Mục
Lục
|
Lời
Nói Đầu
|
Phần
01 đến Phần 06
|
Phần
07 đến Phần 16
|
Phần
17 đến Phần 26
|
17-
Quy căn đắc chỉ, tùy chiếu thất tông
18-
Tu du phản chiếu, thắng khước tiền không
19-
Tiền không chuyển biến, giai do vọng kiến
20-
Bất dụng cầu chơn, duy tu tức kiến
21-
Nhị kiến bất tụ, thận vật truy tầm
22-
Tài hữu thị phi, phân nhiên thất tâm
23-
Nhị do nhất hữu, nhất diệc mạc thủ
24-
Nhất tâm bất sanh, vạn pháp vô cửu
25-
Vô cửu vô pháp, bất sanh bất tâm
26-
Năng tùy cảnh diệt, cảnh trục năng trầm
|
Phần
27 đến Phần 36
|
Phần
37 đến Phần 44
|
Phần
45 đến Phần 50
|
Phần
51 đến Phần 57
|
Phần
58 đến Phần 62
|
Phần
63 đến Phần 69
|
Phần
70 đến Phần 73
|
|
.
GIẢNG GIẢI
TÍN TÂM MINH
TỊCH NGHĨA GIẢI
Hòa
Thượng Thích Duy Lực
Thích
Đồng Thường Ghi Thành Văn Tự
17
- QUY CĂN ĐẮC CHỈ, TÙY CHIẾU THẤT TÔNG
Dịch
Trở
về cội gốc thì được ý chỉ, đuổi theo chiếu soi thì
mất bản tông.
Lời
khai thị:
Như
thế, như thế! Cho tây làm đông (tham thiền không thể cho
là, cho là như thế, như thế, như cho phương tây làm phương
đông, đều cách xa sự thật. Nếu cho là chẳng như thế,
chẳng như thế, cũng là lấy có làm không, đều là trái ngược).
Chẳng
thế ở nơi như thế, giống như dùng lưới để bắt gió
(dùng lưới bắt gió làm sao được?). Như thế, ở nơi chẳng
như thế, cũng như giấy ướt để nhốt cọp (làm sao giấy
ướt mà nhốt cọp?).
Tại
sao vậy? Há chẳng nghe nói: Quy căn đắc chỉ tùy chiếu thất
tông ư! (Tức là Tam Tổ muốn hành giả tham thiền ngộ ngay,
không ngộ thì nghi. Nói có nguồn gốc để trở về, tức
là đuổi theo lời nói thì không được. Cứ cho là không được,
cho là như thế không được, cho là chẳng như thế cũng không
được, cho là như thế ở nơi chẳng như thế cũng không được,
cho là chẳng như thế ở trong như thế cũng không được.
Nghĩa là lìa tứ cú, tuyệt bách phi).
Lời
nghĩa giải:
Một
số người khéo suy lường rằng: Bặt nói bặt lo là trở
về cội, nơi nào cũng là đắc tông chỉ. Nếu người lãnh
hội theo nghĩa: Về cội đắc chỉ thì đuổi theo chiếu soi,
làm mất tông chỉ rồi.
(Tại
sao? Cội vốn không chỗ về, vì tâm mình cùng khắp hư không;
nếu có chỗ về thì tâm không cùng khắp. Mục đích tham thiền
là hiện tâm khắp không gian thời gian. Tông chỉ cũng không
thể đắc, tất cả đều sẵn sàng. Hư không chẳng có cái
ngoài để đắc. Nếu chẳng rõ nghĩa này, tự sanh vọng chấp,
cho là có tông chỉ để đắc, có chỗ cội gốc để trở
về).
Nói
là tùy chiếu, nếu còn dấu tích chữ chiếu, thì tâm tông
của chư Phật chư Tổ đã lạc mất quá lâu rồi (vậy, nó
không có chiếu mà vẫn còn chiếu. Như cảm giác lớp da không
nói là “tôi có cảm giác”, vì cảm giác khắp không gian
thời gian của cơ thể.
Nếu
tiếp xúc, nó biết có tiếp xúc; không có tiếp xúc, nó biết
không có tiếp xúc; đau nó biết đau, không đau nó biết không
đau; ngứa nó biết ngứa, không ngứa nó biết không ngứa;
lạnh nó biết lạnh, không lạnh nó biết không lạnh; nóng
nó biết nóng, không nóng nó biết không nóng.
Mình
muốn dùng nó cũng biết như vầy, mình không có ý dùng nó
cũng biết như vầy. Không phải có tiếp xúc lớp da mới có
cảm giác. Lớp da không bao giờ mất cái cảm giác, thì đâu
có cần tiếp xúc mà mới là chiếu soi, nó luôn luôn như vậy.
Tâm
mình cũng luôn luôn như vậy, nó đâu phải phát ra ánh sáng
chiếu soi, rồi ngưng nói là không chiếu soi. Không bao giờ
ngưng chiếu soi, làm sao đặt ra cái tên chiếu soi? Nó cùng
khắp hư không thì không có chỗ để về; nếu có chỗ để
về nên không cùng khắp, vì chỗ này có thì chỗ khác không
có.
Giải
nghĩa như thế này có lý cao tột cũng là lời nói văn tự,
chẳng phải thật tế của bản tâm, cho nên ngài Trung Phong
phủ định.
Tịch
nghĩa giải:
Quả
có lời này ư! Nếu thật như thế, thì cũng như gọi Phật,
Tổ xưa đến đây ăn gậy sắt của Diêm La Vương. Tại sao?
Vì họ quy căn đắc chỉ vậy (chớ đâu có căn để quy, đâu
có chỉ để đắc? Như Bát Nhã Tâm Kinh nói “vô trí diệc
vô đắc”. Nếu có tông chỉ để đắc, có nguồn gốc để
về thì không đúng, xa với thật tế).
Kệ
kết thúc:
Tùy
chiếu, quy căn đồng một việc,
Chẳng
cần đặc biệt hiển gia phong.
Tâm
trộm chưa chết trước cơ xảo,
“Đắc
chỉ” đâu khác sự “Thất Tông”.
(Tùy
chiếu và quy căn đều sai lầm. Bởi vậy, không cần chiếu
cũng không có căn để quy.
Chẳng
cần đặc biệt hiển gia phong, vì gia phong của chư Tổ đã
sẵn như vầy.
Chư
Tổ kiến tánh triệt để có cơ xảo khiến người tham thiền
ngay đó liền ngộ. Muốn có cơ xảo đó thì phải chết tâm
trộm cắp; trong Trung Phong Pháp Ngữ nói: “Có nỗi niệm gì
đều là tâm trộm cắp”, có cho là… tâm trộm cắp, cho
là Phật cũng là tâm trộm cắp, cho là không Phật cũng là
tâm trộm cắp, cho là đúng lý cũng là tâm trộm cắp, cho
là không đúng lý cũng là tâm trộm cắp. Thì “đắc chỉ”
đâu có khác sự “thất tông”. Nếu mà đắc chỉ thì mất
cái tông chỉ rồi).
18
- TU DU PHẢN CHIẾU, THẮNG KHƯỚC TIỀN KHÔNG
Dịch
Phản
chiếu chốc lát, hơn cả không kia.
Lời
khai thị:
“Không
kia” là tánh không; tánh không của nhà Phật là hiển bày
cái dụng. Vì có cái không nên mới có cái dụng, cũng như
cái tách này lấp bít hết thì không có thể đựng nước.
Cái dĩa không có cái không thì không đựng đồ được. Cái
nhà không có cái không thì không có ngồi đây được, tất
cả dùng đều phải nhờ cái không này. Như nói: “Phản chiếu
chốc lát hơn cả không kia”.
Thấy
đến hành đến (tức là người đã kiến tánh thấy đến
hành đến tới chỗ thật tế. Tông thông tức là tâm thông,
thì thuyết gì cũng thông, nói gì cũng được).
Hiển
lộ con mắt trời người, mổ ra tấm lòng Phật, Tổ (con mắt
trời người do bộ óc làm chủ thì có hại. Nếu kiến tánh
rồi, Phật tánh làm chủ thì có lợi không có hại. Trong này
nói hiển lộ con mắt trời người, mổ ra tấm lòng Phật,
Tổ là kiến tánh rồi).
Ngược
với vật đuổi theo vật; giống như khác mà chẳng phải khác,
giết người cứu người cũng chẳng khác, nói đồng chẳng
đồng cũng chẳng khác, đều cho đè ngang xuống một lượt,
nửa đêm cửa biển mặt trời hồng.
(Tức
là không có ban đêm, mặt trời chiếu soi mãi mãi. Như ánh
sáng của tự tánh không bao giờ ngưng. Bây giờ mặt trời
không bao giờ ngưng chiếu soi; Mặc dù ban đêm không có ánh
sáng, không phải mặt trời ngưng chiếu. Vì bị trái đất
che khuất, nó luôn luôn chiếu soi cùng khắp mọi nơi.
Tâm
mình cũng vậy, nó luôn luôn hiển bày cái dụng, không bao
giờ ngưng nghỉ. Tại mình không thấy nên không tin. Dù mình
không thấy không tin, nhưng nó vẫn luôn hiển lộ cái dụng.
Tham thiền là hiển lộ cái dụng của tâm mình).
Lời
nghĩa giải:
“Phản
chiếu chốc lát, hơn cả không kia”. Hạng người nói đạo
lý cho rằng: Đem sáng tối sắc không, dẫn nghĩa quy về tự
kỷ gọi là phản chiếu.
(Sáng
và tối không có thể cùng một lượt; khi sáng thì không có
tối, lúc tối thì không có sáng. Sắc là vật chất, không
là trống rỗng. Theo mình biết hai thứ thì khác nhau; nếu
dẫn nghĩa quy về tự kỷ, tự kỷ thì không có khác, nên
gọi là phản chiếu).
Nên
phải biết, không chẳng tự cho là không bởi tâm nên không,
có chẳng tự có bởi tâm nên có, chúng sanh xa với tự tâm,
vọng thấy có và không, mà muốn theo nó hay bỏ nó, đều
gọi là điên đảo.
(Bởi
vậy, Diệu tâm không có bản thể, không có hình tướng, không
có số lượng; nói có thì tìm không ra, không có gì để nắm
lấy; còn nói không có thì cái dụng nó vô lượng vô biên,
nó hiển bày trước mặt. Nếu muốn theo nó hay bỏ nó đều
không được, gọi là điên đảo).
Tịch
nghĩa giải:
Ở
trên dù nói lý cao siêu, nhưng vẫn là lời nói, là lý, không
đúng với thật tế của tâm. Cho nên, ngài Trung Phong phủ
định rằng: Lời nói đoán sai. Tại sao? Vì dưới cửa Thiền
tông tìm tâm chẳng thể được, do bản tâm không có hình
tướng không có số lượng, đi đâu tìm! Bởi vậy, nói tất
cả do tâm tạo là tâm điên đảo. Tâm đã tìm không ra thì
ai là điên đảo?
Kệ
kết thúc:
Vốn
chẳng phải chiếu đâu cần chiếu,
Nói
chi chốc lát với lâu dài.
Hễ
được kiến tánh siêu danh tướng,
Hai
việc lâu mau nghĩa đúng sai.
(Như
cảm giác của lớp da luôn luôn có cảm giác. Nói cảm giác
nhưng không phải cảm giác. Vì nó bất cứ lúc nào, đau, ngứa,
nóng, lạnh, trơn, rít… thì cái biết vẫn bình thường, khỏi
cần dùng; chiếu là dùng, không chiếu là không dùng. Vốn
nó chẳng phải chiếu đâu cần chiếu, chẳng phải dùng
đâu cần dùng.
Tự
tánh không bị thời gian hạn chế, như cảm giác lớp da không
có thời gian hạn chế. Chốc lát hay lâu dài đều không có
dính dáng; đâu phải thời gian này mới có cảm giác, thời
gian kia không có cảm giác. Như mình ngủ mê nó cũng biết,
trong khi muỗi cắn nó cũng tự động dùng tay gãi chỗ đó.
Danh
là tên gọi, tướng là hình tướng, thì tất cả hình tướng
không dính dáng. Nếu hình tướng không dính dáng thì chiếu
soi cái gì? Không có tên gọi làm sao gọi là chiếu soi?
Thời
gian luôn luôn như vầy không có lâu mau, cho nên kinh Kim Cang
nói “quá khứ tâm bất khả đắc, hiện tại tâm bất khả
đắc, vị lai tâm bất khả đắc”. Vậy làm sao có mau và
lâu!).
19
- TIỀN KHÔNG CHUYỂN BIẾN, GIAI DO VỌNG KIẾN
Dịch
Không
kia chuyển biến, đều do vọng kiến.
Lời
khai thị:
Lư
hương chùa cổ, lụa trắng một sợi, ngay đó siêu sanh tử,
đều là rơi vào phương tiện (lời của chư Tổ nói bất
cứ cái gì, không phải muốn mình theo lời nói để tìm hiểu,
là muốn chấm dứt tìm hiểu của mình, ngay đó được ngộ.
Nếu không ngộ thì không hiểu, nên phải phát nghi. Giữ cái
nghi đó sau này cũng được ngộ, ngộ rồi liền siêu việt
sanh tử.
Nếu
có sanh tử để siêu việt, đều là rơi vào phương tiện,
vì vốn không có sanh tử để siêu việt. Ngộ là phát
hiện không có sanh tử, là siêu việt sanh tử rồi. Chứ không
phải thật có sanh tử để siêu việt).
Xưa
nay chẳng tin tâm mình nên tự mê, lại nói Phật pháp không
có linh nghiệm (tại tâm mình mê nên chấp mãi, làm sao được
ngộ? Cứ nói tôi tu hoài không thấy chứng. Đổ thừa cho
Phật pháp không có linh nghiệm, nói tu Tổ Sư thiền không
có lợi ích gì.
Dù
có linh nghiệm, ngay đó thành Phật đi! Nếu có Phật để
thành thì cũng sai lầm. Ngộ là tâm mình hiện ra, không có
chúng sanh để sanh tử, không có Phật để thành, không phải
chứng mới đắc. Có thành có chứng cũng là kiến chấp,
còn có kiến chấp thì vào địa ngục mau như tên bắn. Mục
đích tham thiền là dứt tất cả kiến chấp. Không có một
tri kiến gì, gọi là Phật tri kiến).
Lời
nghĩa giải:
Tổ
sư nói: “Không kia chuyển biến, đều do vọng kiến”. Người
nghĩa giải cho rằng: Có là vọng, không cũng là vọng. Không
và có theo duyên thay đổi chẳng nhất định. Muốn được
lìa vọng thì phải bài trừ không và có.
(Nói
thì có lý, nhưng không phải thật tế, thật tế không cần
bài trừ có và không. Bởi vì tâm đã sẵn sàng, khỏi cần
bài trừ. Cho nên ngài Trung Phong phủ định).
Tịch
nghĩa giải:
Thôi
thôi! Mặc tình cho y trừ. Nhưng chẳng biết cái vọng sở
trừ và cái tâm năng trừ đều chẳng lìa vọng (tại sao?
Vì vốn không có vọng để trừ, mà nổi tâm năng trừ để
trừ cái vọng sở trừ, thì việc này, năng sở cũng đều
là vọng. Cho nên không lìa được cái vọng).
Nếu
luôn cái trừ đó, chẳng thể trừ sạch (tức là không có
ý trừ), mà muốn thoát khỏi cảnh duyên vọng, khó mong có
ngày (vì có tâm chấp thật cái vọng, mới dùng tâm để trừ.
Vọng vốn không có, thì tại sao đem trừ nó! Chữ “trừ”,
nếu không có thể thoát được, làm sao thoát khỏi cảnh duyên
vọng).
Vậy
có phương tiện nào để trừ luôn cái “trừ” không? (Chỉ
có tham thiền, hỏi câu thoại và khán thoại đầu, thì trừ
luôn được cái “trừ”).
Kệ
kết thúc:
Không
đâu có biến, biến phi không,
Trong
mắt đừng có chứa núi sông.
Ba
Tư đáy nước thổi đá lửa,
Mặt
trời bay lên cửa biển đông.
(Con
mắt là con mắt, núi sông là núi sông, tức là con mắt và
núi sông không có dính dáng.
Ở
đáy nước Ba Tư thổi đá lửa, làm sao cháy được!
Câu
cuối cùng nghĩa là tất cả như thường, y như cũ, đừng
đem ý mình vô, cho là có hay cho là không, cho là phải trừ
cái có, phải trừ cái không. Nếu có “cho là” đều là
vọng, mặc kệ cho nó có, cho nó không. Chẳng có dính dáng
đến tâm mình, nên khỏi cần trừ).
20
- BẤT DỤNG CẦU CHƠN, DUY TU TỨC KIẾN
Dịch
Chẳng
cần cầu chơn, chỉ cần dứt kiến.
Lời
khai thị:
Dựng
đứng xương sống như sắt, cầm ngang cây kiếm dài như trời,
trong lúc động tịnh nhàn rộn, tất cả nhồi thành một khối
(tức là cảnh động, cảnh tịnh, lúc nhàn rỗi, lúc bận
rộn đều không phân biệt, gọi là nhồi thành một khối).
Đã
tinh chuyên lại dũng mãnh, đối với sự thành Phật làm Tổ
chẳng cách một hạt bụi (nếu không có ý mình xen vô, thì
đã tinh chuyên dũng mãnh, đối với thành Phật làm Tổ không
cách một hạt bụi).
Đụng
nhằm Tam Tổ nói nhỏ với Ngài rằng: “Khéo léo phương tiện,
chẳng cần cầu chơn, chỉ cần dứt kiến”.
Lời
nghĩa giải:
Người
học giáo lý cho rằng: “Kiến chấp có 62 thứ” (Tâm có
62 kiến chấp là: Tứ cú (có, không, chẳng có chẳng không,
cũng có cũng không), nhân với ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng,
hành, thức), rồi nhân với tam thế (quá khứ, hiện tại,
vị lai) và cộng nguồn gốc: Có, không.
Thân
này là thân ngũ uẩn, thịt xương gọi là sắc (vật chất).
Chấp vật chất này là thật có, chấp thật không có, chấp
thật chẳng có chẳng không, chấp thật cũng có cũng không,
là 4 thứ kiến chấp. Thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy.
Tất cả chấp cái gì đều ở trong 62 kiến chấp này.
Đoạn
và thường cũng vậy, cú thứ nhất là thường, cú thứ nhì
là đoạn, cú thứ ba là chẳng thường chẳng đoạn, cú thứ
tư là cũng thường cũng đoạn).
Pháp
số nêu ra đủ thứ (tứ cú và ngũ uẩn là pháp số), chẳng
ra ngoài hai kiến: Đoạn và thường. Cầu chơn thì rơi vào
đoạn kiến, theo vọng thì lọt vào thường kiến. Kinh Lăng
Nghiêm nói: “Nói vọng là hiển bày chơn, thật ra vọng với
chơn là hai thứ vọng; phi chơn phi chẳng chơn, nói chi kiến
sở kiến”.
|