LỜI VÀNG CỦA THẦY TÔI

Nguyên Tác: O-rgyan-'jigs-med-chos-kyi-dban-po

(Kunzang Lama'i Shelung)

Bản dịch Anh ngữ: The Words of my Perfect Teacher/Patrul Rinpoche

Của Nhóm Dịch thuật Padmakara

Nhà Xuất bản Shambhala

Bản dịch Việt ngữ: Nhóm Longchenpa 2004

----o0o---- 

PHẦN II 

NHỮNG CHUẨN BỊ PHI THƯỜNG HAY BÊN TRONG

-------------------

CHƯƠNG 2

SỰ KHƠI DẬY BỒ ĐỀ TÂM, GỐC RỄ CỦA ĐẠI THỪA

 

Nhờ trí tuệ vĩ đại, Ngài đã chứng ngộ Niết bàn.

Nhờ lòng đại bi, Ngài sẵn lòng ôm chặt luân hồi.

Nhờ những thiện xảo của Ngài trong các phương pháp mà Ngài đã chứng ngộ rằng chúng không khác biệt.

Bậc Thầy vô song, con đảnh lễ dưới chân Ngài.

 

Chương này có ba phần: sự tu tập tâm thức trong bốn phẩm tính vô lượng (Tứ Vô Lượng Tâm); sự khơi dậy Bồ Đề Tâm, tâm được xoay chuyển hướng tới sự giác ngộ siêu việt; và sự tu tập trong giới luật của Bồ Đề Tâm ước nguyện và Bồ Đề Tâm thực hành.

 

1          SỰ TU TẬP TÂM TRONG BỐN PHẨM TÍNH VÔ LƯỢNG

 

Bốn phẩm tính vô lượng là lòng từ, bi, hỷ, và xả vô lượng. Lòng từ thường được đề cập trước tiên.  Nhưng khi ta tuần tự thực hành bốn phẩm tính này như một sự tu tập tâm thức, chúng ta nên bắt đầu bằng việc phát triển phẩm tính xả.  Nếu không như thế thì bất kỳ lòng từ, bi và hỷ nào mà chúng ta phát triển sẽ có khuynh hướng thiên lệch và không hoàn toàn thanh tịnh.  Do đó, trong trường hợp này chúng ta bắt đầu với sự thiền định về phẩm tính xả.

 

1. Thiền định về tâm xả

 

Xả (tiếng Tây Tạng là tang nyom) có nghĩa là từ bỏ (tang) sự thù ghét kẻ thù và sự bám luyến bạn bè, và có một thái độ bình thản (nyom) đối với tất cả chúng sinh, thoát khỏi sự dính mắc với những người thân cận và sự ác cảm với những người không thân thiết.

Như hoàn cảnh hiện nay, chúng ta rất gắn bó với những người mà ta nghĩ rằng đó là thành phần của tập thể của riêng ta – cha, mẹ, những người thân thuộc, v..v.. – trong khi chúng ta thù ghét thậm tệ những kẻ thù của ta và những người liên kết với họ. Đây là một lỗi lầm, và nó xuất phát từ việc thiếu truy xét.

Trong những đời trước, những người mà giờ đây chúng ta coi như kẻ thù chắc chắn đã từng thân thiết với ta, luôn yêu thương kề cận, chăm sóc chúng ta với thiện ý và tặng cho ta sự giúp đỡ và nâng đỡ không thể tưởng tượng nổi. Trái lại, nhiều người mà giờ đây ta gọi là bạn bè chắc chắn đã từng chống lại và làm hại ta.  Như chúng ta thấy trong chương về sự vô thường, điều này được minh hoạ bởi những lời của Ngài Katyayana siêu phàm:

 

Hắn ăn thịt cha, đánh đuổi mẹ,

Hắn nâng niu trong lòng kẻ thù mà hắn giết;

Người vợ đang gặm xương chồng.

Ta bật cười khi nhìn thấy những gì xảy ra trong sự hiển bày của sinh tử!

 

Một ví dụ khác là câu chuyện của Công Chúa Pema Sel, con gái của vị Vua Pháp Trisong Detsen. Khi cô chết vào tuổi mười bảy, cha cô tới hỏi Guru Rinpoche (Đạo Sư Liên Hoa Sanh) làm sao một việc như vậy có thể xảy ra.

“Tôi nghĩ con gái tôi phải là người có những hành vi thanh tịnh trong quá khứ,’ nhà vua nói. “Nó đã sinh ra làm con gái của Vua Trisong Detsen. Nó đã gặp tất cả các Ngài, những dịch giả và học giả, là những bậc như các vị Phật đích thực. Như vậy làm sao cuộc đời của nó lại ngắn như thế?”

“Hoàn toàn không phải do những hành vi thanh tịnh trong quá khứ mà công chúa sanh làm con Ngài,” Đạo Sự trả lời. “Xưa kia, Ta: Liên Hoa Sanh, Ngài, Pháp Vương vĩ đại, và Đại Bồ Tát Tu viện trưởng bị sinh ra làm ba đứa thuộc giai cấp hạ tiện. Chúng ta đang xây dựng Đại Bảo Tháp Jarung Khashor. Lúc đó công chúa sanh làm một côn trùng chích vào cổ Ngài. Ngài lấy tay gạt đi và ngẫu nhiên giết chết nó. Vì món nợ Ngài vay trong kiếp đó, con côn trùng đã tái sanh làm con gái của Ngài.”[129]

Ngay cả con của Pháp Vương Trisong Detsen, người được xem là hoá thân của Bồ Tát Văn Thù lại có thể sinh làm con Ngài theo cách đó như kết quả của hành vi ở quá khứ, thì ta có thể nói điều gì về những chúng sanh khác?

Hiện nay, ta được nối kết thân thiết với cha mẹ và con cái chúng ta. Ta cảm thấy hết sức thương yêu họ và có những ước nguyện lạ thường đối với họ.  Khi họ đau khổ, hay bất kỳ điều gì không vừa ý xảy ra với họ thì chúng ta bối rối lo âu còn hơn nếu như điều đó xảy ra với cá nhân ta.  Tất cả những điều này chỉ là sự đền trả cho điều ác mà chúng ta đã gây ra cho nhau trong những đời quá khứ.

Trong tất cả những người mà giờ đây chúng ta coi là kẻ thù, không ai chưa từng là cha hay mẹ trong quá trình tất cả những đời trước của ta.  Ngay cả giờ đây, việc ta coi họ nh7 những người chống lại ta không nhất thiết có nghĩa là họ thực sự làm điều ác cho ta. Có một số người chúng ta coi là đối thủ, nhưng từ phía họ, họ lại hoàn toàn không nhìn chúng ta theo cách đó. Một số khác có thể cảm thấy rằng họ là kẻ thù của ta nhưng hoàn toan không có khả năng làm hại ta. Cũng có những người vào một lúc nào đó có vẻ gây tổn hại cho ta, nhưng trong một thời gian dài những điều họ làm có thể đem lại cho ta sự nhận thức và cảm kích sâu sắc trong đời này, hoặc khiến ta xoay chuyển tam hướng về Pháp và vì thế đem lại cho ta nhiều lợi lạc và hạnh phúc. Còn những người khác, nếu ta có thể khéo léo thích nghi với tánh khí của họ và khuyến dụ họ với lời lẽ dịu dàng cho tới khi chúng ta đạt được một vài thoả thuận, thì ta có thể hoàn toàn dễ dàng chuyển hoá họ thành bạn hữu.

Mặt khác, có những người mà chúng ta thường xem là thân thiết nhất với mình, chẳng hạn như con cái ta.  Nhưng đã có những đứa con từng lừa gạt hay thậm chí giết cả cha mẹ chúng.  Đôi khi con cái đứng về phe những người đang có tranh chấp với cha mẹ chúng, hợp lực với họ để xung độ với chính gia đình mình và cướp đoạt tài sản của cha mẹ. Ngay cả khi chúng ta sống thuận thảo với những người thân thiết với ta, những phiền muộn và rắc rối của họ ảnh hưởng thật sự tới chúng ta thậm chí còn mạnh mẽ hơn những khó khăn của chính ta. Để giúp đỡ bạn bè, con cái và những người thân thích khác của ta, chúng ta tích luỹ những con sóng lớn là những hành động tiêu cực chúng sẽ quét ta vào các địa ngục trong đời sau. Khi ta thực sự muốn thực hành Pháp một cách đúng đắn thì họ lôi kéo chúng ta lại. Không thể thoát khỏi nỗi lo toan của chúng ta về cha mẹ, con cái, và gia đình, chúng ta trì hoãn việc thực hành Pháp, và vì thế không bao giờ tìm ra thời gian cho nó.  Tóm lại, những người như vậy có thể làm hại ta thậm chí còn hơn cả những kẻ thù.

Hơn nữa, không có gì bảo đảm là những người chúng ta coi là đối thủ hôm nay lại không phải là con cái chúng ta trong những đời sau, hay những bạn bè hiện tại sẽ không tái sinh làm kẻ thù của chúng ta, v.v..Chỉ vì coi những nhận thức thoáng qua về “kẻ thù” và “bạn bè” là thật có nên ta tích tập nhiều hành động tiêu cực qua sự tham luyến và sân hận. Tại sao ta lại ôm chặt gánh nặng này để chúng lôi ta xuống những cõi giới thấp?

Vì thế, hãy làm một quyết định chắc chắn để thấy tất cả chúng sanh bao la vô tận là cha mẹ và con cái của chính bạn. Như thế, giống như những bậc vĩ đại trong quá khứ mà chúng ta có thể được đọc về cuộc đời của các Ngài, hãy coi tất cả bằng hữu và kẻ thù đều tương tự như nhau.

Trước hết, đối với tất cả những người bạn hoàn toàn không thích - những người khơi dậy lòng sân hận và thù ghét trong bạn – hãy tu tập tâm thức bạn bằng nhiều phương tiện khác nhau để lòng sân hận và thù ghét mà bạn cảm thấy đối với họ không còn xuất hiện. Hãy nghĩ về họ như thể bạn nghĩ về một người nào đó chung chung, không làm điều tốt cho bạn mà cũng chẳng làm hại bạn. Sau đó hãy quán chiếu rằng vô số chúng sanh mà bạn cảm thấy chung chung về họ, từ vô thuỷ đã từng là cha, mẹ bạn một lúc nào đó trong những đời quá khứ. Hãy thiền định về chủ đề này, tu tập bản thân cho tới khi bạn cảm thấy thương yêu họ tương tự như bạn thương cha mẹ hiện đời của bạn. Cuối cùng, hãy thiền định cho tới khi bạn cảm thấy có lòng bi mẫn đồng nhất với tất cả chúng sanh – dù bạn coi họ là bạn bè, kẻ thù hay không thù không bạn – như bạn có lòng bi mẫn với cha mẹ của chính bạn.

Bây giờ, với tâm xả vô lượng hãy đơn giản nghĩ tưởng tới mọi người, thù và bạn đều đồng nhất, không có bất kỳ cảm xúc đặc biệt nào của lòng bi mẫn, thù ghét hay bất cứ điều gì khác. Đó là tâm xả không cần dụng công và không đem lại điều ác hại cũng như sự lợi lạc.  Hình ảnh được dùng để hình dung tâm xả thực sự là một bữa tiệc do một hiền nhân vĩ đại chiêu đãi.  Khi những đại hiền giả ngày xưa cúng dường những bữa tiệc, các Ngài sẽ mời tất cả mọi người, dù cao hay thấp, mạnh hay yếu, tốt hay xấu, đặc biệt hay bình thường, mà không có bất kỳ phân biệt nào. Tương tự như thế, thái độ của ta đối với tất cả chúng sanh khắp hư không phải là một cảm thức bao la của lòng bi mẫn, dung chứa tất cả họ một cách bình đẳng. Hãy tu tập tâm thức bạn cho tới khi bạn đạt tới một trạng thái của tâm xả vô lượng.

 

2.  Thiền định về tâm từ

 

Qua sự thiền định vê tâm xả vô lượng đã được mô tả, bạn hãy trở nên quan tâm tới tất cả chúng sinh trong tam giới với lòng từ rộng lớn tương tự.  Lòng từ ái mà bạn cảm thấy đối với tất cả chúng sinh phải giống như lòng từ của những bậc cha mẹ chăm sóc con cái mình.  Họ không để ý tới mọi việc như sự vô ơn của con cái và mọi gian khổ phải gánh chịu, hiến dâng mọi tư tưởng, lời nói, và hành vi hoàn toàn chỉ để những đứa con của họ được hạnh phúc, sung túc và thoải mái.  Cũng thế, trong đời này và tất cả những đời sau của bạn, hãy hiến dâng mọi việc bạn làm, nói, hay suy nghĩ cho sự an lành và hạnh phúc của tất cả chúng sinh.

Tất cả những chúng sinh đó đều cố gắng để đạt được hạnh phúc và an nhàn.  Tất cả đều muốn được sống hạnh phúc và nhàn nhã; không một ai trong số đó muốn bất hạnh hay đau khổ.  Tuy nhiên, họ không hiểu rằng nguyên nhân của hạnh phúc là những hành vi tích cực, thay vào đó họ đắm mình trong mười hành vi bất thiện.  Do đó, những ước muốn sâu xa nhất và những hành động của họ lại mâu thuẫn nhau: trong nỗ lực tìm kiếm hạnh phúc, họ chỉ mang lại đau khổ cho chính mình.

Hãy liên tục thiền định về tư tưởng “tuyệt diệu biết bao nếu mỗi người trong những chúng sinh đó có thể hưởng mọi hạnh phúc và sự an nhàn mà họ mong muốn.” Hãy thiền định về điều đó cho tới khi sự mong muốn những người khác được hạnh phúc của bạn cũng mãnh liệt giống như bạn mong muốn bản thân bạn được hạnh phúc.

Kinh điển nói về “những hàh vi từ ái của thân, những hành vi từ ái của khẩu, những hành vi từ ái của ý.” Điều này có nghĩa là mọi sự bạn nói ra bằng miệng, làm bằng tay, thay vì làm tổn hại người khác, thì hãy cởi mở và tốt lành. Như có nói trong quyển Bồ Tát Đạo:

 

Bất cứ khi nào bạn nhìn người khác,

Hãy nhìn họ với tấm lòng yêu thương rộng mở.

 

Ngay cả khi bạn chỉ nhìn một ai khác, hãy nhìn họ với một vẻ tươi cười và dễ thương thay vì một cái nhìn chòng chọc đầy gây hấn hay biểu lộ sự thù ghét.  Có nhiều câu chuyện về điều này, giống như câu chuyện về một nhà cai trị người đầy uy quyền nhìn mọi người với cái nhìn phẫn nộ.  Chuyện kể rằng người đó bị tái sinh làm một ngạ quỷ sống nhờ những thức ăn thừa dưới bếp lò của một căn nhà, và sau đó, cũng vì đã nhìn một thánh nhân theo lối đó, ông ta bị đoạ vào địa ngục.

Bất cứ hành động nào bạn làm bằng thân, hãy gắng làm một cách dịu dàng và vui vẻ, cố gắng không làm hại những người khác mà là để giúp đỡ họ.  Lời nói của bạn không nên biểu lộ những thái độ như khinh miệt, chỉ trích hay ghen tị. Hãy làm cho mỗi lời bạn nói đều vui vẻ và chân thật.  Đối với thái độ của tâm bạn, khi bạn giúp đỡ những người khác, chớ mong chờ bất kỳ sự đền đáp tốt đẹp nào.  Đừnglàm một kẻ đạo đức giả và cố làm cho người khác coi bạn như một vị Bồ Tát bằng những lời nói và hành động tử tế của bạn.  Tận đáy lòng bạn, hãy hoàn toàn mong ước những hạnh phúc cho người khác và chỉ quan tâm tới những gì lợi lạc nhất cho họ.  Hãy lập đi lập lại những lời cầu nguyện này: “Suốt mọi cuộc đời tôi, cầu mong toi không làm tổn hại dù chỉ một sợi tóc trên đầu người khác, và cầu mong tôi luôn luôn giúp đỡ mỗi người trong số họ.”

Điều đặc biệt quan trọng là tránh làm cho những người dưới quyền của bạn đau khổ bằng cách đánh đập, ép buộc họ làm việc cực nhọc và v.v.. Điều này áp dụng cho người giúp việc cũng như cho những thú vật của bạn, xuống tới con chó giữ nhà khiêm tốn nhất.  Luôn luôn, trong mọi hoàn cảnh, bạn hãy tử tế với họ trong tư tưởng, lời nói và hành động. Bị tái sanh như mọi người hầu, hay một con chó giữ nàh, bị mọi người coi thường và khinh rẻ, là hậu quả chín mùi của những hành vi trong quá khứ. Đó là hậu quả hổ tương của việc xem thường và khinh rẻ người khác khi đang có một địa vị quyền uy trong một đời quá khứ. Nếu bây giờ vì giàu có và quyền thế mà bạn xem thường người khác, bạn sẽ phải trả món nợ này trong một vài đời sau bằng cách tái snah làm những người hầu của họ.  Vì thế, hãy đặc biệt tử tế với những người đang ở vị trí thấp hơn bạn.

Bất kỳ những gì bạn có thể làm bằng thân, ngữ hay ý để giúp đỡ đặc biệt là cha mẹ của bạn, hay những người bị bệnh kinh niên, sẽ đem lại những lợi ích không thể nghĩ bàn. Ngài Jowo Atisa nói:

 

Tử tế với những người từ phương xa tới, những người bệnh lâu năm, hay cha mẹ trong tuổi già, tương đương với việc thiền định về tánh Không mà tâm yếu của nó là lòng bi mẫn.

 

Cha mẹ chúng ta đã biểu lộ cho ta sự thiện tâm và lòng từ ái bao la tới nỗi việc làm cho họ phải đau khổ lúc về già là một hành vi hết sức tiêu cực.  Bản thân Đức Phật, để đền đáp lòng tốt của thân mẫu, Ngài đã đi tới tầng trời thứ ba mươi ba để giảng Pháp cho bà. Có câu nói rằng cho rằng dù chúng ta hầu hạ cha mẹ băng cách đưa họ đi khắp thế giới trên đôi vai của mình, thì việc ấy vẫn không đền đáp được lòng tốt của họ.  Tuy nhiên, chúng ta có đền đáp lòng tốt này bằng việc hướng dẫn họ đi vào Giáo lý của Đức Phật. Vì thế, hãy luôn luôn phụng sự cha mẹ bạn trong tư tưởng, lời nói, và hành động, và cố gắng tìm cách đưa họ tới với Giáo Pháp.

Đạo Sư Vĩ đại xứ Oddiyana đã nói:

 

Không nên làm cho người già buồn khổ; hãy chăm sóc họ với sự quan tâm và tôn kính.

 

Trong bất cứ những gì bạn nói và làm, hãy tử tế với tất cả những người lớn tuổi hơn bạn. Hãy quan tâm tới họ và làm bất kỳ những gì bạn có thể khiến họ vui lòng.

Ngày nay, hầu hết mọi người đều nói rằng không có cách nào sống trong cõi luân hồi mà không làm tổn hại người khác.  Nhưng điều này không đúng.

Ngày xưa, ở Khotan, hai vị sa di đang thiền định về Đức Manjusri (Văn Thù) siêu phàm.

Một hôm, Ngài hiện ra với họ và nói: “Giữa ta và các ngươi không có mối liên hệ nghiệp với nhau. Vị Bổn Tôn mà các ngươi có liên hệ trong những đời quá khứ là Đức Quán Tự Tại vĩ đại.  Hiện Ngài được tìm thấy ở Tây Tạng, là vị vua đang cai trị xứ này.*  Các ngươi nên tới đó gặp Ngai.”

Khi hai vị sa di đi tới Tây Tạng và đi vào vòng thành Lhasa, họ thấy rất đông người bị hành hình hay giam giữ. Họ hỏi điều gì đang xảy ra.

“Đó là những người bị vua ra lệnh trừng phạt,” họ được cho biết như vậy.

“Vị vua này chắc chắn không phải là Đức Quán Tự Tại,” họ tự nhủ và sợ cũng bị trừng phạt như vậy, họ quyết định bỏ đi.

Vị vua biết họ bỏ đi nên phái một sứ giả đi theo mời họ tới gặp Ngài.

“Đừng sợ,” Ngài bảo họ. “Tây Tạng là một vùng đất hoang dã, khó thuần phục. Vì lý do đó ta đã phải tạo ra ảo ảnh những tội nhân bị hành hình, chặt tay chân, và v.v..Nhưng trong thực tế, ta chưa từng làm tổn hại ai cho dù chỉ một sợi tóc.”

Vị vua đó là người cai trị toàn xứ Tây Tạng, Xứ Tuyết, và đã khiến các vị vua khắp bốn phương phải phục tùng Ngài. Ngài đánh bại những đội quân xâm lược và giữ yên ổn khắp biên cương. Mặc dù Ngài buộc lòng phải chiến thắng quân thù và bảo vệ thần dân của mình trên một phạm vi rộng lớn như vậy nhưng Ngài hoàn toàn tự chế ngự được khi làm như thế mà không làm tổn hại một sợi tóc trên đầu người. Vì thế, làm sao chúng ta không thể làm như vậy để tránh làm hại người khác như ta chăm sóc nơi trú ẩn bé xíu của ta, là những thứ mà nếu so sánh thì không lớn hơn những tổ côn trùng?

Gieo gió thì gặp bão. Việc làm hại người khác chỉ tạo nên đau khổ vô tận cho đời này và những đời sau. Chẳng có đều tốt lành nào có thể phát sinh từ nó, ngay cả trong những việc lặt vặt của đời này.  Chưa từng có ai trở nên giàu có nhờ sự giết chóc, trộm cướp và những điều tương tự.  Cuối cùng họ phải gánh chịu hậu quả và thất bại toàn bộ tiền bạc và của cải trong khi thực hiện ác hạnh.

Hình ảnh được đưa ra để minh hoạ cho lòng từ ái bao la một con chim mẹ săn sóc những đứa con của nó. Nó bắt đầu bằng việc làm một cái tổ mềm mại, ấm cúng.  Nó che chở và giữ ấm những chim con bằng đôi cánh. Nó luôn dịu dàng và che chở chúng cho tới khi chúng có thể chắp cánh bay xa.  Giống như con chim mẹ đó, hãy học cách tử tế trong tư tưởng, lời nói, và hành động với tất cả chúng sinh trong tam giới.

 

3.  Thiền định về lòng bi

 

Sự thiền định về lòng bi là hình dung chúng sanh bị hành hạ bởi nỗi khổ khủng khiếp và mong muốn họ được giải thoát khỏi nó.  Như có nói:

            

Hãy nghĩ về một người nào đó bị đau khổ dữ dội, như một người bị ném vào địa ngục tối sâu thẳm chờ đợi cuộc hành hình, hay một con vật sắp bị làm thịt đang đứng trước kẻ đồ tể.  Hãy cảm nhận lòng từ ái đối với chúng sinh đó như thể họ là mẹ hay con của chính bạn.

 

Hãy hình dung một tù nhân bị nhà cầm quyền kết án tử hình và đang bị dẫn tới nơi hành quyết, hoặc một con cừu bị người đồ tể bắt trói lại.

Khi bạn nghĩ tới một tù nhân bị kết án, thì hãy hình dung con người đau khổ đó chín là bạn thay vì là một người nào khác. Hãy tự hỏi mình sẽ làm gì trong tình huống đó.  Làm thế nào bây giờ? Không biết chạy nơi đâu. Không nơi ẩn trốn. Không chốn nương tựa và không ai che chở bạn.  Bạn không có phương tiện để đào thoát. Bạn không thể bay xa. Bạn không có sức mạnh, không có quân đội để bảo vệ. Ngay chính lúc đó, mọi tri giác về cuộc đời này sắp ngưng dứt. Bạn sẽ phải bỏ lại ngay cả lại thân thể của chính mình mà bạn từng duy trì hết sức chăm chút, và bắt đầu lên đường tới đời sau. Đau đớn làm sau! Hãy tu tập tâm thức bằng cách nhận vào mình nỗi đau khổ của tù nhân bị kết án đó.

Và khi bạn nghĩ tới một con cừu bị dẫn đi giết thịt, đừng nghĩ nó chỉ là một con cừu. Thay vào đó, hãy cảm thấy một cách chân thành rằng đó chính là người mẹ già của mình sắp bị giết, và hãy tự hỏi phải làm gì trong tình huống đó.  Giờ đây bạn định làm gì khi họ sắp giết người mẹ già của bạn, mặc dù bà chẳng làm điều gì tổn hại?  Hãy kinh nghiệm từ tận đáy lòng bạn nỗi khổ mà mẹ bạn phải trải qua.  Khi tâm bạn nóng lòng muốn làm một điều gì ngay lập tức để người mẹ già của bạn không bị giết chết tại chỗ này, hãy quán chiếu rằng dù sinh loài đang đau khổ này không thực sự là cha hay mẹ bạn trong đời này, nhưng chắc chắn họ đã từng là cha hay mẹ bạn vào thời gian nào đó trong những đời quá khứ và đã từng nuôi dưỡng bạn với thiện tâm lớn lao trong cách thức giống hệt như cha mẹ trong đời này của bạn đã làm. Vì thế không có gì khác biệt giữa họ với nhau.  Thương thay cho cha mẹ khốn khổ của bạn đang chịu đau khổ quá nhiều! Giá như họ có thể lập tức thoát khỏi nỗi khổ của họ, không chút trì hoãn – ngay giây phút này! Với những niệm tưởng này trong lòng, hãy thiền định với lòng bi mẫn không thể chịu đựng nỗi đôi mắt của bạn đẫm lệ.

Khi lòng bi của bạn được đánh thức, hãy thấu hiểu rằng tất cả những đau khổ này là hậu quả của các ác hạnh đã phạm trong quá khứ.  Tất cả những chúng sanh khốn khổ đó giờ đây đang đắm mình trong những ác hạnh cũng sẽ phải chịu đau khổ không cách nào tránh khỏi. Với điều này trong tâm, hãy thiền định với lòng bi về tất cả những chúng sanh đang gây tạo những nguyên nhân đau khổ cho bản thân họ bằng việc sát sanh và những hành vi bất thiện khác.

Sau đó hãy quán sát sự đau khổ của tất cả những chúng sanh bị tái sinh trong các địa ngục, giữa những ngạ quỷ và những cõi giới đau khổ khác.  Hãy đồng nhất với họ như thể họ là cha mẹ bạn, hay chính bạn, và thiền quán về lòng bi với năng lực vĩ đại.

Cuối cùng, hãy quán chiếu sâu xa về tất cả chúng sinh trong tam giới. Bất kể ở đâu có hư không là ở đó có chúng sanh. Nơi nào có chúng sanh là nơi đó có những hành động tiêu cực và kết quả đau khổ.  Những chúng sanh đáng thương chỉ toàn dính mắc trong mọi hành vi bất thiện và đau khổ! Tuyệt diệu biết bao nếu như mỗi chúng sanh trong sáu cõi có thể thoát khỏi mọi tri giác gây nên bởi những hành vi trong quá khứ, thoát khỏi mọi nỗi khổ và những khuynh hướng bất thiện đó, và đạt được hạnh phúc vĩnh cửu của Phật Quả viên mãn.

Khi bạn bắt đầu thiền định về lòng bi, điều quan trọng là trước tiên hãy chú tâm trên nỗi khổ của một cá nhân, từng người một, và sau đó từng bước tu tập bản thân cho tới khi bạn có thể thiền định về tất cả chúng sinh như một toàn thể.  Nếu không như thế, lòng bi mẫn của bạn sẽ mơ hồ và lý thuyết.  Nó sẽ không phải là điều chân xác.

Hãy đặc biệt quán chiếu về những đau khổ và khó nhọc của trâu bò, cừu, ngựa thồ và những gia súc khác của bạn. Chúng ta tạo ra đủ loại dã man cho những sinh loài như thế, có thể so sánh với những hành hạ trong địa ngục. Chúng ta xỏ mủi, thiến, vặt lông, lấy máu chúng.*  Chúng ta chẳng suy xét cho dù trong giây lát rằng những con vật này có thể bị đau đớn. Nếu suy nghĩ về điều đó một cách kỹ lưỡng, ta sẽ thấy ngay vấn đề rắc rối là ở chỗ chúng ta đã không nuôi dưỡng lòng bi mẫn.  Hãy nghĩ tưởng về điều này thật kỹ lưỡng: ngay giờ đây, nếu có ai chỉ nhổ một sợi tóc của bạn, bạn sẽ la lên vì đau đớn - bạn sẽ hoàn toàn không tha thứ cho việc đó.  Thế mà chúng ta lại vặt tất cả lông-gù dài của những con bò yak của ta, để lại lớp da thịt trần trụi đỏ tấy lên mà nơi mỗi sợi lông tứa ra một giọt máu.  Mặc dù con vật kêu rên vì đau đớn nhưng chúng ta chẳng mảy may quan tâm tới nỗi khổ của nó.

Chúng ta chẳng thể đứng nhìn khi bị một vết phỏng dộp trên bàn tay. Đôi khi mông đít ta bị đau do du hành trên lưng ngựa, ta không thể ngồi trên yên mà phải ngồi lệch một bên.  Nhưng chúng ta không làm thế khi con ngựa bị kiệt sức hay đau đớn.  Khi nó không thể đi tiếp được nữa và bị vấp ngã, thở hổn hển, ta vẫn cho tà tại nó cứng đầu. Chúng ta mất bình tĩnh và quất nó không chút thương xót.

Hãy nghĩ về cá nhân một con vật, chẳng hạn một con cừu - bị giết thịt.  Trước tiên, khi bị lôi khỏi bầy, con vật bị tê liệt vì sợ hãi. Một vết thương tươm máu phồng lên ngay chỗ bị túm chặt. Nó bị quẳng nằm ngửa trên mặt đất; chân bị cột lại với nhau bằng một sợi dây da và mõm bị ràng cho tới khi chết ngạt.** Nếu con vật hơi kéo dài thời gian hấp hối trong cơn đau dữ dội thì kẻ đồ tể, người làm những ác hạnh, hết sức giận dữ:

“Con này không muốn chết!” hắn nói, và đánh con vật túi bụi.

Con cừu này khó chết hơn cừu bị lột da và moi ruột.  Cùng lúc đó một con vật khác bị rút máu cho tới khi không còn đứng vững được nữa.  Máu của con vật đã chết được hoà chung với máu con vật con sống và hỗn hợp này được nấu chín trong bộ ruột của con vật đã bị mổ bụng để làm món xúc xích.*  Bất cứ ai có thể ăn những thứ như thế về sau hẳn phải là một kẻ ăn thịt người thật sự.

Hãy suy nghĩ kỹ càng về nỗi khổ của những con vật này. Hãy hình dung chính bạn đang trải qua nỗi khổ đó và xem xét coi chúng ra sao.  Hãy lấy tay bịt miệng bạn lại và ngừng thở.  Hãy ở trong tình trạng như thế trong một lát. Bạn hãy kinh nghiệm sự đau đớn và hoảng sợ.  Khi bạn đã thực sự quán sát điều đó, hãy nghiền ngẫm kỹ lưỡng rằng thật đáng buồn biết bao khi toàn thể chúng sinh đó bị phiền não bởi những nỗi khổ khủng khiếp như thế mà không có lúc nào ngơi nghỉ.  Giá như bạn có năng lực để ban tặng họ nơi ẩn náu thoát khỏi mọi nỗi khổ này!

Các Lạt ma và Tu sĩ là những người được tin là có lòng bi rộng lớn nhất.  Nhưng họ chẳng có chút xíu nào. Khi đã tới độ làm chúng sinh đau khổ thì quả là họ còn tệ hơn các gia chủ.  Đây là dấu hiệu cho thấy thời đại giáo lý của Đức Phật đang thực sự tới lúc kết thúc.  Chúng ta đã đi tới một thời kỳ khi mà những quỷ ma ăn thịt và các yêu tinh hoàn toàn được tôn kính.  Trong quá khứ, Bậc Thầy của chúng ta, Đức Thích Ca Mâu Ni, đã từ bỏ vương quốc của một vị Chuyển Luân Thánh Vương.[130] Cùng với những đệ tử A La Hán của Ngài, Ngài đi chân trần, khất thực với bình bát và cây gậy trong tay. Không những các Ngài đi khất thực mà không có lừa hay ngựa thồ, mà ngay cả Đức Phật cũng không có ngựa để cưỡi. Đó là bởi Ngài cảm thấy làm cho chúng sinh đau khổ không phải là con đường của giáo lý đạo Phật.  Không lẽ Đức Phật không đủ tháo vát để tìm cho bản thân một con ngựa già để cưỡi?

Tuy nhiên, khi những vị tôn kính của chúng ta tổ chức một buổi lễ trong làng, họ xỏ một xâu dây bện tròn qua cái lỗ được đục ở mõm con yak. Khi được đỡ lên yên, họ kéo bằng cả hai tay mạnh đến nỗi có thể nắm được sợi dây làm bằng lông yak, nó thọc sâu vào mũi con yak, làm con vật đáng thương này đau đớn khủng khiếp đến độ phải chồm lên và phóng vọt tới. Vì thế người ngồi trên lưng nó, với tất cả sức mạnh của mình, đánh nó bằng roi. Không chịu nỗi chỗ đau mới bên hông, con yak bắt đầu chạy – nhưng mũi lại bị sợi dây kéo lại. Bây giờ lỗ mũi bị đau quá khiến con yak đứng lại, và lại bị roi quất. Bị trì kéo phía trước, bị roi quất phía sau cho tới khi chẳng mấy chốc con vật đau đớn và kiệt sức. Mồ hôi toát ra từ mỗi sợi lông, lưỡi nó thè ra, hơi thở khò khè, và nó không thể đi được nữa.

“Chuyện gì xảy ra với nó? Nó vẫn không chịu đi cho đàng hoàng,” người cưỡi yak nghĩ và nỗi giận, dùng cái tay nắm của sợi dây thúc vào sườn con vật cho tới khi trong cơn giận dữ, hắn thúc mạnh tới nỗi tay nắm bể làm hai.  Hắn nhét những miếng bị bể vào thắt lưng, nhặt một cục đá nhọn và, xoay tròn trên yên, đâm mạnh xuống mông con yak già nua..tất cả điều này xảy ra là bởi hắn không cảm thấy một chút xót thương nào đối với con vật.

Hãy hình dung chính bạn là con yak già, lưng bạn oằn xuống vì bị chồng chất quá nặng, một sợi dây trì kéo bạn ở lỗ mũi, hông bạn bị quất, sườn bạn thâm tím vì cái bàn đạp. Bạn chỉ cảm thấy đau rát ở phía trước, phía sau, và hai bên sườn. Không một giây ngưng nghỉ, cbạn leo lên những sườn núi dài, đi xuống những con dốc sâu, vượt qua các con sông rộng và những cánh đồng mênh mông. Không được nuốt dù chỉ một muỗng thức ăn, bạn bị dẫn đi trái với ý muốn của bạn từ sáng sớm cho tới chiều tốt khi những tia sáng sau cùng của mặt trời tà đã biến mất.  Hãy quán chiếu về nỗi đau đớn và kiệt sức như thế nào, sự đau đớn, đói khát mà bạn trải nghiệm ra sao, và sau đó hãy nhận vào mình nỗi đau khổ đó.  Bạn không thể cảm thấy điều gì khác ngoài lòng bi mẫn mãnh liệt và không thể chịu đựng nỗi.

Thông thường, những người mà chúng ta gọi là Lạt ma hay Tu sĩ phải là một nơi nương tựa và nguời trợ giúp - những vị hộ trì và dẫn dắt không phân biệt của tất cả chúng sanh. Nhưng trong thực tế, họ thiên vị những người bảo trợ của họ, những người tặng cho họ thức ăn, nước uống và cúng dường họ. Họ cầu nguyện để những cá nhân đặc biệt này có thể được che chở và bảo vệ. Họ ban cho những người này các lễ quán đảnh và những sự ban phước.  Và trong thời gian đó họ đang kết bè kết bạn để trục xuất tất cả những ngạ quỷ và những tinh linh ác hại mà sự tái sanh không tốt là kết quả của nghiệp bất hạnh của họ.  Các Lạt ma cử hành những buổi lễ như vậy tới lúc nổi cơn thịnh nộ, làm ra vẻ muốn đánh đập và kêu lên: “Giết, giết! Đánh, đánh!”

Giờ đây, chắc chắn rằng nếu bất kỳ ai coi những tinh linh ác hại như đối tượng để đánh hoặc giết thì hẳn đó là vì tâm thức họ đang bị đè nặng bởi năng lực của sự tham luyến và thù hận, và họ chưa từng phát khởi lòng bi mẫn bao la, vô phân biệt. Khi bạn suy nghĩ kỹ lưỡng về điều này, bạn sẽ thấy rằng những tinh linh ác hại này cần đến lòng bi mẫn hơn bất kỳ ân nhân, tín chủ nào. Họ trở thành những tinh linh có hại là bởi ác nghiệp của họ. Khi bị tái sinh làm ngạ quỷ với một thân thể khủng khiếp, họ đau đớn và sợ hãi không thể tưởng tượng nổi.  Họ không kinh nghiệm được điều gì khác ngoại trừ sự đói, khát, và kiệt quệ kéo dài vô tận. Họ nhận thức mọi sự chỉ là sự đe doạ. Khi tâm họ tràn đầy thù hận và gây hấn, nhiều người trong số họ bị đoạ địa ngục ngay khi chết.  Như vậy ai xứng đáng được thương xót hơn? Những người bảo trợ có thể đau yếu và khổ sở, những điều đó sẽ giúp cho họ cạn kiệt ác nghiệp và không còn tạo tác thêm nữa. Trái lại, những tinh linh xấu ác đó đang làm tổn hại những người khác với những ý định xấu, và bởi những ác hạnh của họ, họ sẽ bị lộn nhào xuống đáy sâu của các cõi thấp.

Nếu Đấng Chiến Thắng, thiện xảo trong các phương tiện và tràn đầy lòng bi mẫn, đã giảng dạy nghệ thuật khử trừ hay đe doạ những tinh linh gây tổn hại này bằng những phương pháp hung nộ thì cũng chỉ là vì lòng bi mẫn đối với họ, giống như một người mẹ phát vào đít đứa trẻ không nghe lời. Ngài cũng cho phép nghi thức giải thoát được thực hành bởi những người có năng lực ngăn chặn dòng chảy những ác hạnh của những kẻ chỉ làm điều tổn hại, và chuyển di tâm thức họ tới một cõi thanh tịnh.  Nhưng đối với việc cố làm thoã mãn những tín chủ, các tu sĩ, và những người khác mà chúng ta coi là đứng về phe ta, và hắt hủi những quỷ ma và những người làm điều sai trái, coi họ như những kẻ thù đáng ghét - bảo vệ một bên và tấn công bên kia do bởi sự tham luyến và thù hận – thì có phải là Đấng Chiến Thắng đã giảng dạy những thái độ như thế? Chừng nào chúng ta còn bị dẫn dắt bởi những cảm xúc tham luyến và thù hận như vậy, thì thật vô ích khi cố gắng loại bỏ hay tấn công bất kỳ tinh linh ác hại nào.  Thân thể họ chỉ thuần là tâm thức và họ sẽ không tuân lệnh ta. Ngưỡc lại họ sẽ chỉ gây hoạ hại cho ta. Quả thực – chưa cần phải nói tới sự tham luyến và thù hận - chừng nào chúng ta còn tin rằng những vị trời và tinh linh như thế thực sự hiện hữu và muốn họ biến đi cho khuất mắt thì chúng ta sẽ không bao giờ thuần phục được họ.

Khi Ngài Jetsun Mila sống trong Động Pháp Đài Kim Xí Điểu ở thung lũng Chong, thì Vinayaka, vị vua của những kẻ gây chướng ngại, thi triển một ảo giáo siêu nhiên. Trong hang của mình, Jetsun Mila thấy năm atsara* với đôi mắt to như cái đĩa nhỏ. Ngài cầu nguyện vị Thầy và Bổn Tôn của Ngài, nhưng những con quỷ vẫn không đi. Ngài thiền định quán tưởng Bổn Tôn và niệm các thần chú phẫn nộ, nhưng chúng vẫn không đi.

Cuối cùng Ngài nghĩ: “Ngài Marpa xứ Lhodrak đã dạy ta rằng tất cả mọi sự trong vũ trụ là tâm, và bản tánh của tâm thì trống không và chói ngời. Tin rằng ma quỷ và những kẻ gây chướng ngại này như điều gì ngoại tại và muốn họ đi nơi khác là vô nghĩa.”

Cảm nhận được xác tín mạnh mẽ khi thấu suốt rằng những tinh linh và ma quỷ chỉ là những tri giác của chính mình, Ngài trở lại hang động. Trợn tròn mắt kinh hãi, những atsara biến mất.

Đây cũng là điều mà Quỷ Cái ở Tảng Đá muốn nói tới khi nó hát cho Milarepa nghe:

 

Quỷ ma này của khuynh hướng riêng của Ngài xuất hiện từ tâm Ngài;

Nếu Ngài không nhận ra bản tánh tam của mình,

Thì ta sẽ chẳng đi đâu chỉ vì Ngài bảo ta đi.

Nếu Ngài không nhận ra được rằng tâm Ngài trống không,

Thì còn có nhiều quỷ ma nữa bên cạnh ta!

Nhưng nếu Ngài nhận ra bản tánh của bổn tâm mình,

Thì những nghịch cảnh sẽ chỉ để hộ trì Ngài

Và ngay cả ta, Quỷ Cái ở Tảng Đá, sẵn sàng đợi lệnh Ngài.

 

Như vậy, thay vì có sự xác tín khi thấy được rằng tất cả các tinh linh và ma quỷ chính là bổn tâm ta, làm sao chúng ta có thể khuất phục được họ bằng phương cách phẫn nộ?

Khi các tu sĩ tới thăm những người bảo trợ của họ, họ vui vẻ ăn hết con cừu bị giết để phục vụ họ không một chút do dự. Khi họ thực hiện những nghi thức đặc biệt để cúng dường các vị Hộ Pháp, họ tuyên bố rằng món thịt thanh tịnh là một thành phần cần thiết. Đối với họ, món này có nghĩa là thịt và mỡ còn ướt máu của một con vật bị giết chết tươi, với nó họ trang trí tất cả các torma và những món cúng dường khác. Những phương pháp đe doạ ghê sợ như thế chỉ có thể là những nghi thức của tirthika hay Bonpo – chúng chắc chắn không phải là nghi thức Phật Giáo. Trong Phật Giáo, một khi đã quy y Pháp, chúng ta phải từ bỏ việc làm hại người khác. Làm thế nào mà việc giết một con thú ở mỗi nơi chúng ta đến, thưởng thức máu và thịt của nó, lại không là một vi phạm giới nguyện quy y? Đặc biệt hơn, trong truyền thống Bồ Tát của Đại Thừa, chúng ta được coi là nơi nương tựa và là người bảo vệ cho tất cả chúng sinh bao la vô tận. Nhưng với bản thân những chúng sinh có nghiệp bất hạnh mà ta được coi như đang che chở cho họ thì chúng ta lại không cảm thấy chút xíu bi mẫn nào. Thay vào đó, những chúng sinh nằm dưới sự che chở của chúng ta đó đã bị giết hại, thịt và máu nấu chín của họ được bày ra trước mặt ta, và những người bảo vệ họ - là chúng ta, những Bồ Tát - lại hân hoan ngấu nghiến món thịt rồi chép môi với vẻ thoả mãn. Còn điều gì có thể xấu xa và ác độc hơn nữa không?

Những bản văn Kim Cương Thừa Mantra Bí Mật nói:

 

Đối với những gì chúng ta đã làm khiến simha và tramen* khó chịu

Bằng cách không thâu thập các vật cúng dường gồm máu và thịt theo các bản văn

Chúng ta hãy cầu xin các dakini ở những chốn linh thiêng tha thứ.

 

Vậy ở đây, “thâu thập các vật cúng dường gồm máu và thịt theo các bản văn” có nghĩa là thâu thập chúng như được giải thích trong những bản văn tantra của Mật Thừa. Những hướng dẫn trong các bản văn đó là gì?

 

Năm loại thịt và năm cam lồ

Là thức ăn và nước uống cho bữa tiệc hội bên ngoài.

 

Do đó, cúng dường một tiệc máu và thịt theo các văn bản có nghĩa là cúng dường năm loại thịt được coi là những chất liệu samaya giá trị đối với Mật Thừa – đó là thịt người, chó, voi, và trâu bò. Năm loại thịt này không bị nhiễm ô bởi những ác hạnh vì đây là toàn thể những sinh vật không bị giết để làm thực phẩm.[131] Điều này hoàn toàn trái ngược với việc bám chấp vào các khái niệm thanh tịnh hay bất tịnh trong đó thịt người, thịt chó.. được xem là bất tịnh, kém tệ, và loại thịt bổ béo của một con vật vừa bị giết để làm thực phẩm lại được coi là thanh tịnh.  Những thái độ như thế được đề cập tới là:

 

Xem những chất liệu của năm samaya của việc thượng thức

Là tịnh hay bất tịnh, hay dùng chúng một cách lơ là,

 

Nói khác đi, có những ý niệm tịnh hay bất tịnh là vi phạm những samaya của sự thưởng thức. Ngay cả năm loại thịt được chấp nhận đó có thể chỉ được sử dụng nếu bạn có năng lực để chuyển hoá thực phẩm bạn ăn thành chất cam lồ và nếu bạn đang ở trong tiến trình thực hành để đạt tới những thành tựu đặc biệt ở một nơi hẻo lánh. Tình cờ ăn chúng trong làng, chỉ vì bạn thích mùi vị là ý nghĩa của “dùng một cách lơ là trái ngược với những samaya thưởng thức,’ và cũng là một sự vi phạm.

Do đó, “thịt thanh tịnh” không có nghĩa là thịt của một con vật bị giết để làm thực phẩm, mà là “thịt của con vật bị chết vì những hành vi trong quá khứ của nó,” tức thịt của con vật bị chết vì già, bệnh hoạn, hoặc những nguyên nhân tự nhiên khác là kết quả của độc nhất những hành vi trong quá khứ của riêng nó.

Ngài Dagpo Rinpoche vô song nói rằng đem thịt và máu còn ấm của một con vật bị giết chết tươi và đặc nó tron mạn đà la sẽ làm tất cả Bổn Tôn trí tuệ lợm giọng. Cũng có câu nói rằng cúng dường những Bổn Tôn trí tuệ máu và thịt của con vật bị giết thì giống như giết một đứa con trước mặt mẹ nó. Nếu bạn mời người mẹ dùng bữa và sau đó đặt trước mặt bà thịt của đứa con ruột của bà, thì liệu bà ta thích hay không thích? Chính với tình thương của bà mẹ đối với đứa con duy nhất của mình mà Chư Phật và Bồ Tát đã nhìn tất cả chúng sinh tron tam giới.  Như vậy giết thịt một sinh vật vô tội mà nó là nạn nhân của những hành vi bất thệin của chính nó và cúng dường thịt, máu của nó cho các Nàgi thì không cách nào làm Ngài hài lòng. Như Bồ Tát Santideva nói:

 

Giống như không niềm vui nào có thể mang lại sự hài lòng

Cho những người mà thân họ cháy rực lửa,

Các đấng bi mẫn vĩ đại cũng không thể hài lòng

Khi chúng sanh bị làm tổn hại.

 

Nếu bạn cử hành những nghi thức như cầu nguyện cúng dường những vị bảo vệ mà chỉ dùng thịt và máu của những con vật bị giết, thì cố nhiên là những Bổn Tôn trí tuệt và những vị bảo vệ giáo lý của Đức Phật, mà tất cả đều là những Bồ Tát thanh tịnh, sẽ không bao giờ chấp nhận những vật cúng dường là thịt của chúng sanh bị giết được bày ra giống như được bày bán trên quầy thịt. Thậm chí các Ngài sẽ không bao giờ lại gần những nơi như thế.  Thay vào đó, những tinh linh ác xấu đầy năng lực là những kẻ thích thịt và máu tươi và luôn luôn hăm hở trong việc làm tổn hại sẽ tụ hội quanh nơi cúng dường và dự tiệc.

Chỉ một thời gian ngắn sau khi một hành giả của những “cúng dường đỏ” như thế thực hiện công việc của mình, người ta có thể thấy được một vài lợi ích nho nhỏ.  Nhưng bởi những tinh linh này đang thường xuyên làm hại người khác, nên họ có thể gây ra những khó khăn và bệnh tật bất ngờ.  Một lần nữa hành giả của những nghi thức “đỏ” sẽ lại xuất đầu lộ diện và cúng dường thịt và máu, và một lần nữa việc đó sẽ giúp ích trong một thời gian ngắn.  Đây là cách thức những tinh linh xấu ác và các hành giả của những nghi thức đỏ trở thành bạn đồng hành không thể chia cách, luôn luôn hỗ trợ lẫn nhau.  Giống như những thú săn mồi rình mò, họ đi loanh quanh vớ vẩn, hoàn toàn bị ám ảnh bởi nỗi khát khao nhai thịt, gặm xương và luôn luôn tìm kiếm thêm các nạn nhân.  Bị những tinh linh mê hoặc, các hành giả của những nghi thức như thế đánh mất mọi sự tan vỡ ảo tưởng về luân hồi và khao khát giải thoát nào mà họ đã có từ trước.  Bất kỳ niềm tin, sự thanh tịnh trong nhận thức và mối quan tâm nơi Giáo Pháp nào mà một thời họ đã có, tất cả những phẩm tánh này mờ nhạt dần tới độ ngay cả chính Đức Phật bay trên bầu trời trước mặt cũng chẳng đánh thức được niềm tin trong họ, thậm chí khi thấy một con vật với bộ ruột lòng thòng ra ngoài họ cũng không khơi dậy được lòng bi mẫn.  Họ luôn tìm con mồi, giống như những kẻ sát nhân raksasa (La Sát) lên đường chinh phạt, mặt họ hừng hực, run lên với cơn thịnh nộ và vẻ khiêu chiến hung hăng.  Họ kêu căng về năng lực và ân phước của ngôn ngữ của họ, nó xuất phát từ việc họ thân thiết với những tinh linh xấu ác.  Ngay khi chết họ bị hút thẳng vào địa ngục - trừ phi những hành động tiêu cực của họ chưa hoàn toàn chín mùi để phải chịu như vậy, trong trường hợp này họ bị tái sanh vào những quyến thuộc của một số tinh linh xấu ác đi săn bắt sinh lực của những người khác, hay làm con diều hâu, chó sói và những dã thú khác.

Trong triều đại của Vị Vua Pháp Trisong Detsen, những người theo đạo Bon cúng dường máu và thịt vì lợi ích của nhà vua. Đức Phật Thứ Hai xứ Oddiyana (Đức Liên Hoa Sanh), Đại học giả Vimalamitra, Đại Bồ Tát Tu Viện Trưởng và những dịch giả, học giả khác tất cả hoàn toàn bị xúc phạm trước cảnh tượng cúng dường của những Bonpo. Các Ngài nói:

 

Một giáo lý duy nhất không thể có hai vị Thầy;

Một tôn giáo duy nhất không thể có hai phương pháp thực hành.

Truyền thống của đạo Bon đối nghịch với giới luật của Pháp;

Cái xấu của nó còn tệ hơn những việc sai lầm của người bình thường.

Nếu quý vị cho phép những thực hành như vậy, chúng tôi sẽ về nhà.

 

Tất cả những vị học giả cùng chung một ý kiến thậm chí không cần bàn luận.  Khi nhà vua thỉnh cầu các Ngài thuyết Pháp, không một ai bước lên.  Ngay cả khi nhà vua họ dùng bữa, các Ngài đều từ chối.

Nếu chúng ta, tự cho là đi theo dấu chân của những học giả, thành tựu giả và Bồ Tát trong quá khứ, mà giờ đây lại thực hệin những nghi thức sâu xa của Mật Thừa theo cung cách của các Bonpo và gây tổn hại cho chúng sanh, điều này sẽ huỷ hoại tính chất siêu phàm của Giáo Pháp và làm ô danh Tam Bảo, và sẽ ném cả chúng ta lẫn những người khác vào địa ngục. 

 

Hãy luôn luôn nhận vị trí thấp nhất.  Hãy mặc y phục giản dị.  Hãy giúp đỡ tất cả những người khác càng nhiều càng tốt trong khả năng của bạn.  Trong mọi sự bạn làm, hãy chỉ làm để phát triển lòng từ và bi cho tới khi chúng trở thành một phần căn bản của bạn.  Điều đó sẽ đáp ứng cho mục đích, cho dù bạn không thực hành những hình thức nổi bật bề ngoài và dễ thấy của Giáo Pháp như những sự cầu nguyện, những hành vi đức hạnh và những hoạt động vị tha.  Kinh HoànToàn Tóm Lược Giáo Pháp nói:

 

Hãy để những người khao khát Phật Quả không phải tu tập trong nhiều Pháp trừ một Pháp duy nhất

Một Pháp đó là gì? Đó là lòng đại bi

Những người có lòng đại bi sở hữu tất cả giáo lý của Đức Phật như thể chúng nằm trong lòng tay họ.

 

Có lần Geshe Tongpa được một vị tăng đến thăm, ông ta là đệ tử của Ba Anh Em

và Ngài Khampa Lungpa*

“Hiện nay Potawa làm gì” Ngài Tongpa hỏi vị sư.

“Ngài đang giảng dạy cho Tăng chúng hàng trăm người.”

“Rất tốt! Còn Geshe Puchungwa thì thế nào?”

“Ngài dùng toàn bộ thời giờ để tạo nên những đại diện** cho thân, khẩu và ý của Đức Phật từ những vật liệu mà Ngài và những người khác cúng dường”.

“Rất tốt!Ngài Geshe Tonpa lập lại. “Còn Gonpawa thì thế nào?”

“Ngài không làm gì hết, chỉ thiền định”

“Rất tốt! Hãy nói cho ta về Khampa Lungpa.”

“Ngài sống ở nơi cô tịch, khóc liên miên và dấu mặt.”

 

Nghe nói tới đây Ngài Tonpa dở nón, chắp tay giữa ngực và rơi nước mắt, kêu lên, “Ôi, vị ấy thật tuyệt diệu! Ngài đang thực sự thực hành Giáo Pháp. Ta có thể nói một ít cho ngươi biết là Ngài tốt lành ra sao, nhưng ta biết Ngài sẽ không thích”.

Lý do khiến Ngài Khampa Lungpa dấu mặt và khóc suốt ngày là bởi Ngài thường xuyên nghĩ tới chúng sinh bị hành hạ bởi những nỗi khổ trong vòng luân hồi, và thiền định về lòng bi mẫn đối với họ.

Một hôm Ngài Chengawa đang giảng về những lý do tại sao lòng từ và bi trở nên hết sức quan trọng, thì Langri Thangpa đảnh lễ trước Nài và nói rằng từ lúc đó trở đi ông sẽ không thiền định về điều gì khác ngoại trừ hai điều này.  Ngài Chengawa mở nón ra và nói ba lần “Thật là một tin tức tuyệt vời!”

Không có gì có thể hữu hiệu hơn lòng bi mẫn để tịnh hoá những hành vi tiêu cực và che chướng của chúng ta.  Thời xa xưa ở Ấn Độ, giáo lý A Tỳ Đàm bị thử thách trong ba dịp khác nhau và sắp bị biến mất.  Nhưng một nữ tu sĩ bà la môn tên Prakasasila nghĩ rằng: “Ta sinh ra làm thân nữ. Bởi địa vị thấp kém nên bản thân ta không thể làm cho kinh điển của Đức Phật chói sáng được. Vì thế ta sẽ phối hợp với các người đàn ông và sinh ra những người con trai để có thể phổ biến giáo lý A Tỳ Đàm”.

Cùng với chồng là một người ksatriya (giai cấp chiến sĩ), bà sanh Nài Asanga (Vô Trước) cao quý, và với một bà la môn bà sanh ra Ngài Vasubhandhu (Thế Thân). Khi mỗi một trong hai con trai bà tới tuổi trưởng thành, họ hỏi cha họ làm gì.

Người mẹ bảo với từng đứa con: “Ta sinh ra con không phải để đi theo dấu chân của cha con. Con được sinh ra để phổ biến giáo lý của Đức Phật. Con phải học Giáo Pháp, và trở thành vị thầy của giáo lý A Tỳ Đàm.”

Ngài Vasubhandu rời nhà tới Kashmir để học giáo lý A Tỳ Đàm. Ngài Asanga tới Núi Kukkutapada, ở đó Ngài bắt đầu thực hiện thực hành của Đức Phật Di Lặc với hy vọng có linh kiến về Ngài và thỉnh cầu giáo huấn của Ngài.  Sáu năm trôi qua, mặc dù thiền định gian khổ, Ngài chẳng có được một giấc mộng lành nào.

“Có lẽ ta chẳng bao giờ thành công” Ngài nghĩ, và bỏ đi, cảm thấy ngã lòng.  Dọc đường, Ngài đi ngang qua một người đang chà xát một thỏi sắt khổng lồ bằng một miếng vải mềm.

Ngài hỏi người đàn ông: “Ông đang gắng làm cái gì mà chà xát như thế?”

Ông ta trả lời: “Tôi cần một cây kim, nên tôi đang làm nó bằng cách chà xát thanh sắt này.”

Ngài Asanga nghĩ, “Ông ta sẽ không bao giờ làm được một cây kim bằng cách chà xát thỏi sắt khổng lồ đó với một miếng vải mềm. Cho dù nó có thể làm được trong một trăm năm, liệu ông ta có sống được tới đó không? Nếu chỉ vì một lý do quá nhỏ nhoi mà người bình thường còn nỗ lực như thế thì ta có thể thấy là mình chưa bao giờ thực sự thực hành Pháp với bất kỳ sự kiên trì nào.”

Vì thế Ngài thực hành trở lại. Ngài thực hành hơn ba năm mà vẫn không thấy dấu hiệu nào.[132]

“Lần này, hoàn toàn chắc chắn là ta không thể thành công,” Ngài nói, và lại lang thang lần nữa. Cuối cùng Ngài tới một tảng đá cao tới nỗi dường như chạm tới các cõi trời. Dưới chân tảng đ1, một người đàn ông đang quất một miếng da nhúng nước vào tảng đá.

“Ông làm gì vậy?” Ngài Asanga hỏi ông ta.

Người đàn ông nói: “Tảng đá này cao quá, chẳng có chút nắng nào vào nhà, nhà tôi ở phía tây tảng đá nên tôi làm tảng đá mòn đi cho tới khi nó biến mất”.

Với những suy tưởng như ba năm trước, Ngài Asanga quay trở lại và thực hành trong ba năm nữa, nhưng vẫn không có một giấc mộng lành nào.

Hoàn toàn thất vọng, Ngài nói: “Như vậy ta chẳng bao giờ thành công được điều gì!” và một lần nữa lại ra đi.

Dọc đường, Ngài đi qua một con chó cái với hai chân sau bị què và toàn bộ phần sau của nó nhung nhúc dòi.  Tuy thế, nó vẫn đầy vẻ gây hấn và cố cắn Ngài khi trườn mình bằng hai chân trước, thân sau của nó kéo lê trên mặt đất.  Asanga vô cùng xúc động, Ngài cảm nhận một lòng bi mẫn sâu xa không thể chịu đựng nổi.  Ngài cắt một miếng thịt của mình cho con chó ăn. Sau đó Ngài quyết định giúp nó thoát khỏi những con dòi ở phần thân sau của nó. Vì sợ rằng có thể giết chết những con dòi nếu Ngài di chuyển chúng bằng tay, Ngài nhận thấy cách duy nhất để làm điều đó là dùng lưỡi. Nhưng mỗi khi nhìn vào toàn thân con chó đã quá thối rữa và đầy mủ thì Ngài lại không thể làm được. Do vậy, Ngài nhắm mắt lại và thè lưỡi ra.

Thay vì chạm vào thân con chó cái thì lưỡi Ngài lại chạm đất.

Ngài mở mắt ra và thấy con chó đã biến mất. Đức Phật Di Lặc (Maitreiya) có hào quang bao quanh đang đứng ở chỗ của nó.

“Ngài tàn nhẫn làm sao,” Asanga kêu lên, “suốt thời gian qua Ngài không cho con nhìn thấy mặt!”

“Không phải là ta không hiện ra cho con thấy.  Ta và con chưa bao giờ xa cách nhau.  Nhưng vì những hành vi tiêu cực và che chướng của con quá mạnh mẽ nên con không thể thấy được ta. Nhờ mười hai năm thực hành của con đã làm cho chúng suy giảm được một ít nên con mới có thể nhìn thấy con chó cái.  Ngay bây giờ, nhờ lòng đại bi của con, các che chướng của con đã hoàn toàn được tịnh hoá và con có thể thấy ta bằng đôi mắt của con. Nếu không tin, hay mang ta trên vai và cho mọi người quanh đây nhìn thấy!”

Vì thế Asanga đặt Đức Di Lặc trên vai phải và đi vào chợ, ở đâu Ngài cũng h3oi mọi người “Ông thấy cái gì trên vai tôi?”

Ngoại trừ một bà lão mà tri giác ít bị những khuynh hướng quen thuộc ngăn che, còn thì mọi người đều trả lời là không có gì trên vai Ngài. Bà ta nói: “Ông đang mang thay một con chó thối”

Sau đó Đức Maitreya mang Asanga lên cõi trời Đâu Suất, ở đó Ngài ban cho Asanga Năm Giáo Lý của Maitreya và những giáo huấn khác.  Khi trở về cõi người, Asanga truyền bá rộng rãi giáo lý Đại Thừa.

Bởi không có thực hành nào như lòng bi mẫn để tịnh hoá tất cả những hành vi gây tổn hại của chúng ta, và chính vì lòng bi mẫn chưa từng thất bại trong việc giúp cho ta phát triển Bồ Đề Tâm phi thường, nên chúng ta phải kiên nhẫn thiền định về nó.

Hình ảnh được đưa ra để thiền định về lòng bi mẫn là hình ảnh của mọt người mẹ cụt tay, mà đứa con bà bị một con sống cuốn đi.  Một bà mẹ như thế sẽ đau khổ biết chừng nào.  Tình thương của bà dành cho đứa con quá mãnh liệt, nhưng vì không thể dùng đôi tay nên bà không thể chụp đứa con lại được.

“Tôi có thể làm gì bây giờ? Tôi có thể làm gì?” bà tự hỏi.  Suy nghĩ duy nhất của bà là tim ra phương tiện nào đó để cứu con.  Trái tim bà tan nát, bà vừa khóc vừa chạy theo sau đứa con.

Hoàn toàn giống như vậy, tất cả chúng sanh trong tam giới đang bị giòng sông đau khổ cuốn trôi vào biển luân hồi. Mặc dù ta cảm nhận một lòng bi mẫn không thể chịu đựng nổi, nhưng chúng ta không có cách gì cứu thoát họ khỏi nỗi khổ của họ.  Hãy thiền định về điều này, hãy nghĩ: “Giờ đây tôi có thể làm được gì?” và hãy kêu gọi vị Thầy và Tam Bảo từ tận sâu thẳm trái tim bạn.

 

4.  Thiền định về sự hoan hỷ

 

Hãy hình dung một người nào được sanh ra một cách cao quý, mạnh mẽ, thịnh vượng và đầy quyền thế, một người nào đó sống trong những cõi cao đang trải qua sự nhàn nhã, hạnh phúc, trường thọ, giàu có và được nhiều người hầu hạ.  Không có bất kỳ cảm thức ghen tị hay ganh đua nào, hãy ước muốn rằng thậm chí họ còn có thể trở nên vinh quang hơn nữa, còn vui hưởng hơn nữa sự thịnh vượng của những cõi cao, thoát khỏi mọi hiểm nguy, và luôn luôn phát triển hơn nữa sự thông minh và những tài năng hoàn hảo khác. Sau đó hãy thường xuyên tự nhủ rằng sẽ tuyệt vời biết bao nếu tất cả chúng sanh khác cũng có thể sống ở một mức độ như vậy.

Hãy bắt đầu sự thiền định của bạn bằng cách suy nghĩ về một người dễ dàng làm khơi dậy những cảm xúc tích cực – như một người bà con, một người bạn thân hay một người mà bạn yêu mến – là người thành đạt, bằng lòng và an lạc, và hãy cảm thấy sung sướng rằng bạn đang như thế. Khi bạn đã tạo ra được cảm giác hạnh phúc đó, hãy cố gắng nuôi dưỡng cảm giác tương tự đối với những người bạn cảm thấy lãnh đạm.  Sau đó tập trung trên tất cả những loại kẻ thù đã làm tổn thương bạn, và đặc biệt với những người mà bạn cảm thấy ghen tị.  Hãy nhổ bật gốc tâm thức xấu ác không chịu đựng nổi khi thấy ai đó được hưởng sự hoàn toàn sung túc như vậy, và hãy nuôi dưỡng một cảm giác vui thích đặc biệt đối với mỗi loại hạnh phúc mà họ có thể hưởng thụ. Hãy kết thúc bằng sự ngơi nghĩ trong trạng thái không có bất kỳ sự khái niệm hoá nào.

Ý nghĩa của sự hoan hỷ là có một tâm thức thoát khỏi sự ghen tị. Do đó, bạn nên cố gắng tu tập tâm bạn với đủ loại phương thức để ngăn chận những tư tưởng ghen tị có hại đó phát sinh.  Đặc biệt, một vị Bồ Tát, người đã phát khởi Bồ Đề Tâm vì lợi ích của tất cả chúng sanh, phải cố gắng an lập tất cả chúng sanh đó trong hạnh phúc vĩnh cửu của Phật Quả, và trong hạnh phúc nhất thời của những cõi Trời và Người. Vậy, làm sao một vị Bồ Tát như thế lại có thể không hài lòng khi một số người, nhờ nghiệp lực của những hành vi trong quá khứ của họ, được sở hữu một vài sự xuất chúng hay giàu có?

Một khi người ta bị thiên lệch bởi ghen tị, họ không còn thấy cái tốt của người khác, và những hành vi tiêu cực củ họ gia tăng thật đáng báo động.

Khi danh tiếng và hoạt động của Ngài Jetsun Milarepa lan rộng, một luật sư tên Tarlo trở nên ghen tị và bắt đầu tấn công Ngài. Mặc dù mọi kiểu thấu thị và năng lực kỳ diệu mà Ngài Jetsun phô diễn cho ông ta thấy, Tarlo không tin Ngài và chỉ phản ứng lại bằng sự chỉ trích và tà kiến. Sau đó ông ta tái sanh thành một đại ác quỷ.

Có nhiều ví dụ khác về những điều có thể xảy ra dưới năng lực của sự ghen tị, giống như cách luận sư Geshe Tsakpuwa đã cố đầu độc Ngài Jetsun Mila.

Cho dù chính Đức Phật hiện diện trong thân người, Ngài cũng không thể làm được gì để dẫn dắt một người ghen tị. Một tâm thức bị ô nhiễm bởi ghen tị không thể nhìn thấy bất kỳ điều gì tốt đẹp nơi người khác. Vì không thể thấy điều gì tốt trong họ, nên không thể phát sinh ngay cả một chút niềm tin yếu ớt. Không có niềm tin, ta không thể nhận được lòng bi mẫn lẫn những sự ban phước. Devadatta và Sunaksatra là anh em họ của Đức Phật. Cả hai bị dày vò bởi sự ghen tị và không có chút lòng tin nào đối với Ngài. Mặc dù họ sống cả đời với Đức Phật nhưng Ngài hoàn toàn không thể chuyển hoá được tâm họ.*

Ngoài ra, ngay cả khi những tư tưởng ác độc về người khác không cụ thể hoá thành sự tổn hại vật lý thực sự, nhưng chúng vẫn tạo ra những hậu quả tiêu cực to lớn cho người có tư tưởng đó. Ngày trước, có hai vị geshe nổi tiếng đang kình địch nhau. Một ngày nọ, một người biết rằng người kia có tình nhân.

Vị geshe nói với người hầu: “Hãy chuẩn bị ít trà ngon, vì ta có một số tin hay.”

Người hầu pha trà, và khi dâng trà, anh ta hỏi: “Tin tức gì?”

Vị geshe trả lời: “Người ta nói rằng đối thủ của ta có tình nhân!”

Khi Ngài Kumpang Trakgyal nghe chuyện này, người ta nói rằng mặt Ngài sạm lại và Ngài hỏi: “Trong hai vị geshe người nào vi phạm hành vi tệ hơn?”

Việc liên tục chú tâm vào những cảm xúc như ghen tị và tranh đua không giúp ích gì cho sự nghiệp của riêng ta mà cũng không làm hại sự nghiệp các đối thủ của ta. Nó dẫn đến một tích tập tiêu cực vô nghĩa. Hãy từ bỏ loại thái độ xấu xa này. Hãy luôn chân thành hoan hỷ về những thành tựu và các hoàn cảnh thuận lợi của người khác, bất kể địa vị xã hội, thân tướng, tài sản, học vấn hay bất kỳ những gì khác của họ ra sao. Hãy nghĩ đi nghĩ lại nhiều lần rằng bạn thật sự vui mừng biết bao bởi có những người tuyệt vời như thế, thành công và may mắn đến thế. Hãy nghĩ rằng sẽ kỳ diệu biết bao nếu thậm chí họ còn trở nên còn phong lưu hơn họ bây giờ, và đạt được tất cả sức mạnh, của cải, học vấn và những phẩm tánh tốt đẹp mà có thể có được. Hãy thiền định về điều này từ đáy lòng bạn.

Hình ảnh được đưa ra cho sự hoan hỷ vô lượng là hình ảnh một con lạc đà mẹ đi tìm đứa con thất lạc của nó. Trong tất cả các thú vật, lạc đà được coi là những bà mẹ âu yếm con nhất. Do đó nếu một lạc đà mẹ bị mất con thì nỗi đau buồn của nó sẽ rất dữ dội. Khi tìm lại được con thì nó vui mừng vô hạn. Đó là loại hoan hỷ mà bạn nên cố gắng phát triển.

Bốn phẩm tính vô lượng không thể thát bại khi làm cho chúng ta phát triển Bồ Đề Tâm chân thật. Do đó, rất cần nuôi dưỡng chúng cho tới khi chúng thật sự bén rễ trong ta.

Để làm cho điều này được dễ hiểu, chúng ta có thể tóm tắt bốn phẩm tính vô lượng trong một cụm từ duy nhất “một lòng nhân ái.” Hãy tu tập bản thân để bạn luôn luôn có một trái tim nhân ái trong mọi tình huống.

Một hôm, bàn tay của Đức Atisa bị thương, và vì thế Ngài đặt nó trong lòng của Drom Tonpa và nói: “Ông là người có lòng nhân ái, hãy ban phước cho bàn tay ta!”

Ngài Atisa luôn luôn chỉ nhấn mạnh tới tầm quan trọng của lòng nhân ái, và thay vì hỏi mọi người “Bạn có khỏe không?”, thì Ngài sẽ hỏi “Trái tim bạn có nhân ái không?”

Bất cứ khi nào Ngài giảng dạy, Ngài đều thêm vào “Hãy có một trái tim nhân ái!”

Chính năng lực của những ý định tốt lành hay bất thiện sẽ làm cho một hành vi trở nên tích cực hay tiêu cực, mạnh hay yếu. Khi ý định đằng sau chúng là tốt, thì mọi hành vi của thân hay ngữ đều tích cực, như đã được minh hoạ trong câu chuyện của một người lấy đế da che tsa-tsa. Khi ý định ở phía sau là xấu, thì bất kỳ hành vi nào, dù nhìn có vẻ tốt nhưng thực ra sẽ là xấu. Vì thế hãy học tập để luôn luôn có những ý định thiện lành, bất kể trong những hoàn cảnh nào. Có câu nói rằng:
 

Nếu ý định tốt đẹp thì những cấp độ và con đường sẽ tốt.

Nếu ý định xấu, những cấp độ và con đường sẽ xấu.[133]

Bởi mọi sự đều tuỳ thuộc vào những ý định,

Nên hãy luôn đoan chắc rằng chúng tích cực.

 

Các con đường và cấp độ sẽ tốt nếu các ý định tốt là như thế nào?

Có một lần, một bà lão và cô con gái đang vượt qua một con sông rộng, bà nắm lấy tay con, và cả hai bị dòng nước cuốn trôi.

Người mẹ nghĩ: “Ta có bị nước cuốn trôi thì cũng chẳng quan trọng gì miễn là con ta được cứu sống!”

Cùng lúc đó, người con gái nghĩ: “Cho dù tôi có bị cuốn trôi thì cũng chẳng sao miễn là mẹ tôi không bị chết đuối!”

Cả hai người đều chết chìm, và là kết quả của những tư tưởng tích cực cho lẫn nhau, cả hai mẹ con được tái sanh vào cõi Trời Phạm Thiên (Brahma).

Trong một trường hợp khác, sáu vị tu sĩ và một người đưa thơ lên đò để qua sông Jasako. Chiếc đò rời bến.

Đi khoảng được một phần tư đường, người lái đò nói: “Chúng ta quá nặng. Nếu ai biết bơi thì xin nhảy xuống nước. Nếu không, tôi sẽ nhảy xuống và một người trong quý vị có thể cầm chèo.”

Không một ai biết bơi; và cũng chẳng có ai biết chèo.

Vì thế người đưa tin nhảy ra khỏi con thuyền, kêu lên: “Tốt nhất là tôi chết một mình để cho mọi người sống!”

Ngay lập tức một cầu vồng xuất hiện và một trận mưa hoa rơi xuống. Mặc dù ntười đưa thơ không biết bơi nhưng ông đã được đưa vào bờ an toàn. Ông ta chưa từng thực hành Giáo Pháp. Đây là lợi ích trực tiếp phát xuất từ một tư tưởng tốt duy nhất.

Những con đường và cấp độ sẽ xấu nếu những tư tưởng xấu là như thế nào?

Có một lần, một người hành khất nằm ngay cổng hoàng cung và nghĩ: “Ta ước mong nhà vua bị cắt đầu, và ta có thể chiếm nơi này!”

Tư tưởng này không ngừng quay cuồng trong tâm ông suốt đêm dài. Đến sáng ông ta rơi vào giấc ngủ và trong khi ông ngủ nhà vua ngồi trên xa mã đi ra. Một bánh xe cán ngang cổ người hành khất và cắt đứt đầu ông ta.

Trừ phi bạn nhớ tới mục đích của việc tìm kiếm Giáo Pháp của bạn với sự chánh niệm và cảnh giác, và luôn theo dõi tâm bạn, nếu không những cảm xúc mãnh liệt của sự tham luyến và thù ghét có thể dễ dàng dẫn tới việc tích luỹ những hậu quả tiêu cực rất nghiêm trọng. Mặc dù những mong ước của ông lão hành khất không bao giờ có thể thành sự thật nhưng hậu quả của những tư tưởng của ông ta lại được cụ thể hoá ngay lập tức. Có thể xảy ra việc nàh vua đang ngủ thoải mái trên giường ngọc trong cung điện lại bị mất đầu? Cho dù nhà vua bị mất đầu, thì không hợp lý hơn sao nếu vị thái tử sẽ thừa kế vương quốc? Ngay cả nếu vì một lý do nào đó thái tử không lên ngôi, thì liệu có thể có việc một ông lão hành khất sẽ thừa kế ngai vàng bất chấp tất cả các vị thừa tướng là những người như những con cọp, beo và gấu?  Tuy nhiên, trừ phi bạn tự kiểm soát một cách thận trọng, còn thì ngay cả những tư tưởng tiêu cực lố bịch như vậy cũng có thể xuất hiện. Vì thế như Geshe Shawopa nói:

 

Đừng nên cai trị những vương quốc mộng tưởng của những triển vọng nảy nở vô tận!

 

Một hôm Đức Phật và các vị tu sĩ của Ngài được mời thỉnh nhận cúng dường tại nàh của một thí chủ. Ở đó cũng có hai người hành khất trẻ tuổi, một người thuộc giai cấp ksatriya (chiến sĩ), còn người kia là một brahmin (bà la môn). Người brahmin đi tới xin trước khi Đức Phật và các tu sĩ được cúng dường nên không nhận được gì. Người ksatriya đợi tới khi mọi người được cúng dường xong mới đến xin và nhận được nhiều thực phẩm ngon lành được để lại trong bình bát của các Ngài.[134] Trưa hôm đó, trên đường đi, hai người nói chuyện với nhau về những suy nghĩ của họ.

Người ksatriya trẻ nói: “Nếu tôi giàu có, tôi sẽ cúng dường y phục và vật thực cho Đức Phật và các tu sĩ của Ngài cho tới cuối đời tôi. Tôi tôn kính các Ngài bằng cách cúng dường tất cả những gì tôi có.”

Người brahmin trẻ tuổi nói: “Và nếu tôi là một vị vua đầy uy quyền, tôi muốn cái đầu cạo trọc của kẻ mê tín kia sẽ bị chặt và cả nhóm bị xử tử cùng với ông ta!”

Người ksatriya trẻ tới một xứ khác và cư ngụ dưới bóng của một thân cây lớn. Khi những bóng cây khác di chuyển, thì bóng của thân cây đặc biệt này vẫn đứng yên. Vị vua xứ đó vừa băng hà, và vì nhà vua không có người thừa kế nên dân chúng quyết định rằng người nào xứng đáng và mạnh mẽ nhất xứ sẽ được tôn làm vua của họ. Khi tiến hành tìm kiếm vị tân vương, họ chợt thất người ksatriya trẻ đang ngủ dưới gốc cây, vẫn ở dưới bóng cây mặc dù quá ngọ đã lâu. Họ đánh thức anh ta dậy và tôn anh lên làm vua. Sau đó, vị vua bày tỏ sự tôn kính Đức Phật và các tu sĩ của Ngài như đã ước nguyện.

Về phần người brahmin trẻ, câu chuyện kể rằng khi nằm nghĩ ở ngã tư đường, đầu của anh ta bị bánh của một chiếc xe ngựa cán đứt.

Nếu bạn học tập để luôn luôn chỉ có những tư tưởng tốt lành, mọi mong ước của bạn trong đời này sẽ trở thành hiện thực. Những vị trời nhân đức sẽ bảo vệ bạn và bạn sẽ nhận được sự ban phước của tất cả chư Phật và Bồ Tát. Mọi việc bạn làm sẽ tốt đẹp, và vào lúc chết bạn sẽ không bị đau khổ. Trong những đời tương lại bạn sẽ luôn luôn được tái sanh vào cõi trời hay người cho tới khi cuối cùng bạn đạt được Phật Quả viên mãn.

Đừng chỉ biết vội vã mà không thẩm xét những tư tưởng và cảm xúc của bạn, và thực hiện một cuộc phô bày vĩ đại các hoạt động đức hạnh như: những sự lễ lạy, đi nhiễu, cầu nguyện, tụng niệm thần chú v.v.. Thay vào đó, điều quan trọng là luôn kiểm soát thái độ của bạn và trau dồi lòng nhân ái.

 

II.  SỰ KHƠI DẬY BỒ ĐỀ TÂM

 

1. Sự phân loại đặt nền tảng trên ba mức độ can đảm

 

1.1    SỰ CAN ĐẢM CỦA MỘT VỊ VUA

 

Ưu tiên hàng đầu của một vi vua là chiến thắng tất cả quân địch, thăng chức cho

những người giúp đỡ ngài, và tuyên bố quyền hạn của mình. Chỉ sau những việc đó thì ước nguyện chăm lo cho thần dân của ngài mới có kết quả. Tương tự như vậy, trước tiên mong muốn bản thân mình đạt đến Phật Quả và sau đó đưa những người khác đến quả vị Phật được gọi là cách thức của một vị vua trong việc khơi dậy Bồ Đề Tâm.

1.2    SỰ CAN ĐẢM CỦA MỘT NGƯỜI CHÈO THUYỀN

 

Mục đích của người chèo thuyền là cùng đi tới bờ bên kia với tất cả những người

khách của ông. Tương tự, mong ước đạt được Phật Quả cho mình cùng với tất cả chúng sinh được gọi là cách khơi dậy Bồ Đề Tâm của người chèo thuyền.

 

1.3    SỰ CAN ĐẢM CỦA NGƯỜI CHĂN TRÂU

 

Những người chăn cừu lùa bầy cừu của họ đi phía trước để chắc chắn rằng chúng tìm

được cỏ và nước, và không bị chó sói, chó rừng hay những thú dữ khác tấn công. Bản thân họ thì đi theo sau. Tương tự như thế, thái độ của những người mong muốn an lập tất cả chúng sanh khắp tam giới trong Phật Quả viên mãn trước khi bản thân họ đạt được nó thì được goi là cách khơi dậy Bồ Đề Tâm của người chăn cừu.

Cách của vị vua được gọi là sự “khơi dậy Bồ Đề Tâm với mong ước lớn lao” là cách ít can đảm nhất trong ba cách. Cách của người chèo thuyền gọi là sự “khơi dậy Bồ Đề Tâm với trí tuệ thiêng liêng” thì can đảm hơn. Người ta nói Đức Maitreya (Di Lặc) khơi dậy Bồ Đề Tâm theo cách này. Cách của người chăn cừu được gọi là “sự khơi dậy Bồ Đề Tâm vượt lên sự so sánh” là cách can đảm nhất. Người ta nói đó là cách Đức Manjusri (Văn Thù) đã khơi dậy Bồ Đề Tâm.

 

2. Phân loại Theo Các Địa Bồ Tát

Trên những con đường tích tập và hợp nhất, sự khơi dậy Bồ Đề Tâm được gọi là “phát Bồ Đề Tâm bằng cách thực hành với ước nguyện.” Từ sơ địa cho tới địa Bồ Tát thứ bảy, nó được gọi là sự “khơi dậy Bồ Đề Tâm qua ý định thanh tịnh toàn hảo và xuất sắc.” Trên ba địa thanh tịnh, nó được gọi là sự “khơi dậy Bồ Đề Tâm hoàn toàn chín mùi,” và ở địa Phật Quả, nó được gọi là sự “khơi dậy Bồ Đề Tâm thoát khỏi mọi chướng ngại”

 

3. Phân loại Theo Tính Chất của Bồ Đề Tâm

Có hai loại Bồ Đề Tâm: Bồ Đề Tâm tương đối và Bồ Đề Tâm tuyệt đối.

 

3.1 BỒ ĐỀ TÂM TƯƠNG ĐỐI:

 

Bồ Đề Tâm tương đối có hai khía cạnh: ý định và sự áp dụng

a.  Ý định:

 

Trong Bồ Tát Đạo, Ngài Santideva nói về hai khía cạnh của Bồ Đề Tâm:

Ước muốn khởi hành và bắt đầu đi trên con đường,

Sự khác biệt của chúng khó tưởng tượng biết bao.

Do đó người minh triết và uyên bác nên hiểu rõ

Sự khác biệt này, nó được sắp đặt và phát triển không ngừng.

 

Hãy lấy một ví dụ về một du hành tới Lhsa. Bước đầu tiên là ý định: “Tôi sắp đi tới Lhasa.” Niệm tưởng ban đầu tương ứng với ý định: “Tôi sắp làm bất cứ điều gì để bảo đảm rằng tất cả chúng sanh sẽ đạt được trạng thái Phật Quả viên mãn,” là phương diện ý định của việc khơi dậy Bồ Đề Tâm.[135]

 

b. Sự Áp dụng:

 

Sau đó bạn chuẩn bị ngựa và lương thực cần thiết, bắt đầu lên đường và thực sự du hành tới Lhasa. Tương tự như thế, bạn quyết định thực hành sự bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, và tu tập tâm bạn trong trí tuệ vô phân biệt để an lập tất cả chúng sanh trên cấp độ Phật Quả viên mãn, và bạn thực sự đưa con đường sáu toàn thiện siêu việt (sáu ba la mật) này vào thực hành.[136] Điều này tương ứng với chuyến du hành thực sự, và là phương diện áp dụng của Bồ Đề Tâm.[137]

 

3.2 BỒ ĐỀ TÂM TUYỆT ĐỐI

 

Cả hai phương diện ý định và áp dụng đều là Bồ Đề Tâm tương đối.[138] Nhờ tu tập một thời gian dài trong Bồ Đề Tâm tương đối trên các con đường tích tập và hợp nhất, cuối cùng bạn đi tới con đường của cái thấy (Kiến), ở đó bạn có kinh nghiệm chân thực về chân như, trạng thái tự nhiên của mọi sự. Đây là trí tuệ vượt lên mọi sự tạo tác, chân lý của tánh Không. Vào lúc đó bạn khơi dậy Bồ Đề Tâm tuyệt đối.[139]

 

4. Thọ giới nguyện Bồ Đề Tâm[140]

 

Nhờ năng lực của việc thiền định mà ta đạt được Bồ Đề Tâm tuyệt đối đích thực, và điều này không tuỳ thuộc vào các nghi thức. Tuy nhiên, để phát triển Bồ Đề Tâm tương đối, là người sơ cơ, chúng ta cần một số thủ tục để tuân theo, một nghi thức qua đó chúng ta có thể thọ giới nguyện trong sự hiện diện của một vị Thầy tâm linh. Sau đó, chúng ta cần liên tục làm tươi mới lại giới nguyện đó trong các thức tương tự và lập đi lập lại nhiều lần khiến cho Bồ Đề Tâm mà chúng ta đã khơi dậy không bị tàn lụi mà trở nên càng lúc càng mãnh liệt hơn.

Hãy quán tưởng tất cả chư Phật, Bồ Tát và những Bổn Tôn khác trên bầu trời trước mặt bạn, như bạn đã làm trong sự thực hành quy y.  Hãy dùng các Ngài như những nhân chứng trong việc phát Bồ Đề Tâm của bạn và suy nghĩ như vầy:

“Trong toàn thể vô số sinh loài khắp vũ trụ bao la, không ai chưa từng là cha mẹ của tôi trong tiến trình nối những cuộc đời tôi từ vô thuỷ. Tôi có thể quyết chắc rằng, là cha mẹ tôi, họ hoàn toàn chăm sóc tôi với sự dịu dàng âu yếm mà họ có thể, cho tôi thứ tốt nhất trong số thực phẩm và quần áo của họ và nuôi dưỡng tôi với tất cả tình thương, giống như cha mẹ hiện tại của tôi đã làm. Bây giờ tất cả những cha mẹ nhân từ đó đang đắm chìm trong những cơn sóng của đại dương đau khổ trong sinh tử luân hồi. Họ bị nhận chìm trong bóng tối sâu dày nhất của sự vô minh. Họ không có ý niệm về con đường chân lý để thực hành, cũng như không biết con đường sai lầm để tránh. Họ không có người bạn tâm linh thực sự nào để hướng dẫn. Họ không có nơi nương tựa hay sự che chở, không người dẫn dắt hay bạn đồng hành, không hy vọng và không có ai để hướng tới, lạc loài như một người mù lang thang không bạn hữu giữa một cánh đồng hoang. Những bà mẹ già của tôi, làm sao tôi có thể tự giải thoát một mình và bỏ mặc quý vị trong luân hồi? Vì lợi ích của tất cả chúng sanh, tôi sẽ đánh thức Bồ Đề Tâm tuyệt đối. Trong khi học tập để ganh đua với những hành động phi thường của những bậc Bồ Tát trong quá khứ, tôi sẽ làm bất kỳ nỗ lực nào cần thiết cho tới khi không còn một chúng sinh nào bị bỏ lại trong luân hồi!”

Với thái độ này, hãy tụng bài kệ sau đây càng nhiều càng tốt khi có thể:

 

Ô! Bị lạc lối bởi vô số hình tướng giống như ánh trăng trong nước,

Chúng sinh lang thang trong chuỗi luân hồi vô tận;

Để họ được ngơi nghỉ trong không gian chói ngời của giác tánh,

Con khơi dậy Bồ Đề Tâm[141] với bốn phẩm tính vô lượng.

 

Vào lúc kết thúc thời công phu, hãy quán tưởng rằng nhờ năng lực của lòng sùng mộ nhiệt thành của bạn đối với các Bổn Tôn của ruộng công đức, toàn thể tập hội tan thành ánh sáng, bắt đầu từ bên ngoài, và cuối cùng hoà tan vào vị Thầy ở chính giữa, là sự là sự hợp nhất của cả ba sự quy y. Tới lượt vị Thầy tan thành ánh sáng và hoà tan vào bạn, tạo ra Bồ Đề Tâm tuyệt đối hiện diện trong tâm của các Bổn Tôn quy y để xuất hiện rõ ràng trong tâm bạn. Hãy tụng lời nguyện ước này:

 

Cầu mong Bồ Đề Tâm, vật quý báu và tối thượng,

Phát khởi ở những nơi nó chưa đi tới;

Và ở nơi nó đã phát khởi, cầu mong nó không bao giờ mai một

Mà còn phát triển và nở rộng thêm mãi.

 

Sau đó hồi hướng công đức với những câu:

 

Khi ganh đua với Đấng anh hùng Văn Thù,

Phổ Hiền và tất cả những bậc trí tuệ,

Con cũng hồi hướng công đức viên mãn

Của mọi hành vi tích cực.

 

Điều này khơi dậy Bồ Đề Tâm, là tinh tuý của tám vạn bốn ngàn Pháp môn mà Đấng Chiến Thắng đã dạy. Nó là giáo huấn mà nếu sở hữu được nó thì tự nó đã đầy đủ, nhưng nếu thiếu nó sẽ làm cho tất cả những gì khác thành vô ích. Nó là một thứ thuốc chữa lành mọi bệnh tật.  Tất cả những con đường khác của Giáo Pháp, chẳng hạn như hai sự tích tập, sự tịnh hoá những ô nhiễm, thiền định về các Bổn Tôn, và sự trì tụng các thần chú, thì đơn thuần là những phương pháp để làm cho viên ngọc như ý này, là Bồ Đề Tâm, phát khơi trong tâm. Không có Bồ Đề Tâm thì không phương pháp nào trong số đó tự mình nó có thể đưa dẫn bạn tới cấp độ Phật Quả viên mãn.[142] Nhưng một khi Bồ Đề tâm đã được khơi dậy trong bạn, thì bất kỳ thực hành Pháp nào bạn làm cũng sẽ dẫn bạn tới sự thành tựu Phật Quả viên mãn. Hãy luôn luôn học tập để sử dụng bất kỳ phương tiện nào bạn có thể để làm cho ngay cả một tia lửa Bồ Đề Tâm nhỏ bé nhất cũng phát khởi trong bạn.[143]

Vị Thầy ban cho bạn những giáo huấn cốt tuỷ về sự khơi dậy Bồ Đề Tâm đang đặt bạn trên con đường Đại Thừa, vì thế lòng tốt của Ngài thì vĩ đại hơn lòng tốt của những vị Thầy ban cho bạn bất kỳ những giáo huấn nào khác. Khi Ngài Atisa nhắc tới danh hiệu của các vị Thầy của Ngài, Ngài thường chắp tay trước ngực. Nhưng khi Ngài nói tới Đức Suvarnadvipa, thì Ngài chắp tay đặt lên đầu và mắt Ngài đẫm lệ.  Các đệ tử hỏi Ngài tại sao có sự phân biệt như vậy.

“Thực sự có một sự khác biệt trong những phẩm tánh tâm linh hay thiện tâm của những vị Thầy này không?” họ hỏi.

“Tất cả những vị Thầy của ta đều là những bậc thực sự thành tựu,” Ngài Atisa trả lời, “và những phẩm tánh của các Ngài thì đều đồng nhất. Nhưng có một số khác biệt trong thiện tâm của các Ngài. Chút ít Bồ Đề Tâm mà ta có đến từ thiện tâm của Đức Suvarnadvipa. Đó là lý do tại sao ta cảm thấy biết ơn Ngài nhiều hơn.”

Có câu nói rằng điều quan trọng nhất về Bồ Đề Tâm là không khơi dậy nó, mà đúng hơn nó thực sự phát khởi. Lòng từ và bi của Bồ Đề Tâm phải thực sự sống động trong chúng ta. Do đó trì tụng nghi thức nhiều trăm ngàn lần mà không thâu nhận được ý nghĩa vào trong tâm thì hoàn toàn vô ích. Thọ nhận giới nguyện Bồ Đề Tâm trước sự hiện diện của Chư Phật và Bồ Tát, và sau đó không trì giữ nó thì đúng là lừa gạt các Ngài. Không có lỗi lầm nào tệ hơn thế. Vì thế cũng đừng lừa gạt chúng sanh – hãy luôn cố gắng nuôi dưỡng Bồ Đề Tâm.

 

III. SỰ TU TẬP TRONG GIỚI LUẬT CỦA BỒ ĐỀ TÂM

 

Đối với Bồ Đề Tâm trong ý định, việc tu tập có ba giai đoạn: coi những người khác ngang bằng với mình, hoán đổi mình với người khác, và coi người khác thì quan trọng hơn chính mình. Đối với Bồ Đề Tâm áp dụng, việc tu tập bao gồm sự thực hành sáu toàn thiện siêu việt (sáu ba la mật.)

 

1. Sự tu tập trong giới luật của Bồ Đề Tâm ước nguyện

 

Lý do khiến chúng ta lang thang trong biển luân hồi đau khổ từ vô thuỷ là bởi ta tin vào một cái “tôi” ở nơi không có cái tôi, tin vào một cái “ngã” ở nơi không có cái ngã, và bởi ta làm cho cái ngã đó trở thành đối tượng duy nhất của sự yêu thương của chúng ta. Thay vào đó, hãy quán chiếu như sau:

Chúng ta luôn luôn muốn được hạnh phúc và không bao giờ đau khổ. Khi có bất kỳ điều khó chịu nào xảy tới cho ta, chúng ta cảm thấy không thể chịu đựng nổi. Ngay cả cái kim châm hay một tia lửa nhỏ cũng làm chúng ta kêu đau đớn – chúng ta hoàn toàn không thể kháng cự. Nếu một con rận nhỏ cắn trên lưng chúng ta cũng khiến ta nổi cơn thịnh nộ. Chúng ta bắt con rận đó, nghiền nát nó trong hai móng tay, và mãi sau đó chúng ta vẫn cứ tiếp tục chà xát móng tay trong sự giận dữ. Đa số mọi người thời nay coi việc giết rận là vô hại. Nhưng vì nó luôn luôn được làm trong cơn giận dữ, nên đó là một nguyên nhân chắc chắn để tái sanh trong Địa Ngục Vây Bắt và Nghiền Nát. Chúng ta phải xấu hổ khi nhận ra những khó chịu nhỏ bé như thế mà lại không chịu được và phản ứng trong một cách thức gây nhiều đau khổ cho chúng sanh khác.

Giống như chúng ta, tất cả chúng sanh trong tam giới cũng muốn hạnh phúc và giải thoát mọi đau khổ. Nhưng mặc dù muốn được hạnh phúc, họ lại không biết rằng hạnh phúc chỉ đến từ việc thực hành mười thiện hạnh. Dù không muốn đau khổ, họ dâng hiến mọi cố gắng cho mười ác hạnh khiến đem lại đau khổ. Điều họ ước muốn và những nỗ lực đạt được nó của họ lại hoàn toàn trái ngược nhau, và họ luôn luôn đau khổ. Trong tất cả những chúng sanh đó, không ai không từng là cha mẹ của chúng ta trong một khoảng thời gian nào đó từ vô thuỷ. Giờ đây chúng ta đã được một vị Thầy tâm linh đích thực nhận làm đệ tử, giờ đây chúng ta đã nhận lãnh Giáo Pháp chân chính và có thể phân biệt được điều gì có lợi và cái gì có hại, chúng ta phải quan tâm chăm sóc tràn đầy tình thương tất cả người bà mẹ già bị trói buộc bởi chính sự vô minh của họ, và nên chấm dứt việc thấy có bất kỳ khác biệt nào giữa họ và chúng ta. Kiên nhẫn trước sự vô ơn và định kiến của họ, chúng ta nên thiền định về sự không có bất kỳ khác biệt nào giữa thù và bạn.

Luôn luôn giữ điều này trong tâm, hãy thiền quán về nó nhiều lần. Bất cứ những gì tốt hay ích lợi mà bạn muốn cho chính mình, thì người khác cũng y như vậy. Do đó, giống như bạn siêng năng làm việc để đem lại hạnh phúc và sự tiện nghi cho bạn, hãy cũng luôn luôn cần mẫn làm việc vì hạnh phúc và sự tiện nghi cho người khác. Cũng như bạn cố gắng tránh cả những đau khổ nhỏ nhất cho chính mình, cũng hãy nỗ lực để ngăn ngừa cho người khác khỏi phải đau khổ dù là tổn hại nhỏ bé nhất. Giống như bạn cảm thấy hài lòng về hạnh phúc và sự thịnh vượng của riêng bạn, bạn hãy hoan hỷ từ tận đáy lòng khi người khác cũng được hạnh phúc và thịnh vượng như vậy. Tóm lại, khi thấy không có khác biệt nào giữa bạn và tất cả những sinh loài trong tam giới, hãy lấy đó làm sứ mệnh duy nhất của bạn để tìm ra những phương cách giúp từng người trong họ được hạnh phúc, bây giờ và mãi mãi.

Khi được Trungpa Sinachen thỉnh cầu một giáo huấn đầy đủ tóm gọn trong một câu duy nhất, Ngài Padampa Sangye trả lời: “Bất cứ những gì ông muốn, tất cả người khác cũng muốn như thế; hãy hành động theo điều đó!”

Hãy hoàn toàn tiệt trừ tất cả những thái độ sai lầm đó được đặt nền tảng trên sự tham luyến và thù hận, chúng khiến bạn loại bỏ những người khác và chỉ quan tâm tới chính mình, và hãy nghĩ tưởng rằng bản thân bạn và những người khác thì hoàn toàn bình đẳng.

 

1.2 SỰ HOÁN ĐỔI MÌNH VÀ NGƯỜI KHÁC

 

Hãy quan sát một người đang thật sự đau khổ vì bệnh tật, đói, khát hoặc một số những phiền não khác. Hoặc, nếu việc đó không thể làm được thì hãy tưởng tượng một người như thế đang ở trước mặt bạn. Khi thở ra, hãy tưởng tượng rằng bạn đang cho người đó tất cả hạnh phúc của bạn và điều tốt đẹp nhất trong những gì bạn có, thân thể bạn, tài sản và suối nguồn công đức của bạn, như thể bạn đang cởi bỏ quần áo của mình và mặc vào người họ. Sau đó, khi hít vào hãy tưởng tượng rằng bạn đang nhận vào mình tất cả những đau khổ của người đó, và kết quả là người đó trở nên hạnh phúc và thoát khỏi mọi phiền não. Hãy bắt đầu sự thiền định này về việc ban tặng hạnh phúc và nhận lãnh đau khổ với một cá nhân, sau đó dần dần mở rộng nó để bao gồm tất cả các sinh loài.

Bất kỳ những điều gì không mong muốn hay đau khổ xảy đến với bạn, hãy phát khởi lòng trắc ẩn thành tâm, chan chứa đối với tất cả chúng sinh trong tam giới của luân hồi mà giờ đây đang chịu đựng đau khổ như thế giống như nỗi khổ của bạn. Hãy phát khởi ước nguyện mạnh mẽ rằng tất cả những đau khổ của họ có thể chín mùi trong bạn thay vì trong họ, và họ có thể hoàn toàn thoát khỏi đau khổ và được hạnh phúc. Bất cứ khi nào bạn hạnh phúc hay cảm thấy tốt đẹp, hãy phát khởi sự mong ước rằng hạnh phúc của bạn có thể trải rộng ra và đem lại hạnh phúc cho tất cả chúng sinh.

Sự thực hành Bồ Đề Tâm này về sự hoán đổi mình và người khác là thiền định cốt lõi tối thượng và không bao giờ vơi cạn cho tất cả những ai khởi hành trên con đường của giáo lý Đại Thừa.  Nếu bạn thật sự kinh nghiệm sự hoán đổi này dù chỉ một lần, nó sẽ tịnh hoá những hành vi tiêu cực và che chướng trong nhiều kiếp và tạo nên một sự tích tập công đức và trí tuệ vô biên. Nó sẽ cứu bạn thoát khỏi những cõi thấp và thoát khỏi bất kỳ sự tái sanh nào có thể dẫn bạn tới những cõi đó.

Trong một đời trước, Đức Phật bị sinh vào một địa ngục, ở đó những cư dân bị buộc phải kéo những toa xe. Ngài phải kéo một toa xe cùng một người khác tên là Kamarupa, nhưng cả hai người quá yếu nên không làm cho xe di chuyển được, lính canh hối thúc và đánh họ bằng những vũ khí nóng-đỏ, khiến họ đau đớn vô tả.

Vị Phật tương lai nghĩ: “Ngay cả hai chúng ta cùng nhau kéo cũng không thể làm cho toa xe di chuyển, mà mỗi người lại chịu đau khổ như nhau. Tôi sẽ kéo và chịu đau khổ một mình để Kamarupa có thể được nhẹ bớt.”

Ngài nói với lính canh: “Hãy đặt dây cương của anh lên vai tôi, mình tôi kéo được rồi.”

Nhưng những lính canh nổi giận: “Ai có thể làm được bất kỳ điều gì để tránh cho người khác khỏi phai kinh qua những hậu quả của những hành vi của chính họ?” họ nói, và đánh tới tấp lên đầu Ngài bằng dùi cui.

Tuy nhiên, nhờ thiện niệm này, Đức Phật lập tức thoát khỏi cuộc sống địa ngục và được tái sinh vào một cõi trời. Người ta nói đây là cách thức mà Ngài bắt đầu lần đầu tiên để làm lợi lạc cho người khác.

Một câu chuyện khác kể về làm thế nào mà Đức Phật, trong một tái sanh ở đời trước là “Con Gái” của thuyền trưởng Vallabha, có lần được giải thoát khỏi những cõi thấp ngay khi Ngài thực sự kinh nghiệm sự hoán chuyển này của Ngài với những người khác. Có lần, một gia chủ tên là Vallabha, tất cả những con trai của ông đều chết cả. Do đó, khi sinh đứa con trai khác, ông quyết định đặt tên cho nó là Con Gái với hy vọng điều này sẽ làm cho nó được sống sót. Sau đó, Vallabha vượt biển để tìm châu báu, nhưng thuyền chìm và ông ta bỏ mạng.

Khi người con trai trưởng thành, anh ta hỏi mẹ rằng trước đây cha mình thuộc giai cấp nào. Sợ rằng nếu nói ra sự thật thì đứa con cũng có thể lại đi biển, nên người mẹ bảo với con rằng cha anh thuộc giai cấp thương nhân buôn gạo. Vì thế Con Gái trở thành một người buôn bán gạo và chăm sóc mẹ với bốn đồng xu của một karsa kiếm được trong ngày. Nhưng một người buôn gạo khác nói với anh rằng anh không thuộc giai cấp của họ, vì thế anh làm nghề buôn bán như họ là không đúng. Anh bị bắt buộc phải ngưng công việc.

Anh trở về với mẹ và hỏi bà lần nữa. Lần này mẹ anh nói rằng cha anh là một người bán hương liệu. Anh bắt đầu bán hương liệu, và chăm sóc mẹ với tám karsa kiếm được mỗi ngày.

Nhưng Con Gái bị ngừng công việc một lần nữa, và lần này mẹ anh nói rằng cha anh đã buôn bán quần áo. Anh bắt đầu làm người buôn quần áo, và chẳng mấy chốc đã có thể đưa cho mẹ mười sáu karsa mỗi ngày. Nhưng một lần nữa anh bị buộc bỏ việc vì những người buôn quần áo khác.

Khi biết được cha thuộc giai cấp buôn châu báu, anh bắt đầu buôn ngọc và đem về cho mẹ ba mươi hai karsa mỗi ngày. Sau đó, những người buôn ngọc khác nói với anh là anh thuộc giai cấp những người đi tìm ngọc từ những chuyến đi biển và đây mới là công việc mà anh được sinh ra để làm.

Khi về nhà ngày hôm đó, anh nói với mẹ: “Con thuộc về giai cấp những người đi tìm châu báu. Vì thế con quyết định vượt đại dương để tiếp tục công việc buôn bán của riêng con!”

“Đúng là con thuộc giai cấp những người đi tìm châu báu,” bà mẹ nói, “nhưng cha con và tất cả tổ tiên của con đều chết trên biển trong khi đi tìm ngọc. Nếu con đi con cũng sẽ chết. Thôi con đừng đi! Hãy ở lại nhà và buôn bán tại đây.”

Nhưng Con Gái không thể vâng lời mẹ. Anh chuẩn bị mọi thứ cần thiết cho chuyến đi. Khi bắt đầu lên đường, mẹ anh không thể để cho anh đi, bà nắm lấy viền áo anh và khóc. Anh ta nổi giận.

Anh la lên: “Nước mắt của mẹ sẽ đem lại vận rủi cho con trong chuyến vượt đại dương!” anh đá vào đầu mẹ rồi bỏ đi.

Trong cuộc hành trình dài, tàu của anh ta bị đắm và hầu như toàn bộ thuỷ thủ bị chết đuối, nhưng Con Gái nhanh tay nắm được một miếng ván và bị đánh dạt vào bờ trên một hòn đảo. Anh đi tới một thành phố tên là Hoan Hỉ. Trong một ngôi nhà đẹp làm bằng kim loại và ngọc quý, bốn vị thiên nữ xinh đẹp xếp những tấm nệm lụa cho anh ngồi và dâng cho anh ba loại thực phẩm trắng và ba thực phẩm ngọt.

Khi anh chuẩn bị về, họ cảnh báo, “Đừng đi về hướng Nam. Đại bất hạnh sẽ xảy ra cho anh nếu anh cứ đi!” Nhưng Con Gái không nghe và lên đường.

Anh đến một thành phố gọi là Hân Hoan, thậm chí còn đẹp hơn thành phố trước. Ở đây tám phụ nữ xinh đẹp phục vụ anh. Như lần trước, họ báo cho anh biết rằng đại họa đang đe doạ anh nếu anh đi về hướng Nam nhưng anh không chú ý và lên đường lần nữa.

Ở một thành phố được gọi là Sự Nhiễm Độc thì hoàn hảo hơn những nơi khác, anh được mười sáu thiên nữ cực kỳ xinh đẹp chào đón, họ phục dịch anh và cũng như những lần trước, họ cảnh báo anh, nhưng một lần nữa lời cảnh báo ấy chẳng có hiệu quả gì.

Anh tiếp tục cuộc du hành và chợt nhìn thấy một pháp đài trắng mà chóp đỉnh của nó vươn tới trời cao. Nó được gọi là Lâu Đài của Guru Brahma (Đạo Sư Phạm Thiên), và ở đó ba mươi hai thiên nữ xinh đẹp mê hồn mời anh vào. Họ sửa soạn cho anh một giường có nệm bằng lụa, phục vụ ba món thực phẩm trắng và ba món thực phẩm ngọt và van nài anh ở lại. Nhưng anh vẫn muốn đi.

Khi anh bắt đầu lên đường, họ nói: “Cho dù Ngài đi đâu, hãy tránh hướng Nam! Tai họa sẽ giáng xuống Ngài.” Nhưng anh cảm thấy một sự thôi thúc phải đi về phương Nam, và anh đi về hướng đó.

Chẳng bao lâu một toà thành bằng sắt hiện ra trước mặt anh, những tháp của nó cao vút lên tận bầu trời. Tại cổng, anh thấy một người da đen với đôi mắt đỏ ngầu đáng sợ, tay cầm thanh sắt dài. Con Gái hỏi ông ta trong lâu đài có gì, nhưng người đàn ông chỉ im lặng. Khi đến gần hơn, anh thấy nhiều người đàn ông giống người đầu tiên. Một cảm giác khủng khiếp lan khắp thân thể làm tóc anh dựng lên.

Anh tự bảo: “Nguy hiểm! Đây hẳn là sự nguy hiểm mà họ đã báo cho ta.”

Anh đi vào trong. Ở đó anh thấy một người mà óc bị nghiền thành bột bởi một bánh xe thép đang quay trên đầu anh ta.

“Anh làm điều gì mà phải chịu trừng phạt như vậy?” Con Gái hỏi.

“Tôi đã đá vào đầu mẹ tôi, và đây là hậu quả hoàn toàn chín mùi. Nhưng còn bạn? Tại sao không hưởng hạnh phúc mà người ta dâng tặng anh ở Lâu Đài Guru Brahma? Tại sao lại đến đây để tìm kiếm đau khổ?”

“Tôi tin rằng mình bị đẩy đến đây cũng là do nghiệp của tôi,” Con Gái nghĩ.

Vào lúc đó, từ trên bầu trời có một giọng nói lớn: “Hãy để những người đang bị trói được tự do, và những kẻ tự do bị trói lại!”

Bánh xe thép bất ngờ quay trên đầu Con Gái. Giống như người kia óc anh ta bị vỡ nát thành bột nhão và anh chịu đựng nỗi đau đớn và khốn khổ không tả xiết. Sự đau khổ này đánh thức trong lòng anh một cảm thức bi mẫn mãnh liệt đối với tất cả những người đang ở trong tình trạng như anh.

Anh nghĩ: “Trong các cõi luân hồi có những chúng sanh khác đang chịu đau khổ như tôi do bởi đá vào đầu mẹ của họ. Cầu mong nỗi khổ của họ chín mùi trong tôi và cầu mong chỉ một mình tôi chịu đựng nỗi khổ đó thay cho tất cả họ. Cầu mong sẽ không còn ai phải trải qua nỗi đau khổ như thế nào trong bất kỳ lần nào trong chuỗi tái sanh liên tục của họ.”

Đột nhiên, bánh xe bay lên không trung, nỗi thống khổ của anh chấm dứt và anh bay lên tới độ cao của bảy cây dừa trong một trạng thái đại lạc.

Sự thực hành Bồ Đề Tâm về việc hoán đổi mình với người khác là phương pháp tối cao và hết sức cần thiết để đạt được giác ngộ.  Thật vậy, các Đạo sư Kadampa trong quá khứ thường lấy nó làm thực hành chính yếu. Có lần Geshe Chekawa, bậc thông suốt nhiều giáo lý của cả hai Truyền Thống Tân và Cựu và là bậc đã nhập tâm nhiều bản văn luận lý, tới thăm Geshe Chakshingwa. Ở trên gối của vị này ông nhìn thấy một bản văn nhỏ, và khi mở nó ra ông tình cờ đọc được câu này:

 

Hãy hiến tặng sự lợi lạc và vinh quang cho người khác.

Hãy nhận lãnh sự thua thiệt và thất bại cho chính mình.

 

“Thật là một giáo lý tuyệt vời!” Chekawa nghĩ, và hỏi Chaksingwa giáo lý này tên gì.

“Đó là Tám Câu Kệ của Langri Thangpa,” Chaksingwa nói.

“Ai nói ra những giáo huấn này?”

“Chính Ngài Langri Thangpa.”

Chekawa quyết định thọ lãnh những giáo lý này. Trước hết, ông tới Lhasa và dùng vài ngày để đi nhiễu quanh những thánh địa. Một buổi chiều, một người cùi ở Langthang nói với ông rằng Langri Thangpa đã viên tịch. Chekawa hỏi ai là người thừa kế dòng truyền thừa và được cho biết là hai người có khả năng kế vị, đó là Sangshungpa và Dodepa, nhưng họ có thể không đồng ý về chuyện này. Tuy nhiên họ không cãi cọ vì tranh dành nhau.

Shangshungpa nói với Dodepa: “Ông là người lớn tuổi hơn, ông nên kế vị. Tôi sẽ phụng sự ông như thể ông chính là Ngài Langri Thangpa!”

Nhưng Dodepa trả lời: “Ông uyên bác hơn. Ông nên làm người kế vị!”

Mặc dù cả hai nhìn nhau bằng tri giác thanh tịnh, Chekawa giải thích việc họ không tán thành việc kế thừa là một sự thiếu sót và cho rằng cả hai đều không phải là người trì giữ giáo lý của Ngài Langri Thangpa. Ông cố gắng tìm cho ra người trì giữ xuất sắc nhất, và mọi người nói với ông rằng người đó là Sharawa.

Sharawa đang ban một giáo lý gồm nhiều quyển sách cho hàng ngàn người trong Tăng đoàn. Chekawa lắng nghe Ngài trong vài ngày, nhưng không nghe Ngài nói một lời nào về giáo lý mà ông đang tìm kiếm.

“Dường như vị này cũng không có giáo lý đó,” ông nghĩ, “nhưng ta sẽ hỏi Ngài. Nếu Ngài có giáo lý này, ta sẽ ở lại. Còn không, tốt hơn ta nên đi.”

Vì thế Chekawa tới gặp Sharawa, Ngài đang nhiễu quanh một bảo tháp. Ông trải một tấm vải lên mặt đất và mời Sharawa ngồi một lát và nói: “Con có một số việc hỏi Ngài.”

“Đại Đức,” Sharawa nói, “ông cần hỏi vấn đề gì? Về phần ta, ta luôn tìm mọi câu trả lời trên nệm thiền định của mình.”

“Con đọc được những lời này trong một bản văn: “Hãy hiến tặng sự lợi lạc và vinh quanh cho người khác. Hãy nhận lãnh sự thua thiệt và thất bại cho chính mình.” Con rất thích chúng. Đây có phải là một giáo lý sâu xa hay không?”

“Đại Đức,” Ngài Sharawa trả lời, “cho dù thích hay không thích giáo lý này, nhưng nếu ông muốn đạt được Phật Quả thì ông không thể bỏ qua nó.”

“Có phải Ngài đang trì giữ giáo lý này?”

“Đúng, nó là thực hành của chính ta,” Ngài Sharawa trả lời.

“Vậy, thì con khẩn cầu Ngài dạy nó cho con,” Chekawa nói.

“Ông có thể ở lại đây với ta trong một thời gian dài hay không?” Ngài Sharawa hỏi, “Nếu ông có thể thì ta sẽ dạy nó cho ông.”

Từ Ngài, Chekawa nhận được hướng dẫn theo kinh nghiệm của Ngài[144] trong một tiến trình liên tục tu tập tâm thức kéo dài sáu năm. Qua việc thực hành nó ông đã có thể giải thoát hoàn toàn khỏi mọi dấu vết của sự vị kỷ.

Để xua tan bệnh tật và những đau khổ trong đời này và để chế ngự những tinh linh, những thế lực xấu ác khác và những kẻ gây nên chướng ngại, thì không có giáo huấn nào tốt hơn sự thiền định Bồ Đề Tâm về sự hoán đổi mình và người khác. Hãy thiền định về nó với sự kiên trì, luôn luôn từ bỏ những thuốc độc tâm thức tiêu cực đem lại cho bạn quá nhiều tánh tự cho mình là quan trọng.

 

1.4    COI NGƯỜI KHÁC QUAN TRỌNG HƠN CHÍNH MÌNH

 

“Tôi có thể ở trong vòng luân hồi, tôi có thể bị tái sanh trong địa ngục, tôi có thể

bệnh tật, bồn chồn xúc động, hay đau khổ vì bất kỳ sự bất hạnh nào khác, nhưng tôi sẽ chịu đựng tất cả những điều đó. Cầu mong nhưng đau khổ của người khác chín mùi trong tôi! Cầu mong những chúng sanh khác có được mọi hạnh phúc và mọi kết quả của những thiện hạnh của tôi!”

Hãy khơi dậy tư tưởng này từ tận sâu thẳm trong tâm bạn và hãy thực sự đưa chúng vào thực hành, noi theo gương mẫu của những vị Thầy của Ngài Atisa, là các Ngài Maitriyogi và Dharmaraksita, và của Đạo Sư Thích Ca Mâu Ni của chúng ta trong những lần tái sanh làm Vua Padma, làm một con rùa và làm Vua Manicuda.

Có lần, Ngài Maitriyogi, Thầy của Atisa, đang thuyết giảng Giáo Pháp thì một người đàn ông ở gần đó ném đá vào một con chó. Vị Đạo sư đang ngồi trên ngai la lên đau đớn và ngã xuống đất. Những người hiện diện không thấy việc xảy ra cho con chó nên nghĩ rằng Ngài giả vờ. Nhưng Ngài Maitriyogi biết được điều họ đang nghĩ, Ngài cho họ thấy trên lưng Ngài có vết sưng do hòn đá ném vào con chó được nhìn thấy rất rõ. Mọi người có mặt ở đó bị thuyết phục bởi chứng cớ này: Ngài đã nhận vào thân mình nỗi đau đớn của con chó khi bị ném đá.

Khởi đầu Đạo sự Dharmaraksita là một học giả Thanh Văn của phái Vaibhasika. Mặc dù vào lúc đầu đời Ngài chưa bao giờ được nghe giáo lý Đại Thừa, nhưng Ngài có một sự mến mộ tự nhiên đối với truyền thống Đại Thừa, và Ngài tràn đầy lòng bi mẫn mà không cần bất kỳ nỗ lực chủ tâm nào.

`           Một lần kia, một người trong vùng Ngài đang sống lâm trọng bệnh mà thầy thuốc bảo rằng chỉ có thể được chữa bằng một loại thuốc – đó là thịt sống. Nếu không tìm được nó thì không hy vọng gì.

“Nếu thế thì tôi sẽ cho thịt của tôi,” Dharmaraksita nói, và cắt một ít thịt ở đùi, Ngài đưa cho người bệnh, họ ăn và khỏi bệnh.

Kết quả là bởi chưa chứng ngộ tánh Không nên Dharmaraksita đau đớn dữ dội, nhưng tâm đại bi của Ngài đã chặn đứng bất kỳ cảm giác hối tiếc nào của Ngài.

“Bạn có cảm thấy khỏe hơn không?” Ngài hỏi người bệnh.

“Vâng, tôi khỏe rồi, nhưng hãy nhìn những khổ sợ tôi đem lại cho Ngài!”

“Thậm chí tôi sẵn sàng chịu chết nếu điều đó có thể đem lại hạnh phúc cho bạn,” Ngài Dharmarksita nói.

Tuy nhiên Ngài đau đớn tới nỗi không ngủ được. Cuối cùng, Ngài lơ mơ ngủ được một lát và có một giấc mơ.

Một người đàn ông màu trắng toát hiện ra và nói với Ngài: “Bất kỳ ai muốn đạt được giác ngộ đều phải trải qua những thử thách như ngươi. Hoàn hảo! Hoàn hảo!” người đàn ông nhổ vào vết thương và lấy tay chà xát. Vết thương biến mất, hoàn toàn không để lại dấu vết.

Khi Dharmarksita thức dậy, Ngày thấy vết thương đã hoàn toàn lành lặn. Người đàn ông màu trắng chính là Đức Đại Bi.[145] Sau đó, sự chứng ngộ đích thực về trạng thái bản nhiên đã ló dạng trong tâm Dharmarksita và những lời vàng của Năm Luận thuyết về Trung Đạo của Đức Nagarjuna (Long Thọ) luôn ở trên môi Ngài.

Thời xa xưa, khi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni trong một đời trước là một vị Vua tên là Padma, một trận dịch trầm trọng bộc phát trong thần dân của Ngài và nhiều người đã chết. Nhà vua mời những thầy thuốc tới và hỏi cách chữa trị ra sao.

“Bệnh này chỉ có thể chữa khỏi bằng thịc cá rohita,” họ nói. “Nhưng cơn bệnh đã che mờ tâm trí chúng tôi tới nỗi chúng tôi không thể nghĩ ra cách chữa trị nào khác”

Vào buổi sáng của một ngày tốt lành, nhà vua tắm rửa, mặc quần áo mới và cử hành một nghi lễ sám hối và tịnh hoá. Ngài thức hiện cuộc cúng dường thịnh soạn cho Tam Bảo và cầu nguyện nhiệt thành, Ngài nói: “Ngay khi con chết, cầu mong con được lập tức tái sinh thành một con cá rohita sống trong sông Nivritta!”

Sau đó, Ngài lao mình xuống từ cung điện cao một ngàn cubit (khoảng 450m) – và ngay lập tức được tái sanh thành một con cá, thét lên bằng giọng người: “Ta là một con cá rohita, hãy lấy thịt ta và ăn đi!”

Mọi người đến để ăn. Ngay khi một bên thân được ăn, con cá liền lật sang và mời họ ăn tiếp thân bên kia. Khi họ đang cắt thịt, phần thân đầu tiên trở lại đầy như cũ. Bằng cách này, khi tuần tự ăn từng bên thân cá, những ai bị bệnh đều có thể được chữa khỏi. Sau đó, con cá nói với tất cả mọi người rằng:

“Ta là Padma, vua của các ngươi. Ta đã từ bỏ thân mạng để tái sinh thành một con cá rohita cứu các ngươi khỏi bệnh dịch. Để biểu lộ lòng biết ơn của các người đối với ta, hãy từ bỏ những hành động xấu ác và làm mọi điều thiện mà các ngươi có thể.”

Tất cả họ đều vâng lời Ngài và từ đó không bao giờ còn rơi vào tái sinh xấu nữa.

Một lần khác, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni tái sinh làm một con rùa khổng lồ, lúc đó một chiếc thuyền chở năm trăm nhà buôn bị đắm giữa biển.

Tất cả họ sắp chết đuối thì con rùa gọi họ bằng giọng người: “Hãy trèo lên lưng ta! Ta sẽ đưa tất cả các ngươi tới nơi an toàn!”

Con rùa đem những nhà buôn này đến vùng đất khô ráo, sau đó kiệt sức quỵ ngã bên mép nước, và ngủ thiếp đi. Nhưng khi nó ngủ, một đám mây gồm tám mươi ngàn con ruồi ketaka bay đến và bắt đầu hút máu con rùa. Khi tỉnh dậy, nó nhìn thấy ruồi đông vô kể và nhận ra rằng nếu nó lặn xuống nước trở lại hay bò lên mặt đất thì những con ruồi sẽ chết. Vì thế nó cứ nằm yên đó, hiến tặng thân mạng nó cho những con ruồi.

Sau này khi con rùa đã thành Phật tái sanh ở xứ Saketa thành con trai của vị Vua Chỏm Vàng cùng hoàng hậu Sắc Đẹp Làm Hoan Hỷ. Nơi đỉnh đầu của cậu bé là một nhục kế[146] chứa một viên ngọc báu, từ đó chảy ra một chất cam lồ có năng lực biến sắt thành vàng. Vì lý do này cậu được gọi là Manicuda, “Chỏm Ngọc.” Khi cậu bé sinh ra, một trận mưa gồm đủ loại châu báu đổ xuống. Trong của cải của cậu có một con voi lộng lẫy tên là Núi Tuyệt Hảo. Là vua, Ngài chỉ đạo những công việc thế gian phù hợp với Giáo Pháp, luôn phân phát của bố thí cho người nghèo, nhờ đó chấm dứt được sự nghèo khổ và cảnh ăn xin.

Một risi tên là Brighu gả con gái con Ngài. Cô sinh ra từ hoa sen và có mọi điềm lành. Từ sự kết hợp này, một đứa con trai giống như cha ra đời, và người ta gọi cậu là Chỏm Hoa Sen.

Một ngày nọ, nhà vua quyết định tổ chức một cúng dường lớn và mời nhiều vị khách, trong số họ có risi Brighu và một vị vua tên Dusyanta, Khó-Kham Nhẫn. Khi ấy Trời Indra (Đế Thích) muốn thử ý định của Vua Chỏm Ngọc nên mang thân tướng của một rakasasa (Dạ Xoa). Ông nhảy ra khỏi đồ cúng lửa và đi tới nhà vua, yêu cầu thực phẩm và nước uống. Nhà vua tặng Ông đủ loại món ăn và thức uống, nhưng Ông từ chối tất cả.

“Tất cả những cái tôi cần,” Ông nói với nụ cười mỉm, “là thịt và máu còn ấm của một người mới bị giết!”

Nhà vua hơi giật mình. “Ta không thể làm được việc này mà không làm tổn hại người khác,” Ngài nghĩ. “Cho dù ông ta giết ta, ta sẽ không bao giờ làm hại người khác. Tuy nhiên, trừ khi ta cho ông ta những gì ông ta cần, còn không thì mọi hy vọng của ông ta sẽ bị đổ vỡ. Ta sẽ làm gì?”

Lúc đó, Nhà vua quyết định đã tới lúc cúng dường chính máu và thịt của mình và nói: “Tôi sẽ cho ông máu và thịt của chính tôi.”

Sự hoảng loạn lan khắp tập hội và họ cố gắng thuyết phục Vua, nhưng không có hiệu quả. Nhà vua cắt tĩnh mạch cổ để cho máu. Dạ Xoa uống máu no nê rồi cắt những miếng thịt của Vua và quỷ ma ăn thịt cho đến tận xương. Quyến thuộc của nhà vua buồn bã. Hoàng hậu ngã bất tỉnh trên mặt đất. Nhưng nhà vua vẫn làm chủ được năng lực của mình và Trời Indra trở nên cực kỳ hoan hỷ.

“Ta là Indra,” Ông ta nói. “Ta không cần thịt và máu vì thế Ngài có thể ngưng hành vi nhân đức của Ngài lại.” Ông bôi chất cam lồ linh thánh lên những vết thương trên thân nhà vua khiến vua hồi phục như trước.

Về sau, Vua Chỏm Ngọc ban con voi Núi Tuyệt Hảo cho quan thượng thư của Ngài tên là Cỗ xe của Brahma. Vào lúc đó một trong những đệ tử của risi Marici tới, risi Marici là người đã thành tựu trong thiền định. Nhà vua đón tiếp ông ta với lòng tôn kính sâu xa và hỏi ông ta cần gì.

“Để tỏ lòng biết ơn vị thầy đã dạy tôi kinh Veda, tôi muốn dâng cho thầy tôi một người hầu, vì hiện tại thầy tôi đã già và không còn ai. Tôi tới xin vợ và con Ngài.”

Vì thế nhà vua để cho vợ con của mình đi. Người đệ tử cùng đi với họ và dâng họ cho vị thầy mình.

Trong lúc đó, Vua Khó-Kham Nhẫn thèm muốn con voi. Khi về tới vương quốc của mình, Vua gởi một thông điệp yêu cầu rằng con voi phải được đem trình diện vua. Vua được trình báo kịp thời là con voi đã được đem cho một người bà la môn. Nhưng nhà vua không nghe và đe doạ sẽ có chiến tranh nếu không giao voi. Khi địch quân tiến đến, Vua Chỏm Ngọc cảm thấy một nỗi buồn sâu xa trong lòng.

“Đáng buồn biết bao tính tham lam có thể biến người bạn thân nhất thành kẻ thù dữ dội nhất chỉ trong chốc lát!” Ngài nghĩ. “Nếu ta chuẩn bị chiến đấu, ta có thể dễ dàng đánh bại ông ta. Nhưng nhiều người sẽ đau khổ, vì thế ta phải trốn đi!”

Bốn vị Phật Độc Giác xuất hiện và nói: “Đại Vương, đã đến lúc Ngài vào rừng.”

Vì thế Ngài đi tới Rừng Niềm Say Mê của Người Khác, trong khi những thượng thư của Ngài tới gặp Marici và hỏi xin vị hoàng tử trẻ là người đã được tặng cho ông ta. Marici trả lại hoàng tử và hoàng tử nắm quyền chỉ huy quân đội và lâm chiến. Vua Khó-Kham Nhẫn bị thua trận và bị buộc phải lui về, và những tư tưởng cùng những hành vi xấu ác đã mang lại bệnh tật và đói kém cho vương quốc của nhà vua.

Khi vua Khó-Kham Nhẫn hỏi về những người bà la môn của ông ta điều gì có thể làm cho những tai họa này chấm dứt, họ nói: “Phương thuốc đó là những viên ngọc của Vua Chỏm Ngọc. Ngài nên xin nhà vua viên ngọc đó.”

“Nhưng chắc chắn là ông ta sẽ từ chối,” Vua Khó-Kham Nhẫn nói.

Tuy nhiên, những người bà la môn cứ khăng khăng nói rằng Vua Chỏm Ngọc sẽ cho - bởi vua đã chẳng nổi danh là không bao giờ từ chối một lời thỉnh cầu nào đó sao? Một người bà la môn được phái đi để xin vua viên ngọc.

Vua Chỏm Ngọc đang đi dạo trong rừng, nhìn quanh quẩn, và tới gần ẩn thất của Marici. Cùng lúc đó, hoàng hậu - vợ Ngài – đang tìm rễ và lá trong rừng không xa nơi đó, bị một thợ săn tấn công.

“Vua Chỏm Ngọc cứu tôi!” bà la lên.

Tiếng kêu khóc từ xa của bà vang tới tai Vua Chỏm Ngọc, Ngài tự hỏi điều gì xảy ra và đi tới xem. Người thợ săn thấy Ngài đến gần, tưởng là vị risi. Sợ bị nguyền rủa, hắn bỏ chạy. Một người như Hoàng hậu trước đây từng thụ hưởng vô số tiện nghi của hoàng cung mà nay lâm vào cảnh khốn cùng đến nỗi Vua Chỏm Ngọc phải bàng hoàng khi Ngài thấy bà. “Buồn làm sao!” Ngài nghĩ. “Mọi sự duyên hợp chẳng có gì xác thực.”

Đúng lúc đó sứ giả bà la môn của Vua Khó-Kham Nhẫn đi tới. Ông ta thuật lại cho Ngài câu chuyện và hỏi xin nhục kế trên đầu Ngài.

“Hãy cắt nó và lấy đi,” nhà Vua nói.

Người bà la môn làm theo và ra đi. Mọi bệnh tật và đói kém đã chấm dứt trong vương quốc của Vua Kho-Kham Nhẫn.

Khi Vua Chỏm Ngọc chịu đựng nỗi đau đớn do vết thương của Ngài gây ra, nó khơi dậy trong Ngài lòng đại bi đối với tất cả chúng sanh trong các địa ngục nóng. Sau đó Ngài bất tỉnh.

Trong lúc đó, được thúc đẩy bởi những điềm lành xuất hiện, nhiền người trong triều đình cũng như các vị trời đi tới.

“Ôi, Đức Vua,” họ nói, “điều gì đã xảy ra?”

Nhà vua ngồi dậy và chùi những vết máu trên mặt Ngài.

“Vua Khó-Kham Nhẫn cho người tới xin ta nhục kế trên đầu vì thế ta đã tặng nó cho ông ta,” Ngài trả lời.

“Điều gì khiến Ngài làm như vậy?” họ hỏi.

“Ta không cố giữ bất kỳ điều gì cho mình. Mong ước duy nhất của ta là xứ sở của Vua Khó-Kham Nhẫn phải được cứu thoát khỏi bệnh tật và nạn đói kém. Nhưng ta còn muốn một điều nữa…”

“Đó là gì?” họ hỏi.

“Có khả năng che chở tất cả chúng sanh,” Ngài trả lời.

“Nhưng Ngài không cảm thấy hối tiếc chút nào chứ?” họ hỏi.

“Không, hoàn toàn không,” nhà vua nói.

“Nhìn vẻ đau đớn trên mặt Ngài thì thật khó có thể tin điều Ngài nói.”

“Tốt” nhà vua nói, “nếu ta thật sự không hối tiếc về việc tặng nhục kế cho vua Khó-Kham Nhẫn và quần thần của ngài, thì cầu mong thân ta trở lại y như trước!”

Và đó là điều đã xảy ra. Quần thần của Ngài van nài Ngài trở lại cung điện, nhưng Ngài từ chối. Vào lúc đó, bốn vị Phật Độc Giác lại xuất hiện.

“Bởi Ông đã giúp cho kẻ thù quá nhiều rồi, thì tại sao lại không giúp cho những bạn hữu?” các Ngài nói. “Bây giờ ông nên trở về cung điện của mình.”

Nhà Vua trở về cung điện, và đem lại lợi ích và hạnh phúc cho thần dân của Ngài.

 

 

2.Sự Tu Tập trong giới luật của Bồ Đề Tâm áp dụng: sáu toàn thiện siêu việt

 

Năm cái đầu tiên trong sáu toàn thiện siêu việt (sáu ba la mật) - sự bố thí, trì giới,

nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định – là tất cả những phương diện của sự thực hành những phương tiện thiện xảo. Cái thứ sáu, trí tuệ, thuộc về sự tích tập trí tuệ nguyên thuỷ.[147]

 

2.1  BỐ THÍ SIÊU VIỆT

Sự bố thí có thể sử dụng ba hình thức: bố thí vật chất (tài thí), bố thí Pháp (Pháp

thí), và bố thí sự che chở thoát khỏi sợ hãi (vô uý thí).

 

2.1.1 Bố thí vật chất (Tài thí)

 

Có ba loại bố thí vật chất: bố thí thông thường, đại bố thí và đại bố thí khác thường.

Bố thí thông thường. Điều này ám chỉ việc bố thí bất kỳ vật chất nào, cho dù nó không nhiều hơn một nhúm trà hay một chén bột lúa mạch. Nếu nó được bố thí với một ý định hoàn toàn thanh tịnh thì số lượng không quan trọng. Sự Sám hối những Sa sút nói về “kết quả tích cực trong tương lai của việc bố thí chỉ một muỗng thực phẩm cho một chúng sinh trong cõi súc sinh.” Ta được biết rằng Các Đấng Chiến Thắng với sự khéo léo lão luyện trong phương tiện và lòng đại bi, có thể cứu giúp ngạ quỷ nhiều như cát sông Hằng (Gange) chỉ với một giọt nước hay một hạt lúa mạch bằng cách sử dụng năng lực của các dharani,* các thần chú và những kỹ thuật khác.

Những cuộc cúng dường lửa đỏ và trắng đem lại lợi ích to lớn cho ngạ quỷ di chuyển khắp hư không. Mặt khác, nhưng tinh linh được nuôi dưỡng trên sự sống của chúng sinh khác có thể tạm thời thoả mãn bằng mùi vụ của vật cúng dường thực phẩm thiêu đốt (cúng dường lửa) và tâm họ được giải thoát nhờ tặng phẩm của Giáo Pháp.** Kết quả là họ không còn làm tổn hại người khác, và do đó nhiều chúng sanh được bảo vệ thoát khỏi sự nguy hiểm của cái chết. Điều này tạo thành sự bố thí sự che chở thoát khỏi sự sợ hãi (vô uý thí), vì thế thực hành cúng dường lửa bao gồm cả ba loại bố thí.

Vì cả hai việc cúng dường lửa và torma nước đều dễ thực hiện và rất hiệu quả nên hãy cố gắng thực hành chúng đều đặn và không gián đoạn. Sẽ rất tốt nếu mỗi năm chúng ta cúng dường một trăm ngàn torma nước.

Khi người ta  nhận được một ít thực phẩm hay một ít tiền, họ nắm chắc chúng bằng cái siết chặt của một người đang hấp hối, và chẳng thể dùng chúng cho đời này hay những đời sau. Cho dù họ có nhiều tới đâu chăng nữa thì họ vẫn nghĩ là họ không có gì, và rên rĩ như thể họ sắp chết đói. Cách cư xử như vậy có thể tức khắc tạo nên một kinh nghiệm giống như kinh nghiệm của cõi ngạ quỷ, qua kết quả tương đồng với nguyên nhân.#

Hãy tránh những thái độ như vậy và cố gắng rộng rãi, qua những hoạt động như cúng dường Tam Bảo và bố thí cho các hành khất. Như Ngài Jetsun Mila nói:

 

Hãy moi thực phẩm từ miệng bạn và cho đi như của bố thí

 

Mặt khác, nếu bạn để cho mình trở thành một kẻ nô lệ cho tánh tham lam ích kỷ, thì vấn đề có thể đi tới chỗ là cho dù bạn có tất cả của cải trong thế gian nhưng dường như nó vẫn không đủ cho một người; và, không dám buông bỏ những gì bạn có, bạn sẽ tự nhủ rằng bất kỳ những gì bạn sắp sử dụng để cúng dường hay bố thí cho người nghèo khó thì vẫn còn phải tìm kiếm về sau này hay từ một nơi nào khác.

Nói chung, Đức Phật dạy bố thí vật chất và những thực hành khác bao gồm những sở hữu vật chất chủ yếu cho các Bồ Tát cư sĩ. Nếu bạn là một vị tăng hay ni, điều quan trọng là đơn thuần giảm thiểu các ham muốn, học cách bằng lòng với những gì bạn có, và thực hành sự tu tập ba nhánh của con đường cao cấp hơn với sự quyết tâm trong các ẩn thất trên núi và những nơi cô tịch, vui vẻ chấp nhận mọi gian khổ.

Một số hành giả từ bỏ thực hành tâm linh của họ để lao vào việc buôn bán, nông nghiệp hay những phương tiện sinh nhai khác, và chất đống của cải qua thủ đoạn quỷ quyệt và gian xảo. Họ chống chế rằng họ đang thực hành Pháp qua việc cúng dường và làm từ thiện bằng của cải mà họ đã kiếm được. Nhưng người ta nói về những người ấy như sau:

 

Khi Pháp không được thực hành phù hợp với Pháp thì bản thân

Pháp có thể gân nên sự tái sanh xấu.

 

Cách tiếp cận của họ thì hoàn toàn vô giá trị. Vì thế, điều tối yếu là luôn hài lòng với những gì mình có.

 

Đại bố thí. Điều này có nghĩa cho người khác cái gì đó hiếm có hay rất quý báu đối với cá nhân bạn, chẳng hạn như ngựa hay voi, hay thậm chí con trai hay con gái của riêng bạn.

Đại bố thí khác thường. Điều này ám chỉ việc hiến tặng tứ chi, thân thể hay cuộc sống của chính bạn. Những gương mẫu là Hoàng Tử Đại Dũng Cảm hiến thân mạng cho một cọp cái đói khát. Tổ Nagarjuna (Long Thọ) cắt đầu cho con trai vua Surabhibhadra,* và Công Chúa Mandabhadri cũng hiến thân mạng cho một con cọp cái. Tuy nhiên, loại bố thí này chỉ được thực hành bởi một bậc đã đạt được một trong những địa của Bồ Tát. Những người bình thường không thể làm nổi những việc như thế. [148]  Tạm thời, hãy dâng hiến trong tâm thức thân thể, cuộc sống và tài sản của bạn cho sự lợi ích của những người khác mà không tham luyến, và cầu nguyện rằng một ngày nào đó bạn sẽ có đủ khả năng để thực sự bố thí chúng.

 

2.1.2 Bố thí Pháp (Pháp thí)

 

Điều này có nghĩa là dẫn dắt người khác tới sự thực hành tâm linh bằng cách ban những sự quán đảnh, giảng Pháp, trao truyền kinh văn và v.v..Tuy nhiên, làm điều tốt cho người khác trong khi sự tham dục ích kỷ của chính mình vẫn chưa biến mất thì sẽ chẳng là gì ngoài một cuộc trình diễn.

Các đệ tử của Ngài Atisa hỏi Ngài khi nào thì họ có thể giảng dạy cho người khác, làm việc vì lợi ích của người khác hay thực hiện sự chuyển di tâm thức cho người  vừa mới chết. Ngài trả lời như sau:

 

Ông có thể dẫn dắt người khác một khi ông đã chứng ngộ tánh

Không và phát triển khả năng thấu thị.

Ông có thể làm việc vì sự lợi ích của người khác một khi đối với lợi lạc của riêng ông[149] chẳng còn gì để làm.

Ông có thể thực hiện pháp chuyển di cho người chết một khi ông đã đi vào con đường của cái thấy (Kiến).

Thời buổi suy đồi này không phải là lúc để khoe khoang;

Đã tới lúc khơi dậy sự quyết định.

Không phải là lúc để nắm giữ những địa vị cao;

Đã tới lúc giữ một vị trí khiêm tốn.

Không phải là lúc để có những người hầu và đệ tử;

Đã tới lúc sống trong cô tịch.

Không phải là lúc để chăm sóc đệ tử;

Đã tới lúc tự chăm sóc chính mình.

Không phải là lúc để phân tích những ngôn từ;

Đã tới lúc để quán chiếu yếu nghĩa.

Không phải là lúc để đi rong;

Đã tới lúc ở yên một chỗ.

 

Ba anh em hỏi Geshe Tonpa rằng thực hành trong sự cô tịch hoặc giúp đỡ người

khác bằng Giáo Pháp, cái nào quan trọng hơn. Geshe Tonpa trả lời:

 

Đối với một người sơ cơ không có kinh nghiệm lẫn sự chứng ngộ thì thật vô ích khi cố gắng giúp đỡ người khác bằng Giáo Pháp. Không sự ban phước nào có thể nhận được từ họ, giống như không có gì để rót ra từ một bình trống.  Những giáo huấn của họ vô vị và không có thực chất, giống như ủ bia mà không nén hạt.

 

Một số người ở giai đoạn ước nguyện, là những người đã có hơi ấm[150] của sự thực hành, nhưng chưa thiết lập một sự kiên cố vững chắc trên đó, thì không thể làm việc cho lợi ích của chúng sanh. Những sự ban phước của họ giống như thứ gì đó được rót từ bình này sang bình khác; họ chỉ có thể đổ đầy cho người khác bằng cách làm cạn kiệt chính mình. Những giáo huấn của họ cho người khác ánh sáng thì họ sẽ ở trong bóng tối.

Nhưng người đã đạt được một trong những quả vị của Bồ Tát thì sẵn sàng làm việc cho lợi ích chúng sanh. Những sự ban phước của họ giống như năng lực của một bình như ý: họ có thể đem tất cả chúng sinh tới sự trưởng thành mà không bao giờ trở nên khô cạn. Những giáo huấn của họ thì giống như một ngọn đèn ở trung tâm mà từ nó mọi người có thể lấy ánh sáng mà ngọn đèn không bao giờ mờ tối.

Do đó, thời đại suy đồi này không phải là lúc để những người bình thường giúp đỡ người khác một cách hời hợt bề ngoài, mà đúng hơn là lúc để họ sống trong những nơi cô tịch và tu tập tâm thức trong lòng từ và bi của Bồ Đề Tâm. Đây là lúc tránh xa những cảm xúc tiêu cực. Khi một cây thuốc quý[151] vẫn còn là một cây non chưa tới lúc thu hoạch, thì đó là lúc phải bảo vệ nó.

Vì những lý do này, sẽ thật khó khăn để thực sự bố thí Pháp cho người khác. Thuyết giảng một giáo lý cho người khác mà bản thân chưa từng có kinh nghiệm về nó sẽ chẳng giúp được gì cho họ. Đối với việc tích cóp các vật cúng dường và tài sản bằng việc giảng Pháp, Ngài Padampa Sangye gọi nó là “sử dụng Pháp như món hàng để làm giàu.”

Trừ phi bạn đã vượt qua việc ước muốn bất kỳ điều gì cho chính mình, còn thì sẽ chẳng tốt lành gì hơn khi vội vã lao vào những hoạt động vị tha. Thay vào đó, hãy cầu nguyện rằng tâm thức của những tinh linh có thiện căn có thể được giải thoát khi nghe bạn cầu nguyện, trì tụng các thần chú hay tụng đọc kinh điển. Hãy suy xét kỹ lưỡng điều đó để có thể tụng những bài nguyện bố thí Pháp được tìm thấy ở phần cuối của các bản văn nghi thức torma nước hay cúng dường thân,[152] chẳng hạn như:

 

Hãy từ bỏ điều xấu

Năng làm các hạnh lành.

Thường làm chủ bổn tâm.

Đây là lời Phật dạy.

Khi những tham dục ích kỷ của bản thân bạn đã bị cạn kiệt, thì sẽ tới lúc để bạn hoàn toàn dâng hiến bản thân cho người khác, không chút bận tâm về sự an toàn và hạnh phúc của riêng mình và không lơi lỏng nỗ lực của bạn dù chỉ trong giây lát.

 

2.1.3 Bố thí sự che chở khỏi sợ hãi (Vô Uý thí)

 

Điều này có nghĩa là thực sự làm bất kỳ điều gì bạn có thể để giúp đỡ người khác trong lúc khó khăn. Chẳng hạn, nó bao gồm sự cung cấp nơi trú ẩn cho những người không có bất kỳ nơi nào an toàn, ban tặng sự che chở cho những người không có bất kỳ sự bảo hộ nào, và đến với những người không có ai làm bạn đồng hành. Nó đặc biệt đề cập tới những hành động như cấm săn bắn và đánh bắt cá bất kỳ nơi nào bạn có khả năng làm việc đó, mua lại những con cừu đang bị mang đi làm thịt, và cứu mạng của những con cá, những con sâu, ruồi muỗi và những sinh vật sắp chết khác. Bởi Đức Phật đã dạy rằng trong tất cả những hành vi tương đối tốt, cứu mạng sống của chúng sinh là điều tốt đẹp nhất.

Việc cùng thực hiện những loại bố thí khác nhau như tạo thành một điểm quan trọng nhất của các giới nguyện Mật thừa. Trong Những Giới nguyện của Năm Bộ có nói:

 

Như samaya của Bảo Sanh Bộ,

Hãy luôn thực hành bốn loại bố thí.

 

2.2 TRÌ GIỚI SIÊU VIỆT

 

Sự Trì Giới siêu việt bao gồm việc tránh làm những hành vi tiêu cực, quyết làm điều thiện, và đem lại lợi ích cho người khác.

 

2.2.1 Tránh những hành động tiêu cực

 

Điều này có nghĩa là loại bỏ như thuốc độc tất cả mười hành vi tiêu cực của thân, khẩu và ý là những gì không nhắm tới những lợi ích của người khác.[153]

 

2.2.2 Quyết làm việc thiện

Điều này có nghĩa luôn tạo ra càng nhiều càng tốt những nguồn mạch tốt lành cho tương lại bằng cách luôn làm bất kỳ thiện hạnh nào khi bạn có thể, bất luận chúng có vẻ tầm thường vô nghĩa tới đâu chăng nữa.

Như tục ngữ bình dân nói: “Những thiện hạnh chỉ xảy ra khi miệng và tay ta tự do, những ác hạnh xảy ra khi ta ngồi hay đi lòng vòng.” Chỉ bằng cách luôn luôn kiểm soát với sự chánh niệm, tỉnh giác và chú tâm cao độ, và bằng cách hết sức nỗ lực làm điều thiện và tự chế không làm điều ác là bạn có thể tránh không mắc phạm nhiều ác hạnh trầm trọng – ngay cả khi bạn hoàn toàn tiêu khiển.

 

Làm những ác hạnh nhỏ bé nhất,

Vì tin rằng chúng không thể tác hại;

Ngay cả một tàn lửa nhỏ;

Có thể đốt cháy một núi cỏ.

Hãy luôn luôn đưa lời khuyên này vào thực hành, áp dụng sự chánh niệm và tỉnh giác liên tục, và cuối cùng bạn sẽ thu hoạch được mộ khối lượng không thể tưởng tượng nổi những hành vi tích cực trong tiến trình của các hoạt động hàng ngày của bạn. Việc hoàn toàn tỏ lòng tôn kính khi đi ngang qua một đống đá mani bằng cách dỡ nón và nhiễu quanh nó theo chiều kim đồng hồ, và ứng dụng ba phương pháp tối cao, có thể đưa dẫn tới sự toàn giác một cách chính xác. Có câu nói rằng:

 

Không làm những thiện hạnh nhỏ bé nhất,

Vì tin rằng chúng khó giúp ích được ai;

Từng giọt nước rơi lần lượt

Sớm hay muộn cũng làm đầy một hồ lớn.

 

Có câu chuyện về một con heo bị chó rượt chạy quanh một bảo tháp, và câu chuyện khác về bảy con sâu bướm bị rơi khỏi chiếc lá xuống một con suối và được dòng nước dẫn trôi quanh tháp: rốt cuộc những sự kiện như thế đủ để đưa những chúng sanh đó đi tới sự giải thoát.

Vì thế hãy luôn từ bỏ hành vi ác hại nhỏ bé nhất; hãy làm bất kỳ điều thiện nào bạn có thể và hồi hướng tất cả công đức cho sự lợi lạc của chúng sinh. Điều này bao gồm mọi giới luật của Bồ Tát nguyện.

 

2.2.3 Đem lại lợi ích cho người khác

 

Như chún ta đã thấy, khi bạn hoàn toàn thoát khỏi sự ham muốn bất kỳ điều gì cho bản thân thì sẽ tới lúc để bạn trực tiếp làm việc vì lợi ích của người khác, sử dụng bốn cách thu hút người khác (tứ nhiếp pháp). Nhưng là một kẻ sơ cơ, cách đem lại lợi ích cho người khác là hồi hướng mọi sự thực hành mà bạn làm trong khi tu tập làm các thiện hạnh và tránh làm những ác hạnh cho sự lợi lạc của tất cả chúng sinh. Tất cả những điều này được thực hiện bằng cách áp dụng ba phương pháp tối cao.

 

2.3  NHẪN NHỤC SIÊU VIỆT

 

Nhẫn nhục bao gồm ba phương diện: nhẫn nhục khi gặp bất công, nhẫn nhục chịu đựng những gian khổ vì Giáo Pháp, và nhẫn nhục đối mặt với chân lý sâu xa mà không sợ hãi.

 

2.3.1 Nhẫn nhục khi gặp bất công

 

Loại nhẫn nhục này nên áp dụng bất cứ khi nào bạn bị tấn công, mất trộm hay thất bại, sỉ nhục vào mặt hay nói xấu sau lưng bạn. Thay vì khó chịu và phản ứng một cách giận dữ thì bạn nên đáp lại một cách tích cực với lòng từ và bi.  Nếu mất kiên nhẫn và chịu thua cơn giận dữ, thì chỉ một cơn thịnh nộ là có thể huỷ hoại những kết quả của các thiện hạnh mà bạn đã tích luỹ trên một ngàn kiếp, như đã được đề cập Bồ Tát Đạo:

 

Những việc thiện tích luỹ trong một ngàn kiếp

Chẳng hạn như những hành vi bố thí,

Hay cúng dường các bậc đã đạt được đại lạc:

Chỉ một tia lửa giận là hoàn toàn tiêu huỷ chúng.[154]

 

Ngoài ra:

Không xấu ác nào như sân hận,

Không khổ hạnh nào sánh được nhẫn nhục.[155]

Vì thế, hãy tắm mình trong sự nhẫn nhục –

Bằng mọi cách với lòng nhiệt thành khẩn thiết.

 

Hãy nhớ tới những tật bệnh mà sự sân hạnh mang lại, hãy nỗ lực vun bồi sự nhẫn nhục trong mọi hoàn cảnh. Ngài Padampa Sangye nói:

 

Thù ghét kẻ địch mà một mê lầm gây ra bởi nghiệp.

Hãy chuyển hoá tư tưởng xấu xa của quý vị, hỡi dân chúng xứ Tingri!

 

Và Ngài Atisa nói:

 

Không nên tức giận với những người làm hại bạn.

Nếu nổi giận với những người làm hại mình,

Thì khi nào bạn mới trau dồi nhẫn nhục?

 

Bất cứ khi nào có ai làm hại bạn, lăng mạ hay buộc tội bạn không đúng, nếu bạn không bị mất bình tĩnh hay để tâm thù hằn người đó, thì kết quả sẽ là nhiều hành vi tiêu cực và chướng ngại trong quá khứ của bạn sẽ bị cạn kiệt. Nhờ phát triển tánh nhẫn nhục trong những tình huống như thế bạn có thể tích luỹ được rất nhiều công đức. Vì thế hãy coi những người đã đối xử bất công với bạn như những vị thầy của mình. Như có nói:

 

Nếu không có người làm bạn nổi giận, thì bạn có thể trau dồi sự nhẫn nhục với ai?

 

Ngày nay, chúng ta thường nghe rằng một người nào đó là một Lạt ma hay tu sĩ đích thực nhưng lại có một tính khí kém tệ. Nhưng trong thế gian không có điều gì tệ hại hơn sân hận – vì thế làm sao có thể có người rất tốt đồng thời lại có một tính khí kém tệ? ngài Padampa Sangye nói:

 

Bạn không biết rằng một hành động phát sinh từ sự sân hận trong khoản khắc thì còn tệ hại hơn một trăm hành vi phát sinh từ sự tham dục.

 

Nếu thực sự thấm nhuần giáo lý một cách đúng đắn, thì mọi việc bạn làm, nói, và suy nghĩ phải mềm mai như bước lên vải len và dịu nhẹ như súp tsampa hoà với bơ.  Nhưng rất có thể nó trở thành điều trái ngược, và sự thực hành đức hạnh nhỏ bé nhất mà bạn làm, hoặc giới nguyện mà bạn giữ, sẽ khiến bạn cảm thấy rất hài lòng với chính mình và thổi phồng bạn lên với sự kiêu hãnh. Hoặc mỗi khi có ai nói chỉ một lời nhưng bạn lại cực kỳ nhạy cảm với cách họ nói, và giận sôi lên bất kỳ lúc nào bạn nghĩ mình đang bị làm nhục hay chỉ trích. Tánh khí tự ái đó là một dấu hiệu cho thấy tâm bạn và Pháp đi theo hai con đường riêng rẽ và Giáo Pháp hoàn toàn không chuyển hoá được tâm bạn. Geshe Chengawa nói:

Khi chúng ta học tập, quán chiếu và thiền định, nếu bản ngã của chúng ta phát triển ngày càng lớn hơn, sự nhẫn nại của ta trở nên còn mỏng manh hơn cả da một đứa trẻ, và chúng ta cảm thấy dễ cáu kỉnh thậm chí còn hơn cả quỷ Tsang Tsen, thì đây chắc chắn là những dấu hiệu cho thấy sự học tập, thiền định và quán chiếu của chúng ta đã đi trật đường.

 

Hãy luôn luôn khiêm tốn, ăn mặc giản dị, và đối xử tôn kính với mọi người dù họ tốt, xấu hay tầm thường. Hãy điều phục tâm bạn với Giáo Pháp, lấy từ và bi của Bồ Đề Tâm làm nền tảng của mình. Không còn nghi ngờ gì nữa, đây là điểm tối yếu của tất cả thực hành. Nó còn tốt lành gấp ngàn lần những cái thấy “tối thượng” hay những loại thiền định “sâu xa nhất” mà chẳng làm được điều gì tốt đẹp cho tâm thức.

 

2.3.2 Nhẫn nhục chịu đựng những gian khổ vì Giáo Pháp (Pháp Nhẫn)

 

Vì lợi ích của việc thực hành Pháp, bạn nên quên đi cái nóng, lạnh và mọi khó khăn khác. Các tantra nói:

 

Ngay cả phai đi qua hoả ngục hay biển đao kiếm sắc nhọn,

Hãy tìm cầu Giáo Pháp cho tới khi bạn tắt hơi.

 

Phái Kadampa cổ có bốn mục tiêu này:

 

Hãy đặt tâm bạn trên Pháp

Hãy đặt Pháp của bạn trên một cuộc đời khiêm tốn,

Hãy đặt cuộc đời khiêm tốn của bạn trên sự suy niệm về cái chết,

Hãy đặt cái chết của bạn trên một lỗ hang trống không, trơ trụi.

 

Ngày nay, chúng ta có thể thực hành Giáo Pháp song song với những hoạt động thế gian của mình mà chẳng cần có chút xíu sự quyết tâm nào hay chẳng cần trải qua sự gian khó nào, trong khi đó cứ việc hưởng thụ sự tiện nghi, trọng vọng và hạnh phúc. “Những người khác tìm được cách để làm điều đó,” chúng ta nhấn mạnh, và nói một cách thán phục “Đó là một lạt ma xuất sắc, ngài biết cách kết hợp Giáo Pháp và đời sống thế gian.”

Nhưng làm sao có thể có một cách thức kết hợp chặt chẽ Giáo Pháp với đời sống thế gian? Những người tuyên bố là mình đang làm điều đó thì có thể đang trải qua một cuộc sống thế gian tốt đẹp, nhưng bạn có thể tin chắc rằng hiện tại họ không thực hành Giáo Pháp thanh tịnh. Tuyên bố rằng bạn có thể thực hành Giáo Pháp và sống cuộc sống thế gian cùng một lúc thì cũng giống như bạn có thể may vá bằng một cây kim có hai mũi, đặt lửa và nước vào chung một bình chứa, hay cưỡi hai con ngựa ở hai đường khác nhau. Tất cả những điều này hoàn toàn không thể làm được.

Đã từng có một người bình thường nào vượt trội hơn Đức Phật Thích Ca Mâu Ni chưa? Ngay cả chính Ngài cũng không tìm ra các để thực hành Giáo Pháp và sống cuộc sống thế gian đồng hành với nhau. Thay vào đó, Ngài bỏ lại vương quốc sau lưng giống như nhổ bãi nước bọt, và đến sống ở bờ Sông Nairanjana (Ni Liên Thiền), ở đó Ngài thực hành khổ hạnh trong sáu năm, chỉ tự nuôi sống bằng một giọt nước và một hột lúa mạch mỗi năm.

Còn về Ngài Jetsun Milarepa? Trong lúc thực hành, Ngài không có thực phẩm lẫn y phục. Ngài chẳng có gì để ăn ngoài rau tầm ma, và toàn thân Ngài trở nên như bộ xương phủ một lớp lông xanh lợt. Ai nhìn thấy Ngài cũng đều không hiểu Ngài là người hay quỷ.  Việc Ngài thực hành Pháp tới mức độ đó, thật kiên cường và hoàn toàn vui lòng chấp nhận gian khổ, đã chứng minh một cách chắc chắn rằng không thể đồng thời theo đuổi Giáo Pháp lẫn đời sống thế gian. Có thể nào Ngài Milarepa đã thật sự quá thất vọng vì không biết cách kết hợp cả hai điều đó?

Đại thành tựu giả Melong Dorje đạt được thành tựu sau khi thực hành trong chín năm, không có gì để ăn ngoài vỏ cây lakhe. Ngài Longchen Rabjam, Hoàng Đế Toàn Trí của Giáo Pháp, chỉ sống bằng hai mươi mốt viên thuỷ ngân trong nhiều tháng.* Khi trời đổ tuyết, Ngài thường chui vào một bao vải tho nhám mà Ngài dùng làm nệm vừa làm quần áo.

Tất cả những thành tựu giả ở quá khứ đạt được thành tựu chỉ bằng cách thực hành với sự quyết tâm, bằng lòng chấp nhận tất cả gian khổ, vứt bỏ mọi hoạt động thế gian. Không một ai trong các Ngài đạt được giác ngộ bằng cách thực hành song hành với những hoạt động thông thường của đời sống hàng ngày, hưởng thụ tiện nghi, hạnh phúc và danh vọng. Ngài Rigdzin Jigmed Lingpa nói:

 

Khi mà bạn gầy dựng cho mình một chỗ ở tiện nghi, thực phẩm dồi dào, quần áo ấm cúng và một tín chủ rộng rãi, thì bạn đã hoàn toàn nuôi dưỡng quỷ ma thậm chí còn trước cả việc bắt đầu trau dồi Giáo Pháp.

 

Ngài Jetsun Milarepa hát:

 

Không ai hỏi thăm nếu tôi bệnh;

Không ai than khóc khi tôi chết;

Chết cô độc ở đây trong chốn ẩn tu này

Là tất cả những gì mà một yogi mong ước.

 

Không một dấu chân ngoài cửa thất,

Không dấu vết thịt thà trong bữa ăn thanh đạm;

Chết cô độc ở đây trong chốn ẩn tu này

Là tất cả những gì mà một yogi mong ước.

 

Không ai tự hỏi tôi đã đi đâu,

Chẳng có nơi chốn riêng biệt nào để đi.

Chết cô độc ở đây trong chốn ẩn tu này

Là tất cả những gì mà một yogi mong ước.

 

Thân xác tôi có thể thối rữa và bị côn trùng ăn thịt,

Xương cốt tôi bị ruồi nhặng rút rỉa;

Chết cô độc ở đây trong chốn ẩn tu này

Là tất cả những gì mà một yogi mong ước.

 

Do đó, điều tối quan trọng là xem thường mọi ham muốn của cuộc sống thế tục và thực hành bất chấp nóng, lạnh hoặc bất kỳ những khó khăn nào khác.

 

2.3.3        Nhẫn nại đối mặt với chân lý sâu xa mà không sợ hãi

 

Bạn nên nhận lãnh các giáo lý về trạng thái tự nhiên của tánh Không sâu xa, hay

đặt biệt hơn, các giao lý về những điểm trọng yếu của Đại Viên Mãn Tự Nhiên vượt lên mọi hoạt động và nỗ lực, hay giáo lý Mười Hai Tiếng Cười Kim Cương siêu vượt những kết quả của các thiện hạnh và ác hạnh, hoặc giáo lý Tám Bài Kệ Vĩ Đại Tuyệt Vời, hãy cố gắng lãnh hội chân nghĩa của chúng mà không phát sanh tà kiến.

Có tà kiến hay chỉ trích những giáo lý này là điều được gọi là “ác hạnh từ bỏ Giáo Pháp.” Nó có thể ném người ta xuống đáy sâu của địa ngục trong vô lượng kiếp. Như một bản văn sám hối nói:

 

Con luôn sám hối vì đã phạm một hành vi thậm chí còn nguy hai

Hơn năm hành vi bị quả báo tức thời: đó là việc từ bỏ Giáo Pháp.

 

Một ngày nọ, hai vị tăng Ấn Độ có mười hai phẩm tánh của sự tu tập chính thức

tự trình diện trước Ngài Atisa. Khi Atisa giảng cho họ rằng bản ngã là không có sự hiện hữu nội tại, họ đều hài lòng.

Nhưng khi Ngài giảng rằng các hiện tượng cũng không có sự hiện hữu nội tại.[156] thì họ kêu lên: “Thật kinh khủng! Đừng nói những điều như thế! Và khi Ngài đọc Tâm Kinh, họ bịt chặt tai lại.

Ngài Atisa buồn bã nói với họ: “Trừ phi các ông tự tu tập trong lòng từ và bi của Bồ Đề Tâm và sau đó phát triển sự xác tín trong giáo lý sâu xa, còn không thì chỉ với những giới nguyện thanh tịnh của các ông sẽ chẳng dẫn các ông tới đâu.”[157]

Vào thời của Đức Phật, có nhiều vị tăng vô cùng kiêu mạn khi nghe Ngài giảng về tánh Không sâu xa đã ói máu ra mà chết, và bị tái sanh vào các địa ngục. Một số những chuyện khác đã kể lại những việc xảy ra tương tự.

Điều quan trọng là có phải một sự quan tâm chân thành và tôn kính nơi Giáo lý sâu xa và nơi những bậc giảng dạy chúng. Ít nhất là, cho dù những giới hạn của tâm thức bạn khiến bạn dửng dưng với những giáo lý đó, nhưng bạn đừng bao giờ phê bình chúng.

 

2.4          TINH TẤN SIÊU VIỆT

 

Có ba loại tinh tấn: tinh tấn như áo giáp, tinh tấn trong hành động và tinh tấn không

thể ngưng[158]

 

2.4.1 Tinh tấn như áo giáp

 

Khi bạn nghe những câu chuyện về cuộc đời của những bậc Thầy vĩ đại, chư Phật và Bồ Tát, về những hành động các Ngài đã làm và những nỗi gian nan mà các Ngài đã trải qua vì Giáo Pháp, bạn đừng mất can đảm. Đừng bao giờ nghĩ rằng các Ngài có thể thành tựu được tất cả những gì các Ngài làm chỉ vì các Ngài là những vị Phật và Bồ Tát, và bạn sẽ chẳng bao giờ làm được như vậy. Thay vào đó, hãy nhớ rằng chỉ bằng cách hành động theo phương cách này mà tất cả các Ngài đã thành tựu như thế. Vì bạn là đệ tử của các Ngài, cho dù bạn không thể làm tốt hơn, bạn cũng không có lựa chọn nào khác ngoài việc đi theo dấu chân của các Ngài.

Nếu rất nhiều gian khó và kiên nhẫn cần thiết cho các Ngài như vậy, thì làm sao những điều như thế lại có thể không khẩn thiết với chúng ta, trong khi chúng ta không có được sự tu tập Pháp liên tục từ vô thuỷ như các Ngài và hiện bị đè nặng bởi những hành động tiêu cực trong quá khứ của chúng ta?

Chúng ta có tất cả những tự do và thuận lợi của hiện hữu làm người. Chúng ta đã gặp được những vị Thầy tâm linh đích thực và đang thọ nhận những giáo huấn sâu xa. Giờ đây khi có được cơ hội này để thực hành Giáo Pháp chân chính một cách đúng đắn, chúng ta phải hứa nguyện tự đáy lòng mình để thực hiện như thế, và sẵn sàng chấp nhận những gian khổ, gánh vác những gánh nặng, và sẵn sàng hy sinh tính mạng không chút quan tâm đến máu thịt của chính mình. Điều đó được gọi là tinh tấn như áo giáp.*

 

2.4.2        Tinh tấn trong hành động

 

Mỗi lúc có ý định học tập và thực hành Giáo Pháp, có thể bạn sẽ cứ trì hoãn việc

đó tới ngày mai hay ngày mốt, ngày này qua ngày khác  suốt cả đời bạn.  Bạn phải tránh lãng phí cả một đời người chỉ toàn là dự tính để thực hành. Ngày Druk Pema Karpo nói:

 

Đời người thì giống như đang ở trong chuồng thú của kẻ đồ tể:

Cái chết đến gần hơn từng giây phút.

Nếu bạn không vội vã mà trì hoãn tới ngày mai,

Thì hãy coi chừng sự ân hận và những giọt nước mắt khi bạn nằm trên tử sàng!

 

Không nên chờ đợi lúc khác để thực hành. Hãy làm điều gì đó về nó ngay lập tức, giống như một người nhát gan nhìn thấy con rắn trong vạt áo mình, hay một vũ nữ mà tóc bị bén lửa.  Hãy hoàn toàn từ bỏ những hoạt động thế gian và tự hiến dâng cho việc thực hành Pháp ngay tự bây giờ. Nếu không, bạn sẽ không bao giờ tìm ra thời gian - một hoạt động thế tục này sẽ tiếp theo sau cái khác, vô tận giống như những gợn sóng trên mặt nước.  Chúng sẽ chỉ dừng lại khi bạn quyết định dứt khoát chấm dứt chúng. Như Đấng Toàn Giác Longchenpa nói:

 

Những mối bận tâm thế gian không bao giờ chấm dứt cho tới khi ta chết.

Nhưng chúng chấm dứt khi ta ngưng chúng lại - bản chất chúng là như vậy.

 

Và:

Những hoạt động của chúng ta giống như trò chơi con nít.

Chúng tiếp diễn chừng nào ta còn tiếp tục, chúng chấm dứt ngay khi ta dừng chúng lại.

Một khi bạn cảm thấy muốn thực hành Giáo Pháp, đừng để sự lười biếng và trì hoãn làm chủ dù chỉ trong một khoảng khắc. Hãy làm việc lập tức, luôn thôi thúc bằng sự suy niệm về lẽ vô thường. Điều đó gọi là tinh tấn trong hành động.

 

2.4.3  Tinh tấn không thể ngừng lại

 

Không nên cảm thấy thoả mãn khi chỉ mới thực hiện một cuộc nhập thất nhỏ bé, hay một vài sự thực hành tiếp cận và thành tựu, một ít bài cầu nguyện hay một, hai việc tốt. Hãy hứa nguyện thực hành chừng nào mà bạn còn sống và quyết định duy trì những nỗ lực của bạn, với tất cả sức mạnh bền bỉ của một dòng sông lớn cho tới khi bạn đạt được Phật Quả viên mãn.

Những bậc siêu phàm trong quá khứ đã nói rằng ta phải thực hành giống như bò yak đói đang ăn cỏ. Khi một con yak giựt mạnh một bụi cỏ thì mắt nó đã bị gắn dính vào bụi kế tiếp. Cũng thế, trước khi bạn chấm dứt một thực hành Pháp, hãy tự nhử rằng khi bạn kết thúc thực hành hiện tại bạn sẽ bắt đầu một thực hành mới.

Mỗi ngày hãy cố thực hiện những nổ lực càng lúc càng lớn hơn trong mọi lúc không bao giờ để thân, khẩu và tâm bạn rơi vào sự lười nhác hay xa lìa Pháp dù chỉ trong chốc lát. Ngài Rigdzin Jigme Lingpa nói:

 

Thực hành với sự kiên trì càng lớn thì càng tới gần cái chết là dấu hiệu của một hành giả Pháp không bị nhiễm sương giá.*

 

Ngày nay, có những người nổi tiếng là đại thiền giả hay Lạt ma xuất sắc, thường được nghe người ta nói: “Giờ đây Ngài không còn cần lễ lạy, tụng đọc những bài cầu nguyện, tích tập công đức và trí tuệ, tịnh hoá những chướng ngại, và những thứ tương tự.”

Chẳng bao lâu, bản thân họ bắt đầu tin vào điều đó, và tự coi mình là người rất quan trọng và không còn cần tới những thực hành này nữa. Nhưng, như Ngài Dagpo Rinpoche vô song nói:

 

Nghĩ rằng mình không cần những điều như vậy chứng tỏ rằng họ lại càng cần chúng hơn bao giờ hết.

Mỗi ngày, Đại sư Ấn Độ Dipamkara** đều bắt tay vào việc làm các tsa-tsa. Chẳng mấy chốc tay Ngày dính đầy đất sét.

Những đệ tự của Ngài nói: “Người ta đang bàn tán vì một bậc thầy vĩ đại như Ngài mà tay lại dính bùn. Hơn nữa thân Ngài đang mệt mỏi. Sao không để cho chúng con làm việc đó cho Ngài?”

Ngài Dipamkara nói: “Các ông nói gì? Các ông cũng sắp bắt đầu ăn dùm tôi phải không?”

Cho tới khi bạn đạt được Phật Quả viên mãn, bạn vẫn còn có những khuynh hướng và hành vi trong quá khứ cần loại bỏ, và vẫn còn cần đạt được càng lúc càng nhiều hơn những phẩm tánh tâm linh. Vì thế không nên rơi vào biếng nhác và thực hành không thường xuyên. Hãy thực hành Giáo Pháp với sự tinh tấn từ đáy lòng bạn, đừng bao giờ có cảm tưởng là mình đã thực hành đầy đủ.

Nói chung, việc bạn có đạt được Phật quả hay không chỉ tuỳ thuộc vào sự tinh tấn của mình. Vì thế, hãy sự dụng mọi nổ lực để thực hành ba loại tinh tấn. Một người với trí thông minh ngoại hạng nhưng chỉ có một chút tinh tấn sẽ chỉ là một hành giả hạng thấp. Nhưng một người ít thông minh nhưng tinh tấn phi thường sẽ trở thành một hành giả cao cấp.

Không có chút tinh tấn nào thì mọi phẩm tính tốt sẽ trở thành vô dụng. Đấng Toàn Giác Jigme Lingpa nói:

 

Không có sự thông minh hay năng lực,

Chẳng có của cải hay sức mạnh nào có thể giúp được

Người không chút tinh tấn –

Anh ta giống như một người chèo thuyền mà thuyền của anh ta có đủ mọi thứ trừ mái chèo.

 

Hãy luôn luôn điều độ trong việc ăn uống. Hãy đạt tới một sự ngủ nghĩ quân bình. Hãy thực hiện những nỗ lực bền bỉ và liên tục. Hãy dụng tâm bạn như một dây cung tốt, không chùng quá mà cũng không căng quá. Nó sẽ giúp bạn thực hành thường xuyên.

 

2.5          THIỀN ĐỊNH SIÊU VIỆC

 

Không thể phát triển sự thiền định nếu trước tiên không từ bỏ những sự kích động

và những mối bận tâm làm xao lãng, và sống ở nơi cô tịch. Vì thế vào lúc ban đầu, điều quan trọng là phải từ bỏ những sự phóng dật.

 

2.5.1        Từ bỏ những sự phóng dật

 

Bất cứ những gì tụ rồi sẽ tán. Cha mẹ, anh em, vợ chồng, bạn bè và những mối

quan hệ khác thậm chí cả thịt, xương của thân thể mà ta đã nhận lúc sinh ra - tất cả đều đi tới chỗ ly tán. Hãy thấu suốt sự vô ích của việc bám luyến vào những người thân yêu và bằng hữu phù du, và luôn luôn an trú trong sự cô tịch. Ngài Repa Shiwa O nói:

 

Phật Quả chỉ hiện diện trong chúng ta chứ không ở đâu khác,

Mặc dù những bằng hữu tâm linh hỗ trợ cho sự thực hành của chúng ta

Nhưng có hơn ba hay bốn người cùng đem lại sự tham luyến và sân hận

Vì vậy tôi sẽ chỉ ở một mình.

 

Mong muốn những sự việc là điều gây ra mọi phiền não cho chúng ta. Chúng ta không bao giờ hài lòng với những gì mình có, và càng giàu có thì chúng ta lại càng tham lam hơn. Như tục ngữ có nói: “Đang giàu có nghĩa là đang nghèo đi.” Hoặc: “Giống như những người giàu, càng có nhiều thì bạn càng cần nhiều,” và “Làm mất kẻ thù, tức đánh mất tiền bạc của bạn.” Bạn càng sở hữu nhiều nguồn lợi, tiền bạc và tài sản, thì bạn càng phải đối mặt với sự nguy hiểm bởi những kẻ thù, kẻ trộm và v.v.. Bạn có thể tiêu phí cả cuộc đời bạn để thâu hoạch, bảo vệ và gia tăng tài sản của mình. Điều này chỉ dẫn tới đau khổ và những hành vi tiêu cực. Ngài Nagarjuna siêu phàm nói:

 

Tích lũy của cải, bảo vệ nó và làm nó phát triển sẽ khiến bạn kiệt sức;

Hãy hiểu rằng sự giàu có chỉ đem lại hư hoại và huỷ diệt không cùng.

 

Cho dù một người sở hữu tất cả những của cải và tài sản trong thế gian, thì điều đó cũng chẳng làm thay đổi được sự thực rằng họ vẫn chỉ cần thực phẩm và y phục đủ cho một người. Không chú ý tới những hành vi sai trái hay đau khổ, không biết tới mọi sự phẩm bình, họ bỏ thí cuộc đời hiện tại và ném bỏ những đời tương lai cho gió cuốn đi; đối với của cải vật chất tầm thường nhất, họ coi thường bất kỳ cảm giác xấu hổ và trung thực nào, tất cả sự khôn ngoan và thận trọng, sự tôn kính Giáo Pháp hay samaya của họ. Sử dụng tất cả thời gian của họ chạy theo thực phẩm, lợi nhuận và địa vị xã hội, giống như những tinh linh lang thang săn tìm các torma, họ lãng phí toàn bộ cuộc đời họ mà chưa từng kinh nghiệm ngay cả một ngày giải thoát, an lành hay hạnh phúc. Cuối cùng, khi đã chất đống tất cả tài sản đó, họ có thể phải trả giá đắt cho nó bằng cuộc đời họ và bị đâm hay bị bắn chết chỉ vì tiền bạc của họ. Rồi thì những gì họ đã tích lũy cả đời lại bị kẻ thù và người khác tiêu xài. Tất cả là một sự lãng phí. Nhưng hàng đống ác hạnh cao như Núi Tu Di mà họ tích lũy để làm giàu thì vẫn còn dành riêng cho họ, và sẽ khiến cho họ phải lang thang trong đáy sâu của những cõi thấp, không bao giờ được tự do. Vì thế trong khi bạn vẫn còn cơ hội, hãy sử dụng một ít sở hữu mà bạn có thể có trong đời này để cung cấp cho những đời tương lai. Hãy bằng lòng với một lượng thực phẩm đạm bạc và quần áo đủ để tránh gió.

Những người mà tham vọng của họ bị giới hạn vào cuộc đời hiện tại này trong kinh văn gọi là “những người bạn trẻ con”. Họ không hề biết ơn đối với bất kỳ sự giúp đỡ nào mà bạn có thể dàn trải ra cho họ, và ngược lại còn có thể lại hại bạn. Bất kỳ những gì bạn làm cho họ đều không bao giờ đúng. Họ rất khó hài lòng. Nếu bạn có nhiều hơn họ, họ ganh tị; nếu bạn có ít hơn họ, họ khinh khi. Càng gần họ lâu thì những hành động tiêu cực của bạn càng gia tăng và những hành động tích cực suy yếu dần. Hãy từ bỏ những người bạn như vậy và hãy tránh thật xa họ.

Những nghề nghiệp như thương mại, nông nghiệp, kỹ nghệ và nghiên cứu thu hút bạn vào nhiều hoạt động và cung cấp những nguồn xao lãng vô tận. Những cuộc theo đuổi tầm thường này làm bạn bận rộn thường xuyên vì những mục tiêu vụn vặt.. Dù bạn có nỗ lực tới đâu chăng nữa, chẳng cái nào trong số đó có chút ý nghĩa nào. Không có lúc chấm dứt đối với tiến trình chiến thắng đối thủ và biệt đãi bạn bè.

Hãy từ bỏ tất cả những hoạt động và xao lãng không cùng này giống như nhổ nước bọt vào bãi rác. Hãy rời bỏ quê nhà của bạn và hướng về những vùng đất xa lạ. Hãy sống ở chân những vách đá với bạn đồng hành duy nhất là những thú hoang. Hãy an định thân và tâm bạn trong một trạng thái thư thản.[159] Hãy chấm dứt sự quan tâm tới thực phẩm, quần áo hay bất kỳ những gì người ta nói. Hãy trải cuộc đời của bạn ở chốn hoang vắng nơi không có một bóng người. Ngài Jetsun Milarepa nói:

 

Trong động đá ở một nơi hoang vắng

Nỗi buồn của con không khuây khoả.

Hỡi bậc Thầy của con, vị Phật trong ba thời,

Con mong mỏi Ngài không ngơi nghỉ.

 

Nếu bạn làm như Ngài đã làm, bạn sẽ nhận ra rằng, như tục ngữ nói: “Ở những nơi bạn cảm thấy cô độc, sự thiền định sẽ phát sinh.” Ở những nơi đó, mọi phẩm tánh tốt đẹp của con đường - sự tan vỡ ảo tưởng về luân hồi, sự quyết định tự giải thoát khỏi nó, niềm tin, sự thanh tịnh của tri giác, sự thiền định và thể nhập - sẽ xuất hiện một cách tự nhiên. Hãy làm bất cứ những gì bạn có thể để sống một cuộc đời như vậy.

Trong những khu rừng hẻo lánh, là những nơi mà chư Phật và Bồ Tát trong quá khứ đã tìm thấy sự an bình, không điều gì làm bạn bận rộn, không có những sự phóng dật, không có sự mua bán, không có những cánh đồng để làm việc, không có bạn bè trẻ con. Chim muông và những hươu nai hoang dã dễ dàng kết bạn, nưới suối và lá cây cung cấp thực phẩm khổ hạnh ngon lành. Sự tỉnh giác trong trẻo một cách tự nhiên và thiền định tự nó phát triển. Không kẻ thù, không bạn hữu, bạn có thể giải thoát khỏi những sợi dây xích của sự tham luyến và sân hận. Những nơi như vậy có đủ mọi thuận lợi. Trong Kinh Nguyệt Đăng và những Kinh khác, Đức Phật nói rằng chỉ đơn thuần có ước muốn tới những chốn hoang vắng và đi bảy bước hướng về những nơi đó thì đáng giá hơn việc cúng dường tất cả mười phương chư Phật trong nhiều kiếp nhiều như cát sông Hằng. Và còn giá trị hơn nữa nếu bạn thực sự sống ở những nơi như vậy. Cũng có nói:

 

Ở nơi hoàn toàn hẻo lánh, ẩn sâu trong những rặng núi,

Mọi sự người ta làm đều tốt.

 

Thậm chí không cần chút nỗ lực tinh tấn nào để thực hành, ở những nơi như vậy, sự tan vỡ ảo tưởng với luân hồi, quyết định giải thoát khỏi nó, lòng từ, bi và tất cả những phẩm tánh xuất sắc khác của con đường sẽ phát sinh một cách tự nhiên. Kết quả là toàn bộ cách sống của bạn trở nên lành mạnh. Sự tham luyến, sân hận và tất cả những cảm xúc tiêu cực ở những nơi chốn rộn ràng hoạt động bạn đã cố gắng kiểm soát mà không có kết quả thì tự chúng sẽ suy giảm đi, chỉ vì giờ đây bạn đang sống trong sự cô tịch. Bạn sẽ dễ dàng phát triển tất cả những phẩm tánh của con đường.

Những vấn đề này là những chuẩn bị sơ khởi cho sự thiền định, và là sự quan trọng sống còn. Chúng không thể được miễn trừ.

 

 


2.5.2    Thiền định thực sự

 

Thiền định có ba loại: thiền định được thực hành bởi những người bình thường, thiền định nhận thức rõ ràng, và thiền định siêu việt của các Đấng Như Lai.

Thiền định thực hành bởi những người bình thường. Khi bạn chấp vào những kinh nghiệm hỷ lạc, trong sáng và vô niệm trong thiền định và cố tình tìm kiếm chúng, hoặc sự thực hành của bạn bị bóp méo bởi bất kỳ sự ham thích kinh nghiệm nào, thì điều đó được gọi là sự thiền định được thực hành bởi những người bình thường.[160]

Thiền định nhận thức rõ ràng. Khi bạn thoát khỏi bất kỳ dính mắc nào về kinh nghiệm thiền định va không còn bị quyến rũ bởi sự thền định nữa, nhưng vẫn bám lấy tánh Không như một cách đối trị, điều đó được gọi là thiền định nhận thức rõ ràng.

Thiền định siêu việt của các Đấng Như Lai. Khi bạn không còn bất cứ khái niệm nào về tánh Không như một cách đối trị nữa, mà an trụ trong một sự thiền định khi khái niệm về bản tánh của thực tại, điều đó được gọi là thiền định siêu việt của các Đấng Như Lai.

Bất cứ khi nào bạn thực hành thiền định, điều quan trọng là ngồi trong “tư thế bảy điểm của Tỳ Lô Giá Na (Vairocana)”[161] với đôi mắt giữ một cách nhìn thích hợp. Có câu nói rằng:

Khi thân thẳng, các kinh mạch đều thẳng;

Khi kinh mạch thẳng các năng lực đều thẳng;

Khi các năng lực thẳng thì tâm thức thẳng.[162]

 

Không nên nằm hay dựa vào bất cứ cái gì, mà hãy ngồi thẳng, tâm trí thoát khỏi bất kỳ niệm tưởng nào, và nghỉ ngơi thư thản trong trạng thái không bám chấp vào bất kỳ điều gì. Đó là cốt tuỷ của sự thiền định siêu việt.

 

2.6  TRÍ TUỆ SIÊU VIỆT

Trí tuệ siêu việt có ba phương diện: trí tuệ hình thành nhờ sự lắng nghe, trí tuệ

hình thành nhờ sự quán chiếu, và trí tuệ hình thành nhờ sự thiền định.

 

2.6.1        Trí tuệ nhờ sự lắng nghe

Điều này có nghĩa là lắng nghe tất cả những ngôn từ và ý nghĩa cả Pháp được nói

ra bởi một vị Thầy tâm linh, và hiểu được ý nghĩa của những ngôn từ đó khi chúng được nói ra.

 

2.6.2        Trí tuệ nhờ sự quán chiếu

Điều này có nghĩa là không chỉ lắng nghe những gì vị Thầy dạy và hiểu được nó,

rồi sau đó xem xét lại nó trong tâm bạn và củng cố rõ ràng ý nghĩa qua sự quán chiếu, khảo sát và phân tích, và đặt câu hỏi về những điều bạn không thấu suốt. Hoàn toàn không đủ để tin rằng bạn hiểu biết hay thấu suốt một vài vấn đề đặt biệt. Bạn phải tuyệt đối đoan chắc rằng khi tới lúc để bạn thực hành nơi cô tịch, bạn sẽ có thể tự lo liệu cho mình mà không cần tham hỏi bất kỳ người nào để hiểu rõ ràng một vài vấn đề.

 

2.6.3        Trí tuệ nhờ sự thiền định

Nhờ sự thiền định, khi bạn đạt được kinh nghiệm thực tiễn của những gì bạn hiểu

được bằng trí thông minh, sự chứng ngộ thực sự về trạng thái bản nhiên phát triển trong bạn không có bất kỳ lỗi lầm nào. Sự xác quyết được sinh ra từ sâu thẳm bên trong bạn. Giải thoát khỏi những sự nghi ngờ và lưỡng lự đầy giới hạn, bạn thấy được khuôn mặt đích thật của trạng thái bản nhiên.

Trước tiên, khi đã tiệt trừ mọi nghi ngời của bạn qua sự lắng nghe và quán chiếu, bạn có những kinh nghiệm thực tiễn của thiền định, và thấy mọi sự là những hình tướng rỗng không chẳng có bất kỳ thực chất nào, như trong tám sự so sánh của ảo giác:

Như trong một giấc mơ, tất cả những đối tượng bên ngoài được trí giác với năm giác quan thì không có mặt ở đó, mà chúng xuất hiện qua sự mê lầm.

Như trong một cuộc biểu diễn ảo thuật, các sự việc được làm xuất hiện bởi một sự kết hợp tạm thời gồm các nguyên nhân, hoàn cảnh, và những sự liên kết.

Như trong một cái nhìn sai lạc, sự vật xuất hiện ở đó, nhưng lại không có gì.

Như trong một ảo ảnh, sự vật xuất hiện nhưng không có thực.

Như trong một tiếng vang, sự vật có thể được nhận biết nhưng không có gì ở đó, dù bên ngoài hay trong.

Như trong một thành phố của các gandharva, chẳng có nhà cũng không có người ở.

Như trong một sự phản chiếu, sự vật xuất hiện, nhưng tự nó không thực có.

Như trong một thành phố được tạo bởi ma thuật, có đủ mọi thứ hình tướng nhưng chúng thực sự không có ở đó.

Nhìn mọi đối tượng nhận thức của bạn theo cách này, bạn sẽ hiểu được rằng tất cả những sự xuất hiện đó là sai lạc do bởi bản tánh đích thật của chúng. Khi bạn nhìn vào bản tánh của chủ thể tri giách chúng – tâm thức – thì những đối tượng đó xuất hiện với tâm thức không ngừng xuất hiện, nhưng những khái niệm nhận thức chúng như có hiện hữu thực sự được giảm bớt.  Để mặc tâm trong sự nhận thức bản tánh của thực tại, trống không nhưng trong sáng như bầu trời, chính là trí tuệ siêu việt.

Để giải thích chi tiết sáu sự toàn thiện siêu việt (sáu ba la mật), mỗi một toàn thiện được chia làm ba, tổng cộng là mười tám phần. Phạm trù bố thí vật chất riêng nó có ba phần, cả thảy là hai mươi phần. Nếu chúng ta thêm vào phương tiên siêu việt, thành hai mươi mốt phần; năng lực siêu việt, thành hai mươi hai; ước nguyện siêu việt, thành hai mươi ba và trí tuệ nguyên sơ siêu việt, thành hai mươi bốn.[163]

Đi sâu vào từng chi tiết, mỗi một toàn thiện siêu việt được chia làm sáu, làm thành ba mười sáu phần. Chúng ta có thể thấy điều này làm việc như thế nào bằng cách khảo sát phần về sự ban Pháp (Pháp thí) trong bố thí siêu việt.

Khi vị Thầy giảng dạy, Giáo Pháp được dạy và đệ tử mà với họ giáo lý được truyền dạy đến cùng một một lúc, việc giảng dạy giáo lý là bố thí siêu việt. Việc vị Thầy giảng dạy không tìm kiếm lợi lộc hoặc thanh danh trong việc giảng Pháp, và không làm ô nhiễm điều Ngài đang dạy bằng sự tự thổi phồng mình lên, bởi sự bực bội với địa vị của những người khác, hay bằng bất kỳ cảm xúc tiêu cực nào khác, là sự trì giới siêu việt. Việc vị Thầy lập đi lập lại ý nghĩa của một câu và không quan tâm tới những khó khăn và mệt nhọc là nhẫn nhục siêu việt. Việc vị Thầy giảng dạy đúng giờ đã định không nhượng bộ sự lười biếng và trì hoãn là tinh tấn siêu việt. Việc vị Thầy thuyết giảng chủ đề của ngài mà không cho phép tâm xao lãng khỏi những ngôn từ và ý nghĩa của chúng, không tạo ra bất kỳ sai sót nào và không thêm thắt hay bỏ sót bất kỳ điều gì, là thiền định siêu việt. Việc trong khi giảng dạy vị Thầy an trụ thấm đẫm trí tuệ giải thoát khỏi tất cả mọi khái niệm chủ thể, đối tượng, và hành vi là trí tuệ siêu việt. Vì thế tất cả những sự hoàn thiện siêu việt đều hiện diện.

Bây giờ hãy nhìn vào sự bố thí vật chất – ví dụ bố thí thực phẩm hay thức uống cho một hành khất. Khi vật cho, người cho và người nhận tất cả cùng hội hợp lại và hành vi thực sự hoàn tất, đó là sự bố thí. Việc đem cho thức ăn hay đồ uống của chính bạn, chứ không cho thực phẩm dở hay hư thối là sự trì giới. Việc không bao giờ nổi giận ngay cả khi bị hỏi xin liên tục, là sự nhẫn nhục. Việc sẵn sàng bố thí, không bao giờ nghĩ tưởng tới sự mệt nhọc hay khó khăn ra sao, là sự tinh tấn. Việc không để bản thân bạn xao lãng bởi những niệm tưởng khác là sự thiền định. Việc biết được ba yếu tố chủ thể, đối tượng và hành vi không có thực thể nội tại là trí tuệ. Một lần nữa ở đây cũng bao gồm sáu hoàn thiện siêu việt. những sự chia nhỏ tương tự cũng được định rõ giới luật, nhẫn nhục, và v.v..

Khi tóm tắt cốt tuỷ của những sự toàn thiện siêu việt, Ngài Jetsun Milarepa nói:

Hoàn toàn từ bỏ niềm tin vào bất kỳ sự hiện hữu thực sự nào,

Không có sự bố thí nào hơn được điều này

Hoàn toàn từ bỏ mọi thủ đoạn và xảo trá,

Không giới luật nào hơn được điều này.

Hoàn toàn vượt lên mọi sợ hãi về chân nghĩa,

Không có nhẫn nhục nào hơn được điều này.

Hoàn toàn an trú không tách biệt với thực hành,

Không có tinh tấn nào hơn được điều này.

Hoàn toàn an trụ trong vòng chảy tự nhiên.

Không thiền định nào hơn được điều này.

Hoàn toàn chứng ngộ trạng thái bản nhiên,

Không trí tuệ nào hơn được điều này.

Hoàn toàn thực hành Giáo Pháp trong mọi sự bạn làm,

Không phương tiện nào hơn được điều này.

Hoàn toàn chiến thắng bốn quỷ ma.

Không có sức mạnh nào hơn được điều này.

Hoàn toàn thành tựu mục đích hai nhánh,

Không có nguyện ước nào xa hơn điều này.

Nhận biết nguồn gốc thật sự của những cảm xúc tiêu cực,

Không có trí tuệ nào nguyên thuỷ nào hơn được điều này.

 

Có lần khi Khu, Ngok, và Drom* hỏi Ngài Atisa điều nào là tốt nhất trong tất cả các yếu tố của con đường, Ngài trả lời:

 

Học giả lỗi lạc nhất là người nhận ra ý nghĩa của sự vắng mặt bất kỳ sự hiện hữu chân thật nào.

Tu sĩ xuất sắc nhất là người đã điều phục được tâm mình

Phẩm tánh tốt nhất là một sự khát khao vĩ đại làm lợi lạc cho người khác.

Giáo huấn tuyệt diệu nhất là luôn sát tâm.

Phương thuốc hay nhất là hiểu rằng không sự vật nào có thực thể nội tại.

Cách sống lý tưởng nhất là cách sống không hợp với những phương cách thế gian.

Thành tựu tốt đẹp nhất là một sự tiết giảm kiên định những cảm xúc tiêu cực.

Dấu hiệu tốt lành nhất của sự thực hành là một sự giảm thiểu đúng đắn những ham muốn.

Bố thí tốt nhất là không vướng mắc

Trì giới tốt nhất là làm an bình tâm thức

Nhẫn nhục tốt nhất là giữ một vị trí khiêm tốn

Tinh tấn tốt nhất là từ bỏ mọi hoạt động

Thiền định hoàn hảo nhất là không biến đổi tâm.[164]

Trí tuệ tuyệt vời nhất là hoàn toàn không coi bất kỳ điều gì như thật sự hiện hữu.

 

Và Ngài Rigdzin Jigme Lingpa nói:

Bố thí siêu việt được tìm thấy ở sự bằng lòng,

Cốt tủy của nó là hoàn toàn buông bỏ.

Giới luật là không làm phật lòng Tam Bảo.[165]

Nhẫn nhục tốt nhất là sự chánh niệm và tỉnh giác không bao giờ vơi cạn.

Tinh tấn thì cần thiết để duy trì mọi sự toàn thiện khác.

Thiền định là để kinh nghiệm mọi sự xuất hiện mà ta bám chắc vào như những Bổn Tôn.[166]

Trí tuệ là sự tự giải thoát khỏi việc nắm giữ và bám chấp

Trong đó không có việc nghĩ và người nghĩ tưởng.

Nó không tầm thường. Nó thoát khỏi những sự xác tín chết cứng.[167]

Nó siêu vượt đau khổ. Nó là sự an bình tối thượng.

Không nên tiết lộ điều này cho mọi người –

Hãy gìn giữ nó thầm kín trong bổn tâm bạn.

 

Để đúc kết toàn bộ con đường bao la của giáo lý Bồ Tát, bao gồm sáu sự toàn thiện siêu việt, thì nó có thể hoàn toàn được cô đọng lại là “tánh Không mà cốt tuỷ đích thực của nó là lòng bi nhẫn.” Ngài Saraha nói trong các Doha của Ngài:

 

Không có lòng bi mẫn, thì cái thấy của tánh Không

Sẽ không bao giờ dẫn bạn tới con đường siêu phàm.

Nhưng chỉ thiền định duy nhất về lòng bi mẫn, bạn vẫn ở trong

Luân hồi sinh tử, thì làm sao bạn giải thoát được?

Nhưng người có đủ cả hai điều này

Sẽ không ở trong sinh tử mà cũng chẳng trụ ở Niết Bàn.

 

Không trụ trong luân hồi lẫn Niết Bàn là “Niết Bàn vô - trụ” của cấp độ Phật quả viên mãn. Như Đức Long Thọ nói:

Tánh Không mà cốt tuỷ đích thực của nó là lòng bi mẫn

Chỉ dành cho những người muốn giác ngộ.

 

Có lần, Drom Tonpa hỏi Ngài Atisa trong tất cả các giáo lý, cái nào là tuyệt hảo nhất.

“Trong tất cả các giáo lý, cái tuyệt hảo nhất là tánh Không mà cốt tuỷ đích thực của nó là lòng bi mẫn,” vị Thầy trả lời. “Nó giống như một loại thuốc cực mạnh, một loại thuốc bá bệnh có thể chữa lành mọi bệnh tật trên thế gian. Và cũng giống như loại thuốc chữa bá bệnh đó, việc nhận ra chân lý của tánh Không, bản tánh của thực tại, là phương thuốc cho tất cả những cảm xúc tiêu cực khác nhau.”

Drom Tonpa tiếp tục: “như vậy thì tại sao rất nhiều người tuyên bố rằng mình đã chứng ngộ tánh Không nhưng họ vẫn không bớt được sự tham luyến và sân hận?”

“Đó là bởi sự chứng ngộ của họ chỉ là ngôn từ,” Ngài Atisa trả lời. “nếu họ thật sự nắm được chân nghĩa của tánh Không, thì tư tưởng, ngôn ngữ và hành vi của họ phải mềm mại như bước đi thảm len hay như súp tsampa được trộn bơ.  Đạo sư Aryadeva nói rằng ngay cả việc tự hỏi mọi sự có rỗng không tự bản chất hay không cũng sẽ làm luân hồi tan rã.[168] Do đó, sự thật sự chứng ngộ tánh Không là phương thuốc tối hảo trị bá bệnh bao gồm mọi yếu tố của con đường.”

“Làm sao mọi yếu tố của con đường lại có thể được bao gồm trong sự chứng ngộ tánh Không?” Drom Tonpa hỏi.

“Mọi yếu tố của con đường đều được chứa đựng trong sáu sự toàn thiện siêu việt. Vì vậy, nếu ông thực sự chứng ngộ tánh Không, ông sẽ trở nên giải thoát khỏi sự tham luyến. Khi ông không cảm thấy khao khát, bám chấp hay ham muốn bất kỳ điều gì, bên trong hay bên ngoài, ông luôn có sự bố thí siêu việt. Giải thoát khỏi sự bám chấp và tham luyến, ông không còn bị nhiễm ô bởi những hành vi tiêu cực nên ông luôn có sự trì giới siêu việt. Không có bất cứ khái niệm về “tôi” và “của tôi”, ông không còn sân hận, vì thế ông luôn có sự nhẫn nhục siêu việt. Nhờ chứng ngộ tánh Không, tâm ông có sự hoan hỷ nên ông luôn có sự tinh tấn siêu việt. Thoát khỏi sự xao lãng xuất phát từ việc bám chắc vào những sự vật như cái gì bền vững, nên ông luôn có sự thiền định siêu việt. Khi ông không có khái niệm hoá bất kỳ việc gì trong các phạm vi chủ thể, đối tượng và hành vi, ông luôn có trí tuệ siêu việt.

“Có phải những người đã chứng ngộ chân lý đều thành Phật chỉ nhờ cái thấy tánh Không và sự thiền định?” Drom Tonpa hỏi.

“Trong tất cả những gì chúng ta tri giác như những hình tướng và âm thanh, thì không gì xuất hiện từ tâm. Nhận ra rằng tâm là sự tĩnh giác bất khả phân với tánh Không và cái thấy (kiến). Luôn luôn trì giữ nhận thức này trong tâm và không bao giờ xao lãng nó là thiền. Thực hành hai tích tập như một sự huyễn hoá từ bên trong trạng thái đó là hành. Nếu ông có một kinh nghiệm sống động về thực hành này nó sẽ tương tục trong các giác mộng của ông. Nếu nó đi vào trạng thái mộng, nó sẽ đến vào lúc chết. Nếu nó hiện trong trạng thái trung ấm, ông có thể chắc chắn sẽ đạt được thành tựu cao nhất.”

Như thế tám mươi bốn ngàn cánh cửa dẫn tới Giáo Pháp mà Đấng Chiến Thắng đã dạy là tất cả những phương tiện thiện xảo để phát khởi Bồ Đề Tâm – Tánh Không mà cốt tuỷ đích thật của nó là lòng bi mẫn.

Không có Bồ Đề Tâm, giáo lý về cái thấy và thiền định dù có vẻ uyên thâm tới đâu chăng nữa cũng sẽ không lợi ích chút nào trong việc đạt Phật quả viên mãn. Những thực hành Kim Cương Thừa như giai đoạn phát triển, giai đoạn thành tựu v.v…, được thực hành trong phạm vi của Bồ Đề Tâm, sẽ dẫn đến Phật quả viên mãn chỉ trong một đời. Nhưng nếu không có Bồ Đề Tâm thì chúng chẳng khác với những pháp môn của các Tirthika. Những người Tirthika cũng có nhiều thực hành liên quan tới sự thiền định về các Bổn Tôn, tụng niệm các thần chú và làm việc với các kinh mạch và năng lực, họ cũng hành sử phù hợp với luật nhân quả. Nhưng chỉ vì họ không quy y và khơi dậy Bồ Đề Tâm nên họ không thể đạt được sự giải thoát khỏi các cõi luân hồi. Đó là lý do tại sao các Ngài Geshe Kharak Gomchung nói:

Chẳng lợi ích gì khi thọ mọi giới nguyện, từ giới nguyện quy y cho tới những samaya của Kim Cương thừa, trừ phi bạn xoay chuyển tâm khỏi những sự việc của thế gian này.

Chẳng ích lợi gì khi cứ liên tục thuyết giảng Giáo Pháp cho người khác, trừ phi bạn an định được tánh tự phụ của riêng bạn.

Chẳng  ích lợi gì trong việc tạo ra tiến bộ nếu cuối cùng bạn từ bỏ những giới luật quy y.

Chẳng ích lợi gì khi thực hành cả ngày lẫn đêm trừ phi bạn kết hợp thực hành với Bồ Đề Tâm.

 

Trừ phi trước tiên bạn tạo dựng nền tảng đúng đắn với sự quy y và Bồ Đề Tâm, cho dù bạn có vẻ học tập, quán chiếu và thiền định mãnh liệt tới đâu chăng nữa, điều đó cũng sẽ hoàn toàn không ích lợi gì hơn việc xây lâu đài chín tầng trên mặt hồ đóng băng vào mùa đông, và việc vẽ tranh bích hoạ trên tường thạch cao. Rốt cuộc nó chẳng có chút ý nghĩa nào.

Đừng bao giờ xem thường các thực hành quy y và Bồ Đề Tâm, cho rằng chúng thấp thỏi hay chỉ dành cho những người sơ cơ. Hãy hoàn thành chúng đầy đủ trong khuôn khổ của sự chuẩn bị, thực hành chính và kết thúc, để thích hợp với bất kỳ con đường nào. Điều hết sức quan trọng cho tất cả mọi người, dù xấu hay tốt, cao hay thấp, là tập trung các nỗ lực chân thành nhất vào những thực hành này.

Trong trường hợp đặc biệt của những Lạt ma và tu sĩ, là những người nhận của cúng dường từ các tín chủ, nhận tài vật nhân danh người chết, hay là những người cử hành các buổi lễ dẫn dắt người chết, điều tuyệt đối mà họ không thể thiếu là Bồ Đề Tâm chân thật. Không có Bồ Đề Tâm thì chẳng có nghi lễ và các sự tịnh hoá nào của họ đem lại được lợi ích nhỏ bé nhất cho người sống hay người chết. Đối với những người khác, họ có thể xuất hiện để cứu giúp, nhưng tận sâu thẳm bên trong thì sự giúp đỡ này luôn bị pha trộn với những động cơ ích kỷ. Đối với chính họ, họ sẽ bị nhiễm ô bởi việc thọ nhận những vật cúng dường đó, và sẽ gây ra vô số lỗi lầm chỉ có thể dẫn họ tới những cõi thấp trong đời kế tiếp.

Ngay cả người nào đó có thể bay như chim, di chuyển dưới mặt đất như chuột, đi qua núi đá không bị ngăn trở, để lại những dấu tay và chân trên đá, người nào đó có khả năng thấu thị không giới hạn và có thể thực hiện đủ mọi loại huyền thuật - nếu một người như vậy mà không có Bồ Đề Tâm, thì họ chỉ có thể là một tirthika hay đã bị một vài quỷ ma đầy năng lực nào đó ám nhập. Thoạt tiên, họ có thể lôi cuốn một số người ngây thơ bị cảm kích và đem cúng dường. Nhưng về lâu dài thì họ chỉ đem lại sự huỷ hoại cho chính họ và những người khác. Trái lại, một người có Bồ Đề Tâm thật sự, thì cho dù không có bất kỳ phẩm tánh nào khác, họ cũng sẽ làm lợi ích cho bất kỳ ai đến tiếp xúc với họ.

Bạn không biết được ở nơi đâu có thể có một vị Bồ Tát. Người ta nói nhiều Bồ Tát sử dụng những phương tiện thiện xảo của họ, thậm chí được tìm thấy trong số những kẻ sát sanh thú vật và gái điếm. Thật khó có thể nói người nào đó có Bồ Đề Tâm hay không. Đức Phật nói:

 

Ngoài bản thân ta và những người giống ta, không ai có thể phán xét người khác.

Vì thế, hãy coi bất kỳ ai khơi dậy Bồ Đề Tâm trong bạn là một vị Phật thật sự, hoặc một Bổn Tôn, vị Thầy, thiện tri thức hay bất kỳ người nào khác.

Bất cứ khi nào bạn cảm thấy mình đã đạt được một vài phẩm tánh nào đó như các dấu hiệu của sự tiến bộ trên con đường, bất kỳ chúng có thể là gì - sự chứng ngộ trạng thái bản nhiên, sự thấu thị, thiền định, các linh kiến về Bổn Tôn v.v.. --bạn có thể tin chắc rằng chúng thực sự là những phẩm tính đích thực nếu, như một kết quả, lòng từ và bi của Bồ Đề Tâm liên tục tăng trưởng thật vững chắc. Tuy nhiên, nếu kết quả của những kinh nghiệm như vậy chỉ làm suy giảm lòng từ và bi của Bồ Đề Tâm, thì bạn có thể tin chắc một cách tương đương rằng những gì trông giống như một dấu hiệu của sự thành công trên con đường thì thực ra là một chướng ngại của ma quỷ, hoặc một điềm chỉ cho thấy bạn đang đi theo con đường sai lạc.

Đặc biệt, sự chứng ngộ đích thực về trạng thái bản nhiên không thể không được kè, theo bởi niềm tin phi thường và tri giác thanh tịnh đối với những bậc toàn thiện hơn bản thân bạn, và lòng từ và bi phi thường đối với những người kém toàn thiện hơn.

Ngài Dagpo Rinpoche vô song có lần hỏi Ngài Jetsun Mila: “Khi nào con có thể dẫn dắt người khác ?”

Ngài Jetsun trả lời: “Một ngày nào đó, con sẽ có một thị kiến phi thường trong sáng về bản tánh của tâm con, nó hoàn toàn khác với thị kiến mà con hiện có, và thoát khỏi mọi sự nghi ngờ. Vào lúc đó, trong một cách thức hoàn toàn không bình thường, con sẽ nhận ra ta, người cha già của con, như một vị Phật thật sự và chắc chắn con sẽ cảm thấy lòng từ và bi tự nhiên đối với tất cả chúng sanh. Đó là lúc con nên bắt đầu giảng dạy.”

Vì thế, hãy học tập, quán chiếu và thiền định về Giáo Pháp, không tách riêng cái này với cái khác, trên nền tảng vững chắc của lòng từ và bi của Bồ Đề Tâm. Trước tiên nếu không loại bỏ những nghi ngờ qua việc học tập, bạn sẽ không bao giờ có thể thực hành. Có câu nói rằng:

 

Thiền định mà không học tập

Giống như leo núi khi bạn không có tay.

 

Loại bỏ những nghi ngờ qua việc học tập không có nghĩa bạn phải thông suốt vô số mọi vấn đề rộng lớn. Trong thời buổi suy đồi này, sẽ không thể làm được điều đó trong một đời người ngắn ngủi. Điều nó muốn nói tới là bất kỳ giáo lý nào bạn sắp đưa vào thực hành, bạn nên biết chính xác làm thế nào để thực hành nó từ đầu tới cuối không chút lỗi lầm. Nếu có bất kỳ do dự nào, bạn nên loại bỏ ngay bằng cách quán chiếu về các giáo lý đó.

Khi Ngài Atisa ở Nyethang, Nachung Tonpa xứ Shan, Kyung Tonpa và Lhangsang Tonpa xin Ngài dạy cho họ về những hệ thống luận lý khác nhau.

Ngài Atisa trả lời: “Những người tirthika phi-Phật-Giáo và bản thân những Phật Tử có nhiều hệ thống giáo lý, nhưng chúng hoàn toàn chỉ là những chuỗi tư tưởng lan man. Không cần tới hằng hà sa số ý tưởng đó: cuộc đời quá ngắn ngủi không thể thấu biết hết chúng được. Giờ đây là lúc tinh giảm những điều này cho tới cốt lõi của chúng.”

“Làm thế nào để tinh giảm cho tới cốt tủy của chúng?”

“Bằng cách tu tập trong Bồ Đề Tâm với lòng từ và bi đối với tất cả chúng sanh đầy khắp hư không. Bằng cách thực hiện những nỗ lực tích cực trong hai sự tích tập vì lợi ích của tất cả chúng sinh đó. Bằng cách hồi hướng tất cả suối nguồn của những điều tốt lành cho tương lai đã được tạo theo cách đó cho sự giác ngộ viên mãn của mỗi một và tất cả chúng sinh. Và, cuối cùng, bằng cách nhận ra rằng tất cả những điều này đều trống không tự bản chất, giống như những giấc mộng hay những trò huyễn hoá.”

Nếu bạn không biết làm cách nào để tinh giảm bất kỳ thực hành nào tới cốt tủy của nó, thì sẽ chẳng có số lượng thông tin, kiến thức và sự hiểu biết thông tuệ nào có thể đem lại lợi ích gì cho bạn.

Khi Ngài Atisa đến Tây Tạng, Ngài được mời tới thăm đại dịch giả Rinchen Zangpo. Ngài hỏi vị dịch giả về những giáo lý mà ông biết, liệt kê một danh sách dài, tuần tự từng cái một. Hoá ra không giáo lý nào Rinchen Zangpo không biết. Ngài Atisa đặc biệt hài lòng.

“Tuyệt vời!” Ngài nói. “Sự kiện đã có một bậc uyên thâm như ông sống ở Tây Tạng có nghĩa là cuộc thăm viếng của tôi hoàn toàn không cần thiết. Vậy làm cách nào ông kết hợp tất cả những giáo lý này khi ông ngồi xuống thực hành?”

“Tôi thực hành từng thứ như nó được giảng trong bản văn,” Rinchen Zangpo nói.

“Lão dịch giả vô dụng!” Ngài Atisa kêu lên trong sự thất vọng. “Như vậy rốt cuộc việc ta tới Tây Tạng là cần thiết”!

“Nhưng thay vào đó tôi nên làm gì?” vị dịch giả hỏi.

“Ông phải tìm ra điểm cốt lõi chung nhất cho tất cả các giáo lý và thực hành theo cách đó,” Ngài Atisa bảo với ông ta.

Rất cần thiết phải tìm ra điểm trọng yếu của sự thực hành, được đặt nền trên những giáo huấn tinh tuý của vị Thầy. Một khi bạn thấu suốt được điểm trọng yếu, bạn phải đưa nó vào thực hành, nếu không nó sẽ hoàn toàn vô ích. Ngài Jetsun Mila nói:

 

Người đói bụng không thoã mãn bằng cách nghe nói về thực phẩm; điều mà họ cần là ăn. Tương tự như thế, chỉ hiểu biết về Pháp thì không ích lợi; nó phải được thực hành.

 

Mục đích của sự thực hành là một cách đối trị cho những cảm xúc tiêu cực và sự chấp ngã. Ngài Jetsun Mila lại nói:

 

Người ta nói rằng bạn có thể khẳng định một người nào đó có phải là vừa mới ăn hay không bằng cách coi mặt họ đỏ như thế nào. Tương tự như thế, bạn có thể cả quyết người nào đó có hiểu và thực hành Giáo Pháp hay không bằng cách xem Pháp có là một phương thuốc chữa lành những cảm xúc tiêu cực và sự chấp ngã của họ hay không.

 

Potowa hỏi Geshe Tonpa đâu là ranh giới giữa Pháp và phi-Pháp. Vị geshe trả lời:

Nếu nó chống lại những cảm xúc tiêu cực thì đó là Pháp. Nếu không, đó là phi-Pháp

Nếu nó không thích hợp với những phương cách của thế gian thì nó là Pháp. Nếu nó thích hợp, đó là phi-Pháp.

Nếu nó khế hợp với kinh điển và những giáo huấn của bạn thì nó là Pháp. Nếu nó không khế hợp, đó là phi – Pháp.

Nếu nó để lại dấu ấn tích cực thì đó là Pháp. Nếu nó để lại dấu ấn tiêu cực, đó là phi-Pháp.

 

Đạo sự Chegom nói:

Tin vào những kết quả của các hành vi là chánh kiến dành cho những người có khả năng bình thường. Nhận ra mọi hiện tượng bên ngoài và bên trong là sự hợp hất của cả hình tướng lẫn tánh Không, và của giác tánh và tánh Không, là chánh kiến dành cho những người có khả năng cao hơn. Nhận ra rằng cái thấy, người có cái thấy và bản thân sự nhận thức thì bất khả phân[169] là chánh kiến dành cho những người có khả năng cao nhất.

Giữ tâm hoàn toàn tập trung trên đối tượng là thiền định đúng đắn dành cho những người có khả năng bình thường. An trụ tập trung trên bốn sự hợp nhất[170] là thiền định đúng đắn dành cho những người có khả năng cao hơn. Một trạng thái của sự phi-khái niệm hoá trong đó không có đối tượng của sự thiền định, không có người thiền định và không có kinh nghiệm thiền định là thiền định đúng đắn dành cho những người có khả năng cao nhất.

Thận trọng về những kết quả của các hành vi như người ta cẩn thận bảo vệ con mắt mình là hành vi đúng đắn cho những người có khả năng bình thường. Hành động trong khi kinh nghiệm mọi sự như một giất mơ và một ảo ảnh là hành vi đúng đắn dành cho những người có khả năng cao hơn. Hoàn toàn không-hành động (không làm)[171] là hành vi đúng đắn dành cho những người có khả năng cao nhất.

Sự không ngừng giảm bớt sự chấp ngã, các cảm xúc và niệm tưởng tiêu cực là dấu hiệu của sự “ấm áp” dành cho tất cả hành giả, dù họ có khả năng bình thường, cao hơn hay cao nhất.

 

Những lời tương tự được thấy trong Con Đường Siêu Việt Quý Báu của Ngài Dagpo vô song.

Vì thế, khi học Giáo Pháp, bạn nên biết cách rút ra được tinh tuý của nó. Ngài Longchenpa vĩ đại nói:

 

Kiến thức thì vô tận như sao trên trời;

Không có sự kết thúc đối với tất cả những vấn đề người ta có thể học.

Tốt hơn nên lập tức nắm lấy cốt tủy đích thực của chúng –

Thành trì bất biến của Pháp Thân.

 

Sau đó, khi bạn quán chiếu về Pháp, bạn nên thoát khỏi mọi nghi ngờ. Ngài Padampa Sangye nói:

Hãy tìm kiếm những giáo huấn của vị Thầy giống như chim ưng mẹ săn mồi.

Hãy lắng nghe các giáo lý như một con nai đang nghe nhạc;

Hãy thiền định về chúng như một người câm thưởng thức món ăn;

Hãy suy niệm về chúng như một người du mục phương Bắc xén lông cừu;

Hãy đạt được kết quả của chúng, giống như mặt trời ra khỏi đám mây.

 

Việc lắng nghe Pháp, quán chiếu và thiền định về nó nên tiến hành liên quan chặt chẽ với nhau. Ngài Dagpo vô song nói:

 

Hoà trộn sự học tập, quán chiếu và thiền định về Pháp là một điểm trọng yếu không thể sai lầm.

 

Kết quả của việc học tập, quán chiếu và thiền định phải là một sự phát triển vững chắc và chân thật trong lòng từ và bi của Bồ Đề Tâm, cũng như một sự giảm thiểu vững chắc và chân thật của tánh chấp ngã và những cảm xúc tiêu cực.

Giáo huấn này về việc làm thế nào khơi dậy Bồ Đề Tâm là tinh tuý của tất cả các Giáo Pháp và là yếu tố cốt tuỷ của mọi con đường. Nó là giáo lý tối yếu, có nó thì dứt khoát tự thân nó đã đầy đủ, còn thiếu nó thì chắc chắn sẽ khiến cho mọi sự đều vô dụng. Không nên hài lòng với việc chỉ nghe và hiểu nó. Hãy đưa nó vào thực hành tận đáy trong lòng bạn!

Con quả quyết là đang khơi dậy Bồ Đề Tâm, nhưng nó vẫn chưa phát khởi trong con.

Con đã tu tập trong con đường của sáu sự hoàn thiện, nhưng vẫn còn ích kỷ.

Xin ban phước cho con và những kẻ có tâm lượng nhỏ hẹp như con.

Để chúng con có thể tu tập trong Bồ Đề Tâm cao cả. 


 

[129] Ở đây ám chỉ câu chuyện xây Đại Bảo Tháp ở Bodhnath, xa Kathmandu của một người phụ nữ nuôi gia cầm và các con trai của bà. Là kết quả của những nguyện ước họ đã thực hiện vào lúc đó, ba người con trai được tái sanh làm Đạo sư Padmasambhava, vua Trisong Detsen, và Tu viện trưởng Santaraksita, các Ngài cùng chịu trách nhiệm củng cố vững chắc Giáo Pháp ở Tây Tạng. Bảo tháp nguy nga này là một trung tâm đầy hấp lực đối với những người sùng mộ Tây Tạng, họ biết nó với cái tên Jarung Khashor. (Muốn xem toàn bộ câu chuyện, xin đọc Truyền Thuyết Về Đại Bảo Tháp, Keith Dowman dịch, nhà xuất bản Dharma, Berkley, 1973)

* Nhà vua có danh hiệu là Songtsen Gampo, vị vua Phật tử đầu tiên của Tây Tạng, Ngài được coi là một hoá thân của Đức Quán Tự Tại.

* Gù lông mềm trên lưng bò yak được dùng làm len, người ta thường vặt nó ra hơn là xén.

** Ở Tây Tạng, người ta thường giết súc vật bằng cách làm nó ngạt thở.

* Như huyết-xúc xích.  Điều này làm theo một niềm tin của địa phương là một hỗn hợp gồm máu của một con vật còn sống và máu một con vật đã chết làm tương cường sinh lực.

[130]  Theo những tiên tri của một nhà chiêm tinh bà la môn thì sau khi hoàng tử Siddharta hạ sinh, đứa trẻ sẽ trở thành một vị Chuyển Luân Thánh Vương hay một vị Phật.

* a tsa ra là một sửa đổi sai lạc của từ Phạn ngữ acarya, và ở đây có nghĩa là những sự xuất hiện mang hình tướng của các nhà khổ hạnh Ấn Độ.

* Những bổn tôn tượng trưng của mạn đà la.

[131]  Những Tantra khác thì tính đến những sư tử và con công thay vì con chó hay bò. Tất cả những loại thịt này thường không được ăn bởi chúng là điều cấm kỵ theo tư duy của người bà la môn ở thời Ấn Độ cổ đại, quá thiêng liêng hoặc quá bất tịnh. Do đó, chúng được định rõ để thực hành nhằm phá bỏ những khái niệm.

* Xem thuật ngữ.

** Nghĩa đen: sự hỗ trợ. Những đại diện cho thân Phật ám chỉ cho các pho tượng và tranh vẽ, những đại diện cho ngữ của Phật ám chỉ các Kinh văn linh thánh và những bản văn khác, và những đại diện cho tâm Phật ám chỉ các tháp (stupa).

[132] Một vài kinh nghiệm chẳng hạn như các linh kiến, các giấc mộng v.v.. có thể (nhưng không nhất thiết) là những dấu hiệu của sự tiến bộ trong việc thực hành. Những vị Thầy trong dòng truyền thừa của Ngài Patrul Rinpoche nhấn mạnh rằng người ta không nên bị mê hoặc bởi những kinh nghiệm như thế. Đúng hơn, ta nên đo lường tiến bộ bằng sự phát triển lòng sùng kính, lòng bi mẫn và sự giải thoát khỏi những cảm xúc tiêu cực trong tâm ta.

* Xem Phần Một, Chương Sáu và Phần Hai, Chương Một.

[133] Mười cấp độ (Thập Địa) và năm con đường của một Bồ Tát. Ở đây dường như có nghĩa là sự tiến bộ trên con đường nói chung

[134] Từ thời xa xưa, truyền thống của những tu sĩ Phật Giáo là dâng cúng phần đầu tiên của những gì họ nhận được trong cuộc khất thực hàng ngày cho Tam Bảo, họ ăn phần giữa mà không có sự phân biệt, và bô thí phần cuối cho người nghèo khổ.

[135]  Sự “khởi dậy Bồ Đề Tâm” chỉ là một cách dịch có thể chấp nhận được của từ sems bskyed. Từ bskye có nghĩa sinh ra, tạo tác, những cũng có nghĩa là tăng trưởng, phát triển. Từ sems là chữ viết tắt của byang chub kyi sems (Phạn ngữ: bodhicitta, Bồ Đề Tâm), “tâm giác ngộ,” có nhiều cấp độ ý nghĩa. Đối với người sơ cơ, nó đơn giản là ý định giải thoát tất cả chúng sanh. Tuy nhiên, trong một nghĩa sâu xa hơn, Bồ Đề Tâm là một đồng nghĩa của Phật Tánh (Phạn ngữ: Tathagatagarbha, Như Lai Tạng) và của giác tánh nguyên sơ (rigpa). Ở cấp độ này, nó không phải là điều gì đó được tạo tác ra mà trước đó không có, bởi nó là bản chất nền tảng của tâm ta, là cái gì luôn hiện diện cùng chúng ta và chỉ cần được khám phá và làm hiển lộ ra. Chúng tôi chọn từ “khơi dậy” để cố gắng truyền đạt điều gì đó của cả hai phương tiện.

[136] Điều này được Những Chú Thích về Lời Vàng của Vị Thầy của tôi định nghĩa là “cam đoan đạt được kết quả.”

[137] Những Chú Thích về Lời Vàng của Vị Thầy của tôi  (NT) nói “Bồ Đề Tâm áp dụng là ý định thực hành sáu sự toàn thiện siêu việt, nó là nguyên nhân hay phương tiện để đạt được kết quả

[138] “Bồ Đề Tâm tương đối được tạo nên với sự hổ trợ của những tư tưởng của ta. NT

[139]  “Bồ Đề Tâm tuyệt đối là trí tuệ, trong đó những hoạt động của tư tưởng đã biến mất.” NT

[140] Ở đây để cho sáng sủa hơn, chúng tôi đã thêm vào tiêu đề mà trong nguyên bản không có.

[141] Ánh trăng trong nước xuất hiện sống động nhưng không có sự hiện hữu thực sự và độc lập. Cũng đúng như thế đối với những gì chúng ta tri giác qua các giác quan, bởi các hiện tượng không có bất kỳ bản chất khách quan nào. Tuy nhiên, chúng ta bị lạc lối vì tin rằng những sự xuất hiện đó là thật có một cách khách quan. Chính sự vô minh căn bản này là nền tảng cho những cảm xúc tiêu cực khiến chúng ta lang thang trong luân hồi sinh tử.

[142] Lý do khiến Bồ Đề Tâm là nền tảng tối yếu của con đường đi tới giác ngộ là vì ở bình diện tuyệt đối nó chính là Phật tánh, nội tại trong tất cả chúng sanh, là cái gì trong lòng từ và bi vô giới hạn một cách tự nhiên. Tiến trình của Bồ Đề Tâm tương đối là làm cho bản tánh đó hiển lộ ra. Những Chú Thích về Lời Vàng của Vị Thầy của tôi  (NT) nói về hai phương diện này: “Cái đầu tiên là nguyên nhân sâu xa của việc đạt được Phật Quả, và cái thứ hai là nguyên nhân do hoàn cảnh (nguyên nhân bất ngờ)”

[143]  NT giải thích rằng trước tiên ta phải cố gắng khơi dậy Bồ Đề Tâm trong chốc lát ngắn ngủi nhất, rồi trong hai lần, rồi ba lần..

[144] Sự hướng dẫn theo kinh nghiệm, nyams khrid, là một phương pháp giảng dạy trong đó trước tiên vị Thầy chỉ ban chút ít giáo huấn. Người đệ tử đưa nó vào thực hành rồi trình bày kinh nghiệm của mình về sự thực hành cho vị Thầy, sau đó Ngài khuyên dạy đệ tử hay ban cho giáo huấn sâu xa hơn trên căn bản đó, và tiếp tục trong sự tương tác liên tục.

[145] Một thân tướng của Bồ Tát Avalokitesvara (Quán Tự Tại), có màu trắng pha lê.

[146] Phạn ngữ: usnisa:chỗ nhô lên trên đỉnh đầu (nhục kế) này là một trong những tướng của một vị Phật. Trong trường hợp của Vua Mão Ngọc, tướng này đã hiện diện cho dù Ngài chưa là một vị Phật Toàn Giác.

[147]  Năm hoàn thiện đầu liên quan tới sự tích tập công đức, tuy nhiên trong thời gian đó vẫn được thấm nhuần trí tuệ. Chính điều này tạo ra sự bố thí và tiếp tục với những “toàn thiện siêu việt.”

* Một loại thần chú dài được tìm thấy trong các Kinh điển.

** Trong nghi thức của một cuộc cúng dường lửa (xem Thuật ngữ), “sự bố thí Pháp” thường được bao gồm trong hình thức của bài kệ tóm tắt giáo lý của Đức Phật. “Hãy từ bỏ ác hạnh…,” được trích dẫn ở tiết 2.1.2 Bố thí Pháp trong Chương này.

# Xem Phần Một, Chương Bốn, Mục 1, tiết 2.2.2 Những kinh nghiệm tương tự với nguyên nhân.

* Xem Phần Một, Chương Bốn, Mục III

[148] Những Bồ Tát đã đạt tới những cấp độ siêu việt đã chứng ngộ tánh Không và có những ý hướng thanh tịnh và bao la, không phải là trường hợp của chúng sinh bình thường.

[149] rang don, lợi ích của riêng ta (AT: mục đích), ngụ ý sự hoàn toàn chứng ngộ tánh Không, Pháp Thân (dharmakaya), rồi từ đó Báo Thân và Hoá Thân hiển lộ ra qua lòng bi mẫn để thành tựu gzhan don, lợi ích của những người khác.

[150] Xem Thuật ngữ: hơi ấm. (dấu hiệu) – drod rtags, một dấu hiệu cho thấy sự thực hành đang bắt đầu tiến triển. (Khi một ngọn lửa tạo nên nhiệt thì có nghĩa là nó đã bắt đầu cháy tốt) Thành ngữ này không đặc biệt nói tới một kinh nghiệm về thân nhiệt.

[151] Cây thuốc biểu tượng cho Bồ Đề Tâm, chữa lành mọi đau khổ của bản thân ta và những người khác

[152] Sự cúng dường tượng trưng của thân được giải thích trong Phần Hai, Chương Năm.

[153] Điều này được giải thích trong Phần Một, Chương 4, Mục III

[154]  Những Chú thích về Lời Vàng của Vị Thầy của tôi (NT) giải thích rằng những gì có thể huỷ hoại theo cách này là kết quả của những hành vi tích cực chỉ tạo ra công đức (bsod nams), nghĩa là những gì được thực hiện mà không có ba phương pháp tối cao.

[155]  “Trì giới trong một ngày thì có giá trị hơn một tram năm trì giới” NT

* Thuỷ ngân được dùng trong thực hành bcud len (sự trích chiết tinh chất). Độc chất của nó được làm trung hoà và từ nó người ta làm thành các viên thuốc. Các thiền giả sống bằng những viên thu6óc này, không dùng tới thực phẩm thông thường.

[156] Có lẽ họ là những đệ tử của một trong những phái Sravakayana (Thanh Văn) tin rằng không có bản ngã cá nhân hiện hữu thực sự (gang zag gi bdag med) nhưng lại không thừa nhận tánh Không trùm khắp của sự hiện hữu thực sự của các hiện tượng (chos kyi bdag med)

[157]  Nó là sự rộng mở vô biên của lòng từ và bi đối với tất cả chúng sinh, cho phép tâm thức hoàn toàn mở ra trước sự bao la rộng lớn của quan điểm Đại Thừa

[158]  Cũng xem chú thích 46

* “Cốt tuỷ của sự tinh tấn là hoan hỷ trong khi làm các thiện hạnh.” NT

* Sương giá, là thứ phá hoại vụ thu hoạch cây trái của ta, tượng trưng cho những chướng ngại ngăn cản chúng ta không đạt được mục đích.

** Một danh hiệu khác của Ngài Atisa

[159] “Tránh rơi vào một sự cực đoan là điều sẽ gây nên sự mệt mỏi quá mức, hoặc thực hành một khổ hạnh thái quá sẽ kết thúc cuộc đời bạn.” NT

[160]  “Ta trở nên càng lúc càng dính mắc vào những kinh nghiệm thiền định. Đây là kinh nghiệm về sự hỷ lạc, trong đó ta cảm thấy hạnh phúc mà không cần lý do; kinh nghiệm về sự trong sáng, khi sự vẩn đục của niệm tưởng đã lắng xuống và ta cảm thấy như một căn nhà trống không, không trong không ngoài; kinh nghiệm về sự vô-niệm, trong đó, khi ta kiểm soát xem có niệm tưởng nào khởi lên hay không, ta có cảm tưởng rằng chẳng có gì xuất hiện. Ta vẫn chấp vào tính xác thực của một cái “tôi” (gang zag gi bdag) bằng cách nghĩ tưởng về “kinh nghiệm của tôi”. Và ta cũng bám chấp vào tính xác thực của đối tượng (chos kyi bdag) bằng cách nghĩ rằng có những kinh nghiệm thực sự để bám víu. Điều này mâu thuẫn với việc nhận ra tánh Không của sự hiện hữu thực sự là suối nguồn của sự giải thoát.” NT. Vào giai đoạn thiền định này, ta chỉ đạt được sự an định (zhi gnas, Phạn ngữ: samatha, chỉ) không có sự nội quán sâu xa (lhag mthong, Phạn ngữ: vipasyana, quán).

[161] Tư thế bảy điểm của Vairocana (Tỳ Lô Giá Na) – mam snang chos bdun, bảy điểm của tư thế thiền định lý tưởng: chân xếp chéo theo tư thế vajra (kim cương), lưng thẳng, tay kết ấn thiền định, mắt nhìn hướng về đầu mũi, cằm hơi gấp vào, hai vai kéo ra sau “giống như cánh chim kên kên” và đầu lưỡi chạm vòm họng.

[162] Việc giữ lưng thẳng cho phép năng lực vi tế (rlung) lưu thông tự do trong các kinh mạch vi tế (rtsa). Đây là một mố liên hệ mật thiết giữa hệ thống vật chất vi tế này và những hoạt động của tâm. Người ta nói rằng tâm ngự trên năng lực này giống như một kỵ sĩ cưỡi ngựa.

[163] Những sự toàn thiện siêu việt của phương tiện (bhabs), sức mạnh (stobs), ước nguyện (smon lam) và trí tuệ nguyên thuỷ (ye shes) được thêm vào cho sáu toàn thiện thông thường làm thành mười toàn thiện siêu việt.

* Ba đệ tử chính của Ngài Atisa (xem Thuật ngữ)

[164]  Điều này có nghĩa là không đè nén các niệm tượng mà cũng không chạy theo chúng, không cố ý biến đổi trạng thái tâm của ta hay đạt được một trạng thái thiền định đặc biệt. Ở một ý nghĩa nào đó thì mọi niệm tưởng mê lầm là những biến đổi của dòng chảy tự nhiên của giác tánh.

[165]  Đó là không có gì để hổ thẹn khi đứng trước Tam Bảo.

[166]  Thiền định là sự vắng bặt các xao lãng. Nguồn mạch của sự xao lãng là coi những sự xuất hiện như thật có. Thiền định về những sự xuất hiện như các Bổn Tôn (nó có nghĩa là những hiển lộ trí tuệ thanh tịnh không có thực tại cụ thể) là để tập trung.

[167]  Nges shes, nghĩa đen: “những điều chắc chắn,” được dùng ở đây để chỉ những quan điểm cực đoan như chủ nghĩa vĩnh hằng và chủ nghĩa hư vô, chúng tuyên bố rằng các hiện tượng hiện hữu hay không hiện hữu một cách dứt khoát.

[168]  “Ở đây srid pa (vòng sinh tử luân hồi) ám chỉ bất kỳ những gì người ta tin là thật có và bị dính mắc vào đó.” Dilgo Khyentse Rinpoche

[169] Bởi cái thấy – là sự nhận biết (chứng ngộ) tánh Không - người nhận biết, cái được nhận biết và tiến trình nhận biết được nhận ra là không có bất kỳ thực thể nội tại nào. Chúng chỉ xuất hiện như sự phô diễn huyễn hoá của giác tánh, trống không và chói sáng tự nhiên.

[170] Sự hợp nhất của những sự xuất hiện và tánh Không, giác tánh và tánh Không, sự hỉ lạc và tánh Không, và sự trong sáng và tánh Không.

[171] Điều này có nghĩa là hành động mà không khái niệm hoá, trong sự nhận biết rằng người làm, hành vi, và đối tượng được làm thì hoàn toàn không có thực thể nội tại.

 

----o0o---

 

Mục Lục > 1-1 > 1-2 > 1-3 > 1-4> 1-5 >1-6

 2-1 > 2-2 > 2-3 > 2-4 > 2-5 > 2-6 > 3-1

 

----o0o---

Vi tính: Tường Tâm

Trình bày: Diệu Tường

Cập nhật: 01-2008

Nguồn: www.quangduc.com

Về danh mục

Tổ Pháp Hóa Tổ khai sơn tổ đình an chay doi voi gioi tre pháp môn tịnh độ là pháp môn dựa trên テ p bãªn chua giac luong tue cau chuyen vi bo tat mang dep nguoc 6 toi loi lon nhat ma nguoi viet dang mac phai khi Tôi đi tu Bát quan trai Thay đổi lối sống làm giảm lão hóa Phật giáo Ä Ã² cam nang vao doi cho nguoi cu si tai gia tÕa nha tinh day di thoi bình an nghi va cam nhan ve cuoc song cua minh này các bạn trẻ xuất gia nghệ thuật hạnh phúc trong thế giới Do Ä Ã đề 天眼通 意味 hanh thien trong quan tri thoi gian Chè bắp Ấm lòng những ngày mưa quen di nhung qua khu dang buon 士用果 Thiền và nghệ thuật bảo vệ hành tinh t盻 tinh giac lÃm chang ha tinh phat hien chuong dong co thoi tay son ngẫm lời đức phật dạy la hầu la về đừng lỗi hẹn với thời gian nhan mang ト妥 Bánh cúng đừng học thói trọc phú để ăn thú du chuong viii thoi ky dau cua phat giao dai thua nghiện chụp ảnh tự sướng có sao coi va niem Bèo nước tương phùng chua huyen khong hoc phat