MỤC LỤC
CHƯƠNG I- THIỀN LÀ TRÍ HUỆ CỦA SINH HOẠT
Thanh Tăng Và Mỹ Nữ 
Làm Thế Nào Vẹt Mây Để Thấy Mặt Trời 
Đừng Cho Rằng Mục Hạ Vô Nhân Là “Tinh Thần Tự Tại” 
Khải Thị Thấy Được Từ Một Tiểu Thiền Sinh Dùng Rổ Tre Để Hứng Nước Mưa 
Không Nên Biến Thành Tù Binh Của Thường Thức 
Thiền Là Thuốc Có Công Hiệu Đặc Biệt Để An Định Tâm Thần
Bảo Trì Tâm Thức Khoáng Đạt 
Tỉnh Giác Quán Chiếu Thế Giới Nội Tâm
Không Nông Nỗi Vì Nhân Tình Thế Thái
Làm Sao Để Có Thể Sinh Hoạt Một Cách Tự Tại
CHƯƠNG II - HƯỚNG CAO TĂNG HỌC TẬP THIỀN TÂM
Sinh Hoạt Trí Huệ Thẳng Thắn Lỗi Lạc 
Không Phải Gió Động Cũng Không Phải Phướn Động Mà Chính Là Tâm Của Nhơn Giả Đang Động 
Hành Động Ngu Muội Của Việc Mài Gạch Làm Kính
Đói Thì Ăn Cơm Buồn Ngủ Thì Ngủ 
Đối Với Vật Xả Bỏ Mà Cảm Thấy Tiếc Nuối Thì Chính Đó Là Một Loại Phiền Não
Trẻ Nít 3 Tuổi Tuy Biết, Ông Già 80 Không Làm Được
Thế Nào Mới Tránh Cho Mèo Khỏi Bị Giết?
Không Nên Miệng Lưỡi, Đa Ngôn Không Sao Khỏi Lỗi
“Hành Vi” Giống Nhau Nhưng Hoàn Toàn Không Thể Biểu Đạt “Ý Tưởng” Như Nhau
Nhận Rõ Bản Lai Diện Mục Của Mình 
Khăng Giữ Giáo Điều, Biến Thành “Cang Phục Tự Dụng” 
Dưỡng Thành (trưởng Dưỡng, Tác Thành) “Phi Thường Thức” Của Siêu Việt Thường Thức 
Bất Sanh Của Phật Tâm 
Đoạn Trừ Lưới Me Của Nhân Sinh 
Diệu Pháp Thoát Ly Tai Nạn 
CHƯƠNG III - LÀM SAO THỂ NGỘ ĐẠO LÝ “ĐƯƠNG HẠ TỨC THỊ” (ĐANG KHI ĐÓ CHÍNH LÀ)
Vì Sao Thiền Sư Cự Tuyệt Ba Lần
Không Nên Cưỡng Cầu Hoàn Mỹ 
Không Phải Là “Lầm Lỗi” Mà Là Vì “Mê Muội” Nên Bị Quở Trách
Chớ Nên Rong Ruỗi Tìm Cầu 
Do Dự, Bất Quyết Thảy Đều Vô Dụng 
Trân Tiếc “Hiện Tại, Ngay Bây Giờ” 
Hiện Tại Không Thể Nhẫn Nại, Vị Lai Chắc Chắn Thọ Báo
Hậu Ký 
.
BƯỚC VÀO THIỀN CẢNH
Tác Giả-HIROSACHIYA - Dịch Giả-Thích Viên Lý
Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới Xuất bản 1998
 

CHƯƠNG II
HƯỚNG CAO TĂNG HỌC TẬP THIỀN TÂM

SINH HOẠT TRÍ HUỆ THẲNG THẮN LỖI LẠC
     ĐỨC THÍCH TÔN 

     Đức Thích Tôn (Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn) là tổ sư của Phật giáo, từ đây, xin bắt đầu từ ngài để luận cập 

     Tuy bảo là từ đức Thích Tôn trở về sau, nhưng nếu chỉ tuỳ tiện bàn về cuộc đời của đức Thích Tôn, thì lại có lỗi với độc giả. Tôn chỉ chủ yếu của quyển sách này là muốn đưa quý vi bước vào “Cảnh địa thiền”. Mặc dù thiền sở nghiễm nhiên có thể là đại danh từ của Phật giáo, nhưng chắc chắn phải có điểm vô cùng đặc sắc hướng dẫn mọi người lần lượt thể nhập vào diệu cảnh, nếu không thấy ngay điểm này, mà chỉ nói về thuở bình sanh của đức Thích Tôn, thì đó là sự sơ suất của bút giả. 

     Mặc dù nói thế, nhưng trong việc ghi chép nếu có bất cứ sự kiện nào có liên quan đến cuộc đời của đức Thích Tôn, cũng điều có những lời lẽ có thể làm kim chỉ nam để Phật giáo thành một nhất thể. Đồng thời, bởi vì kinh điển nguyên thuỷ của Phật giáo (A Hàm Kinh) (1) đã ghi chép về những bài thuyết pháp đối với đệ tử của ngài, vì thế việc hướng dẫn quý vị lý giải giáo nghĩa Phật giáo cũng là một trợ ích rất lớn. Như thế, bút giả đã không thờ ơ đối với quý vị. 

     Mặc dù đọc qua đoạn trên có lẽ có gì rất nghiêm túc, thật sự, nội dung đã chẳng có gì hứng thú. Tôi cũng muốn ở ngay nơi khởi đầu bắt chước các thiền sư “thét” một tiếng lớn trước, để triển hiện nhiều phương diệu dụng của tâm thiền ngộ, nhằm dễ tạo cho độc giả thêm phần hứng khởi, và dần dần sẽ đưa tới thoại đề sâu hơn. Trong đầu tuy sắp xếp bài bản đại cương như thế, thực tế đã không tiến hành theo ý nghĩ. Mong rằng quý vị độc giả chịu khó nhẫn nại: 

     “Này các Tỳ Kheo (2): Phàm phu quả văn (ít nghe) có cảm thụ chân tình, đệ tử hữu văn cũng có cảm thụ chân tình, thế thì đệ tử hữu văn và phàm phu có học đã khác nhau điểm nào?” 

     Đức Thích Tôn khi bắt đầu thuyết pháp, thường có vấn đề được khơi mào trước để mở đầu. Đoạn mào đầu này đương nhiên liên quan đến chủ đề thuyết pháp hôm ấy. Thường là lúc ấy có những đệ tử tác bạch rằng: 

     “Ngưỡng bạch đức Thế Tôn, chúng con đều là người tính phụng những lời đã dạy của đức Thế Tôn (Thích Tôn), cúi xin đức Thế Tôn từ bi dạy dỗ chúng con!” 

     Quan lời thỉnh cầu này, đức Thích Tôn bắt đầu thuyết pháp. Đây là phương thức thường được sự dụng để dạy Phật tử của Phật giáo nguyên thuỷ. 

     Nói đến thánh đệ tử hữu văn và phàm phu quả văn, thì cái gọi là “văn”, là lắng nghe giáo pháp, là ý nói học tập. Giữa những đệ tử học Phật và phàm phu không học Phật đã có điểm nào sai biệt? cả hai đều có tác dụng cảm thụ, có đúng thế không? Đức Thích Tôn đã đưa ra vấn đề như thế. 

     Tác dụng cảm thụ nếu lấy dụng ngữ Phật giáo để bàn luận thì bảo đó là “Thọ”. Ví như vào một buổi sáng tuyết phủ khắp nơi, khi chúng ta vừa chợt mở mắt đã thấy chung quanh là một thế giới phủ đầy màu bạc trắng, trên không trời lại trong xanh, vì không dằn được xúc cảm, chúng ta bật miệng la lớn: “A! đẹp quá!” cảm quan như thế chính là “THỌ”. 

     Đương nhiên, “Thọ” không chỉ là một khoái cảm không thôi, ngược lại nó còn bao gồm cả thứ cảm giác khó chịu giống như bị một người nào dẫm phải chân mình trên xe bus. Ngoài ra, còn có một loại cảm ứng không khổ không sướng. Trong ngôn ngữ Phật giáo, khoái cảm gọi là “lạc thọ”, cảm giác không vui gọi là “khổ thọ”, cảm giác không nhớ gọi là “không khổ không sướng thọ hay “xả thọ”. Ba loại thọ này dù bất cứ người đệ tử nào của Phật dạy hay phàm phu cũng đều có cùng cảm thọ như nhau. Nói thế, cuối cùng đệ tử Phật và người phàm tục đã khác nhau điểm nào? 

     Đức Thích Tôn đã giáo thị như sau: 

     Này các Tỳ Kheo! Ví như lấy tên đâm người, đâm một mũi rồi đâm tiếp mũi thứ hai. Này các tỳ kheo! người như vậy có cảm thọ hai mũi tên. Giống như thế, phàm phu chưa tu tập giáo pháp, ngay khi cảm nhận khổ thọ khó chịu nếu không ưu sầu, não nộ hoặc bi thương thì cũng đấm ngực dậm chân, rên rỉ khóc lóc. Loại phàm phu này có cùng một thức cảm thọ đồng thời, tức là vừa đau khổ trên nhục thể vừa đau khổ trên tinh thần. 

     Này các tỳ kheo! Ví như lấy tên đâm người, sau khi đâm mũi tên đầu rồi đâm tiếp mũi thứ hai. Này các tỳ kheo! Người bị như vậy cảm thọ chỉ một mũi tên. Giống hệt như thế, những thánh đệ tử đã tu tập giáo pháp, từ cảm thọ tới cảm thọ khó chịu, nhưng chẳng ưu sầu, khổ não và bi thương, cũng không đập ngực dậm chân, rên rỉ khóc lóc. Những thánh đệ tử chỉ có một loại cảm thọ, tức là chỉ có đau khổ trên nhục thể, mà không có đau khổ trên tinh thần... 

     “Tương ứng bộ kinh điển” 36.6 (Tiễn) (3) 

     Đức Thích Tôn lấy việc tên đâm để ví dụ tác dụng cảm thọ chớp nhoáng của chúng ta. Trong mỗi sát na chớp nhoáng, những đau khổ, tốt đẹp, chê ghét, vui thích, lạnh, nóng, đẹp, xấu mà chúng ta đã cảm thọ v.v. giống như cảm thọ giác bị đâm trúng một mũi tên. 

     Những cảm thọ này, dù là người đã khai ngộ hay người chưa khai ngộ cũng đều giống hệt như nhau. Nhưng phàm phu sở dĩ là phàm phu, chủ yếu vấn đề sau khi trúng tên. Thông thường, bị trúng mũi tên thứ nhứt, kế tiếp lại trúng mũi tên thứ hai. Ví như, khi bị dẫm trúng chân trên xe buýt: “Đau quá!” sau khi ý niệm này chợt thoáng qua trong óc, tiếp đến lại nổi lên ý niệm thứ hai: “Đồ khốn nạn! mày muốn chết à!” chẳng khác nào mống khởi tâm tính giận ghét đối với đối phương. Hoặc giả khi đi trên đường, trông thấy bên lề có đoá hoa đẹp, thì trong lòng phát sinh suy tính: Sau khi thốt lên “Chà! đẹp quá!”, thì sau đó đưa tay hái đoá hoa ấy mang về để cắm trong bình. Đây tức là mũi tên thứ hai mà phàm phu nhận lấy. Nhưng đối với Phật tử đã khai ngộ thì khác. Trông thấy cảnh vật đẹp, chỉ cảm thấy là đẹp để thưởng thức; lúc đau, chỉ la lên bởi trực giác: “Đau qua!” Vì khác nhau như thế, nên giữa thánh đệ tử và phàm phu có sự cách biệt rất xa. 

     Quý vị độc giả còn nhớ mẫu chuyện “Cô mộc hàn nham” ở đoạn đầu? Tôi từng đề cập câu nói mà ta cho rằng không đúng của Thanh tăng. Quý vị có lẽ lúc đầu đã không hiểu được ý của tôi, nhưng nay đã tỏ tường tại sao đối với lời nói ấy tôi lại cảm thấy không đúng. 

     Bởi vì đối với ông ta cả đến “mũi tên thứ nhất” cũng đều bị phủ định. Trông thấy gái đẹp thì trực giác cảm thấy: “Đẹp quá!”, đây là mũi tên thứ nhất. Mũi tên này không luận là phàm phu hay thánh đệ tử đều có cùng cảm thọ. 

     Mặc dù như thế, nhưng ngay cả cái cảm thọ lẽ ra nên có nầy đã bị ông cố ý phủ định. Có lẽ vì ông cho rằng, là người xuất gia, cho nên thậm chí mũi tên thứ nhất cũng không thể cảm thọ! Đây thực là lối kiến giải hoàn toàn sai lầm. Đức Thích Tôn chưa từng dạy bảo như thế. Trông thấy mỹ nữ cảm thấy “đẹp” là lẽ tự nhiên. Chỉ cần không nhận thêm mũi tên thứ hai. 

     Dù bảo như thế, nhưng làm thế nào để khỏi cảm thọ mũi tên thứ hai? Đó là trọng điểm. Khi gái đẹp gọi: “Lại đây! Ôm lấy tôi”, lúc ấy nên ôm hay không? Mũi tên thứ nhất dứt từ lúc nào và khi nào mới có thể bắt đầu tính là mũi tên thứ hai? 

     Có một mẫu chuyện như sau: 

     Một vị thiền sư nọ dẫn theo một số đồ đệ đi vân du. Một hôm, đoàn người gặp một cô gái ở bờ sông. Cô này muốn qua bên kia sông nhưng ngặt không có ai giúp cho, nên đành buồn bã ngồi đó chịu đựng. Khi đoàn người của thiền sư vừa đi đến, cô liền thỉnh cầu giúp đỡ. 

     “Ô! được! được!” 

     Thiền sư không chút do dự, thản nhiên ẵm cô gái lội qua sông. 

     “Thật là một sư phụ sảng khoái, nhanh nhẹn!” Cô gái thốt lời dịu ngọt tâng bốc trêu ghẹo thiền sư. Sau khi qua sông cô cảm ơn rồi từ biệt, đoàn thiền giả lại tiếp tục cuộc hành trình. 

     Một lúc sau, có một vị đệ tử trong đoàn không nhịn được, cuối cùng mở miệng: “Bạch thầy! Vừa rồi thầy làm như vậy có đúng không? Chúng con xưa nay vốn rất tôn trọng thầy, nhưng vừa rồi trông thấy hành động và lời nói của thầy, thật là khiến chúng con vô cùng thấy vọng”. Những đệ tử khác hùa theo, tỏ ra thái độ bất mãn, kích động hỏi gằn thiền sư “Thái độ vừa rồi của Thầy thật khác xa những điều dạy dỗ thường ngày...” Không trách được sự bắt lỗi của họ. Nguyên là từ khi qua sông đến giờ, họ mãi canh cánh sự việc này trong lòng cho nên tức nước vỡ bờ, thế là hằng loạt kiểu trách móc áo ra đến độ không nghe kịp. 

     Thiền sư nghe đám đệ tử chỉ trích như thế, chỉ bật cười. 

     “A! Ha ha!...Cái gì? Các con mãi đến bây giờ vẫn còn ôm ẵm người con gái ấy!. Ta thì đã đặt cô gái ấy xuống từ lâu rồi”. Thì ra là thế, chấp trước và không thể buông bỏ chính là nhóm đệ tử kia. Loại chấp trước này, có thể ví như mũi tên thứ hai. Đối với thiền sư, ông không cảm thọ mũi tên thứ nhì. 

     Đức Thích Tôn đã chỉ rõ, điểm sai biệt giữa người khai ngộ và phàm phu chính là mũi tên thứ hai này. Vì chúng ta chỉ là phàm phu, cho nên không thể tránh khỏi cảm thọ mũi tên thứ hai. Dù chúng ta có muốn hấp tấp tránh nó thì củng không thể thực hiện được. Chấp trước những việc mà sức mình không thể kham được thì đó chính là người ngu xuẩn nhất. Khi nhận thức được những sự việc mà chúng ta không đủ năng lực để thực hiện nhưng không chấp trước nó, đó mới đích thật là giáo nghĩa của Phật giáo. Tuy nhiên, ít ra chúng ta cũng thể phân biệt được điểm sai biệt mũi tên thứ hai, bằng tự giác: 

     “À! hiện tại mình đang cảm thọ mũi tên thứ hai....” 

     Có thể nhận thức như vậy, là đã nắm vững vấn đề. Lây ngày công phu thâm cao, nên trong khi sinh hoạt nếu có gặp bất cứ vấn đề gì, tất nhiên đều có thể giải quyết một cách tức khắc. Hoặc nói cách khác, ngày nào nhận chân ra mình, thì vấn đề sẽ không nghiêm trọng như mình tưởng tượng. Bởi vì vấn đề sở dĩ phát sinh, phần lớn là do không thể tri nhận bản tâm của mình một cách rõ ràng chân xác. 

Chú (1): “A Hàm Kinh” là danh xưng của kinh điển Phật giáo nguyên thuỷ. Trong ấy bao gồm các kinh “A Hàm Kinh”, “Pháp Cú Kinh”, “Kinh Tập”.v.v... 
Chú (2): Phát chỉ thế độ (cạo đầu) xuất gia, là đàn ông chịu đủ giới. Đàn bà thì gọi là tỳ kheo ni 
Chú (3): Xem quyển thứ 15 “Nam Truyền Đại Tạng Kinh” (Trang 322 – 325) 

c

Nguồn: www.quangduc.com

Về danh mục

niem tin vao phat duoc su Ngày càng có nhiều người bị viêm khớp ghpgvn tren ban do phat giao the gioi với Đủ nhà Đau khớp không phải chỉ do thời dao biểu im bố thị cau chuyen ve chu cho cuu nguoi duoc ve voi coi thuc Lại thấy nôn nao hình bóng quê nhà ngài đã sống một đời như thế thuÑc Đến Ngoại Ô thưởng lãm món chay tu tanh di da Chạy hấp Húy 正法眼藏 ç¹ i Huyền thiên Phật tri mun quẠNhững nhận xét thú vị à Þ Cung Ngàn việc thiện Mứt Tết đong đầy yêu thương quê ung boi lÃƒÆ ly do vi dau dua cải tạo và xây mới các công trình tín ngũ luận hòa thượng thích bửu lai 住相 xuan 佛教 一朵相似的花 365