Mục
Lục
|
Lời
Nói Đầu
|
Phần
01 đến Phần 06
|
Phần
07 đến Phần 16
|
Phần
17 đến Phần 26
|
Phần
27 đến Phần 36
|
27-
Cảnh do năng cảnh, năng do cảnh năng
28-
Dục tri lưỡng đoạn, nguyên thị nhất không
29-
Nhất không đồng lưỡng, tề hàm vạn tượng
30-
Bất kiến tinh thô, ninh tri nhất chủng
31-
Đại đạo thể khoan, vô dị vô nan
32-
Tiểu kiến hồ nghi, chuyển cấp chuyển trì
33-
Chấp chi thất độ, tất nhập tà lộ
34-
Phóng chi tự nhiên, thể vô khứ trụ
35-
Nhậm tánh hợp đạo, tiêu diêu tuyệt não
36-
Hệ niệm quai chân, hôn trầm bất hảo
|
Phần
37 đến Phần 44
|
Phần
45 đến Phần 50
|
Phần
51 đến Phần 57
|
Phần
58 đến Phần 62
|
Phần
63 đến Phần 69
|
Phần
70 đến Phần 73
|
|
.
GIẢNG GIẢI
TÍN TÂM MINH
TỊCH NGHĨA GIẢI
Hòa
Thượng Thích Duy Lực
Thích
Đồng Thường Ghi Thành Văn Tự
27
- CẢNH DO NĂNG CẢNH, NĂNG DO CẢNH NĂNG
Dịch
Cảnh
do năng thành cảnh, năng do cảnh thành năng.
Lời
khai thị:
Đại
tạng kinh điển là giấy vụn năm xưa (bao nhiêu kinh điển
đều không dùng được), 1700 công án là dây dưa mục nát
(Cảnh Đức Truyền Đăng Lục của Thiền tông có ghi 1700 công
án, đối với thật tế thì vô dụng), cũng như lá vàng gạt
con nít nín khóc (lá cây màu vàng, dối với con nít là vàng,
để con nít nín khóc; như tất cả kinh điển, công án lịch
sử Thiền tông, giống như lá vàng để gạt con nít nín khóc).
Khác
chi đốt ngọn đèn dưới ánh sáng mặt trời! (Dưới ánh
sáng mặt trời đốt đèn có nhằm gì!) Dẹp qua lớp này,
rồi lại có một lớp nữa, có mấy ông Tăng được thoát
khỏi những sự lừa gạt này? (Tất cả những vị Tăng đâu
có thoát những tri kiến, tìm hiểu nghiên cứu về Phật học).
Lời
nghĩa giải:
Tổ
sư nói: “Cảnh do năng thành cảnh, năng do cảnh thành năng”.
Có người y văn giải nghĩa rằng: Cảnh chẳng tự cảnh, vì
năng nên cảnh; năng chẳng tự năng, vì cảnh nên năng; năng
nhờ cảnh mà sanh, cảnh nhờ năng mà khởi. Phải biết ngoài
tâm chẳng pháp, sanh mà bất sanh; ngoài pháp chẳng tâm, khởi
mà chẳng khởi. Tổ sư đến đây đem nhất tâm vạn pháp
vò thành viên kẹo, chỉ muốn y vui vẻ nuốt vào.
(Nghĩa
giải như vậy là cao tột lắm rồi, ý cao nhưng chưa đến
thật tế, nên ngài Trung Phong phủ định).
Tịch
nghĩa giải:
Hỏi
ngược lại họ: “Ông đã đã từng nuốt được hay chưa?
Nếu chưa, thì cả thế giới có ai nuốt được chăng? E rằng
sau này viên sắt lửa hồng, chắc có phần cho ông! (Bởi vì
không giải thoát, phải chịu viên sắt lửa hồng của Diêm
La Vương, cho nên nói hay chẳng có dùng được. Vậy cần có
sự thật tế).
Kệ
kết thúc:
Vì
năng sanh sở, sở sanh năng,
Năng
sở đều quên, sanh “bất sanh”.
Ốc
trai hút cạn nước biển cả,
Trên
nhánh san hô nửa đêm trăng.
(Hai
câu cuối, việc đó không có thể xảy ra. Lời nói không có
thật tế, nên cần phải thật tế. Vì vậy Thiền tông chú
trọng thật tế, chứ không chú trọng hiểu biết và lời
nói).
28
- DỤC TRI LƯỠNG ĐOẠN, NGUYÊN THỊ NHẤT KHÔNG
Dịch
Muốn
biết “hai đoạn”, vốn là “một không”.
Lời
khai thị:
Không
mà chẳng không, cây gậy sừng thỏ chống bể núi bạc vách
sắt (thỏ không có sừng, mà nói cây gậy sừng thỏ, điều
đó không thể có); chẳng không mà không, phất trần lông
rùa, mở ra gió mát trăng thanh (rùa không có lông, làm gì có
phất trần! Điều đó không thể xảy ra).
Động
Sơn “ba căn mè”, dính da dính xương (có người hỏi Động
Sơn: Thế nào là Phật? Động Sơn đáp: Ba căn mè).
Vân
Môn “cục cứt khô”, kẹt vỏ kẹt ruột (có người hỏi
Vân Môn: Thế nào là Phật? Vân Môn đáp: “Cục cứt khô”.
Những câu trả lời của Tổ sư, mình không thể hiểu được).
Trước
mặt Nạp Tăng thả qua không được, dưới cửa Tổ sư tái
phạm khó tha (muốn được Tổ ấn chứng không phải dễ,
phải qua sự khám xét, thiệt ngộ mới được. Nếu người
chưa ngộ, không cho qua cửa ải, không có ấn chứng).
Thường
khiến trong bụng như kim chích, quăng xuống trong biển rộng
sóng to (tham thiền miên mật, khẩn thiết như cháy đầu, tất
cả những tri giải đều quăng ra sạch hết).
Lời
nghĩa giải:
Tổ
sư nói: “Muốn biết hai đoạn, vốn là một không”. Người
nghĩa giải cho rằng: Nói “hai đoạn” là chỉ tâm pháp
của đoạn trên. Nói “một không” chẳng phải là cái ngoan
không của thái hư (hư không chẳng có ý thức), cũng chẳng
phải cái “không” đoạn diệt của Tiểu thừa (chấp cái
không này chẳng có gì hết).
Là
cái chơn không vô tướng của Linh giác. Không này là nguồn
gốc của chư Phật, là mẹ của vạn linh. Chẳng tiếng chẳng
mùi, rõ ràng ở trước các vật. Chẳng hữu chẳng vô, hiển
bày bên ngoài lục trần (không này là tánh không của tâm
mình, không phải cái không đoạn diệt của Tiểu thừa, không
phải cái ngoan không chẳng có gì, cái không này là cái linh
giác. Mặc dù, không có âm thanh, mùi vị, nhưng rõ ràng ở
trong các vật, đều có cái tánh không này).
Lời
nghĩa giải trên, lý thì cao siêu, như chưa phải thật tế.
Tịch
nghĩa giải:
Đã
là không thì chẳng nên có biết, đã có biết thì chẳng nên
gọi là không. Nếu chưa từng nắm tay với Tổ sư (chứng
ngộ), đích thân đến biển giác Chơn không. Nếu chưa ngộ
thì nói chi ngôn ngữ này nọ! (Đều là lời nói, chẳng có
dính dáng gì hết).
Kệ
kết thúc :
Đào
được kho tàng trong chiêm bao,
Lại
cưỡi loan phụng lên bảo đài.
Suốt
đêm vui mừng không kể xiết,
Sáng
ngày tỉnh dậy dạ ngẩn ngơ.
(Mặc
dù, đào được kho tàng và cưỡi chim loan phụng trong chiêm
bao, nhưng vẫn ở trong chiêm bao, khi thức dậy thì không còn).
29
- NHẤT KHÔNG ĐỒNG LƯỠNG, TỀ HÀM VẠN TƯỢNG
Dịch
Nói
một cái không đã đồng với hai, một và hai cũng bao hàm
vạn tượng.
Lời
khai thị:
Một
lời nói vô tư, muôn người đồng ngưỡng mộ, so bằng vai
Tổ, cơ xảo qua bàn tay, Đại Điên đánh Thủ Tọa, gom tuyết
để chôn vàng (một lời nói không có riêng tư, nhưng so bằng
vai Tổ. Cơ xảo qua bàn tay thì lại khác. Như Đại Điên đánh
Thủ Tọa, không hiện ra ý gì, gom tuyết để chôn vàng làm
sao chôn được!).
Hưng
Hóa phạt Duy Na, ra tiếng để ngưng âm thanh (làm sao ngưng
âm thanh được! Lời nói của Tổ không có nghĩa lý gì).
Duy
có Thạch Cảm Đương quanh năm suốt tháng, ló đầu ra trước
trăm ngàn chúng, xưa nay chẳng ai biết tán thưởng (ở Việt
Nam không thấy. Bên Trung Quốc, người ta có để bia đá Thái
Sơn Thạch Cảm Đương để trị tà, nhưng đâu có ai để
ý tới).
Lời
nghĩa giải:
Tổ
sư nói: “Nói một cái không đã đồng với hai, một và hai
cũng bao hàm vạn tượng”. Người nghĩa giải cho rằng: Tâm
chẳng khác với pháp, là một không đồng hai; pháp chẳng
khác với tâm, là cùng hàm vạn tượng. Sở dĩ người xưa
nói: “Thấy sắc liền thấy tâm, chẳng sắc, tâm chẳng hiện”,
lại trong kinh nói “Sum la vạn tượng, do một pháp ấn định”.
Nên Tổ sư sáng tỏ nơi đây.
(Pháp
là tâm, sum la vạn tượng là vũ trụ vạn vật. Nếu không
có tâm, ai biết vũ trụ vạn vật? Vì có một tâm mới hiện
ra vũ trụ vạn vật. Nếu không có tâm thì không hiện ra vũ
trụ vạn vật. Không có vạn vật thì tâm cũng không hiện.
Vì tâm không có hình thể, do có vạn vật, nên nói có tâm
biết. Tâm biết cho là tôi biết; tôi biết đâu phải là thân
thể này. Nếu thân thể này chết thì đâu có biết! Vậy
cái biết đó là tâm.
Tâm
là cái gì? Chỉ là tên gọi, không có hình thể, mình chỉ
biết tâm là tâm. Tâm có tướng mạo gì? Không biết tự nơi
mình, mà lại muốn biết ở bên ngoài! Tức là mâu thuẫn.
Như
tâm biết cái tách này, vì cái tách có hình tướng. Tâm tự
không biết mình. Vậy cái gì để biết cái tách này? Phải
mâu thuẫn không! Vì có cái tách này, mới nói tâm biết cái
tách. Cái tách là cảnh sanh ra tâm biết; Tâm biết mới biết
cái tách là cảnh. Nhưng các pháp do tâm ấn định cái này
cái kia… như ấn định cái này là cái tách, cái bình…
nên Tổ sư sáng tỏ nơi này. Nói có lý, nhưng thật tế thì
mâu thuẫn, nên ngài Trung Phong phủ định).
Tịch
nghĩa giải:
Giảng
kinh thì cho ngươi giảng, nhưng muốn thấy ý Tổ sư, khác
gì đi Trịnh Châu ra cửa Tào Châu (Trịnh châu và Tào Châu
cách nhau rất xa).
Kệ
kết thúc:
Một
chẳng phải chiếc, hai chẳng đôi,
Trăng
lạnh đêm khuya, bóng in sông.
Ánh
sáng nuốt hết cả vũ trụ,
Còn
dời bóng mai lên cửa song.
(Theo
lẽ thường, một là chiếc, hai là đôi. Nhưng thật tế thì
chẳng phải vậy.
Ở
trên trời có một mặt trăng, thì bóng mặt trăng chỉ một.
Nhưng đem để mười thau nước, thì thấy mười bóng mặt
trăng; đem một ngàn thau nước, thì thấy một ngàn bóng mặt
trăng… vậy một đâu phải là chiếc, hai cũng không phải
là đôi. Mặt trăng ở trên không, bóng in dưới sông; nước
bao nhiêu, thì mặt trăng hiện bấy nhiêu. Chứ không phải
một mặt trăng hiện một cái bóng. Ánh sáng mặt trăng khắp
cả vũ trụ, bóng mai dời lên cửa song. Mặt trăng không có
biến đổi, như thấy cảnh có biến đổi).
Hỏi:
Thế
nào biệt nghiệp và cộng nghiệp?
Đáp:
Kinh
tế của nước Mỹ bị sụt, thì tất cả người dân Mỹ
chịu ảnh hưởng cộng nghiệp này. Có người trực tiếp
chịu thất nghiệp; người chưa thất nghiệp lo sợ, cuộc
sống cũng khó khăn; đáng lẽ làm 8 giờ, họ bắt làm 9 giờ,
mà không có tăng lương… việc này là cộng nghiệp cùng chung
trong kinh tế nước Mỹ.
Rồi
mỗi người mỗi khác, có người bị sa thải, có người chưa
bị sa thải thì tốt hơn, gọi là biệt nghiệp. Ở bất cứ
nước nào cũng có biệt nghiệp và cộng nghiệp, vì mình đã
tạo ở quá khứ, nên bây giờ phải chịu cái nghiệp này.
Hỏi:
Trong
một gia đình, người cha đi ăn cướp, người con thì không.
Như vậy người con có bị ảnh hưởng cộng nghiệp này không?
Đáp:
Người
con đã sanh trong gia đình người cha đi ăn cướp. Như vậy
người con kiếp trước gieo nghiệp không tốt.
Có
câu chuyện:
Nhà
vua có công chúa; công chúa nói với cha rằng: “Những gì
con có đều là của kiếp trước con tạo ra”. Nhà vua nghe
nói vậy thì giận lắm. Bèn mới gả công chúa cho một người
thật nghèo, rồi đuổi đi chỗ hoang vu không nhà cửa.
Hai
vợ chồng công chúa chọn đất, cất lên một túp lều che
nắng mưa. Thật may, vợ chồng công chúa gặp một hũ vàng
lớn, rồi xây cất nhà cửa to lớn, mua sắm ruộng vườn
thật nhiều, phương tiện sinh sống dư dả.
Theo
chuyện này, kiếp trước công chúa đã tạo nhiều phước,
cho nên kiếp này, sinh bất nơi đâu, cũng có phước báo giàu
sang. Vì vậy nói: Nhân nào quả nấy.
30
- BẤT KIẾN TINH THÔ, NINH HỮU THIÊN ĐẢNG
Dịch
Chẳng
thấy tinh tế thô sơ, đâu có thiên lệch một bên.
Lời
khai thị:
Thiền
gọi là quan ải (sơ quan, trùng quan, mạc hậu lao quan. Phá
được sơ quan là ra khỏi sanh tử luân hồi, không bị Diêm
La Vương bắt. Phá được trùng quan thì hơn quả A la hán.
Phá được mạc hậu lao quan là đến chỗ giác ngộ hoàn toàn,
thì diệu dụng cùng khắp không gian thời gian).
Giáo
môn gọi là cương yếu, cứu vớt chúng sanh trong tam giới
(tam giới là dục giới, sắc giới, vô sắc giới. Dục giới
là có nam nữ dâm dục. Sắc giới là không có nam nữ dâm
dục. Vô sắc giới là không có hình sắc, chỉ sống trong
tưởng thức).
Thi
đậu “Tâm không” là tiêu biểu, đụng nhằm thằng không
ý chí (Tự tánh), móc xiền xích mở thắt kết, muôn mắt
nhìn thẳng, muốn mở mà chẳng mở (hàng ngày con người sống
trong nhiều niệm suy nghĩ, sanh diệt luân phiên, do đó không
được giải thoát. Muốn được giải thoát, phải tham thiền
phát nghi tình, chấm dứt tất cả biết, rồi chấm dứt luôn
cái không biết, không hiểu của nghi tình).
Trăm
người giơ tay, muốn tát mà chẳng tát, đạo giả vô tâm
vốn như thế, đâu phải khoe tài trước mặt mọi người
(người kiến tánh triệt để là giải thoát hoàn toàn, hiện
ra cái dụng cùng khắp không gian thời gian, không còn tâm chấp
trước; làm việc gì cũng không dính mắc, nghĩa là ăn cơm
cứ ăn cơm, uống nước cứ uống nước, không bị cảnh ràng
buộc. Diệu dụng vốn như thế! Đâu có khoe tài, nên nói
chẳng thấy có tinh tế và thô sơ, thì không lọt vào một
bên).
Lời
nghĩa giải:
Người
nghĩa giải cho rằng: Tâm và pháp đã không, năng và sở đều
bặt (biết tốt, biết vui, biết buồn, gọi là tâm; còn
yêu ghét, đúng sai… gọi là pháp. Tâm là năng biết, pháp
là sở biết; Tâm là năng suy nghĩ, pháp là sở suy nghĩ. Nếu
tâm không năng suy nghĩ pháp thì không có năng. Không có năng
thì không có sở, làm sao có yêu ghét đúng sai?).
Thì
chúng sanh, chư Phật đồng bản thể, mê ngộ chẳng khác (chúng
sanh là mê, chư Phật là ngộ, mà chúng sanh và chư Phật cùng
một bản thể. Vậy mê ngộ cũng không có khác).
Nên
dẫn chứng lời “Tức Tâm Minh” (là ngưng nghỉ cái tâm)
nói: “Đâu quí đâu tiện, đâu nhục đâu vinh, đâu đắc
đâu thất, đâu trọng đâu khinh, một đạo hư tịch, vạn
vật bình đẳng” (không có tương đối, tốt xấu, đúng
sai).
Tịch
nghĩa giải:
Nói
chứng cũng giống như được chứng, nhưng sự chứng quá giống
nhau (nếu mà giống nhau thì đã là nhị rồi, vì Tự tánh
bất nhị. Như cái hoa này, phải có hai cái mới nói giống
nhau), lại trở thành không giống nhau rồi (không phải thật
tế). Vậy chỗ nào không giống nhau? Thử xác định xem! (Tự
Tánh bất nhị, không có hình tướng không có số lượng,
lời nói không đến với thật tế. Cho nên tham thiền đích
thân mới thấy được).
|