00
Mục Lục
|
01
Lời đầu sách của HT Thanh Từ
|
02
Đề Tựa của Tỳ Kheo Huệ Nguyên (1763)
|
03
Hành Trạng Thượng Sĩ
|
04
Đối Cơ (trả Lời Người Hỏi)
|
05
Tụng Cổ
|
06-1
Bài ca Tâm Phật
|
06-2
Bài ngâm phóng cuồng, Sống
chết nhàn mà thôi
|
06-3
Phàm Thánh không hai, Mê ngộ không khác, Ngậm bĩu môi
|
06-4
Bài văn Trứ Từ tự răn, Thời tiết an định, Dương
chân, Vào cát bụi
|
06-5
Muôn việc về như, Thói đời hư dối, Họa thơ quan
Huyện, Cảnh vật Tịnh Bang, Họa Thơ Hưng Trí Thượng Vị
Hầu
|
06-6
Tụng đạo học Trần Thánh Tông, Chăn trâu đất, Vui
thích giang hồ, Vật không tuỳ người, Viếng Đại Sư Tăng
Điền, Thăm bệnh Đại Sư Phước Đường
|
06-7
Lễ Thiền sư Tiêu Dao ở Phước Đường, Cảnh vật
Phước Đường, Tăng Pháp sư Thuần Nhất, Đùa Thiền Sư Trí
Viễn xem kinh giải nghĩa, Điệu Tiên Sư
Khuyên
đời vào đạo, Bảo chúng, Bảo chúng, Bảo học giả, Chợt
hứng
|
06-8
Cội tùng đáy khe, Xuất trần, Đạo lớn không khó,
Tâm vương, Thả trâu, Đề tịnh xá, Chợt hứng, Cây gậy,
Chiếu thân, Tự đề, Chợt tỉnh, Tự tại, Bảo học trò,
Bảo tu nghiệp Tây phương, Thoát đời, Vui thú giang hồ.
|
07
Lời Bạt
|
|
|
|
|
X
TUỆ TRUNG THƯỢNG
SĨ NGỮ LỤC GIẢNG GIẢI
Biên
Soạn: Trúc Lâm Tổ Sư (Trần Nhân Tông)
Dịch
và Giảng: Hoà ThượngThích Thanh Từ
Ban
Văn Hoá Trung Ương GHPGVN Xuất Bản 1996
LỜI
BẠT
Dịch:
Thượng
Sĩ là ngọn đèn của Phật Hoàng, lấy tâm truyền tâm.
Đức
Phật bỏ ngôi vị vương giả, đến ngồi dưới cội bồ-đề
thành Chánh giác, diễn nói thừa vô thượng, độ vô lượng
chúng sanh, làm thầy trời người, người xưa thật được
khai ngộ.
Thượng
Sĩ làm Bồ-tát tại gia, chấn hưng gia phong của Phật, đề
khởi câu nói, dẫn dắt người hậu học, được ánh sáng
siêu việt, Phật Hoàng thật được thành tựu chỗ này. Noi
theo Phật Thích-ca được Phật Nhiên Đăng thọ ký thành Đẳng
Chánh Giác, Phật Hoàng lấy đây ghi thành quyển Lục. Bác
Lăng Vương hỏi Thiền sư Dung đến chỗ cứu kính, Thượng
Sĩ lấy đó làm chỗ tựa.
Bởi
vì tâm Phật Hoàng khởi từ cảnh giới Phật Tổ; lời của
Thượng Sĩ cùng tột nguồn tâm tánh. Song Thượng Sĩ không
thể làm thành đại báo cho Phật Hoàng, Phật Hoàng cũng không
thể lên được chỗ uẩn tích của Thượng Sĩ, mà hay khiến
người tối được sáng, kẻ điếc được nghe. Đây là sự
trợ lực lớn lao cho Phật giáo vậy.
Một
hôm Phật Hoàng sai người mang quyển Lục này đến, bảo rằng:
“Duy trì Phật pháp là nhiệm vụ của Quốc vương Đại thần,
hãy viết riêng lời tựa và khắc bản in, để cho sự truyền
bá được sáng tỏ.” Nay Thượng hoàng đế (Trần Anh Tông)
sai thần Trần Khắc Chung làm lời bạt ở sau, tức là noi
theo vầng ngân hán chói lọi ở trước. Thần Trần Khắc Chung
bái nhận quyển Lục này, thắp hương kính đọc. Mới đầu
như say, kế đó như tỉnh, rốt sau tâm mắt sáng rỡ, không
tự biết vì sao mà được vậy.
Thần
kính cẩn đặt bút viết lời bạt.
TRẦN KHẮC CHUNG
Giảng:
“Thượng
Sĩ là ngọn đèn của Phật Hoàng lấy tâm truyền tâm.” Phật
Hoàng là chỉ cho Trúc Lâm Đại Đầu-đà hay vua Trần Nhân
Tông. Đây là niềm hãnh diện lớn lao của Phật tử Việt
Nam khi học đến lịch sử Phật giáo đời Trần. Ở Ấn Độ
đức Phật Thích-ca là vị Thái tử, không muốn làm vua, bỏ
ngai vàng đi tu, thành đạo, đi giáo hóa khắp nơi được mọi
người từ vua quan cho đến thứ dân đều kính trọng. Còn
ở Việt Nam vua Trần Nhân Tông đang ở ngôi vua mà học đạo
và ngộ đạo rồi nhường ngôi lại cho con để đi tu. Ngộ
đạo là giác, nên gọi là Phật, vua gọi là Hoàng, Phật Hoàng
là Vua Phật. Ở Ấn Độ thì Thái tử tu thành Phật, ở Việt
Nam thì ông vua tu giác ngộ, nhưng không xưng danh Phật, chỉ
xưng là Trúc Lâm Đại Đầu-đà. Song, người đương thời
quá kính trọng, nên gọi Ngài là Phật Hoàng. Trần Khắc Chung
nói Thượng Sĩ là ngọn đèn của Phật Hoàng. Như vậy, Thượng
Sĩ là người cầm đèn rọi đường cho vua Trần Nhân Tông
học đạo, ngộ đạo và Ngài đã dùng tâm ấn tâm cho Phật
Hoàng.
“Đức
Phật bỏ ngôi vị vương giả, đến ngồi dưới cội bồ-đề
thành Chánh giác, diễn nói thừa vô thượng, độ vô lượng
chúng sanh, làm thầy trời người, người xưa thật được
khai ngộ.” Trần Khắc Chung dẫn chứng đức Phật từ một
ông hoàng bỏ ngôi vị, để đến dưới cội bồ-đề tu được
thành Phật. Sau khi thành Phật Ngài diễn nói những thừa Vô
thượng để độ vô số chúng sanh, làm thầy trời người
và chúng sanh được giáo hóa khai ngộ rất nhiều.
“Thượng
Sĩ làm Bồ-tát tại gia, chấn hưng gia phong của Phật, đề
khởi câu nói, dẫn dắt người hậu học, được ánh sáng
siêu việt, Phật Hoàng thật được thành tựu chỗ này.”
Thượng Sĩ là một cư sĩ thọ Bồ- tát giới tu tại gia chớ
không cạo tóc xuất gia. Ngài đã làm cho gia phong của Phật
được phát triển mạnh mẽ và dùng những câu nói khéo làm
phương tiện để hướng dẫn cho người ngộ được lý Thiền.
Vua Trần Nhân Tông cũng nương nơi sự giáo hóa của Thượng
Sĩ mà ngộ đạo. Đoạn này nêu lên công giáo hóa của Thượng
Sĩ đối với vua và với mọi người.
“Nói
theo Phật Thích-ca được Phật Nhiên Đăng thọ ký thành Đẳng
Chánh Giác, Phật Hoàng lấy đây ghi thành quyển Lục. Bác
Lăng Vương hỏi Thiền sư Dung đến chỗ cứu kính, Thượng
Sĩ lấy đó làm chỗ tựa.” Vua Trần Nhân Tông noi theo Phật
Thích-ca được Phật Nhiên Đăng thọ ký ghi lời dạy của
Thượng Sĩ làm quyển Lục. Như vậy quyển Lục này là do
vua Trần Nhân Tông ghi lại lời của Thượng Sĩ dạy để
cho đời sau đọc. Còn Thượng Sĩ thì lấy lời Bác Lăng Vương
hỏi Thiền sư Pháp Dung làm chỗ tựa để dạy người sau.
Thiền sư Pháp Dung ở núi Ngưu Đầu, Sư họ Vi, quê ở Duyên
Lăng, Nhuận Châu. Năm mười chín tuổi, Sư đã học thông
kinh sử, tìm xem bộ Đại Bát-nhã hiểu thấu lý chân không.
Một
hôm, Sư tự than:
-
Đạo Nho sách đời, không phải pháp cứu kính. Bát-nhã chánh
quán là thuyền bè xuất thế. Sư bèn vào ở ẩn núi Mao theo
thầy xuất gia học đạo.
Sau,
Sư đến núi Ngưu Đầu ở trong thất đá trên ngọn núi phía
bắc chùa U Thố. Lúc đó, có các loài chim tha bông đến cúng
dường. Các loài thú dữ quanh quẩn bên Sư không ngớt.
Khoảng
niên hiệu Trinh Quán nhà Đường (627 - 650 T.L.) Tổ Đạo Tín
nhân thấy khí tượng lạ tìm đến gặp SƯ. NHÂN ĐÓ, SƯ
ĐƯợC KHAI NGộ.
Từ
khi đắc pháp về sau, nơi pháp tịch của Sư đại thạnh.
Khoảng niên hiệu Vĩnh Huy đời Đường (650 - 656 T.L.) đồ
chúng thiếu lương thực, Sư phải sang Đơn Dương hóa duyên.
Đơn Dương cách núi Ngưu Đầu đến tám mươi dặm. Sư đích
thân mang một thạch (tạ) tám đấu, sáng đi chiều về để
cúng dường ba trăm Tăng. Như vậy, mà ngót ba năm, Sư cung
cấp không thiếu.
Quan
Ấp Tể tên Tiêu Nguyên Thiện thỉnh Sư giảng kinh Bát-nhã
tại chùa Kiến Sơ. Thính giả vân tập. Sư giảng đến phẩm
Diệt Tĩnh, đất chấn động.
Bác
Lăng Vương hỏi Sư:
Khi
cảnh duyên sắc phát,
Không
nói duyên sắc khởi;
Làm
sao biết được duyên,
Muốn
dứt cái khởi ấy?
Sư
đáp:
Cảnh
sắc khi mới khởi
Sắc
cảnh tánh vẫn không.
Vốn
không người biết duyên
Tâm
lượng cùng tri đồng.
Soi
gốc phát chẳng phát
Khi
ấy khởi tự dứt.
Ôm
tối sanh hiểu duyên
Khi
duyên, tâm chẳng theo.
Chí
như trước khi sanh
Sắc
tâm không nuôi dưỡng.
Từ
không vốn vô niệm
Tưởng
thọ ngôn niệm sanh.
Khởi
pháp chưa từng khởi
Đâu
cầu Phật chỉ dạy.
Hỏi:
Nhắm
mắt không thấy sắc
Cảnh
lự lại thêm phiền.
Sắc
đã chẳng quan tâm
Cảnh
từ chỗ nào phát?
Sư
đáp:
Nhắm
mắt không thấy sắc
Trong
tâm động lự nhiều.
Huyễn
thức giả thành dụng
Há
gọi trọn không lỗi.
Biết
sắc chẳng quan tâm
Tâm
cũng chẳng quan người.
Tùy
đi có tướng chuyển
Chim
bay trông không thật.
Hỏi:
Cảnh
phát không chỗ nơi
Duyên
đó hiểu biết sanh.
Cảnh
mất hiểu lại chuyển
Hiểu
bèn biến làm cảnh.
Nếu
dùng tâm kéo tâm
Lại
thành biết bị biết.
Theo
đó cùng nhau đi
Chẳng
lìa mé sanh diệt?
Sư
đáp:
Tâm
sắc trước sau giữa
Thật
không cảnh duyên khởi.
Một
niệm tự ngừng mất
Ai
hay tính động tịnh.
Đây
biết tự không biết
Biết,
biết duyên chẳng hợp.
Nên
tự kiểm bản hình
Đâu
cầu tìm ngoại cảnh.
Cảnh
trước không biến mất
Niệm
sau chẳng hiện ra.
Tìm
trăng chấp bóng huyền
Bàn
dấu đuổi chim bay.
Muốn
biết tâm bản tánh
Lại
như xem trong mộng.
Ví
đó băng tháng sáu
Nơi
nơi đều giống nhau.
Trốn
không trọn chẳng khỏi
Tìm
không lại chẳng thành.
Thử
hỏi bóng trong gương
Tâm
từ chỗ nào sanh?
Hỏi:
|