|
.
GIẢNG GIẢI
TÍN TÂM MINH
TỊCH NGHĨA GIẢI
Hòa
Thượng Thích Duy Lực
Thích
Đồng Thường Ghi Thành Văn Tự
45.
MỘNG HUYỄN KHÔNG HOA, HÀ LAO BẢ TRÓC
Dịch
Việc
mộng huyễn như hoa đốm trên không, đâu cần nắm bắt cho
mệt nhọc!
Lời
khai thị:
Mai
rùa đen (vô minh), người ta dùng mai rùa để bói. Ở đây
dùng ý thức để suy tìm, có tìm ra được cũng như trống
rỗng. Không phải như trái cân thật cứng chắc. Nếu dùng
ý thức để đi tìm, học hỏi có kiến giải cao siêu cho là
chân lý cũng vô dụng.
Chỉ
có Mộc thượng tọa tức là cây tích trượng của Tu sĩ,
chẳng có cảm tình phân biệt. Không có phân biệt thì không
bị xuyên tạc của người khác. Xuyên tạc là lấy tâm đi
tìm giải thích. Người kiến tánh thì tự do tự tại, làm
gì cũng được.
Người
thường hay ham giàu có để hưởng thụ, muốn sống lâu. Nếu
ở trong rừng lấy gì để hưởng thụ? Tuy có nhiều tiền
đi đến Dương Châu, Thượng Hải… để hưởng thụ đầy
đủ. Nhưng tạm thời không có cứu cánh. Tự tánh của mình
có tất cả đầy đủ, hưởng không hết. Còn người đời
giàu sang phú quí hưởng bao nhiêu, rồi cũng có giới hạn.
“Sáng
cưỡi trâu Thiểm Phủ, chiều cưỡi hạt Dương Châu”. Có
ý người đời dù có hưởng thụ bao nhiêu, thì người kiến
tánh đều có hết. Người kiến tánh được tự do tự tại,
mà người đời không bằng được. Vì người đời giàu sang
bao nhiêu, có thế lực bao nhiêu đều bị hạn chế. Như có
thế lực bằng vua, có tiền nhiều hơn cả nước, thì cũng
không được tự do tự tại, vì không muốn già nó cũng già,
không muốn bệnh nhưng cũng phải bệnh, không muốn chết rồi
cũng phải chết. Tự mình làm chủ cho mình không được. Nếu
làm chủ không được, làm sao được tự do tự tại!
Người
kiến tánh biết mình là cái gì, thì làm chủ được mình,
nên được tự do tự tại, không còn các khổ, ở trong
tâm sẵn sàng có đầy đủ tất cả, muốn đi đâu đều được.
Người kiến tánh là đã về quê nhà, còn gọi là đã đập
bể hư không; tức là hưởng thụ công đức của mình, chứ
không cần người khác. Nếu còn cần người khác thì còn
có ỷ lại, nên không được tự do tự tại.
Nếu
chưa kiến tánh tức là chưa về quê hương, như mây bay trên
trời, ngôi sao lặng đối với mình đâu có liên quan. Cho nên,
ngài Trung Phong muốn mình kiến tánh, làm cái gì cũng được.
Nếu chưa kiến tánh dù có kiến giải cao siêu cũng là vô
dụng.
Lời
nghĩa giải:
Tổ
sư nói: “Việc mộng huyễn như hoa đốm trên không, đâu
cần nắm bắt cho mệt nhọc”! Người nghĩa giải dẫn trong
kinh nói: “Tất cả pháp hữu vi, như mộng huyễn bọt bóng,
sương, lộ, điện chớp, nên tác quán như thế”. Sáu thứ
này ở trong kinh Kim Cang không có tự thể, không có thật,
chỉ tạm thời hiện ra, nếu chấp thật là sai lầm.
Lại
dẫn chứng ngài Vĩnh Gia nói: “Buông tứ đại, chớ nắm
bắt, trong tánh tịch diệt cứ ăn uống, các hạnh vô thường
tất cả không, tức là Như Lai đại viên giác”. Tứ đại
gồm địa, thủy, hỏa, phong là bốn thứ hợp thành thân thể
của mình, cũng không phải thật, cho nên phải buông bỏ.
Tự
tánh của mình thì tịch diệt; tịch diệt này không phải
là đoạn diệt. Đây hình dung không có bản thể, nhưng cái
dụng thì tự động, như đói ăn, mệt ngủ. Lúc ăn cơm không
thấy mình ăn, lúc ngủ không thấy mình ngủ, gọi là tánh
tịch diệt, chứ không phải không có gì! Chỉ vì các pháp
là vô thường.
Chữ
“hành” là biến đổi, như thân thể này do tứ đại hợp
thành tức là từ nhỏ biến thành lớn rồi lớn biến thành
già cho đến biến thành đất; nó mỗi phút mỗi giây đều
biến mãi, không có giây phút nào không biến đổi. Mặc dù
mình ngủ nó vẫn biến đổi, thì tất cả đều như thế!
Nói
đến không là hiện ra cái dụng, chứ không phải không có
gì cả. Cái dụng đó là Như Lai Đại Viên Giác. Đại Viên
Giác là hình dung cái dụng tự động của Tự tánh. Viên là
tròn, thêm không được, bớt cũng không được. Nếu thêm
được là dư, bớt được là thiếu, không phải là viên giác.
Giác
là gì? Là biệt danh của Tự tánh. Như Lai cũng là biệt danh
của Tự tánh. Nếu tất cả không có chấp Phật, tức là
quét sạch trống rỗng, thì tự nhiên hiện ra cái dụng của
Tự tánh. Nhưng những người chưa kiến tánh, không hiểu ý
Phật, không hiểu ý Tổ, lấy hai lời này ở trong kinh Kim
Cang của Phật, lời của Tổ ở trong Chứng Đạo Ca, để
dẫn chứng rằng: “Tất cả đều không có”, làm ác, phá
giới đều không sợ, chấp vào cái không, thì lọt vào cú
thứ nhì, đã làm tội địa ngục mà tự mình không hay biết.
Tịch
nghĩa giải:
Nhưng
lời nói trên chưa được, ngài Trung Phong còn phủ nhận.
Nhưng
chẳng biết ngay lúc buông lung tình ý, làm bậy. Quả thật
thấy cảnh sở duyên như mộng huyễn không hoa hay không? Nếu
thấy là không hoa, thì chẳng nên đeo đuổi để hưởng thụ.
Nếu trong tâm mình còn chút tìm kiếm để hưởng thụ, cũng
không gọi là mộng huyễn không hoa. Phải biết, muốn làm
Phật làm Tổ cũng là mộng huyễn không hoa; làm Phật, làm
Tổ còn mộng huyễn không hoa, huống là những việc khác thấp
hơn ư!
Ngay
cái thuyết “đâu cần nắm bắt cho mệt nhọc”! Đã rơi
vào mộng huyễn rồi. Vậy việc này phải làm sao mới được?
Nếu chẳng đích thân chứng ngộ, mà theo lời Phật lời Tổ
để giải thích thì chẳng phải ngu si là gì! Cho nên, lời
nói cao siêu là vô dụng, lý giải cao siêu cũng là vô dụng,
nên phải thân chứng mới được.
Kệ
kết thúc:
Thích
Ca nửa đêm thấy ngôi sao,
Cùng
hiện bóng nghiệp trước gương đài.
Làm
thành
một thứ mộng điên đảo,
Chẳng
biết ai là đắc tiện nghi.
(Hai
câu trên nói sự tích Phật Thích Ca. Phật Thích Ca ở núi
Tuyết Sơn tu hết sáu năm, ngồi dưới gốc cây bồ đề 49
ngày, đến nửa đêm thấy sao mai mà ngộ đạo; sau khi ngộ
đạo, biết mình là cái gì rồi.
Nếu
không biết cái gì thì tùy nghiệp xoay chuyển; trước gương
nghiệp đã biết mình là cái gì tức là đã thành Phật, làm
chủ được chính mình, được tự do tự tại, vĩnh viễn
giải thoát tất cả khổ. Nếu bị thời gian, số lượng hạn
chế thì không gọi là tự do tự tại. Khi đã thành Phật
mới biết trước kia tất cả đều là mộng tưởng điên
đảo.
Không
những ban đêm nhắm mắt chiêm bao, mà ban ngày cũng là mở
mắt chiêm bao, đều là điên đảo mộng tưởng. Nhắm mắt
chiêm bao có lúc phải tỉnh giấc, còn mở mắt chiêm bao không
biết bao giờ thức tỉnh! Đến chừng nào kiến tánh rồi,
thì mở mắt chiêm bao được thức tỉnh.
Vì
do bệnh chấp thật nên có chiêm bao, làm cho mình không biết
là cái gì, nên không làm chủ được mình. Đã không biết
mình là cái gì, mà còn ai biết tiện nghi! Nói được tiện
nghi là do lòng tham của mình mới có tiện nghi. Sau khi chết
chôn thành đất thiêu thành tro, vậy ai được tiện nghi? Vì
mình chấp thật là do ba độc của tham, sân, si.
Cho
nên, ý Tổ muốn mình biết mình là cái gì, thì phải tham
thiền; nghi tình thành khối sẽ có ngày biết mình là cái
gì, mới làm chủ cho mình. Lúc đó biết ai đã được tiện
nghi).
46.
ĐẮC THẤT THỊ PHI, NHẤT THỜI PHÓNG KHƯỚC
Dịch
Đắc,
thất, thị, phi, đồng thời buông bỏ.
Lời
khai thị:
Đạo
tràng của Ngưỡng Sơn có 1500 người tham thiền. Tuyết Phong
giữ nhiệm vụ vo gạo nấu cơm.
Một
hôm Tuyết Phong đang vo gạo, Quy Sơn gặp hỏi Tuyết Phong:
Vo
gạo bỏ đất cát hay bỏ gạo?
Tuyết
Phong đáp: Gạo và đất cát đều bỏ.
Quy
Sơn nói: Vậy, đại chúng ăn cái gì?
Tuyết
Phong lật úp thúng gạo.
Quy
Sơn nói: Căn cơ của ông đến Đức Sơn mới thích hợp.
Tuyết
Phong gặp Đức Sơn hỏi: Sự kiến tánh thành Phật, người
học Phật là tôi có phần hay không?
Câu
nói vừa dứt, thì cây phản của Đức Sơn liền đập trên
đầu của Tuyết Phong, ngay đó Tuyết Phong ngộ đạo, phá
được sơ quan. Cây phản của Đức Sơn có tiếng bên Tổ
Sư thiền gọi là Đức Sơn phản.
Có
người đến hỏi đạo, thì Tuyết Phong dùng trái cầu bằng
gỗ, có cột sợi dây rồi quăng ra; đây là thủ đoạn của
Tuyết Phong.
Phổ
Hóa giúp cho Lâm Tế để hoằng dương Tổ Sư thiền. Đến
khi Ngài gần nhập tịch, Phổ Hóa nói: Tôi cần một chiếc
áo. Mọi người đem áo lại cho, Sư nói không phải. Chỉ có
Lâm Tế làm cho một cái hòm, rồi Phổ Hóa nhận và vác cái
hòm ra thành Trấn Châu có bốn cửa: Đông, nam, tây, bắc.
Ngày
đầu tự mình vác hòm đến cửa đông và nói với mọi người
đi theo coi rằng: Đến cửa đông, tôi tự mình vào cái hòm
nhập diệt. Khi đến nơi, Tổ nói: Hôm nay chưa được, đợi
đến ngày mai vào đến cửa nam rồi nhập diệt.
Sáng
ngày mai, Tổ vác hòm đi, cũng có số người đi theo, khi đến
nơi, Tổ lại nói: Hôm nay cũng không được, đợi đến ngày
mai đi cửa tây mới được.
Sáng
mai đó, Tổ vác hòm đi chỉ có vài người theo đến nơi,
Tổ nói: Cũng chưa được, chưa có tốt; đợi ngày mai nữa
mới được.
Rồi
ngày mai ấy chỉ có một mình Tổ vác cái hòm đi đến cửa
bắc, chẳng có ai theo. Khi đến nơi, rồi tự mình vô hòm
mà thị tịch. Mọi người xung quanh thấy Tổ cầm chuông sắt
đi ở trên không mà rung, đi đến lúc không còn thấy.
Hai
Tổ ở trên là đại cơ đại dụng, mục đích độ chúng
sanh được ngộ ngay. Nếu không ngộ cũng phải phát khởi
lên nghi tình, sau này sẽ được ngộ. Mặc dù Tổ làm như
thế không có gì, nhưng đó là cơ dụng của Tổ. Tuy là đại
dụng đại cơ, nhưng mà kết quả là tạo tác, tức là có
ý muốn làm như vậy.
Đâu
bằng Nam Tuyền là Vương Lão Sư còn gọi là Vương Thái
Phó. Ngài dạy học cho thái tử và tự xưng là Vương Lão
Sư. Ngài ngộ triệt để là vô sanh vô diệt. Vô sanh thì không
có thiện không có ác.
Người
ta hỏi: Thế nào là đạo?
Tổ
đáp: Tâm bình thường là đạo.
Không
có gì lạ, chỉ là đói bụng thì ăn cơm, ăn no buồn ngủ
thì ngủ, đó là tánh của người ta vậy. Cứ ăn no rồi ngủ,
khoái lạc tiêu diêu tự do tự tại.
Có
một ông Quan hỏi Thiền sư: Cách tu hành của Ngài như thế
nào, nói cho tôi biết, đặng tôi học theo?
Thiền
sư nói: Đói bụng thì ăn cơm, buồn ngủ thì ngủ.
Ông
quan nói: Như vậy, người nào cũng tu hành hết, vì ai cũng
đói bụng thì ăn cơm, buồn ngủ mà ngủ.
Thiền
sư nói: Không phải! Khác. Tôi ăn cơm chỉ ăn cơm, còn các
vị ăn cơm thì phân biệt đủ thứ. Tôi ngủ cứ ngủ, còn
các vị ngủ mà suy nghĩ đủ thứ, đâu có giống.
Nếu
mình đã kiến tánh thì vô sở đắc, vô sở cầu, vô sở
sợ, lúc đói ăn cơm buồn ngủ thì ngủ. Có ai đến hỏi
Tổ Sư thiền, bảo họ xem Huỳnh Phan Xước.
Huỳnh
Phan Xước là cố vấn cao cấp của nhà vua Đường Minh Hoàng.
Lúc An Lộc Sơn phản loạn, vua Đường Minh Hoàng sợ bỏ lánh
nạn ở Tứ Xuyên cùng với Huỳnh Phan Xước.
Khi
lúc trời mưa có cái Linh rung kêu, nhà vua có tâm trạng chán
nản hỏi Huỳnh Phan Xước: Cái linh nói gì vậy?
Huỳnh
Phan Xước trả lời: Tam Lang đừng thối chí.
Qua
câu chuyện trên, ý muốn mình chưa kiến tánh đừng thối
chí. Như Đường Minh Hoàng bị đánh bại không còn tinh thần,
chán nản. Mình phải có chí khí dũng mãnh tiến lên tham cứu
khi nào ngộ mới thôi.
Lời
nghĩa giải:
Tổ
sư nói: “Đắc, thất, thị, phi, đồng thời buông bỏ”.
Người nghĩa giải rằng: Trong nhất chân Pháp giới (pháp giới
rộng hơn vũ trụ, vũ trụ thì vạn hữu, pháp giới thì vạn
hữu và vạn vô) thì ở trong tự tánh của mình bao gồm pháp
giới tức là Phật tánh. Vậy tất cả ở trong pháp giới
đâu có cái gì ở ngoài pháp giới.
Cho
nên Phật pháp thường nói: “Ngoài tâm không có Phật,
ngoài tâm không có pháp”. Không có trong, không có ngoài thì
đâu có đắc đâu có thất, chẳng có thị chẳng có phi, chỉ
vì do vọng tình sanh lên. Vọng tâm khởi lên mới có phân
biệt đắc thất, thị phi, cho là khác nhau gọi là dị kiến.
Đáng lẽ không có đồng không có khác, vì vọng tâm khởi
lên phân biệt, khi không sanh ra đủ thứ khác nhau. Ở trong
không có đắc thất mà sanh ra đắc thất, ở trong không có
thị phi mà sanh ra thị phi.
|