|
.
GIẢNG GIẢI
TÍN TÂM MINH
TỊCH NGHĨA GIẢI
Hòa
Thượng Thích Duy Lực
Thích
Đồng Thường Ghi Thành Văn Tự
Bài
tựa:
Ngài
Trung Phong nói: Thiền tông là bất lập văn tự. Do từ trong
hội Linh Sơn, Phật Thích Ca đưa cành hoa lên, ngài Ma Ha Ca
Diếp mỉm cười; Phật tuyên bố rằng: Ta truyền cho ông “Chánh
pháp nhãn tạng, Niết bàn Diệu tâm, thật tướng vô tướng”.
Giáo
ngoại biệt truyền là ở ngoài kinh điển, đặc biệt truyền
riêng pháp môn này; bất lập văn tự chẳng phải phế bỏ
văn tự, mà không cần phải qua văn tự và lời nói, tức
là chỉ thẳng tâm mình là Phật; chỉ cần tham thiền hiện
ra tâm này, gọi là kiến tánh thành Phật.
Đã
nói bất lập văn tự, tại sao Tổ Đạt Ma mới truyền qua
3 đời, đến ngài Tăng Xán lập ra Tín Tâm Minh gồm 584 chữ,
có phải sửa lại gia phong của Tổ chăng! Tổ Tăng Xán làm
Tín Tâm Minh không trái ý “bất lập văn tự”, mà muốn
người học sau này được tin tự tâm. Tin tự tâm không cần
qua văn tự, không cần học ở ngoài. Cho nên, Ngài muốn hiển
bày nghĩa bất lập văn tự, chứ chẳng phải biến gia phong
bất lập văn tự trở thành ra văn tự.
Nhưng
người đời sau, hiểu lầm ý Tổ Tăng Xán, mà y văn giải
nghĩa, nên ngài Trung Phong làm “tịch nghĩa giải”, tức là
bác bỏ nghĩa giải sai lầm, để cho người ta tin hoàn toàn
tự tâm đầy đủ, không cần có lý giải gì hết. Nếu tin
ở ngoài tâm mà có, cũng như đầu mọc thêm đầu, cần phải
mời Bác sĩ cắt bỏ mới được. Cho nên, đặt tên “Tín
Tâm Minh Tịch Nghĩa Giải”.
Tín
Tâm Minh Tịch Nghĩa Giải này, ngài Trung Phong lấy hai câu chia
ra làm 4 đoạn: Đoạn thứ nhất là khai thị, đoạn thứ hai
là nghĩa giải, đoạn thứ ba là tịch nghĩa giải (bác bỏ
nghĩa giải), đoạn thứ tư là bốn câu kệ kết thúc.
Phần
khai
thị là theo lý giải không được, mà để hiển bày tâm chư
Phật, Tổ và tâm của chính mình. Tại vì mình chưa tin, nên
không thể hiểu được.
1.
CHÍ ĐẠO VÔ NAN, DUY HIỀM GIẢN TRẠCH
Dịch
Đạo
cùng tột chẳng có gì khó, chỉ vì phân biệt mới thành khó.
Lời
khai thị:
Ngài
nói: Thể dụng Tự tánh cùng khắp hư không, trí huệ con người
chẳng thể suy lường (Tự tánh mỗi chúng sanh đều sẵn có,
thể và dụng cùng khắp không gian và thời gian. Nếu dùng
bộ óc con người không thể nghĩ đến được). Mở cửa nhà
lớn nhiệm mầu vô biên vượt trên vạn tượng chiều sâu
mà không đáy (đây là diễn tả Tự tánh, Tự tánh tức là
Phật tánh; hàng ngày đang dùng mà mình không biết, cửa mở
ra hết, nhưng người ta không thấy, tưởng là cửa đóng bít).
Mở
cửa nhà lớn nhiệm mầu (tức là cửa Tự tánh, nhưng người
ta không thấy), vượt trên vạn tượng chiều sâu mà không
đáy (biển sâu cách mấy đều phải có đáy, còn cái này
thì không có giới hạn). Cơ xảo của chư Tổ như tiếng hét
kim cang vương của Lâm Tế, sấm sét oanh liệt, muốn nhìn
bóng còn khó, huống là thấy hình (thủ đoạn Lâm Tế, ai
vào cửa liền hét, người nào hỏi liền hét, mà tiếng hét
của Ngài, gọi là kim cang vương; kim cang là vật cứng hơn
các vật khác, mà thêm kim cang vương tức là cứng nhất. Sấm
sét oanh liệt là không thể dùng mắt để thấy, tai để nghe).
Uy
thế cây gậy của Đức Sơn như gió bão điện chớp (người
học vừa đến cửa thì cây gậy của Đức Sơn liền đánh.
Tiếng hét Lâm Tế và Đức Sơn đánh gậy, không phải khi
không mà hét đánh bậy bạ. Ở dưới tiếng hét và ở dưới
cây gậy đánh, đều đào tạo ra chư Tổ mà chẳng cho mình
có công lao), gánh biển vác núi chẳng cần ra sức (đây là
cái dụng của Tự tánh, chư Tổ kiến tánh dùng ra được).
Ông
già Thích Ca chỉ nắm bắt hư không (đây hình dung lời nói
không thể đến được, cho nên, Phật Thích Ca nói: “49 năm,
ta chưa từng nói một chữ”. Tại vì nói không được, ví
như bàn tay nắm bắt hư không. Hư không làm sao nắm bắt được!)
1700 bạch niêm tặc ăn trộm không cần vốn (là hình dung 1700
Tổ kiến tánh, diệu dụng đầy đủ tất cả, không cần
mượn bên ngoài. Như Trương Bảo Thắng hiện sức dụng phần
nhỏ của Tự tánh).
Có
miệng chỉ treo trên vách tường (vì lời nói chẳng thể diễn
tả được). Rất sẵn sàng mà không hiểu biết (vì trình
độ của mình chưa thể hiểu biết). Muốn ngay trước mắt,
chỉ bảo họ thì gai gốc ở cửa nổi đầy (cái này, mình
dụng công đến đó mới được, chứ nhờ người khác thì
không được).
Lời
nghĩa giải:
“Đạo
cùng tột thì không khó, chỉ vì phân biệt lựa chọn nên
mới khó”. 2 câu này là cương yếu của bài minh. Chữ tin
bao gồm ngộ chứng, chẳng phải chữ tin của tín hạnh (ngộ
là giác ngộ, chứng là chứng quả. Cũng như tin 10 phần thì
nghi 10 phần, ngộ cũng 10 phần. Không phải tín hạnh là giữ
uy tín của mỗi người, mỗi nước).
Cũng
như trong hội Pháp Hoa lãnh hội quyền trí nhập vào thật
trí (ánh sáng đèn dụ cho quyền trí, cây đèn dụ cho thật
trí, là cái thể của tâm. Cái đó lập ra tín giải; tín là
tin, giải là hiểu, để tỏ bày nguyện vọng của chúng sanh).
Chư
Tổ thấy đó là Chí đạo (chí là cùng tột, chỉ có tâm
cùng tột, không có lý lẽ để hiểu gọi là nhiệm mầu).
Chư Phật, Tổ chứng gọi là bồ đề, chúng sanh mê gọi
là vô minh, Giáo môn hiển bày gọi là biển giác, đều cùng
gọi là một tâm (nên Tổ nói: “Hàng ngày hiện hành vô minh
của chúng sanh là bất động trí của chư Phật”.
Có
người nói: Hàng ngày hiện hành vô minh, tại sao bất động
trí của chư Phật?
Tổ
nói: Dễ hiểu mà!
Tổ
hỏi chú Tiểu: Thế nào là bất động trí của chư Phật?
Chú
Tiểu ngơ ngác.
Tổ
nói: Vô minh đó.
Qua
câu chuyện này chỉ hiểu phần nào mà thôi).
Cho
đến bao gồm danh tướng, thấu nhập sắc không, muôn ngàn
đề mục đường lối, dù có khác nhau, đâu có sai trái tốt
xấu, cũng không có ngăn cách mê ngộ, tất cả do đây mà
hiển bày (tại vì có phân biệt lựa chọn, nên có tốt xấu
đúng sai; nếu không có phân biệt lựa chọn, thì không có
tốt xấu đúng sai. Tất cả cuộc sống hàng ngày đều là
cái dụng của tâm. Tại mình chấp nên có đúng lý và không
đúng lý. Bài Tín Tâm Minh quét sạch cái lý.
Đoạn
này nói cái lý, đoạn sau quét sạch cái lý. Vốn không có
ngăn cách mê ngộ, tốt xấu; tất cả tốt xấu mê ngộ, đều
do tâm chấp của mình mà hiển bày).
Như
cây bách của Triệu Châu, vòng kim cang của Dương Kỳ, cái
chậu đất bể của Mật Am, bánh sắt có nhân của Đông Sơn
(đây là cơ xảo của chư Tổ.
Tăng
hỏi Triệu Châu: Thế nào là Phật?
Triệu
Châu đáp: Cây bách trước sân.
Có
người hỏi Dương Kỳ: Thế nào là Phật?
Dương
Kỳ đáp: Vòng kim cang.
Có
người hỏi Mật Am: Thế nào là Phật?
Mật
Am đáp: Chậu đất bể.
Có
người hỏi Đông Sơn: Thế nào là Phật?
Đông
Sơn đáp: Bánh sắt có nhân.
Lời
đáp chẳng có ý nghĩa gì, nhưng chặn được dòng suy nghĩ
của ý thức thì ngay đó ngộ. Nếu không chặn được hết
dòng suy nghĩ của ý thức, thì mịt mù không hiểu gì, vẫn
còn trôi lăn trong lục đạo.
Những
công án như trên có rất nhiều, như:
Hỏi:
Thế nào là Phật?
Đáp:
Cục cức khô.
Hỏi:
Thế nào là Phật?
Đáp:
Ba căn mè.
Nếu
ngộ được bản thể Tự tánh cùng khắp không gian thời gian,
thì biết rõ ý của Tổ sư. Nếu không ngộ thì ngơ ngốc
còn vô minh; công phu đến mức là đến thoại đầu, điểm
phá một cái ngộ liền. Có người gần đến thoại đầu,
điểm phá cũng ngộ.
Có
một người công phu đến thoại đầu, đi ngang chỗ bán thịt,
nghe người mua thịt nói: Bán cho tôi một miếng thịt nạt.
Người
bán thịt chặt mạnh con dao xuống bàn, nói gằn: Chỗ nào
chẳng phải thịt nạt!
Người
có công phu đến thoại đầu nghe liền ngộ.
Cũng
có một người gặp người ta đánh lộn, bị đánh một bạt
tai liền ngộ.
Nếu
công phu đến thoại đầu, một ngày không ngộ, thì một tháng
cũng phải ngộ; chẳng phải do gặp thiện tri thức rồi mới
ngộ. Gặp thiện tri thức là chỉ để ấn chứng. Công phu
đến thoại đầu gặp cảnh duyên nào cũng được khai ngộ).
Giống
như dị đoan, cùng tà pháp sôi nổi; vậy thì lời nói “chí
đạo” đã hiện hành rồi. Do đó thông suốt lý sự, dung
thấu cổ kim, cho là “vô nan” đã thành lời thừa. Nhưng
Thánh phàm, nhiễm tịnh, trước mắt toàn chân. Nếu sanh ra
tình thức phân biệt, thì trái hẳn với chí thể, nên nói:
“Duy hiềm giản trạch” vậy.
Tịch
nghĩa giải:
Hình
như giống nhau, giống mà chẳng đồng. Lại 2 chữ “chí đạo”,
dẫu cho ông dùng hết ý thức để giải thích, đối với
tông chỉ “vô nan”, cần phải tương ưng mới được. Nếu
chẳng phải tự tâm khai ngộ, âm thầm khế hợp bất khả
tư nghì, dứt hẳn tri kiến, siêu việt ngữ ngôn danh tướng,
muốn trông thấy tông chỉ “vô nan”, chẳng những cách xa
như trời với đất. Ở nơi căn cảnh tương đối, đủ thứ
sai biệt, nếu không thể ngay đó giải thoát, mà muốn đem
đạo lý “vô nan” đó, tồn chứa trong lòng, thì chỉ là
nhận giặc làm con mà thôi.
(Ngài
Trung Phong thấy người ta đem Tín Tâm Minh để giải thích
ra đạo lý; chính đạo lý đó nghịch với ý của Tổ sư.
Những người đó cho mình là hay, giải thích rất kỹ càng
giáo lý thâm sâu. Nhưng sự thật nói thì giống, phải thì
chưa phải. Cho nên, cần phải tương ưng để khai ngộ mới
được. Khai ngộ rồi âm thầm khế hợp, không thể suy nghĩ.
Suy nghĩ còn không thể, làm sao nói và giải thích!
Hiểu
biết đúng lý đều phải chấm dứt, vì đúng lý và không
đúng lý là lọt vào tương đối nhị biên. Tự tâm là bất
nhị, không thể cho đúng và không đúng. Cho nên, dứt hẳn
tri kiến, siêu việt ngữ ngôn, lìa danh tướng.
Tâm
không dính mắc với cảnh, thì ngay đó giải thoát; tức là
cảnh vui mình không thấy vui, cảnh buồn mình không thấy buồn,
cảnh sợ mình không thấy sợ)ï.
Kệ
kết thúc:
Chí
đạo không nên chê lựa chọn,
Chớ
nói lựa chọn đọa phàm tình.
Cần
phải đâm mù mắt mẹ đẻ,
Ban
ngày đốt đèn đọc Minh này.
(Chí
Đạo là bất nhị, lựa chọn hay không lựa chọn đều chẳng
có. Mới nói: “Không nên chê lựa chọn”. Chí đạo đâu
có khó dễ. Nên nói: “Chớ nói lựa chọn đọa phàm tình”.
Theo nghĩa giải thì lựa chọn đọa vào phàm tình vô minh.
Nhưng thật tế Chí Đạo không có đọa vào phàm tình được.
“Cần
phải đâm mù mắt mẹ đẻ” là theo sự thấy của con mắt
không thể thấy được Chí Đạo. Mà lại nói: “Ban ngày
đốt đèn đọc Minh này”, nghĩa là không cần dùng con mắt,
không cần dùng ánh sáng mặt trời; tức là đừng có tư tưởng
đạo lý gì, thì mới có tư cách đọc Tín Tâm Minh này”.
2.
ĐẢN MẠC TẮNG ÁI, ĐỔNG NHIÊN MINH BẠCH
Dịch
Chỉ
đừng yêu ghét thì rõ ràng minh bạch.
Lời
khai thị:
“Chỉ
đừng yêu ghét thì rõ ràng minh bạch”. Theo ý chỉ Thiền
tông thì không chỗ trụ; nên nói: Thẳng chẳng phải tùng
(cũng không nhất định là thẳng), co chẳng phải gai (cũng
không nhất định là co), thông chẳng phải hư không (hư không
là trống rỗng chẳng có chướng ngại, cũng không có nhất
định là thông), nghẽn chẳng phải vách tường (cũng không
nhất định là nghẽn).
Đầu
búa không lỗ ném ngay mặt (câu này là chuyển ngữ của Thiền
tông. Đầu búa không lỗ thì không thể dùng được. Thiền
tông không có chỗ để suy nghĩ, không có chỗ để mở miệng;
cũng như đầu búa không lỗ vậy. Ai có đề ra ý kiến gì
hay chơn lý gì, cũng giống như đầu búa không lỗ; không có
ý nghĩa gì để dùng được).
Trái
lại, thẳng vẫn là tùng, co vẫn là gai (co và thẳng,
thông với nghẽn là đối đãi. Phàm đối đãi là tương đối,
tương đối là sản phẩm của bộ não. Nó không phải thật
tế, thật tế thì không có đối đãi. Cho nên, tương đối
là vọng tưởng.
Kinh
Lăng Già nói: Tự tâm hiện lượng. Tự tâm không có số lượng;
hiện ra số lượng cao nhất đều là vọng, vì có số lượng.
Phàm do bộ óc biết đều là tự tâm hiện lượng; chẳng
phải bản tâm của mình. Nên nói: Chẳng phải co, chẳng phải
thẳng tức là thấy thẳng không trụ nơi thẳng, thấy co không
trụ nơi co. Và chẳng co chẳng thẳng cũng không trụ. Ngược
lại là co là thẳng; thông và nghẽn cũng vậy.
Bởi
những cái đó đều là tương đối, phá hết tất cả tương
đối hiện lượng, thì số lượng không nói được nữa).
Vậy
“trời xanh nước rộng dính liền như cũ” (tức là không
có thêm bớt ý kiến gì; thì trái cây vẫn là trái cây, cái
đèn vẫn là cái đèn… đúng lý thì thêm, không đúng lý
thì bớt. Cho nên Tâm Kinh nói: Bất tăng bất giảm).
Đêm
qua người Ba Tư bắt được tên chánh tặc Tây Thiên trong
Nam Hải, đợi trời sáng đốt đèn xem, thì ra bác hai Vương
ở làng Đông (đoạn này nói kết thúc lời khai thị, ý nghĩa
giống như đoạn trên; không có cái nào chân thật, không có
cái nào huyễn hóa.
Chân
chẳng phải chân, giả chẳng phải giả, đúng chẳng phải
đúng, sai chẳng phải sai. Cho nên, không thể dùng 2 chữ “cho
là hay cho rằng”. Nếu cho là, cho rằng là sản phẩm của
bộ óc, không phải bản tâm. Vì bản tâm không thể dùng bộ
óc suy nghĩ, dùng hình tướng để tiếp xúc và văn tự lời
nói đến được. Nên Thiền tông nói: “bất lập văn tự”
vậy).
Lời
nghĩa giải:
Chỉ
đừng yêu ghét thì rõ ràng minh bạch (chữ “yêu ghét” này
thuộc phạm vi tương đối, nếu có “chán, thích, lấy, bỏ”
là niệm tương đối của bộ óc. Tương đối thì không rõ
ràng minh bạch, chỉ có lìa tương đối, mới đạt đến cảnh
giới tuyệt đối, thì thấy rõ ràng cùng tột)*.
Tịch
nghĩa giải:
Ngài
Trung Phong nói: “Dù ông chẳng yêu ghét và không màng đến
cái TA. Vậy biết chẳng yêu ghét và ai biết cái TA” (chính
cái biết này lọt vào nhị biên rồi. Như tham câu thoại đầu,
mình còn thấy nghi tình thì chưa đến chân tham. Nghi tình liên
tục, câu thoại đầu tự mất, không biết có nghi tình, thì
có thể đến chỗ đứng của Tổ sư và đúng ý Tổ sư từ
Tây Trúc sang)*. [đoạn văn trong (…)* của người thực hiện
thêm vào, vì trong băng không có].
|