|
.
GIẢNG GIẢI
TÍN TÂM MINH
TỊCH NGHĨA GIẢI
Hòa
Thượng Thích Duy Lực
Thích
Đồng Thường Ghi Thành Văn Tự
63.
THẬP PHƯƠNG TRÍ GIẢ, GIAI NHẬP THỬ TÔNG
Dịch
Người
trí mười phương, đều vào tông này.
Lời
khai thị:
Chí
thần vô công dụng, chí thể chẳng hổn dung; chí thần và
chí thể là biệt danh của Tự tánh, công dụng của Tự tánh
là vô công dụng, vì nó tự động không qua bộ óc tức là
không tác ý. Thường thường Thiền tông nói: “Vô công dụng
đạo”. Cũng như dụng của Bát Nhã không cần qua bộ óc,
nhưng cái dụng khắp mười phương thế giới.
Bản
thể của Tự tánh hổn dung, nó không được chỉ ra ở chỗ
nào. Không được chỉ ra chỗ nào là Tự tánh, cũng không
được chỉ ra chỗ nào không Tự tánh. Nghĩa này trong kinh
Lăng Nghiêm giải thích rất kỹ.
Trong
kinh Lăng Nghiêm thí dụ bằng cây, tôi thí dụ bằng cái tách.
Nếu cái tách này là kiến tinh, thì cái tên tách phải bỏ,
vì tách này là kiến tinh thì không gọi là tách nữa. Nếu
cái tách không phải kiến tinh, vì sao thấy cái tách? Kiến
tinh dụ cho Tự tánh, nếu Tự tánh ở chỗ tách thì cái bàn
không có Tự tánh, cái khăn không có Tự tánh. Làm sao khắp
mười phương được?
Phật
nói từ trên trời, thảo mộc, sơn hà… tất cả chỉ ra cái
kiến tinh ở chỗ nào? Kiến tinh ở chỗ nào chỉ không ra.
Phật nói bất cứ ở chỗ nào cũng không phải là kiến tinh.
Phật hỏi A Nan phát minh chẳng phải kiến tinh phải không?
A Nan
nói: Không phải.
Cái
này chẳng phải kiến tinh, cái kia chẳng phải kiến tinh. Như
vậy, tại sao còn gọi là kiến tinh? Nếu có chỗ chỉ ra là
không phải. Cho nên, ở đây gọi là hổn dung là cái nghĩa
như vậy. Không được chỉ nó là phải hay không phải, không
được chỉ ở nơi nào. Chí thể Tự tánh hổn dung là như
thế!
Như
chuông nơi chánh điện, lỗ tai chẳng nghe động tịnh, giống
như cái nghĩa hổn dung, không thể chỉ ra thật tế. Như mùa
xuân đến vườn, nhánh hoa tự trắng tự hồng. Nghĩa trong
kinh Pháp Hoa có câu “ngôi pháp đó trụ nơi pháp đó, là
thường trụ của tướng thế gian”. Thì bông trắng trụ
nơi pháp của bông trắng, bông đỏ trụ nơi pháp bông đỏ,
tướng thế gian thường trụ là thế. Cũng là hình dung cái
dụng của Tự tánh.
Ngũ
vị quân thần là thủ đoạn của Động Sơn. Trước kia Thiền
tông chỉ có một phái, tại sao chia ra làm năm phái? Vì chia
ra làm năm phái là thủ đoạn khác nhau, nhưng làm cho người
tham ngộ giống nhau, chứ không có khác.
Thủ
đoạn của Tổ Động Sơn rất hay, như Tổ dùng sợi tơ làm
ra tiếng, khảy lên thì âm vận nổi lên. Âm vận hiện ra
lúc chưa hiện ra, cũng như Tổ thường nói: “Thường nghe
khi chưa nghe”. Thủ đoạn của Tổ không thể suy nghĩ được.
Lâm
Tế tứ chiếu dụng, cũng là thủ đoạn của Lâm Tế rất
hay. Như dùng roi sắt điều khiển ngựa hay để chạy, không
xe nào chạy theo kịp. Cũng là hình dung thủ đoạn của Tổ.
Như
hạt ngọc hạt châu chuyển trước cơ xảo của Tổ, con đường
sống chứ không phải đường chết. Thường làm cho người
tham thiền mau chống được kiến tánh, mà kiến tánh thình
lình. Gia phong của Tổ như gió bay sấm sét con mắt thì ở
trên đầu rất lợi hại, tức là thủ đoạn của Tổ không
có ai bằng được, không có ai suy nghĩ ra được. Nếu mình
muốn gặp thì không thể dễ gặp.
Theo
bệnh
chúng sanh hay chấp thật, không lọt vào chỗ này thì lọt
vào chỗ kia, tư tưởng của chúng sanh không lọt vào cái cối
thì lọt vào cái ổ. Chư Phật lìa cái ổ, lìa cái cối. Lìa
thì phải rồi; nếu lấy ý của mình để suy xét tỏ bày,
nói rằng: “Chư Phật lìa cái cối, lìa cái ổ, rắn chết
hóa thành rồng”. Nếu mình lấy ý thức để so sánh giải
thích, nói Phật lìa cái này lìa cái kia, mặc dù nói thì đúng,
nhưng làm cho mình không được kiến tánh. Vì mình lấy thức
đi tìm, đó là hồ nghi chứ không phải chánh nghi.
Bây
giờ, có một số sách thiền lấy ý thức đi tìm hiểu công
án hay thoại đầu, thì làm bít cửa ngộ của người tham
thiền, vì không có nghi nên không có ngộ.
Lời
nghĩa giải:
Tổ
sư nói: "Người trí mười phương, đều vào tông này". Người
nghĩa giải dẫn chứng kinh Hoa Nghiêm nói: “Cảnh giới
của Như Lai, vô lượng bằng như hư không (hư không chẳng
có số lượng, tức là siêu việt số lượng. Nếu còn nằm
trong số lượng thì không phải bằng hư không) tất cả chúng
sanh vào, kỳ thực chẳng chỗ vào”. (Nếu có chỗ nhập thì
nhập sâu nhập cạn, nên có số lượng rồi).
Kinh
Viên Giác nói: “Những người năng nhập thì chẳng phải
giác nhập”, vì Tự tánh khắp mười phương, nếu có nhập
thì không phải Tự tánh. Phải biết, tông này tất cả chúng
sanh vốn thâm nhập, đâu có lý nào lại nhập nữa! Chúng
sanh đã như vậy, thì người trí không nên lại có sở nhập,
ngài Vĩnh Gia nói: “Tâm chân như vốn chẳng thể lìa”, nhưng
kẻ mê dụ là xuất, người ngộ gọi là nhập, làm cho mê
ngộ tương đối, thật đâu có xuất nhập ư!
Tịch
nghĩa giải:
Hãøy
gác lời này lại, ông có từng ngộ chưa? Đợi ông chân thật
có chỗ ngộ, mới thấy lời Tổ sư không dối (biết
ý của Tổ đừng chấp lời của Tổ. Cái bệnh chúng sanh
hay chấp Phật, nên có luân hồi trong lục đạo, bị khổ
tới ngày nay. Lời của Tổ không có ý gạt mình, nhưng mình
không thấu được thì bị Tổ gạt. Tổ có thí dụ, sông
biển không có ý làm chướng ngại mình, tại mình qua không
được thì bị nó làm chướng ngại. Sau khi kiến tánh, Tổ
có nói về sau tôi không bị gạt nữa).
Kệ
kết thúc:
Đồng
nói tông này khó được diệu,
Người
trí mười phương cứ bàn nhau.
Nếu
chưa buông tay nơi vực thẳm,
Chỗ
nhập đâu khác địa ngục môn.
(Cái
huyền diệu của Thiền tông rất khó hiểu, dù người trí
mười phương dùng ý thức để bàn đến, cũng không thể
hiểu được, càng thêm khó khăn. Vậy làm sao được diệu
dụng của Thiền tông? Chư Phật, Tổ dạy cách tham thiền,
ôm chặt câu thoại đầu, phát khởi nghi tình, ngày đêm miên
mật, sẽ có ngày đến thoại đầu.
Ví
dụ như cây sào 100 thước, cây sào này là đường đi ý thức.
Dùng ý thức để tham, tham đến đầu sào tức đến thoại
đầu là đến chỗ cuối cùng của tham thiền, cũng như đến
cuối cùng của đỉnh núi cao, cần phải buông hai tay để
rơi xuống vực sâu, cái xác cần phải tan nát không còn chút
gì.
Ngài
Lai Quả nói: Đến đầu sào 100 thước cần tiến lên một
bước thì lọt vào hư không, té xuống cho chết tan nát; tan
nát rồi sống lại, Thiền tông gọi là: “Đại tử đại
hoạt”. Nếu tiểu tử tiểu hoạt thì còn chưa được, tức
là chết chưa có tan nát. Đại tử đại hoạt thì diệu dụng
của Tự tánh hiển bày ra hết. Nếu chưa ngộ mà muốn hiểu,
không tu tập, thì có ngày vô cửa địa ngục hay bị sinh tử
luân hồi trong sáu đường).
64.
TÔNG PHI XÚC DIÊN, NHẤT NIỆM VẠN NIÊN
Dịch
Tông
chỉ chẳng có ngắn dài, muôn năm một niệm, niệm muôn năm.
Lời
khai thị:
Càn
là trời, khôn là đất, thiền chẳng khác giáo, dương là
kỳ, âm là ngẩu; giáo đâu lìa thiền, thì tất cả tương
đối đều như vậy.
Cũng
như con gà và trứng gà không lìa nhau được; nói trước có
trứng gà không có con gà thì không được, vì không có con
gà làm gì đẻ ra trứng gà. Nếu nói trước có con gà không
có trứng gà thì cũng không được, vì không có trứng gà
làm sao nở ra con gà. Con gà không lìa trứng gà mà sanh được,
trứng gà không lìa con gà mà có được.
Vậy
thiền với giáo cũng vậy, Phật từ thiền mà ngộ, rồi nói
ra thành giáo. Bây giờ thiền và giáo có khác là do vọng tâm
phân biệt so sánh. Ý thức phân biệt là vọng tâm hoạt động,
như con rắn bó buộc mình. Như kinh Lăng Nghiêm nói: “Tự
tâm buộc tự tâm”. Kỳ thật không có sự khác biệt.
Người
chuyên nhất tâm tam quán của tông Thiên thai. Tam quán là không
quán, giả quán, trung quán. Tam quán không phải là ba thứ là
do nhất tâm. Người chuyên trực chỉ đơn truyền tức là
Thiền môn trực chỉ nhân tâm kiến tánh thành Phật.
Nín
như cách núi, không thấy nhau được, nếu nói ra thì xa cách
như trời. Tổ nói: “Nói là phỉ báng, im lặng là điên cuồng,
chẳng ngữ chẳng mặc là thêm hư vọng”.
Vô
Diện Mục Hán là biệt danh của Tự tánh, Tự tánh không
có bản thể, không có diện mục. Thiền tông gọi là Vô Diện
Mục Hán.
Thiền
môn với Giáo môn tranh chấp nhau, bị Vô Diện Mục Hán chặn
ngang hét một tiếng, thì không còn tranh chấp, mới thỏng
tay vào thành để giáo hóa chúng sanh.
Ngài
Trung Phong muốn chúng ta, ai tu Thiên Thai tông thì nhất tâm
tam quán, còn ai tu thiền thì theo tông chỉ Thiền tông mà tu.
Mỗi bên cứ theo pháp môn của mình mà tu, chứ không tranh
chấp với nhau. Không đem phân vô minh tưới vào ruộng thức,
thì không thêm khổ.
Lời
nghĩa giải:
Tổ
sư nói: "Tông chỉ chẳng có ngắn dài, muôn năm một niệm,
niệm muôn năm". Người nghĩa giải cho rằng: Tổ sư lấy nhất
tâm làm tông, trong pháp giới nhất tâm, cho kiếp là ngày mà
chẳng rút ngắn, cho ngày là kiếp mà chẳng dài thêm. Nên
xem một niệm là muôn năm, chuyển muôn năm là một niệm,
chẳng dài chẳng ngắn, chẳng ít chẳng nhiều, đâu phải
thần thông mà ra; chỉ vì pháp vốn như thế!
Như
trên rất có lý, nhưng ngài Trung Phong còn phủ nhận.
Tịch
nghĩa giải:
Xưa
kia có người trí nhà nho, cho bài “thọ yểu bằng nhau”
là vọng tác, cho “tử sanh như một” là hư dối. Nếu họ
biết có cái thuyết “một niệm muôn năm” lại càng kinh
ngạc. Aáy cũng chẳng lạ gì, bởi chân tục chẳng cùng lối
mà thôi. Người xưa (Tăng Triệu) nói: “Nói chân thì nghịch
với tục, thuận tục thì trái với chân”, há chẳng đúng
ư! Làm sao khiến cho họ xé rách lưới tục, cắt đứt căn
trần.
(Bát
Nhã Tâm Kinh nói: “Vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý” là
cắt đứt lục căn; “Vô sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp”
là cắt đứt lục trần. Ý cắt đứt là phá chấp tâm của
mình chấp lục căn là thật, chấp lục trần là thật. Nếu
bệnh chấp thật hết thì được kiến tánh).
Trở
lại xem cái cơ xảo viên thường tự tại, ngắn dài giúp
nhau của Tổ sư, thì cái lỗi lỡ lời của nhà nho nói sai,
không tránh khỏi được. Dù vậy muốn chẳng kẹt nơi ngắn
dài, thử nói một câu xem!
(Nếu
chưa kiến tánh thì nói ra không được. muốn nói được thì
phải quyết tử tham thiền, trị xong bệnh chấp thật, thì
được kiến tánh, nói sao cũng được).
Kệ
kết thúc:
Sát
na muôn kiếp chẳng ngắn dài,
Đo
lường hư không nói tròn vuông.
Cứ
ngay khi ấy chấp là thật,
Đứng
xa ngoài cửa giành đúng sai.
(Thời
gian sát na là 1/60 giây với thời gian muôn kiếp chẳng phải
ngắn dài. Nếu mình phân biệi dài và ngắn thì không đúng.
Hư không chẳng có bản thể thì sao nói dài ngắn, tròn vuông?
Thời gian cũng vậy, đâu có bản thể mà nói dài ngắn? Lúc
nghi tình vỡ thì nói ngắn nói dài cũng được, nếu chưa
thì không được phân biệt ngắn dài, tròn vuông, vì tất
cả đều là hư vọng).
65.
VÔ TẠI BẤT TẠI, THẬP PHƯƠNG MỤC TIỀN
Dịch
Chẳng
phải có chỗ, chẳng phải không chỗ, mười phương hư không,
chính là trước mắt.
Lời
khai thị:
Cảnh
thanh sáu cửa, là thủ đoạn quét lục căn, quét lục trần,
quét lục thức.
Lâm
Tế tam huyền, có tam huyền tam yếu là thủ đoạn của Lâm
Tế.
Thiên
Long giơ ngón tay là thủ đoạn của Thiền sư Thiên Long, người
ốm nên ngón tay cũng ốm (chuyện tích đã kể trước).
Am
Chủ dựng ngón tay là thủ đoạn của Tổ sư, như có người
hỏi thì Tổ sư đưa nắm tay lên.
Chỗ
không Phật mau chạy qua, chỗ có Phật không được trụ. Đây
là lời khai thị của Tổ sư. Chỗ có Phật không được trụ,
xóa hết Tây Thiên (Aán Độ) và Đông Độ (Trung Quốc); chỗ
không Phật mau chạy qua, đánh bên nam thì động bên bắc.
Diệu dụng và thủ đoạn của Tổ sư không thể lấy ý thức
để suy đoán.
Chứng
chỉ lãnh xong, để cho 6 cửa vắng lặng. Tham thiền đề thoại
đầu, khởi nghi tình là cây chổi automatic quét sạch hết;
mặc dù, thủ đoạn huyền diệu của Tổ cũng quét luôn.
|