Mục
Lục
|
Lời
Nói Đầu
|
Phần
01 đến Phần 06
|
Phần
07 đến Phần 16
|
07-
Viên đồng thái hư, vô khiếm vô dư
08-
Lương do thủ xả, sở dĩ bất như
09-
Mạc trục hữu duyên, vật trụ không nhẫn
10-
Nhất chủng bình hoài, dân nhiên tự tận
11-
Chỉ động quy chỉ, chỉ cánh di động
12-
Duy trệ lưỡng biên, ninh tri nhất chủng
13-
Nhất chủng bất thông, lưỡng xứ thất công
14-
Khiển hữu một hữu, tùng không bội không
15-
Đa ngôn đa lự, chuyển bất tương ưng
16-
Tuyệt ngôn tuyệt lự, vô xứ bất thông
|
Phần
17 đến Phần 26
|
Phần
27 đến Phần 36
|
Phần
37 đến Phần 44
|
Phần
45 đến Phần 50
|
Phần
51 đến Phần 57
|
Phần
58 đến Phần 62
|
Phần
63 đến Phần 69
|
Phần
70 đến Phần 73
|
|
.
GIẢNG GIẢI
TÍN TÂM MINH
TỊCH NGHĨA GIẢI
Hòa
Thượng Thích Duy Lực
Thích
Đồng Thường Ghi Thành Văn Tự
7
– VIÊN ĐỒNG THÁI HƯ, VÔ KHIẾM VÔ DƯ
Dịch
Tròn
đầy thái hư, không thiếu không dư.
Lời
khai thị:
Bản
tâm của mình vốn chẳng dư thiếu, nhưng cuộc sống của
mình lại có tính toán nên có dư thiếu. “Trang Châu gọi
vạn vạât là con ngựa” (Trang Châu [Trang Tử] và Lão Tử
là nhà triết học đông phương. Triết lý của họ chưa đến
cùng tột, so với đạo Phật thì còn cách xa. Nhưng đối với
triết học Tây phương thì họ cao hơn nhiều.
Tư
tưởng của triết học tây phương cũng đến vô thỉ vô minh.
Nhưng họ biết vô thỉ vô minh là suy lý để biết được,
chưa phải kinh nghiệm trực tiếp. Còn triết học đông phương
của Trang Tử, Lão Tử có kinh nghiệm trực tiếp tới vô thỉ
vô minh).
Long
Môn cho “mười phương là con lừa” (Phật pháp gọi 10 phương
tức là không gian hay hư không. Mười phương là trên,
dưới, đông, tây, đông nam, tây nam, đông bắc, tây bắc.
Ai nói ngựa cho là ngựa, nói lừa cho là lừa, đó đều là
ý của mình. Đem ý của mình vô trong vũ trụ vạn vật, thì
không phải bản thể vũ trụ vạn vật.
Chư
Tổ Thiền tông kiến tánh nói ra chuyển ngữ thì không trụ
chỗ nào. Mọi vật vẫn y như cũ. Như cái tách vẫn là cái
tách, cái bình vẫn là cái bình… không thêm ý của mình vô
trong đó, nếu thêm ý của mình vô trong đó, thì có kiến
lập cái lý. Vậy không thể thí dụ cho là cái gì! Cho là
con ngựa, con lừa đều sai lầm; không thể đặt tên, không
có nghĩa lý gì hết, nhưng tất cả đều phải nhờ nó).
Giống
như chung một đường, nhưng chẳng cùng lối (cũng như vạn
vật trong vũ trụ cùng chung cái không, tức chung một đường,
mà mỗi thứ thì khác nhau. Như thân của chúng ta mỗi
người đều khác, nhưng cùng chung ngồi trong một Thiền đường.
Ví
như ánh sáng đèn, đốt 100 cây đèn chỉ có một ánh sáng,
chứ không phải nhiều ánh sáng, nhưng mỗi cây đèn đều
được thắp sáng. Mặc dù chỉ có một ánh sáng, mà mỗi
cây đèn lại khác nhau. Aùnh sáng cùng khắp, không thể chỉ
ra ánh sáng riêng của mỗi cây đèn).
Có
nước mới có bóng trăng hiện (trên bầu trời chỉ có một
mặt trăng; rồi để 100 thâu nước, thấy trong đó đều có
100 mặt trăng. Như có cái không mà chúng ta đều ngồi trong
đó).
Vô
tâm mới đắc dạ minh châu (dạ minh châu thí dụ cho tâm mình,
ban đêm nó sáng. Đắc dạ minh châu như phát hiện tâm mình.
Nhưng dùng hữu tâm và vô tâm không thể phát hiện được.
Tại sao dùng vô tâm không thể phát hiện bản tâm được?
Bởi có câu: “Vô tâm còn cách một lớp rào”, vì vô tâm
và hữu tâm là đối đãi nhau. Còn Diệu tâm là tuyệt đối
không có tương đối).
Hỏi:
Thế
nào là tọa vong?
Đáp:
Vong
là quên, tức là ngồi đến vô tâm thì quên hết. Lão Tử
và Trang Tử tu đến cao nhất là vô cực, tức là vô thỉ
vô minh. Từ vô thỉ vô minh nổi lên một niệm, Trang Châu
gọi là thái cực, rồi sanh tương đối âm dương. Khoa học
cho tất cả sự vật đều có âm dương, như: Hoa cỏ, trái
cây, con người, con vật… đều từ nhất niệm này sanh ra,
nhà Phật gọi là “nhất thiết duy tâm tạo”. Trang Châu
cho là con ngựa hay con lừa đều không phải bản thể, vì
có “cho là” đều không phải bản lai diện mục. Bản lai
diện mục thì không có thêm bớt.
Tổ
Thiền tông nói: ‘Vì có nên có cái không’. Chấp không là
đoạn kiến của ngoại đạo, chấp có là thường kiến của
ngoại đạo. Trang Châu và Lão Tử đối với đạo Phật
gọi là ngoại đạo. Vì họ có cái “không có”, không có
tức là “có”. Bởi vậy, họ chấp có vô cực, tức là
không có. Nếu không chấp có thì làm sao có cái không có để
chấp! Đối với Thiền tông không dính dáng gì, vì không trụ
tức là không chấp.
Lời
nghĩa giải:
“Tròn
đồng thái hư, không thiếu không dư”. Ở Tòng Lâm bàn với
nhau rằng: Tâm này nơi thánh chẳng thêm, nơi phàm chẳng bớt,
tròn như hư không, mỗi mỗi đầy đủ.
(Đây
là lời nói phân biệt của mình gọi là ý ngôn, tức là ngôn
ngữ diễn bày ý của mình. Còn bản lai diện mục không có
xen ý gì hết. Lời nói không thể thay thế được; cho nên
không phải ở trong lời nói, không thể hiểu theo lời nói.
Ví
dụ, tôi biết rõ mặt mũi ông Trương. Có người hỏi tôi:
Ông Trương như thế nào? Tôi diễn tả rất tỉ mỉ, nhưng
người ấy gặp ông Trương cũng không biết. Khi nào có ông
Trương trước mặt người ấy, tôi giới thiệu thì người
ấy sẽ thấy rõ.
ÔângTrương
là hình thể có số lượng; dù diễn tả cũng không biết
được, huống là tâm của chúng sanh không hình tướng, không
số lượng, thì làm sao biết được! Cho nên, dùng lời nói
văn tự không phải bản tâm của mình. Bản tâm của mình
phải tự ngộ mới được. Nếu giải theo lời nói, mỗi mỗi
đều đầy đủ; đó là nghĩa giải, chứ không phải thật
tế. Thật tế không có nghĩa giải).
Tịch
nghĩa giải:
Ngài
Trung Phong nói nghĩa giải trên, như thế khác chi người đi
tham học các nơi, ngồi chưa ấm chiếu. Tức là đem những
lời này chứa trong bụng, chỉ có thể dùng để đàm luận
mà thôi. Hễ gặp một việc nào có dính chút lợi ích của
mình, thì cái niệm so sánh đắc thất nổi dậy ùn ùn, muốn
khiến cho tròn thái hư đâu có thể được (cũng như các việc
trong xã hội, nói thì hay lắm, nhưng đụng chạm một chút
lợi ích của mình thì không được. Vậy làm sao nói đồng
được!).
Cho
nên việc này cần phải ngộ, ngộ rồi đâu có cảnh thứ
hai để làm đối đãi ư! (Đối đãi là có và không có, đồng
với không đồng. Bởi vậy, đồng là nhị, chẳng đồng cũng
là nhị. Tại sao? Vì có nhị mới có đồng, tức là cái này
đồng với cái kia; khác cũng là nhị, tại cái này khác với
cái kia là chẳng đồng. Đồng với chẳng đồng là nhị.
Tâm mình chẳng nhị, nên phải tự ngộ mới được).
Kệ
kết thúc:
Tò
vò làm ổ trên mi muỗi,
Muốn
cùng đại bàng nối cánh bay.
Muốn
cho hư không chẳng thiếu kém,
Mở
mắt bị nhốt trong chiêm bao.
(Tò
vò sao làm ổ được trên mi muỗi? Tò vò nhỏ xíu, còn đại
bàng quá lớn, làm sao nối cánh bay được!
Hiện
giờ, mình bị nhốt trong mở mắt chiêm bao. Nếu cho hư không
là cái gì, đều chẳng phải. Vì hư không chẳng phải là
cái gì, mà nói hư không chẳng thiếu kém, là đem ý của mình
vô, thì phải ở trong mở mắt chiêm bao.
Ra
ngoài mở mắt chiêm bao tức là kiến tánh. Chưa kiến tánh,
có nói gì cũng chẳng đúng; vì ý của mình đã có hai chữ
cho là)
8
- LƯƠNG DO THỦ XẢ, SỞ DĨ BẤT NHƯ
Dịch
Bởi
do thủ xả, cho nên bất như (như là đúng như tự tánh)
Lời
khai thị:
Tổ
Tiến Phước gặp người hỏi cái gì, thì trả lời: “Đừng
có vọng tưởng”. Suốt đời Ngài, mấy chục năm gặp người
hỏi, cũng trả lời: Đừng có vọng tưởng.
Có
người hỏi Triệu Châu: Con chó Phật tánh không?
Triệu
Châu trả lời: Vô (không).
Hiện
giờ người học thiền ở Nhật Bản tham chữ “vô”.
Tuyết
Phong ném con ba ba ở Nam sơn. Vân Môn đánh chết cá lý ngư
Đông hải. Hưng Hóa đi dự trai tăng trong thôn làng, vào trong
cổ miếu tránh gió bão. Đơn Hà thiêu Phật gỗ, làm cho Viện
chủ rụng lông mày… những việc kể trên, đã nghi chết
biết bao đại trượng phu (có ý cái nghi tình lên đến tột
đỉnh).
Trời
lạnh, Đơn Hà đem tượng gỗ đốt lấy hơi ấm, Viện chủ
thấy vậy nói: Khùng điên sao đem Phật của tôi đốt?
Đơn
Hà trả lời: Đốt tìm xá lợi.
Viện
Chủ nói: Phật gỗ làm gì có xá lợi?
Đơn
Hà nói: Phật này không có thì lấy Phật khác.
Viện
Chủ đâu biết, đó là cơ xảo của Tổ, cho nên ngay đó lông
mày rụng hết. Việc này làm cho thiên hạ phát nghi tình, nghi
chết biết bao đại trượng phu thì mới được kiến tánh.
Chư
Tổ làm việc gì cũng làm cho người ta phát nghi tình. Nghi
là nhân, ngộ là quả. Nên nói: Đại nghi đại ngộ, tiểu
nghi tiểu ngộ, bất nghi bất ngộ.
Lời
nghĩa giải:
Tâm
này đã tròn như hư không, thì không có thiếu tướng nào
nên tất cả đều như. Nếu người ở trong các pháp dơ dáy,
trong sạch; có tâm lấy dơ dáy, bỏ trong sạch hay lấy trong
sạch, bỏ dơ dấy thì đã bất như; tức là có phân biệt
lọt vào tương đối của nhất niệm vô minh, không phải đúng
như bổn lai bản tâm.
Tịch
nghĩa giải:
Nếu
bậc Tu sĩ tham học chơn chánh, thấy những người này liền
phun nước miếng vào mặt, chẳng phải tánh nóng (tức là
những người đó nói bậy, dù có lý cao siêu cùng tột, cũng
phun nước miếng vào mặt họ)ï.
Vì
con rồng vẽ đâu có thể làm mưa được (tại sao? Chỉ có
rồng chân thật mới làm mưa. Hành giả tham thiền muốn hiện
ra tâm chân thật, mà chỉ nghe, suy nghĩ để nói ra, giống
như con rồng vẽ làm mưa).
Kệ
kết thúc:
Hai
việc thủ xả đã bất như,
Con
trâu ai dám con gọi lừa.
Bản
thể kim cang khắp pháp giới,
Cũng
là dưới hàm trồng lại râu.
(Bản
thể diệu tâm cùng khắp pháp giới như kim cang cứng chắc,
không có thể bị tổn thương lay động.
Râu
tự mọc làm sao trồng được! Nếu cho bản tâm cứng
như kim cang là trồng lại râu, hay nói lý cao nhất cũng là
trồng lại râu).
9
- MẠC TRỤC HỮU DUYÊN, VẬT TRỤ KHÔNG NHẪN
Dịch
Đừng
theo nơi có, chớ trụ nơi không.
Lời
khai thị:
Vạn
vật lăng xăng con người ngu độn, lìa tướng lìa danh, có
ai không hiểu. Vì sao Đạt Ma phân da phân tủy, Lâm Tế lập
chủ lập khách, làm cho con cháu lăn lộn tìm!
(Tổ
Đạt Ma muốn xét môn đồ, để biết trình độ của mỗi
người đến mức nào. Tất cả môn đồ đều trình cái hiểu
của mình. Có người trình xong Tổ cho là được da của tôi,
thêm một bước nữa thì được thịt của tôi. Cuối cùng
đến Huệ Khả đi ra không nói gì cả, thì Tổ nói “được
cái tủy của tôi”. Rồi truyền pháp cho Huệ Khả làm nhị
Tổ. Bởi vì không thể nói được, nói ra là không đúng).
Lời
nghĩa giải:
“Đừng
theo nơi có, chớ trụ nơi không”. Có với không đều như
huyễn, khởi tâm chấp trước thì thủ xả tranh nhau (chấp
có là thủ, chấp không là xả; có thủ có xả đều không
được). Một niệm chẳng sanh thường ở trung đạo là
đạo nhân giải thoát (tức là không lấy không bỏ, không
cho là có, không cho là không có, không sanh niệm nào thì ở
trong trung đạo là đạo nhân giải thoát).
Tịch
nghĩa giải:
Theo
nghĩa giải ở trên, ngài Trung Phong cho là sai lầm. Đợi ngươi
biết là giải thoát đã lọt ngoan không rồi (vì cái biết
“giải thoát” thuộc phạm vi tương đối của ý thức, mà
ý thức do chúng sanh điên đảo tạo ra. Như Phật đã phủ
nhận trong kinh Bát Nhã rằng “vô nhãn, vô nhĩ, vô tỷ, vô
thiệt, vô thân và vô ý thức”.
Nếu
là bậc ngộ tâm chân thật, tức hiện ra bản thể trống
rỗng, cùng khắp không gian thời gian, đâu có pháp đối đãi
hữu và vô để dung nạp. Hữu duyên và không nhẫn là do tình
thức của chúng sanh bày đặt ra. Ở nơi Tự tánh bình đẳng,
đã không có pháp hữu vô để phân biệt, thì hữu tức là
vô vậy).
Kệ
kết thúc:
Đừng
theo nơi có, còn là dễ,
Chớ
trụ nơi không mới thực khó.
Hai
đầu khó dễ đều chấm dứt,
Tổ
đình y xưa chẳng dính dáng.
(Ở
nơi tình thức phân biệt, không lọt vào có thì cũng lọt
vào không; không lọt vào không cũng lọt vào có, chỉ có nghi
tình thì có và không đều chẳng biết. Đã chẳng biết thì
không bị có và không dính mắc. Vậy làm gì có khó dễ ư!
Đến đây gặp nhân duyên, ồ lên một tiếng thì tình thức
tan rã, Tổ đình vẫn y xưa).
10
- NHẤT CHỦNG BÌNH HOÀI, DÂN NHIÊN TỰ TẬN
Dịch
Trọn
một bình đẳng, tuyệt nhiên tự sạch.
Lời
khai thị:
Đạo
tràng chẳng động, pháp vốn vô sanh (tất cả đều nói bản
tâm. Bản tâm không có số lượng, không có hình tướng, giống
như hư không nên nói chẳng động. Chẳng động là vô thỉ
vô sanh, không có sự bắt dầu và không có sự cuối cùng;
tức là vốn không có sanh khởi, tất cả đều tự nhiên),
nên nói: Trăng sáng thấu song cửa, gió mát đầy bình phong
(thì vũ trụ vạn vật y như cũ).
Chỗ
có Phật chẳng được trụ (nghĩa chữ ‘Phật’ là giác
ngộ, vì đối với mê. Tâm của mình không có tương đối,
vốn không có mê ngộ. Nếu còn ngộ tức là còn mê. Cho nên,
ngộ cuối cùng thì cái ngộ cũng tan rã. Thiền tông gọi là
đại tử đại hoạt, cũng nói là đồng như chưa ngộ. Nếu
ngộ rồi còn ôm cái ngộ, thì vẫn còn mê. Thiền tông gọi
là tiểu tử tiểu hoạt, tức chưa ngộ cuối cùng).
Chỗ
có Phật chẳng được trụ (không trụ chỗ ngộ). Dùng sắt
gói tim đèn (chuyện này không thể xảy ra). Chỗ không Phật
chạy mau qua (không chấp có Phật, cũng không chấp không có
Phật).
Bông
đẹp trải gấm lụa (bông đẹp trải gấm lụa là việc thừa,
tức là mọi việc sẵn sàng tự nhiên; không thêm không bớt,
không xấu không đẹp; tất cả hình tướng, số lượng đều
không thật có).
Ngoài
ba ngàn dặm tìm bông hái, mười phương hư không đều tiêu
mất (là hình dung bản tâm, không có số lượng, không có
hình tướng, không thể tiếp xúc. Nói ba ngàn dậm tìm bông
hái, làm sao có! Đã ngộ thì không chấp hư không, nên nói:
Mười phương hư tiêu mất).
Dễ
thương lượng, khó định chuẩn (nếu định chuẩn thì có
lý, cao nhất là chân lý; đã lập chân lý thì có giả lý
là có nhị, cũng là pháp tương đối. Bản thể diệu tâm
không có tương đối, không có chân giả, không có tiêu chuẩn.
Mặc dù nói dễ thương lượng, nói cái gì đó… thì nói
được. Nhưng thật tế không có tiêu chuẩn, không có định
chuẩn, không có số lượng, không có hình tướng. Vậy làm
sao lục căn tiếp xúc được? Lấy cái gì tiêu chuẩn để
làm chân lý?).
|