MỤC LỤC
CHƯƠNG I- THIỀN LÀ TRÍ HUỆ CỦA SINH HOẠT
Thanh Tăng Và Mỹ Nữ 
Làm Thế Nào Vẹt Mây Để Thấy Mặt Trời 
Đừng Cho Rằng Mục Hạ Vô Nhân Là “Tinh Thần Tự Tại” 
Khải Thị Thấy Được Từ Một Tiểu Thiền Sinh Dùng Rổ Tre Để Hứng Nước Mưa 
Không Nên Biến Thành Tù Binh Của Thường Thức 
Thiền Là Thuốc Có Công Hiệu Đặc Biệt Để An Định Tâm Thần
Bảo Trì Tâm Thức Khoáng Đạt 
Tỉnh Giác Quán Chiếu Thế Giới Nội Tâm
Không Nông Nỗi Vì Nhân Tình Thế Thái
Làm Sao Để Có Thể Sinh Hoạt Một Cách Tự Tại
CHƯƠNG II - HƯỚNG CAO TĂNG HỌC TẬP THIỀN TÂM
Sinh Hoạt Trí Huệ Thẳng Thắn Lỗi Lạc 
Không Phải Gió Động Cũng Không Phải Phướn Động Mà Chính Là Tâm Của Nhơn Giả Đang Động 
Hành Động Ngu Muội Của Việc Mài Gạch Làm Kính
Đói Thì Ăn Cơm Buồn Ngủ Thì Ngủ 
Đối Với Vật Xả Bỏ Mà Cảm Thấy Tiếc Nuối Thì Chính Đó Là Một Loại Phiền Não
Trẻ Nít 3 Tuổi Tuy Biết, Ông Già 80 Không Làm Được
Thế Nào Mới Tránh Cho Mèo Khỏi Bị Giết?
Không Nên Miệng Lưỡi, Đa Ngôn Không Sao Khỏi Lỗi
“Hành Vi” Giống Nhau Nhưng Hoàn Toàn Không Thể Biểu Đạt “Ý Tưởng” Như Nhau
Nhận Rõ Bản Lai Diện Mục Của Mình 
Khăng Giữ Giáo Điều, Biến Thành “Cang Phục Tự Dụng” 
Dưỡng Thành (trưởng Dưỡng, Tác Thành) “Phi Thường Thức” Của Siêu Việt Thường Thức 
Bất Sanh Của Phật Tâm 
Đoạn Trừ Lưới Me Của Nhân Sinh 
Diệu Pháp Thoát Ly Tai Nạn 
CHƯƠNG III - LÀM SAO THỂ NGỘ ĐẠO LÝ “ĐƯƠNG HẠ TỨC THỊ” (ĐANG KHI ĐÓ CHÍNH LÀ)
Vì Sao Thiền Sư Cự Tuyệt Ba Lần
Không Nên Cưỡng Cầu Hoàn Mỹ 
Không Phải Là “Lầm Lỗi” Mà Là Vì “Mê Muội” Nên Bị Quở Trách
Chớ Nên Rong Ruỗi Tìm Cầu 
Do Dự, Bất Quyết Thảy Đều Vô Dụng 
Trân Tiếc “Hiện Tại, Ngay Bây Giờ” 
Hiện Tại Không Thể Nhẫn Nại, Vị Lai Chắc Chắn Thọ Báo
Hậu Ký 
.
BƯỚC VÀO THIỀN CẢNH
Tác Giả-HIROSACHIYA - Dịch Giả-Thích Viên Lý
Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới Xuất bản 1998
 

CHƯƠNG II
HƯỚNG CAO TĂNG HỌC TẬP THIỀN TÂM

DƯỠNG THÀNH
(TRƯỞNG DƯỠNG, TÁC THÀNH)
“PHI THƯỜNG THỨC”
CỦA SIÊU VIỆT THƯỜNG THỨC
     NHẤT HƯ TÔN THUẦN 

     
Tuyền Châu ở vào thế kỷ 15, là trung tâm mậu dịch đương thời của Nhật Bổn và Minh triều. Trong phố chợ tụ tập không biết bao nhiêu thương gia buôn bán, phàm phu tẩu tuất, và nhân sĩ đủ hạng đủ ngành, có thể nói đó là Quan Cái Vân tập, náo nhiệt phi phàm 
     
Một hôm trên đường, mặt trời vừa xế bóng. 
     
Nhất Hư hòa thượng lưng mang kiếm gỗ thượng đeo kiếm gỗ? Một kết hợp quá kỳ lạ nên khiến mọi người đi đường cảm thấy tức cười, nhưng, Nhất Hưu Hòa thượng thì xem như không, ngài vẫn thản nhiên tiếp tục dấn bước. Đến khi những người theo coi lần lượt vây quanh, cuối cùng Nhất Hưu Hòa thượng lên tiếng: 
     
“Các vị! Các vị biết không, hòa thượng hiện nay đều đeo kiếm gỗ. Kiếm gỗ lúc nằm trong vỏ thoạt trông có vẻ giống như kiếm thật, nhưng một khi rút ra mới biết kiếm đó được làm bằng gỗ, căn bản không thể làm ai bị thương!. 
     
“Vậy à?...” Mọi người nhạo xong cười rộ rồi im lặng. Bấy giờ Nhất Hưu Hòa thượng nói tiếp: 
     
“Nhưng!...cũng không cách nào làm cho người sống trở lại”. 
     
Lúc ấy Nhất Hưu Hòa thượng đang tuổi 42, đã qua tuổi trung niên. 
     
Ngài đã từng là một tiểu tăng nổi tiếng là bậc có trí. 
     
Ngài cũng đã từng, từ nhị tỳ nơi gò chôn người chết, nhặt đầu lâu buộc trên cán trúc, trong một buổi sáng nhằm ngày Nguyên Đán đi qua từng nhà và la lớn: “Mọi người hãy đển xem!” lúc bấy giờ Nhất Hưu Hòa thượng dụng tâm khổ sở để dạy dỗ thế nhân lưu ý về chân lý thế gian vô thường. 
     
Đã từng là thị giả, hầu hạ thầy mình là Hoa Tẩu, khi cùng thầy đến Đại Đức tự để tham gia Phật sự của tiên sư, Nhất Hưu mình khoác áo vải, chân mang giày rơm đứng giữa chúng tăng mặc đầy những cà sa hoa lệ nên biến thành một đối tượng khiến đám đông tập trung ánh mắt nhìn ngài, thậm chí thầy của ngài cũng phải nheo mày. Lúc bấy giờ Nhất Hưu Hòa thượng ngang nhiên tuyên bố: “Tôi là con người thật hoàn toàn, tôi không cần thiếtphải nhờ đến quần áo để trang sức”. Lúc ấy Hoa Tẩu vì sự hấp dẫn bởi đởm thức của đệ tử nên đã bảo rằng: “Sau này, kẻ có thể kế thừa thiền phong của ta, chỉ có Nhất Hưu Tôn Thuần”. 
     
Nhưng, đến thời vãn niên, khi ở tuổi 77 Nhất Hưu đã dan díu với phụ nữ, vị nữ tánh này đã là đối tượng yêu thương của ông, và ông bắt đầu trong đòi sống ái dục. Trong thi tập “Cuồng Vân tập” của Nhất Hưu đã miêu tả trắng trợn những sinh hoạt ái dục không ăn khớp mấy với hình tướng của một thiền tăng 
     
Đây chính là thiền tăng nằm “ở giữa hư thực” --cuộc đời của Nhất Hưu hòa thượng. 
     
Sở dĩ nói “Ở giữa hư thực” bởi lẽ trong làng xóm vẫn còn lưu truyền “Nhất Hưu truyền kỳ” mà nhiều phần mãi đến thời đại Giang Hộ (thế kỷ 15) mới thành lập, còn tư liệu truyềy kỳ thì có rất nhiều truyện do người sau này thêm thắt. Dẫu sao, lời nói và hành động của Nhất Hưu hòa thượng đích thực đã có nhiều điểm khác thường. Vì thế ông bị người đời gọi là “Điên cuồng thiền sư” hoặc “Phi thường thức thiền sư”, điều đó không phải là không có lý. 
     
Vào cuối niên đại nhà Đường có vị Vân Môn Văn Yêm thiền sư. Chuyện kể rằng, khi ngài bị hỏi “Cái gì là Phật?”, ngài thoáng nghĩ ngợi và liền trả lời: “Bảng quẹt phân!” Trước đây chúng ta cũng đã từng đề cập đến “Bảng quẹt phân” là vật rất ô uế. Dụng ý của Vân Môn thiền sư là nhắm vào cái thường thức của “Phật là chí cao vô thượng”. Nếu Phật là cái gì cao vời thì trên cõi trần này có sự cách xa không thể vói được, thế thì người phàm tục chúng ta làm sao có thể nhận được sự phò hộ của từ quang Phật Đà? Còn những người tu hành làm sao có thể từ sự tu hành mà thành Phật? Có thể nói quan niệm xem Phật cao cao tại thượng, xa không vói được, đó là một chướng ngại rất lớn cho việc tu hành. 
     
Có một vị cao tăng khác ở vào đời Đường là ngài Thạch Đầu Hy Thiền thiền sư, một lần nọ, cùng với sư huynh đồng môn lên núi làm việc, làm việc cần phải mang theo dao liềm nhưng sư huynh lại quên mất. Do vậy ông bảo với Thạch Đầu: Này! Đưa đầu cán cho ta!” Thạch Đầu thiền sư tức khắc trả lời: “Lấy cán không thể sử dụng!” 
     
Thông thường khi cầm dao đưa cho người khác, cán dao phải hướng ra ngoài và lưỡng hướng vào trong, đó là sự lễ phép thường thức thông dụng mà chúng ta đã được dạy dỗ từ bé. Nhưng, vị sư huynh này chỉ nhớ thường thức thông thường, còn dao liềm trọng yếu thật sự lại quên mang theo, điều đó phải chăng là gốc ngọn đã bị đảo ngược? Lúc này cấn phải phát huy tác dụng chân chính đó là lưỡi dao chứ nào phải cán dao! Dụng ý của Thạch Đầu thiền sư chính là ở đó. 
     
Thiền ở trong thiền tự -- Đây là quan niệm thông thường. Nếu tin tưởng và gìn giữ quan niệm này, nhất là ở vào xã hội công thương nghiệp phồn thịnh bận rộn hiện tại, e rằng chúng ta không cách nào có thể học thiền được. “Đợi lúc sau khi sự việc xong xuôi thì đến thiền tự!” Nhưng, cái thời khắc hứa hẹn này e rằng vĩnh viễn chờ hoài mà không bao giờ đến. Hay thử bỏ quan niệm này đi! “Thiền đâu chỉ có riêng nơi chốn cửa thiền”, nếu có thể kiến lập được điều phi thường thức này, thì đây chính là thời khắc mà bạn có thể bắt đầu học thiền. 
     
Nhất Hưu hòa thượng đã ở trong am Nhu Ý Đại Đức Tự (1), chưa được mười hôm thì bỏ đi, lúc sắp rời khỏi nơi đây, ông đã lưu lại bài thơ như sau: 

     Trú am thập nhựt ý man man, 
     Cước hạ hồng tơ tuyến thậm trường 
     Thu nhựt quân lai như vấn ngã 
     Như hành tửu tứ hựu dâm phường 
     
Chữ “Quân” trong thơ là nói người đối đầu bình sanh của Nhất Hưu hòa thượng là sư huynh của ông -- Dưỡng Tẩu hòa thượng. 
     
Ý của Nhất Hưu bảo: “Dưỡng Tẩu thật thà cố gắng ơi! Sao ông cứ mãi cho rằng tại chùa mới có thể tu thiền, riêng tôi chỉ ở có mười hôm đã cảm thấy chán phiền, đại khái thiền của tôi là Thiền ở trong dâm phòng tửu quán!...” Thuyết pháp như thế là một loại quan niệm siêu việt thế tục. 
     
Trong quan niệm của người thông thường, một năm chia ra làm 365 ngày, để gán cho ý nghĩa khác nhau của mỗi ngày, như: “Hôm nay là ngày 15 tháng 8”, “Hôm nay là sinh nhật của tôi” v.v...., có thể nói, “Hôm nay” thành một cái ngày đặc định. Sau khi mỗi ngày được đặt lên cái nhật kỳ, chúng ta thường thường vì câu nệ nhật kỳ mà bỏ lỡ biết bao thời cơ hy hữu. Vì để đả phá quan niệm này cho nên Vân Môn thiền sư bảo rằng

     “Ngày ngày đều là ngày tốt” 
     
Chỉ cần trong tâm có Phật thì mỗi một ngày, mỗi một giờ đều là thời cơ tốt”. 
     
Phàm người ta cho là mồng 1 tháng giêng là ngày bắt đầu của một năm, cho nên cần phải ăn mừng –đây cũng là quan niệm cố hữu. Nhưng Nhất Hư hòa thượng đối với quan niệm này thì cười khỉnh. 
    
“Người kinh thành ơi! Hãy xem chiếc đầu lâu này...Nhìn đi! Ở đây có hai lỗ hủng, trước đó ở đây có hai tròng con mắt! Nhưng, hãy ngám cái bộ dạng hiện nay kìa! Đáng vui không? Đáng chúc mừng không?” 
    
“Sự tu hành trong Phật giáo cốt ở thực tiễn trugn đạo, nếu cứ nhấn mạnh thiền là phi thường thức của siêu vật thường thức, điều có phải là quá thiên chấp?” Người có nghi vấn này chắc chắn đang bị lẫn lộn giữa ý nghĩa “Trung Đạo” và “Trung gian” 
     
Trung đạo không phải là trung gian. Ngày xưa Thạch Sương hòa thượng ở triều nhà Đường tuy đã từng bảo “Trăm thước đầu cán làm sao tiến thêm một bước”, nhưng tôi vẫn cho rằng chỗ trăm thước ở đầu cán mà muốn tiến thêm một bước đó là “Trung đạo”, Nếu theo “Trung gian” mà nói, tức là ½ của 100 thước --chỗ 50 thước. Nếu chúng ta ở ngay chỗ 50 thước, giữa điểm bất tri bất giác thì vị trí này đã là trung điểm. Thông thường một số phần tử trí thức tự cho là hành sự của mình không thiên, vô ngã: trái lại thì đúng hơn! Vì như thế đã thành một người cố chấp không linh hoạt,. Có thể nói “trung gian” tức là thường thức và “trung đạo” tức phi thường thức, vì thế, phi thường thức mà thiền đã đề cập kỳ thực chính là tư tưởng trung đạo của Phật giáo. 
     
Trong “luận ngữ” Khổng Tử từng bảo “Hương nguyện, đức chi tặc dã” (“Luận ngữ. Tử Lộ”) , cái gọi là “Hương Nguyện”, là nói trong một thôn, loại nguỵ quân tử cố ý làm ra vẻ như kẻ trung hậu có đạo đức để người ta vui thích. Nếu nói theo thời hiện đại thì một số phần tử trí thực miệng luôn nhơn nghĩa đạo đức nhưng lòng lại giảo hoạt. Khổng Tử ghét nhất là người thuộc loại hình này. Còn nói: “Bất đắc trung hình nhi dữ chi, tất đã cuồng quyên phu? Cuồng dã tấn thủ, quyên giả hữu sở bất vi dã” (“Luận ngữ. Tử Lộ”). Khổng Tử cho rằng trung đạo là điều khó cầu, cho nên thoái lùi mà cầu điều sau, tức là lấy cuồng giả và quyên giả. Cuồng giả, ý nói con người ý khí phong phát, chí ở tiến thủ; Quyên giả, ý nói phẩm tánh cao khiết, con người hữu sở bất vi. Không tử cho rằng hai loại người này đều là loại người tiếp cận với Trung đạo, còn những phần tử trí thức xảo trá chính mình là người lìa xa Trung đạo nhất. Có thể nói “Trung đạo” của Khổng Tử cũng là một loại phi thường thức. 
     
Pháp hiệu của “Nhất Hưu” do thầy của ngài là Hoa Tẩu đặt. Nhất Hưu hòa thượng khi tiếp nhận tên này đã từng làm một bài ca như sau: 
     “Tùng hữu lậu địa hồi quy vô lậu địa, tạm thả nhất hưu 
     Vũ yếu hạ, phong yếu quát, nhất thiết do tha” 
     
Hữu lậu địa là chỉ cho thế giới phiền não, vô lậu địa là nói về thế giới khai ngộ. Bài ca này ý nói: “Từ con dường thế giới sa bà thông đến thế giới cực lạc, nghỉ ngơi một lát”. Nhưng “nghỉ ngơi một lát” của Nhất Hưu chẳng phải để rồi đình trệ ở đó và không tiến tới, sau khi nghỉ ngơi, ngài là con người không chịu thua cuộc cho dù trong gió lớn mưa to, vẫn nghểnh đầu thẳng ngực bước tới, cho nên sau bài ca này còn có những câu kế tiếp: 
     “Mưa ơi! Rơi đi, rơi đi! Gió ơi! Thổi đi, thổi đi!
     
Cuồng khách điên cuồng dẫm lên cuồng phong, lai vãng cả trong dâm phường men rượu”. 
     
Những nơi Nhất Hưu đến, nếu không tửu lầu thì thanh lâu. Đợi đến sau khi no say mới trở về chùa, nhưng về chùa chẳng qua mươi hôm rồi lại bắt đầu tìm rượu làm vui. Đối với sự không đầu hàng chuyện phàm tục của Nhất Hưu, thì âu cũng là thiền pháp đặc biệt độc đáo của ngài? 
     
Nhưng, khi Nhất Hưu lâm chung đã từng lưu lại một số giới cấm cho đệ tử, đó là: 
    
“Sau khi bần tăng quá vãng, trong số môn đồ đệ tử nếu có người nào ở chốn sơn lâm dưới cây hoặc ra vào tiệm rượu dâm phường mà mở miệng đàm thiền thuyết đạo, thì những kẻ như thế chính là đạo tặc của Phật pháp, là oán địch của chúng ta”. 
     
Chính Nhất Hưu đã ra vào tiệm rượu dâm phường nhưng lại cấm môn nhân ra vào chốn ấy. Nhưng ở đây đã không có bất cứ điểm mâu thuẫn nào. Nhất Hưu hòa thượng đi vào tiệm rượu dâm phường nhưng kỳ thực chính là chỗ “Một trăm kẽ một thước”. Hơn nữa ngài biết sau này trong môn nhân sẽ không có người đạt đến trình độ như mình, nếu muốn học theo đường đi nước bước giống nhau thì khác nào vẻ cọp không thành cọp mà trái lại trở thành giống chó. Thiền chân chính phải là độc nhất vô nhị. 
     
Nhất Hưu hòa thượng rất kính ngưỡng Hư Đường Trí Ngu thiền sư dưới thời đại Nam Tống Trung Quốc, ngài thường tự xưng là pháp tôn (cháu đạo) đời thứ 7 của Hư Đường thiền sư. Vì thế khi ngài lâm chung đã để lại di kệ như sau: 

     “Tu Di (2) chi nam bạn, hữu thuỳ tri ngô thiền 
     Túng lệnh hư Đường lai, bất trực bán văn tiền” 
     
“Tại Tu Di sơn trong thế giới rộng lớn này, có ai có thể lãnh hội thiền của ta? Dù cho Hư Đường tái thế, cũng vô phương vì không đáng nữa xu” Nhất Hưu đã đại ngôn lộng ngữ đến thế. Đối với Hư Đường thiền sư người mà ngài vẫn hết sức kính ngộ ấy thế nhưng ngài vẫn có ý muốn vượt qua. 
     
Tóm lại, thiền của Nhất Hưu hòa thượng có thể nói là một loại Thiền phi thường thức nhưng có thể lý giải. Chúng ta tuyệt đối không thể sử dụng thông tục thường tình để phê phán ngài. 

Chú (1): Lâm Tế Tôn đại đức tự thuộc phái Đại Bổn Sơn. Tọa lạc ở Tử dã bắc khu kinh đô thị. Tây nguyên năm 1324 do Đại Đăng quốc sư sáng lập kiến tạo. Trong chùa ngoại trừ Chân Châu Am mà Nhất Hưu hòa thượng từng ở, còn có Huỳnh Mai Viện, Đại Tiên Viện v.v. là cổ tích trứ danh sở tại. 
Chú (2) là núi cao do sức tưởng tượng trong vũ trụ quan của người Ấn Độ đời xưa. 

c

Nguồn: www.quangduc.com

Về danh mục

bài kệ pháp phái thiên đồng vuot qua su mac cam ve hinh thuc phat ha tinh thong bao ve khoa tu mua he nam 2015 que cha î ï tÕ Á trong cuộc chơi nầy hạnh hanh phuc vu trÃÅ vì sao bạn đi chùa บทสวดขอบรรชา 因地當中 tri tue va ki cuong cửa tach tra buoi sang va nhung mat ngon tinh co Phật Vài suy nghĩ về quyền động vật trong y nghia cua bon chu cuu huyen that to tren ban tho hạt 日本的墓所 Ã åº trước ngày thi hàng ngàn sĩ tử lên chùa the triết lý về di huy hoc hieu duyen sinh de quan ly cuoc doi minh Bàn æ ä½ å những vết thương có thể lành 正信的佛教 ý nghĩa thật sự của lễ vu lan báo 慧 佛學 quà lịch sử và ý nghĩa của chuông trống BÃn bên cạnh người già dang sau cau chuyen vi dai gia ngay nao cung an 唐朝的慧能大师 đư hộ Xét nghiệm máu giúp dự đoán Alzheimer 虚云朝拜五台山从哪里出发 梵僧又说 我们五人中 phâ t tư không hiê u đa o yêu thương ai thì phải giúp người ta 因果回德 Ăn chay