|
.
GIẢNG GIẢI
TÍN TÂM MINH
TỊCH NGHĨA GIẢI
Hòa
Thượng Thích Duy Lực
Thích
Đồng Thường Ghi Thành Văn Tự
58.
HƯ MINH TỰ CHIẾU, BẤT LAO TÂM LỰC
Dịch
Rỗng
sáng tự chiếu soi, chẳng lao nhọc tâm lực.
Lời
khai thị:
Đạo
cần mỗi ngày một bớt, như bữa nay 100, ngày mai còn 99, ngày
mốt còn 98, phải giảm lần lần. Tham thiền là cây chổi
tự động quét bớt, không còn cái gì để quét thì quăng
luôn cái chổi nữa, cái đó là hành đạo.
Học
bên giáo môn thì khác, mỗi ngày lại thêm, nay học câu kinh
này, mai học câu kinh khác. Một tháng, hai, ba tháng học một
cuốn kinh, học cuốn kinh này hết đến cuốn kinh khác, thì
phải từ ngày học thêm. Tham thiền mỗi ngày bớt tri kiến,
bớt đến như bông trên cây rơi xuống, chấp trước tiêu
mất.
Học
cần mỗi ngày một thêm, thêm đến đầy bụng tức ngực,
bỗng nhiên thêm và bớt đều quên hết. Tới lúc đó buông
tay về đây học tham thiền.
Diện
không bích (ngó vào vách) là cách giáo hóa của Tổ Đạt Ma.
Chứ không phải bảo mình đối diện với vách tường mà
ngồi như chết. Tham thiền là ôm chặt câu thoại đầu khởi
lên nghi tình, ngày đêm không mất tức là hướng vào không
bích.
Không
là trống rỗng, như không tướng của Bát Nhã Tâm Kinh. Không
chấp thật có gọi là không tướng, không chấp thật không
gọi là không tướng, không chấp thật chơn gọi là không
tướng, không chấp thật giả gọi là không tướng, tức là
không chấp gì cả gọi là không tướng. Tối ngày sáng đêm
giữ nghi tình, không có tướng gì gọi là không bích.
Nam
Tuyền tục gia họ Vương gọi là Vương Lão Sư là đệ tử
của Mã Tổ. Mã Tổ là Thiền sư xuất sắc gọi là đại
cơ đại dụng, độ được 139 người kiến tánh; từ xưa
đến nay chỉ có Mã Tổ được như vậy.
Nam
Tuyền làm hành đường lấy cơm cho đại chúng ăn.
Mã
Tổ hỏi: Trong thùng cơm có gì vậy?
Nam
Tuyền đáp: Bịt miệng con chó lại!
Cùng
tham học với nhau, người nào cũng sợ Nam Tuyền trả lời
một câu rất xuất sắc. Mặc dù đối với thầy mình, nhưng
trong Thiền tông có câu: “Đương cơ bất nhượng”. Lúc
đương cơ chẳng nhường, pháp là pháp, chẳng có nhân tình.
Thủ
đoạn của Nam Tuyền, người ta rất sợ, nhưng trong tâm rất
nhớ.
Tham
thiền thì không có ghi nhớ, ghi nhớ là chướng ngại. Rỗng
sáng tự chiếu soi là cái dụng tự động của Tự tánh, chẳng
phải do tâm lực. Ghi nhớ là bộ óc, không được rỗng sáng
chiếu soi. Nghi tình của tham thiền quét sạch tất cả ghi
nhớ. Vậy thì ghi nhớ đâu còn.
Lời
nghĩa giải:
Tổ
sư nói: "Rỗng sáng tự chiếu soi, chẳng lao nhọc tâm lực”.
Người nghĩa giải cho rằng: Tự tánh thanh tịnh khắp nơi,
ở trong đó không dung nạp vật khác thì gọi là hư. Hạt
châu tự hiện ra ánh sáng chiếu soi gọi là minh; đã hư mà
minh, như cái gương, vật gì đến sẽ thấy, nó sẽ chiếu.
Người lớn lại thì hiện hình người lớn, con nít lại thì
hiện hình con nít, người nam lại thì hiện hình người nam,
người nữ đến thì hiện hình người nữ. Cái gương không
muốn hiện hình ai hết, ai đến thì nó hiện gọi là tự
chiếu. Công dụng tự chiếu không cho lời nói. Ở đây nếu
có mảy may tâm lực thì không gọi là hư minh tự chiếu.
Như
trên rất có lý, nhưng ngài Trung Phong còn phủ nhận.
Tịch
nghĩa giải:
Dẫn
dụ rất là đúng lý, vậy ông thấy hư không chẳng tướng
mạo chăng? Ai cũng thấy thấy hư không chẳng tướng mạo,
mà có người nào nghe hư không nói: “Ta chẳng tướng mạo”
không? Giả sử hư không nói: “Ta chẳng tướng mạo” thì
hư không đó chẳng phải hư không. Vậy Tổ sư biết thí dụ
này, cũng không phải là Tổ sư.
Cũng
như xe tứ mã chạy nhanh nhất đuổi theo không kịp. Tức là
dù có nói cao siêu, ở đây cũng là sai lầm. Vì sao? Vì Tự
tánh mình phải tự ngộ. Muốn tự ngộ thì phải tự tham.
Tham đến ngày nghi tình bùng nổ, thì như người uống nước
nóng lạnh tự biết. Nếu theo lời Phật, Tổ để giải thích
đều là vô dụng.
Kệ
kết thúc:
Con
dấu vàng rồng tâm ấn tâm,
Cần
phải chư Tổ truyền thọ nhau.
Lén
lút lượm được cũng vô dụng,
Đâu
thể bắt chước nói diệu hiền.
(Tất
cả chỗ từ vua đến quan, rồi đến những cơ sở thương
mại, đều có con dấu riêng của mình, dùng để đóng dấu
để biểu thị cho người khác, giá trị của mình. Nếu của
người khác mặc dù làm bằng vàng, như con dấu của quan,
mình lượm được không phải con dấu đúng tư cách của mình,
mà đem ra dùng thì không được, có thể bị ở tù.
Nghĩa
là mình phải tự ngộ mới là của mình. Nếu mình lượm
lời nói của Phật, lời nói của Tổ đều vô dụng. Giống
như lượm được con dấu của quan, khác chi cây kim vá áo
không có lỗ, chẳng có tác dụng gì. Cho nên, chư Phật chư
Tổ muốn mình tự tham tự ngộ mới là của mình, còn ngộ
trên lời nói của Phật, Tổ là của người khác thì không
được).
59.
PHI TƯ LƯỢNG XỨ, THỨC TÌNH NAN TRẮC
Dịch
Chỗ
lìa suy nghĩ, tình thức khó lường.
Lời
khai thị:
Bột
trắng trong tuyết dễ phân, thức tức duy tâm. Mực đen trong
than khó biện biệt, duy tâm tức là thức (bình thường người
ta nói tâm thức hay tâm ý thức. Ở trong Duy Thức gồm có
8 thức: Nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân
thức, năm thức này gọi là tiền ngũ thức. Thức thứ 6 là
ý thức. Thức thứ 7 là mạt na thức. Thức thứ tám gọi
là a lại da thức. Thường gọi thức thứ 6 là thức. Thức
thứ 7 là ý. Thức thứ 8 là tâm.
Tất
cả 8 thứ thức đều bao gồm thức thứ 8, gọi là tạng thức.
Tâm nghĩa rộng, thức thứ 6 thức thứ 7 thứ thứ 8 đều
là tâm. Thức nghĩa hẹp, thường gọi là lục thức. Thức
thứ 6 có phân biệt tốt xấu. Thức thứ 8 không có phân biệt.
Cho nên, nói thức không phải tâm, nói tâm không phải thức.
Nhưng thức cũng bao gồm ở trong tâm.
Như
Thần Tú có bài kệ:
Thân
như cây bồ đề,
Tâm
như đài gương sáng.
Hàng
ngày phải lau chùi,
Chớ
để dính bụi trần.
Bài
kệ này còn phân biệt của thức thứ 6).
Dưới
ánh mặt trời xem trắng đen, trước đài gương sáng hiện
xấu đẹp (nếu có trắng đen, tốt xấu thì còn phân biệt
lọt vào thức thứ 6). Lời nói như thế, giống như lời giảng
Duy Thức Luận của Pháp sư, trước mặt Nạp Tăng làm sao
hiển lộ tin tức thật? (Theo Thiền môn quét hết, thì chẳng
phải tâm, chẳng phải thức; nếu quét trống bao nhiêu hiện
ra cái dụng tự động của Tự tánh bấy nhiêu).
Chẳng
phải tâm, chẳng phải thức, ban đêm chó sủa thôn Hoa, mùa
xuân oanh hót bờ liễu (những việc đó là lẽ tự nhiên,
không có gì lạ!), cá kình hút cạn sóng đáy biển (sự thật
nước biển làm sao hút hết được?), con rồng chạy vào vô
sanh quốc (vô sanh quốc là biệt danh của Tự tánh, tức là
không sanh không diệt).
Khiến
cho Đại Phạm Vương giựt mình thức dậy, thẳng lên đỉnh
trời sắc cứu cánh, tát cho hư không một bạt tai, rải xuống
long châu trăm ngàn hột, tia sáng lấp lánh rọi áo đẹp.
(Tất
cả cái này hình dung đều không có thật, nên đều quét sạch.
Nếu hư không là thật, làm sao đánh hư không một bạt tai
được? Hư không còn không phải thật, vậy còn cái gì là
thật nữa! Tất cả đều là cái dụng của Tự tánh mà hiện
ra. Cho nên, không phải thật thì không cho bộ óc suy nghĩ hay
thức phân biệt đoán ra được).
Lời
nghĩa giải:
Tổ
sư nói: "Chỗ lìa suy nghĩ, tình thức khó lường”. Người
nghĩa giải cho rằng: Thức là thức của nhà tâm, tâm là tâm
của nhà thức, hai thứ này như nước với sữa khó phân biệt.
Phải biết, thức là nước, tâm là sữa trong nước; nên Giáo
môn nói: “ Vua ngỗng chọn sữa, đâu đồng loài vịt”.
Trong nước đều có sữa, chỉ có vua ngỗng mới biết phân
biệt, ngoài ra các thứ thủy tộc khác đều chẳng biết.
Việc này dụ cho trong tất cả đều có chân tâm, chỉ có
Phật, Tổ mới rõ.
Cái
giác chiếu soi của linh tri gọi là tâm, những suy tư, ghi nhớ,
thủ xả, phân biệt… gọi là thức. Thức có tám thứ: Mỗi
căn của lục căn đều có một thức. Thức thứ bảy gọi
là mạt na, thức thứ tám gọi là a lại da, cũng gọi là Như
Lai Tạng, bảy thức trước là nhánh lá, thức thứ tám là
căn bản.
Trong
kinh nói: “Lúc đầu thai thì đến trước, lúc chết thì đi
sau, ngộ là Như Lai Tạng, mê là a lại da”. Thức này nơi
mê thì gìn giữ tất cả nghiệp thiện ác vô ký, xả thân
thọ thân từ vô lượng kiếp; nơi ngộ thì giữ gìn tất
cả hạt giống Bồ Đề, giải thoát, trí huệ từ lúc vô
thủy. Thức này từ mê vào ngộ. Chuyển thành Đại Viên Cảnh
Trí, đổi tên mà chẳng đổi thể.
(Tức
là cái gương tròn, nếu cái gương không tròn thì cái dụng
bị hạn chế, bên đây chiếu được, bên kia chiếu không
được. Cái gương tròn thì cái dụng chiếu khắp mười phương,
hình nào đến thì hiện hình đó, tự nhiên tự động chiếu
soi. Đại Viên Cảnh Trí là biệt danh của tự tánh thì cái
dụng vô lượng vô biên không hạn chế. Còn a lại da thức
thì cái dụng bị hạn chế).
Hiện
nay ở trong tứ đại, ngũ uẩn, các pháp thánh phàm, ghi nhớ
rõ ràng, tác dụng phân biệt, cho đến kiến văn giác tri,
tam giới rộn ràng, vạn pháp thăng trầm, mỗi niệm khởi
diệt, đều nương nơi thức này mà sanh. Cho nên nói “Vạn
pháp duy thức”. Khuê Phong nói: “Pháp sanh vốn không, tất
cả do duy thức”.
(Phật
nói các pháp là vô thỉ, vô thỉ là không có sự bắt đầu,
không có sự bắt đầu là vô sanh, thì tất cả vạn pháp
là không có sanh; do thức phân biệt có cảm giác sai lầm,
nên có sanh diệt; như do cái thân xoay mới thấy căn nhà xoay.
Thân ngưng xoay rồi, thì thấy căn nhà ngưng xoay. Thân này
ví dụ cho thức; thức hoạt động nên thấy có phân biệt.
Căn
nhà xoay và căn nhà ngưng xoay đều do cảm giác phân biệt
sai lầm sanh ra. Căn nhà vốn không có xoay và không có ngưng
xoay, đều do thức biến hiện gọi là tất cả do thức. Như
căn nhà xoay thì thấy sanh, căn nhà ngưng xoay thì thấy diệt.
Căn nhà có xoay hồi nào, mà nói xoay và ngưng xoay! Pháp sanh
vốn không là không có sanh. Như căn nhà không có xoay, tất
cả đều do thức biến hiện có cảm giác sai lầm vậy).
Học
giả ngày nay, chẳng thể đem mạng căn một dao cắt đứt,
đi khắp tòng lâm, chỉ biết đem cái thông minh của mình dùng
để dẫn thể tình thức, ôm những huyền giải ghi nhớ trong
lòng, gặp duyên mống khởi, chẳng biết huyền giải này là
thuộc về “tình thức y không”, lại chấp cho là khai ngộ.
Hoặc
lầm nhận cái cảm giác linh động rõ ràng trước mắt này,
biện luận thao thao cho là tự kỷ. Giống như kinh Lăng Nghiêm
nói: “Bỏ trăm ngàn biển lớn, chỉ nhận một bọt cho là
nước cả biển”.
(Chúng
sanh cũng vậy, chỉ chấp cái thân này là thật; không biết
cái thân này là một bọt nước của biển. Bọt nước đó
sanh rồi diệt, sanh cũng từ nước biển mà sanh, diệt cũng
trở về nước biển. Chỉ là một bọt nước biển, nhưng
ai cũng chấp thân này là thật, cho bọt nước là cả nước
biển, ấy là sai lầm).
Kinh
Viên Giác nói: “Tất cả đều là tập khí vọng tưởng phan
duyên lục trần, chẳng phải tâm thể chân thật”. Hòa thượng
Trường Sa nói: “Những người học đạo chẳng biết chơn,
chỉ vì xưa nay nhận thức thần”.
(Tức
là người học đạo Phật, không biết chơn tâm của mình.
Chỉ vì trước đây nhận thức thần, thức thần người thế
gian cho là linh hồn. Linh hồn không phải Tự Tánh, Tự Tánh
không có biến đổi. Linh hồn luôn biến đổi, cũng như con
nít có linh hồn con nít, người lớn có linh hồn người lớn,
người già có linh hồn người già, tất cả đều biến đổi.
Nhưng
người học đạo Phật chưa được kiến tánh chỉ biết nhận
thức thần cho là của mình, là sai lầm. Cứ chấp chặt linh
hồn phải bị sanh tử luân hồi, mà người ngu si gọi nó
là bổn lai của mình).
Vĩnh
Gia nói: “Tổn pháp tài, diệt công đức, tất cả đều do
tâm ý thức”… (Pháp tài là gì? Pháp tài là cái dụng vô
lượng vô biên của Tự tánh. Tài sản của người thế gian
là tiền bạc, gia tài…. tài của Tự tánh là pháp tài. Pháp
tài gồm có hư không pháp giới, biến hiện gì cũng được,
khỏi cần qua tác ý của bộ óc mà dùng được. Công đức
của Tự tánh cũng vậy, là cái dụng của Tự tánh tự động,
chẳng phải công đức của người thế gian; cũng như nói
tụng kinh có công đức, đó là không phải.
Pháp
tài và công đức là cái dụng tự động của Tự tánh, không
bị hạn chế, dụng vô lượng vô biên. Nhưng mình bị tổn
bị diệt là do ý thức chấp thật che lấp, làm cho pháp tài
công đức của Tự tánh không hiện ra được. Nếu tham thiền
triệt ngộ thì năng lực của mình không kém hơn Phật, Tổ,
tức là bằng với tất cả chư Phật. Người không tin thì
không tham thiền nên không có ngộ).
Chư
Phật chư Tổ đã có chỉ bày rõ ràng, mà trong mạt pháp bệnh
này càng ngày càng nhiều thêm! (Theo Phật pháp có chia: Chánh
pháp có 1000 năm, tượng pháp có 1000 năm, mạt pháp có 10000
năm, hiện nay là thời kỳ mạt pháp, ở trong thời kỳ này,
bệnh chấp thật của chúng sanh càng nhiều, bị bệnh này
làm cho mình không có chí học đạo chân chính. Căn bản không
chánh thì quả phải co khúc. Nếu tham thiền giải thoát sanh
tử, phải có chí hướng cương quyết mới được, thì cái
khổ sanh tử không còn.
Giải
thoát cái khổ sanh tử không được lấy thức tình phân biệt
để giải thích. Chánh nghi chỉ cho tâm nghi, lấy tâm đi tìm
hiểu gọi là hồ nghi không được ngộ đạo. Quyết chỉ
ôm chặt câu thoại đầu, khởi lên nghi tình miên mật đến
lúc bùng vỡ. Chứ không đem tâm đi tìm hiểu. Tại sao không
được kiến tánh? Tại vì một niệm đầu tiên muốn hiểu
thiền, hiểu đạo, hiểu pháp, mới thành bệnh này.
Thức
này như núi thiết vi rộng lớn, bao vây họ từ vô thỉ, cũng
như thiên binh vạn mã ngày đêm ở trước cửa lục căn, rình
sơ hở của họ. Nếu không đủ chí quyết định liễu sanh
tử, thì đâu cũng vào đó.
(Nếu
tham thiền ngày đêm không gián đoạn, thì tình thức thiên
quân vạn mã không thể làm hại được; nhưng có giây phút
gián đoạn thì nó đi vào, sanh tử ở chỗ này sanh khởi.
Cho nên, mình phải có chí liễu thoát sanh tử, quyết tử thì
tự nhiên sẽ được kiến tánh, đi tới đâu đều được
hết).
Tổ
sư làm bài Tín Tâm Minh này, là mở rộng cửa thiền cho kẻ
hậu học thoát bỏ tình thức, chỉ tin tự tâm, cất bước
liền vào. Nếu tình thức của học giả còn mảy may chưa
sạch, đọc bài minh này trở thành thuốc độc. Sự lợi hại
như thế! (Lời của Tổ muốn mình ngộ, chứ không phải muốn
mình hiểu).
|