phụng sự trên. Trên dưới đã hòa, thời cái đạo của trụ trì thông vậy. Người ở địa vị trên mà kiêu cứ tự tôn, kẻ chấp sự ở dưới lại lười biếng, khinh nhờn tự sơ, cái tình trên dưới chẳng ăn nhịp với nhau thì cái đạo của trụ trì tất bế tắc. Cổ nhân trụ trì, khi nhàn hạ vô sự, thường cùng với học đồ thung dung nghị luận, trong bất cứ một vấn đề gì. Bởi thế, một lời nói bàn, hay nửa câu giáo hóa, đều được ghi chép vào truyện ký, để ngày nay lấy đó mà cân nhắc, là bởi cớ gì? Một là muốn khiến tình trên dưới thông hiểu lẫn nhau để đạo khỏi bị che lấp, hai là dự biết được tài năng tính nết của mỗi học đồ nên hay không để thích hợp với chỗ tiến thoái của họ, được như thế thì trên dưới tự nhiên hòa kính (2) gần xa đều qui phục. Tùng lâm được hưng thịnh, cũng bởi lẽ đó vậy. 
Thư gởi cho Thanh Hoa Nghiêm (3). 

CHÚ THÍCH: 

(1) Khiêm cung: Nhún mình xuống thấp mà kính cẩn, nói về đức tánh của người nhu hòa. 
(2) Hòa kính: Dịch ở chữ Ung túc. Ung có nghĩa là hòa; Túc có nghĩa là kính. 
(3) Thanh Hoa Nghiêm: Là Nghĩa Huyền thiền sư núi Ðầu Tử, pháp tự của Thái Dương Huyền thiền sư, con của Thanh xà Lý Thị, vì chỉ nghe kinh Hoa Nghiêm mà thông suốt được nghĩa lý, nên đời gọilà Thanh Hoa Nghiêm. 

25.- CHỮ HÁN: Viễn Công vị Ðạo Ngô Chân viết: Học vị chí ư đạo, huyễn diệu kiến văn, trì sínhcơgiải, dĩ khẫu thiệt, biện lợi tương thắng giả, do như xí ốc ô đan hoạch, chỉ tăng kỳ xú nhĩ. 
Tây Hồ Ký Văn. 

25.- DỊCH NGHĨA: Viễn Công bảo Ðạo Ngô Chân (1) rằng: Người học chưa thấu đáo được đạo, chỉ khoe khoang chỗ thấy nghe nông cạn, dong ruổi chỗ hiểu biết máy móc đem đầu lưỡi để biện tranh thắng, cũng chẳng khác gì như nhà xí lại sơ vẽ màu son (2), chỉ làm cho tăng thêm mùi xú uế vậy. 
Tây Hồ Ký Văn. 

CHÚ THÍCH: 

(1) Ðạo Ngô Chân: Tức Ngộ Chân thiền sư ở núi Ðạo Ngô, pháp tự của Thanh Sương Viên thiền sư, phái Nam Nhạc đời thứ 10. 
(2) Màu son: Dịch ở chữ Ðan hoạch. 

26.- CHỮ HÁN: Viễn Công vị Diễn Thủ Tọa viết: Tâm vi nhất thân chi chủ, vạn hạnh chi bản. Tâm bất diệu ngộ, vọng tình tự sinh, vọng tình ký sinh, kiến lý bất minh, kiến lý bất minh thị phi mậu loạn. Sở dĩ trị tâm tu cầu diệu ngộ. Ngộ tắc thần hòa, khí tĩnh, dung kính, sắc tráng, vọng tưởng tình lự giai dong vi chân tâm hỹ. Dĩ thử trị tâm, tâm tự linh diệu, nhiên hậu đạo vật chỉ mê, thục bất tòng hóa. 
Phù Sơn Thực Lục. 

26.- DỊCH NGHĨA: Viễn Công bảo Diễn Thủ Tọa (1) rằng: Tâm là chủ một thân, làm gốc cho muôn hạnh. Tâm chẳng diệu ngộ thời vọng tình tự sinh, vọng tình đã sinh thời thấy lý không tỏ rõ, thấy lý chẳng tỏ rõ thì phải lầm lẫn rối loạn. Sở dĩ muốn trị tâm cấn phải mong cầu diệu ngộ. Ngộ thời thân hòa, kính tĩnh, dung mạo đáng kinh, sắc diện trang nghiêm, vọng tưởng tán loạn đều dong làm chân tâm. Trị tâm như thế thời tâm tự linh diệu, sau đó mới đem ra chỉ đạo cho kẻ mê lầm, thời ai lại chẳng theo chỗ giáo hóa. 
Phù Sơn Thực Lục. 

CHÚ THÍCH: 

(1) Diễn Thủ Tọa: Tức Ngũ tổ Pháp Diễn thiền sư, pháp tự của Bạch Vân Thử Ðoan thiền sư, phái Nam Nhạc đời thứ 13. 

27.- CHỮ HÁN: Ngũ Tổ Diễn Hòa Thượng viết: Kim thời tùng lâm, học đạo chi sĩ, thanh danh bất dương, phỉ vi nhân chi sở tín giả. Cái vi phạm hạnh bất thanh bạch, vi nhân bất đế đáng. Chiếp hoặc cẩu cầu danh văn lợi dưỡng, nãi quảng huyễn kỳ hoa sức, toại bị thức giả sở cơ, cố tế kỳ yếu diệu, tuy hữu đạo đức như Phật Tổ, văn kiến nghi nhi bất tín hỹ. Nhữ bối tha nhật, nhược hữu bả mao cái đầu, đương dĩ thử nhi tự miễn. 
Phật giám dữ Phật Quả thư. 

27.- DỊCH NGHĨA: Ngũ Tổ Hòa thượng nói: Thời nay chốn tùng lâm, những kẻ học đạo, thanh danh không được lẫy lừng, nên không được chỗ tin cậy của mọi người. Vì lẽ phạm hạnh (1) không thanh bạch, con người không xứng đáng. Ví hoặc chỉ muốn mong cầu lợi dưỡng cùng tiếng khen, khoe khoang bề ngoài, liền bị người thức giả chê cười. Nên biết cái yếu diệu bị che lấp, dù rằng có đạo đức như Phật Tổ, cũng bị người đời ngờ vực mà chẳng tin theo. Lũ ngươi một ngày kia nếu có trụ trì (2) một tự viện nào, nên phải lấy đó làm gương mà tự gắng tiến. 
Thư Phật Giám (3) trả lời Phật Quả. 

CHÚ THÍCH: 

(1) Phạm hạnh: [i]Phạm có nghĩa là trong sạch vô dục; hạnh là hành nghiệp động tác, chỉ vào giới luật phải giữ gìn. 
(2) Trụ trì: Dịch ở chữ "Bả mao cái đầu". 
(3) Phật Giám: Tuệ Cần Phật Giám thiền sư, pháp tự của Ngũ Tổ Pháp Diễn. 

28.- CHỮ HÁN: Diễn Tổ viết: Sư ông sơ trụ Dương Kỳ, lão ốc bại chuyên, cận tế phong vũ, thích lâm đông mộ, tuyết tán mãn sàng, cư bất hoàng xứ, nột tử đầu thành, nguyện sung tu tạo. Sư ông khước chi viết: "Ngã Phật hữu ngôn, thời đương giảm kiếp, cao ngạn thâm cốc, thiên lưu bất thường, an đắc viên mãn như ý, tự cầu xứng túc, nhữ đẳng xuất gia học đạo, tố hữu cước vị ổn, dĩ thị tứ ngũ thập tuế, cự hữu nhàn công phu sự phong ốc gia". Kính bất tòng, dực nhật thượng đường viết: "Dương Kỳ sạ trụ ốc bích sơ, mãn sàng tận tản tuyết chân châu, súc khước hạng ám ta hu, phiên ức cổ nhân thụ hạ cư". 
Quảng Lục. 

28.- DỊCH NGHĨA: Sư ông (1) khi mới ở Dương Kỳ, nhà tranh cũ nát chỉ đủ che mưa gió. Chợt một buổi chiều, tuyết rơi đầy giuờng, ngủ nghỉ không yên chỗ. Có một nột tử thành kính phát nguyện tu bổ. Sư ông khước từ và nói: "Ðức Phật ta có dạy, đương lúc kiếp giảm này, ngàn cao hang sâu, biến đổi bất thường, tự mình sao thoả mãn được chỗ xứng ý. Lũ ngươi, người xuất gia học đạo, buông tay chân chưa ổn đã ngoài năm mươi tuổi rồi, đâu lại có thì giờ nhàn rỗi để sửa sang nhà cửa lộng lẫy vậy ư!". Cuối cùng Sư ông không ưng thuận, ngày hôm sau thăng tòa nói: "Dương Kỳ tạm trú nếp nhà xiêu, đầy giuờng tuyết phủ tựa chân châu, co gối rụt đầu nằm nhớ nghĩ, dưới cây người trước ngủ không lều". 
Quảng Lục. 

CHÚ THÍCH: 

(1) Sư Ông: Chỉ vào Phương Hội thiền sư núi Dương Kỳ, pháp tự của Tư Minh Viên thiền sư, phái Nam Nhạc đời thứ 10. 

29.- CHỮ HÁN: Diễn Tổ viết: Nột tử thủ tâm thành phụng giới luật, nhật dạ tư chi, triêu tịch hành chi. Hành vô việt tư, tư vô việt hành. Hữu kỳ thủy nhi thành kỳ chung, do canh giả chi hữu bạn, kỳ quá tiển hỹ. 

29.- DỊCH NGHĨA: Diễn Tổ nói: Người nột tử (1) giữ tâm thành (2) phụng giới luật, ngày đem thường nhớ nghĩ, sớm tối thực hành theo. Thực hành không vượt nghĩ, nghĩ không vượt thực hành. Có ở trước tất thành ở sau. Như người cày ruộng có bờ thì lỗi đó ít vậy. 

CHÚ THÍCH: 

(1) Nột tử: Người xuất gia. 
(2) Tâm thành: Lời ngạn ngữ nhà Chu: Tâm của quần chúng là bức thành kiên cố. 

Xem Tiếp: Trang 02

c

Nguồn: www.quangduc.com

Về danh mục

CẠláºng Mật ong có tác dụng kháng khuẩn mạnh đuổi Lại bàn về danh hiệu Bồ tát Quan Thế yếu Háºnh Vài cách dùng bí đao giải khát chữa Đừng Lon Vitamin và khoáng chất đừng để thiếu thượng và à お仏壇 お供え Ăn chay xư Huê Codeine có thể gây nguy hại cho trẻ Nguy cơ nhiễm khuẩn khi ăn món sushi hòn Hạt quinoa Thực phẩm cần thiết cho phật dạy làm cha mẹ truyện sốt Đậu nành thực phẩm chay tốt cho sức bảo nhập 浄土宗 仏壇 Thưởng thức các món ngon tại Ẩm thực Cắt tỉa cho đĩa trái cây thêm sành hoàn Canh bí đỏ mát lành cho mùa hè mùa thi niem tin vao phat duoc su đại đăng Các thực phẩm cho người bệnh thấp dừng 10 chua sac tu tinh quang dai cuong kinh phap hoa Các thói quen nơi công sở có hại cho gốc tùng triet ly nhe nhang trong am nhac cua trinh cong Các dưỡng chất cần thiết cho phụ nữ Vài về Đức Dhakpa Tulku Rinpoche Tạp そうとうしゅう Tăng Bơi bất Bớt ăn thịt để cứu nguy cho trái đất