70.
NHẤT TỨC NHẤT THIẾT, NHẤT THIẾT TỨC NHẤT
Dịch
Một
là tất cả, tất cả là một.
Lời
khai thị:
Hai
lần năm là mười, hai lần năm cũng là bẩy, pháp vốn chẳng
định, lãnh hội do người. Gọi chúng sanh là chư Phật, bản
thể đâu có sai; gọi chư Phật là chúng sanh lý chẳng mất.
Bỗng có người ra nói: “Chúng sanh tự chúng sanh, chư Phật
tự chư Phật, đâu thể thánh phàm lẫn lộn”! Khiến cho
ông già Thích Ca khi không bị oan, chỉ cần nói với ông ta:
“Vô thỉ vọng lưu chuyển, đều do sự chấp này”.
Định
tánh phàm phu bị Phật quở,
Thiên
thủ Quan Âm xô chẳng ra.
(Vì
vậy, kinh Đại thừa liễu nghĩa đều phá chấp thật của
chúng sanh. Nói đến chấp thật, nhiều người mới nghe tưởng
là chỉ không chấp cái có là thật, còn cái không có không
phải thật! Nếu chấp không có là không có, thì bệnh chấp
nặng thêm. Nếu chẳng chấp chơn lại chấp vọng, thì
bệnh càng nặng thêm, rất khó trị.
Vì
có bệnh chấp thật nên bị luân hồi sanh tử từ vô thỉ
đến nay. Nếu chấp thật mà không theo lời của Phật, Tổ
mà tu. Mặc dù, Bồ tát Quán Thế Âm đại từ đại bi muốn
đẩy ra khỏi biển khổ cũng không thể được).
Lời
nghĩa giải:
Tổ
sư nói “Một là tất cả, tất cả là một”. Hoặc có người
dẫn chứng kinh nói: “Một là một của tất cả, tất cả
là tất cả của một, nơi một chẳng ít, nơi tất cả chẳng
nhiều, đây là tâm pháp cùng khắp, một với nhiều dung thông
nhau, chẳng do thần thông làm ra, ấy là pháp vốn như thế”!
Thuyết này ghi đủ trong sách, chẳng cần dẫn chứng, nói
nhiều thêm phiền, nơi đạo vô ích.
Phải
biết, Tổ sư trước tác Minh này, đến chỗ “bất nhị giai
đồng, vô bất bao dung”, e kẻ hậu học chẳng thông đạt
lý viên dung, trước dùng “dài ngắn tương tức (hỗ tương)”,
kế dùng “lớn nhỏ tương tức”, kế nữa dùng “hữu vô
tương tức”, nay lại dùng “một nhiều tương tức”, đem
vô biên thế giới dung thành pháp môn bất nhị, khai thác vũ
trụ của vạn vật, mở rộng quê hương của chúng sanh, giúp
cho kẻ hậu học chẳng cất bước mà đến, chẳng cách mảy
trần mà nhập, chẳng ra sức mà thành, chẳng nổi niệm mà
chứng, nguyên đại từ thỏa mãn, công giáo hóa cũng cùng
khắp rồi.
Lời
của Tổ muốn mình ngộ liền, cho nên ngài Trung Phong còn phủ
nhận.
Tịch
nghĩa giải:
Dù
vậy, kẻ mang bức tranh ngựa đi tìm ngựa, ngày càng thêm
nhiều, lại tìm không ra. Nếu muốn được ngựa thật, phải
quày đầu trở về. Tức là đừng có hướng ngoài mà tìm,
để tự biết mình là cái gì? Khi triệt ngộ rồi, luôn chấp
Tổ sư cũng đuổi đi; mới là tri ân báo ân Tổ sư dạy cho
mình được ngộ.
Tổ
sư không có giải thích đạo lý cao siêu cho mình biết, để
cho mình đi tìm cầu ở ngoài. Nếu không tự ngộ được,
như đuôi con rùa dính đất, muốn làm sạch đất thì càng
dính đất nhiều thêm. Do sai lầm của mình làm cho chư Tổ
phải bị liên lụy.
Kệ
kết thúc:
Đại
địa vò lại bằng hạt gạo,
Công
khai đánh trống mọi người xem.
Mạt
vàng trong mắt nếu chưa hết,
Muốn
biết trắng đen cũng khó khăn.
(Hai
câu đầu diễn tả cảnh giới kiến tánh, như đại địa
vò thành, tức là lớn biến thành nhỏ, không có phân biệt.
Đánh trống cho mọi người nghe, tức là khi kiến tánh thì
lục căn hỗ dụng, dùng con mắt để nghe.
Mặc
dù vàng rất quý, nhưng mạc vàng rơi vào mắt sáng, thì cũng
làm cho hại mắt. Tổ đã ngộ nói ra giáo lý thì rất quý,
nhưng mình chấp thật vào đó, đâu có khác gì mạc vàng rơi
vào mắt, rất có hại. Nếu không chịu trị cho hết, thì
con mắt sẽ đui, lúc đó muốn phân biệt trắng đen cũng không
ra).
71.
ĐẢN NĂNG NHƯ THỊ, HÀ LỰ BẤT TẤT
Dịch
Nếu
được như thế, lo gì chẳng xong.
Lời
khai thị:
Đại
tâm chẳng trụ, đại hóa chẳng dấu tích, đại cơ xảo chẳng
cần làm, đại nhiệm vụ chẳng ra sức (đại tâm, đại hóa,
đại cơ xảo, đại nhiệm là biệt danh của Tự tánh
thì vô trụ. Nếu có trụ thì làm chướng ngại cái dụng
tự động của Tự tánh. Bốn chữ đại ở đây không phải
đối với tiểu mà nói đại, là siêu việt số lượng).
Chỗ
muôn pháp toàn hiển bày, ánh sáng và hình bóng đều tiêu
diệt (nếu thấy được không phải là cái dụng của Tự
tánh). Lúc một mảy lông chẳng hiện ra, lại chất đầy như
núi. Mối trắng ăn lũng tâm Phật sắt, ruồi xanh đạp lũng
lưng trâu vàng (cái dụng Tự tánh thì tự động, nên phàm
phu không thể hiểu được, vì lục căn không thể tiếp xúc
được).
Triệu
Châu thấy ông buông chẳng xuống, Yển Khê lại từ chỗ này
vào.
(Có
vị Tăng hỏi Triệu Châu: Không mang theo vật gì, lúc đó như
thế nào?
Triệu
Châu đáp: Buông xuống đi.
Tăng
lại hỏi: Một vật không đến, buông xuống cái gì?
Triệu
Châu đáp: Buông xuống không được thì gánh lên.
Tăng
ấy liền ngộ.
Có
vị Tăng hỏi Tổ Yển Khê: Người học mới vào Tòng lâm,
xin Thầy khai thị làm sao nhập?
Yển
Khê đáp: Từ chỗ này nhập).
Tùy
tay đem đến tùy miệng nhổ ra, trí đâu thể biết, thức
đâu nhận được.
Bao
người ngó nhằm bị mù mắt,
Bất
tài thừa kế uổng hứa khả.
(Nhiều
người sai lầm dùng mắt để xem, xem đến mắt bị khô, cũng
không nhìn được. Nếu người con không được truyền gia
tài, thì bị điểm tráng. Ở Trung Quốc có cửa Long Môn, có
con cá lý ngư, tới mùa sóng có 3 cấp. Nếu con cá lý ngư
nhảy qua đó được thì biến thành rồng. Nếu nhảy không
qua thì bị điểm tráng thối lui. Ý ở đây mình là con nhà
thiền, thì mới nối tiếp mạng mạch của Tổ. Còn không
phải thì bị điểm tráng thối lui).
Lời
nghĩa giải:
Tổ
sư nói: "Nếu được như thế, lo gì chẳng xong". Người nghĩa
giải cho rằng: Kinh Pháp Hoa nói: “Nay ta vì ông bảo
nhậm việc này, trọn chẳng hư dối”. Nếu theo lời của
Phật mà thực hành, quét hết bệnh chấp thật của mình,
thì sẽ kiến tánh thành Phật. Việc này chân thật không có
hư vọng. Lời của Tổ cũng vậy, như: "Nếu được như thế,
lo gì chẳng xong ", cái ý cũng vậy. Vì người học mà khích
lệ để tinh tấn tham thiền, là thành ý của Tổ được thấy
rõ ở đây.
Quyết
tử tham thoại đầu sẽ được kiến tánh, chứ khỏi lo không
xong việc. Phật ở trong kinh Pháp Hoa có khuyến khích mình
tinh tấn và Tổ Tăng Xán ở hai câu này cũng khích lệ mình
tinh tấn tu giải thoát.
Như
trên rất có lý, nhưng ngài Trung Phong còn phủ nhận.
Tịch
nghĩa giải:
Dù
vậy, ông đã được như thế hay chưa? Tức là kiến tánh
chưa? Nếu chưa kiến tánh mà theo lời của Tổ trả lời liền,
hay học theo hành động của tổ gật đầu 3 cái của Giáp
Sơn, thì đã trể 8 khắc (1 khắc = 15 phút), vậy lâu quá rồi!
Chúng
ta phải tự ngộ, nếu chưa ngộ mà bắt chước hành động
của Tổ, bị Tổ mắng là: “Con chó ăn cứt của người
ta, không phải là con chó tốt”.
Hôm
qua có người học theo của Tổ. Lại nắm tay tôi (Duy Lực)
hỏi: Có chăng?
Tôi
nói: Không, không.
Người
ấy xách gói đi ra. Tôi thấy vậy chỉ cười thầm mà thôi.
Người
đó học theo cũng không giống, muốn làm con chó không đủ
tư cách. Vì có qua bộ óc suy nghĩ một chút cũng không được;
giống như thuyền đang đi, làm rớt kiếm, rồi khắc dấu
trên thành thuyền, để đi tìm!
Kệ
kết thúc:
Như
thế, như thế cứ như thế,
Việc
xong lúc nào tìm hỏi ai?
Gở
được nhiều lớp da mặt sắt,
Đường
về quê hương vẫn xa xôi.
(Theo
lời nói: Như thế, như thế cứ như thế! Như thế chừng
nào mới xong việc? Lúc xong việc từ đâu mà đến? Nếu mình
không tự ra sức tham thiền, mà ăn cắp lời của Tổ cho là
của mình, thì không biết mắc cở! Cứ mang mặt nạ sắt
nhiều lớp, dẫu cho lột hết nhiều lớp mặt nạ sắt, có
mắc cở, nhưng đối với về hương còn cách xa 3000 ngàn dặm).
72.
TÍN TÂM BẤT NHỊ, BẤT NHỊ TÍN TÂM
Dịch
Tin
tự tâm là bất nhị, bất nhị phải tin tự tâm.
Lời
khai thị:
“Tâm
là căn, pháp là trần, hai thứ như vết bụi trên gương”
ngài Vĩnh Gia nói quá lố, muốn đục mở con mắt trời người,
còn như cách biển (mở mắt trời người là kiến tánh. Ngài
Lai Quả nói: “Người chưa kiến tánh như người mù bẩm
sinh, không biết bùn sình, cứt chó, hầm cầu. Đi đường
đạp nhầm cứt chó cho là tốt. Đến chừng kiến tánh tức
là mắt sáng, không có đạp cứt chó nữa”. Chứng Đạo
Ca của ngài Vĩnh Gia tuy rất hay, nhưng đối việc kiến tánh
còn xa như biển rộng).
Không
bằng nói ngược lại: “Tâm phi căn, pháp phi trần, cùng chuyển
Như Lai chánh pháp luân! (Tâm là lục căn, pháp là lục trần.
Không được chấp thật căn với trần. Chánh pháp của Phật
phá chấp thật).
Bỗng
có người nói: “Lời Vĩnh Gia như cách biển, lời ông là
biển cách”, đâu bằng Tam Tổ nói: “Tín tâm bất nhị,
bất nhị tín tâm”. Hai câu này như trái cân sắt, muốn đục
chẳng lũng. Chỉ nói với y rằng: “Im đi, im đi! Kêu đến
chảy máu cũng vô dụng, không bằng ngậm miệng qua xuân tàn”.
(Như
con ve sầu ở trên cây, ngày đêm kêu hoài không dứt, kêu
đến chảy máu cũng vô dụng, không bằng ngậm miệng lại,
đợi mùa xuân đi qua).