Tử niệm
Thích Nữ Minh Tâm
---o0o---
Lời mở đầu
Thực sự, tôi không biết tác giả tài liệu "Tử
Niệm" này là ai. Hơn mười năm trước, rất tình cờ may mắn, tôi nhận
được tập tài liệu này do Sư Cô Tâm Thường trao lại.
Ngày đó, tôi cũng không quan tâm lắm những gì
trong tập tài liệu này mặc dù tôi đã đọc nó vài ba lần để tìm hiểu xem
tác giả muốn nói cái gì. Với số tuổi còn trẻ, tôi chưa hề nghĩ tới
một ngày nào đó mình sẽ già và sẽ chết cả. Cái Chết, đối với tôi
sao xa lạ quá. Tuy nhiên, với bản tánh rất kính trọng tư tưởng
Thánh Hiền và các bậc thạc đức, cũng như rất quí sách vở, tôi đã tự nhủ
lòng là sẽ cố gắng soạn lại và in tập tài liệu này ra để gọi là chia sẻ
tư tưởng với tác giả.
Ngày nay, tuổi đời chồng chất, tôi đã thấm
hiểu một phần giáo lý nhà Phật qua định lý thực tiễn nhất, tàn khốc nhất
của thân phận con người. "Chết" là qui luật, "Chết" là một sự thực
không ai có thể phủ nhận hay chối bỏ, chạy trốn, "Chết" là trạm dừng
chân cuối cùng của vạn loại chúng sanh trong một kiếp sống.
Vậy, nếu đã không chối bỏ được, chúng ta nên
can đảm đối diện nó, nhìn tha(`ng vào nó như tác giả "Tử Niệm" đã làm,
để từ đó, chúng ta sẽ tìm đúng cho mình một định hướng ro' rệt.
Mời qúi vị cùng tôi đi vào lộ trình Sanh Tử.
Suy Nghiệm
Về Cái Chết
Đối với hạng người thông thường, cái Chết
không bao giờ có thể là một đề tài hấp da^'n; dầu để thảo luận hay để
thuyết trình. Chết là một cái gì buồn thảm. thê lương, ảm đạm, là
áp bức, là cái gì thật sự giết chết mọi niềm vui; chỉ có thể thích hợp
làm đầu đề cho những câu chuyện giữa đám tang chay.
Hạng người thông thường co rút trở vào nằm
bên trong cái Ta của mình, luôn luôn đi tìm dục lạc, luôn luôn rượt bắt
chạy theo những gì kích thích và thỏa mãn dục vọng, mà không bao giờ
dừng chân lại để bình tĩnh ngồi xuống và nghiêm chỉnh suy ga^'m rằng
chính những thú vui vật chất và những thỏa mãn dục vọng kia rồi sẽ phải
chấm dứt ngày nào.
Nếu lời khuyên nhủ sáng suốt không đủ năng
lực để thúc giục người thiếu suy tư, người mãi mê chạy theo dục lạc ngũ
trần, nên dừng bước lại để khảo sát rành mạch và nhận định rằng Thần
Chết có thể đến với bất luận ai, vào bất cứ lúc nào, thì chỉ đến khi
dưới mái nhà của chính họ, cái chết đột ngột đến và mang theo một người
thân yêu; chỉ đến chừng ấy, họ mới bừng tỉnh dậy từ trong giấc mộng êm
đềm của dục lạc, và sững sờ chợt thấy mình bỗng nhiên đứng trước sự thật
trắng trợn, phũ phàng và khắc nghiệt của kiếp nhân sinh. Chỉ
đến chừng ấy, họ mới mở bừng mắt ra và mới bắt đầu tự hỏi "Tại sao có
những hiện tượng oái oăm như vậy? Tại sao không ai tránh được cái
chết? Tại sao có những cuộc ra đi đau lòng cướp theo đời sống và
mọi niềm vui của kiếp sống?
Đối với phần đông chúng ta, có một lúc nào
đó, cảnh tượng chết chóc khêu gợi cho chúng ta những tư tưởng thâm diệu
nhất và những câu hỏi sâu xa nhất: "Đời sống có giá trị nào; sống
có ích gì nếu những thân hình đẹp đẽ và một thời có khả năng thực hiện
nhiều công trình vĩ đại giờ đây chỉ còn là một xác chết lạnh teo, nằm
trãi dài cứng đơ như một vật vô tri vô giác? Đời sống có gía trị
nào, sống có ích gì, nếu cặp mắt kia có lần sáng tỏ trong niềm vui, có
lần rực rỡ trong tình yêu, giờ đây đã mãi mãi nhắm lại, im lìm không
linh động?"
Những ý tưởng tương tợ, chúng ta không nên
xua đuổi hay đè nén. Nếu chúng ta bình tâm suy ga^'m một cách sáng
suốt, những tư tưởng có tánh cách tìm hiểu như thế ấy, cuối cùng chúng
ta sẽ mở rộng được những khả năng vĩ đại cố hữu của tâm trí con người để
thâu nhận và lãnh hội những chân lý cao siêu nhất.
Theo đường lối suy tư của người con Phật,
"Chết" không phải là một đề tài phải la^'n tránh hay xua đuổi, mà là cái
chìa khóa để mở cánh cửa đưa vào những gì được xem là bí ẩn của cuộc
đời. Chính nhờ hiểu biết cái Chết, mà ta hiểu được sự Sống; bởi vì
hiểu theo một chiều hướng, Chết là một phần trong tiến trình Sống.
Theo một lối hiểu khác, Sống và Chết là hai giai đoạn tận cùng của một
tiến trình, hai đầu của một luồng trôi chảy, và nếu hiểu biết đầu này,
thì cũng hiểu được đầu kia. Do đó, khi hiểu ý nghĩa và mục tiêu
của sự chết, ta cũng hiểu được ý nghĩa và mục tiêu của kiếp nhân sinh.
Chính nhờ gia công suy niệm về sự Chết mà một ngày nào đó, tư tưởng mạnh
mẽ sẽ đến với ta để làm mềm dịu đi những quả tim chai đá nhất để thắt
chặt dây thân ái giữa người nầy với người kia; để phá tan những hàng rào
giai cấp, đa(`ng vị, và san bằng những ranh giới chủng tộc giữa những
người cùng sống trên một thế gian; cùng chịu chung một số phận là phải
chết.
Cái Chết có khả năng san bằng rất vĩ đại.
Tự cao tự đại vì sanh trưởng trong một gia đình giàu sang, quyền quí;
ngã mạn vì địa vị ăn trên ngồi trước, kiêu căng vì nhiều tiền lắm của,
quyền thế . . .tất cả đều phải nhường cho ý nghĩa về cái chết không thể
tránh. Cái chết có khả năng đàn áp tất cả. Chính sắc
thái "san bằng " của sự Chết đã gợi cảm hứng cho một nhà thơ:
"Nào ấn tín, nào áo mão cân đai,
Tất cả đều phải sụp đổ,
Và trong đám cát bụi, tất cả đều ngang nhau,
Dưới những nhát cuốc, những lưỡi xuổng."
Chính nhờ suy niệm về sự Chết mà ta có thể
tiêu diệt tánh tự cao ngã mạn. Chính nhờ suy niệm về sự Chết mà ta
tìm lại được thế quân bình cho cái tâm qúa đỗi chao động của ta.
Chính nhờ suy niệm về sự Chết mà ta có thể tăng cường, làm cho vững
chắc, và lèo lái cái tâm vô cùng bất định của ta lúc vẩn vơ theo chiều
này, lúc buông trôi theo hướng khác, không biết đi về đâu, không nhắm
một múc tiêu nào. Không phải không có lý do mà Đức Phật hằng nhắc
nhở hàng môn đệ của Ngài nên suy niệm về cái chết với lời lẽ vô cùng
khẩn thiết. Lối suy niệm này được gọi là " Maranànusati bhavana"
(gom tâm an trụ và suy niệm về sự Chết). Người nào muốn thực hành
pháp môn này phải ghi nhận trong tâm, không phải chỉ trong những lúc
ngồi tham thiền mà từng giây từng phút, luôn luôn không lúc nào quên.
"Maranam bhavasati" là một trong những đề mục cổ điển được trình bày
rành mạch trong sách Thanh Tịnh Đạo (Visudhi Magga) và sách này ghi nhận
ro' ràng muốn gặt hái đầy đủ kết qủa, hành giả phải thực hành pháp này
theo đường lối chân chánh, nghĩa là với tâm niệm (Sati), với sự nhận
thức về tánh cách gấp rút của pháp này (Samvega) và với sự hiểu biết
minh ma^'n (Nana).
Thí dụ như một hành giả trẻ tuổi không nhận
thức được mạnh mẽ rằng cái Chết có thể đến với mình bất luận lúc nào, mà
xem đó là một diễn biến chỉ xảy ra lúc tuổi già, trong một tương lai xa
xôi thì tức nhiên công trình suy niệm về sự Chết của hành giả sẽ kém
phần minh bạch, kém năng lực, và như vậy, không da^'n đến thành công.
Về hiệu năng của công trình suy niệm về cái
Chết này, chúng ta có thể nhận thức xuyên qua đoạn sau của sách Thanh
Tịnh Đạo:
"Vị đệ tử đã gia công thực hành đề mục suy
niệm về sự Chết luôn luôn giác tỉnh, không tìm thỏa thích trong bất luận
hình thức sinh tồn nào; từ bỏ mọi khát vọng đeo níu theo đời sống, chế
ngự mọi hành động bất thiện, thoát ra mọi ham muốn về những điều cần
thiết cho đời sống, tri kiến của hành giả về đặc tính vô thường của vạn
pháp trở thành kiên cố; hành giả nhận thức bản chất đau khổ và vô ngã
của kiếp sinh tồn, và trong giờ phút lâm chung, hành giả không sợ sệt,
va^'n luôn luôn giữ tâm niệm an lạc, luôn luôn tự chủ, tự kềm chế lấy
mình. Cuối cùng, nếu trong chính kiếp sống này, hành giả không
chứng ngộ được Niết Bàn, thì sau khi chết, hành giả cũng sẽ tái sanh vào
nhàn cảnh.
Chúng ta thấy rằng suy niệm về sự Chết không
những thanh lọc tâm, làm cho tâm trở nên vi tế và thanh cao hơn, mà còn
làm cho cái Chết mất đi phần đáng kinh sợ, và trong khoảnh khắc cực kỳ
long trọng, lúc mà con người cố bám víu lấy hơi thở cuối cùng, giúp cho
hành giả đương đầu với hoàn cảnh một cách bình tĩnh và mạnh dạn. y
nghĩ về sự Chết không bao giờ làm cho tâm hành giả chao động. Hành
giả đã chuẩn bị và sa('n sàng đối phó với diễn biến mà phần đông xem là
đáng kinh sợ này. Chính con người như thế ấy mới có thể tuyên bố
một cách chắc chắn: "Này Tử Thần, còn đâu là nọc độc của ngươi?"
Đối với ta, sự vật có vẻ như là một thực thể
đơn thuần, đó là do tính cách kém hoàn hảo của giác quan chúng ta - sự
thấy, sự nghe v.v. chí đến sự suy nghĩ. Khoa học đã xác nhận rằng
giác quan không thể hướng da^'n ta một cách chắc chắn, không sai lạc.
Một thực thể trường tồn, không biến đổi, chỉ là một khái niệm, chỉ là
một danh từ, một cái tên mà không có hiện hữu trong thực tế. Đại
Đức Nagasena muốn giải thích cho vua Milinda biết đặc tính cấu thành của
vạn hữu, nên hỏi Vua đi đến bằng gì, đi bộ hay đi xe. Vua đáp bằng
xe.
"-Tâu Đại Vương, nếu Ngài đến bằng xe, xin
Đại Vương vui lòng nói ro', phải cái gọng là xe không; phải cái thùng là
xe không, phải cái roi là xe không...?
-Bạch Đại đức, những thứ đó không phải là cái
xe.
-Tâu Đại Vương, như vậy cái nào là cái xe
thực?
Như vậy, bằng lối tha(`ng thắn phân tích,
bằng cách phân chia ra từng thành phần cấu tạo nên cái gọi là xe, Đại
Đức Nagasena thành công thuyết phục vua Milinda rằng "dầu nhà vua có nói
sao đi nữa thì va^'n không có cái gì đơn thuần gọi là xe cả mà chỉ có
những thành phần ráp nối lại với nhau.
Cùng thế ấy, "chúng sanh", "con người',
"tôi", chỉ là những danh từ, những chữ không tương ứng chính xác với một
cái gì đơn thuần, nguyên vẹn, thực sự, hiện hữu. Không có cái gì
như một thực thể đơn thuần, hiện hữu trong thực tế mà có thể gọi như
vậy. Trong ý nghĩa cùng tột, chỉ có năng lực luôn luôn biến đổi.
Tuy nhiên danh từ sankhàra không phải chỉ liên quan đến vật chất và tánh
chất của vật chất - được gọi là Sắc (rùpa) - mà cũng bao hàm luôn phần
tinh thần, tâm và tánh chất của tâm - được gọi là danh (namà). Do
đó, tâm cũng là một sự phối hợp, giống như thể xác là một sự phối hợp.
Nói rằng tâm là sự phối hợp của nhiều tư
tưởng không có nghĩa rằng những tư tưởng ấy đồng thời hiện hữu, cùng tồn
tại trong một lúc như những thành phần của cái xe. Đây là sự nối
tiếp liên tục của những chập tư tưởng cũng gọi là sát na tâm; một tiến
trình không gián đoạn của những tư tưởng - khi là những tư tưởng sân
hận, lúc là những tư tưởng phiền não, sau đó có thể là những tư tưởng từ
bi, phục vụ v.v., một sự nối tiếp liên tục không gián đoạn, vô cùng tận.
Mỗi chập tư tưởng phát sanh, tồn tại rồi hoại diệt, nhường chỗ cho một
chập khác, những chập tư tưởng liên tục nối tiếp nhau, chập này đến chập
kia, vô cùng nhanh chóng đến đỗi ta có một cảm tưởng như có một cái gì
đơn thuần, nguyên vẹn, không biến đổi, gọi là cái "Tâm "; nhưng trong
thực tế, không có cái gì trường tồn bất biến mà chỉ có sự trôi chảy của
những chập tư tưởng kế tiếp nối đuôi nhau, có thể sánh với sự trôi chảy
của một dòng sông. Từng giọt nước kế tiếp nối đuôi nhau và trôi
chảy nhanh chóng đến đỗi ta có cảm tưởng như có một cái gì nguyên vẹn,
một thực thể không biến đổi gọi là con sông; nhưng đó chỉ là một cảm
tưởng, một ảo tưởng. Trong thực tế, dòng sông luôn luôn trôi chảy,
luôn luôn biến đổi. Cùng thế ấy, không có một cái gì là một thực
thể nguyên vẹn không đổi thay gọi là cái tâm mà chỉ có sự nối tiếp của
những chập tư tưởng, một dòng tư tưởng phát sanh rồi hoại diệt.
Nếu tôi nói rằng buổi sáng tôi băng qua con sông và buổi chiều tôi băng
trở lại, cũng qua con sông ấy; trên thực tế có phải tôi băng qua và băng
trở lại cũng một con sông ấy không? Con sông mà tôi băng qua buổi
sáng và con sông mà tôi băng qua buổi chiều có phải là một không?
Nước sông mà tôi băng qua buổi sáng có phải nước sông mà tôi băng qua
buổi chiều không? Vậy nước buổi sáng hay nước buổi chiều là con
sông; hay có hai con sông, con sông buổi sáng và con sông buổi chiều; và
nếu buổi trưa mà tôi có băng ngang con sông, lại còn có một con sông
buổi trưa nữa chăng?
Suy luận như vậy, chúng ta sẽ thấy rằng mỗi
giờ, mỗi phút, mỗi giây, mỗi khoảnh khắc đều có một con sông khác biệt.
Như vậy thì đâu là cái gì trọn vẹn mãi mãi tồn tại gọi là con sông?
Phải chăng lòng sông hay bờ sông là con sông? Bây giờ chúng ta
nhận thức rằng không có cái gì mà chúng ta có thể chỉ và nói "Đây là con
sông ". Con sông chỉ tồn tại như một danh từ. Bằng một cách
qui ước và để được tiện lợi trong sự thông cảm với nhau, chúng ta đồng ý
gọi là con sông những giọt nước riêng biệt nối tiếp nhau trôi chảy vô
cùng tận. Cái Tâm cũng y hệt như thế. Tâm chỉ là một luồng
trôi chảy của những tư tưởng nối tiếp vô cùng tận. Qúi vị có thể
nào chỉ riêng một tư tưởng đang thoáng qua và nói "đây là cái tâm của
tôi", "đây là cái tâm thường còn và không biến đổi của tôi ", có thể
được vậy chăng? Một ý tưởng sân hận đối với người kia phát sanh
đến tôi, nếu tư tưởng ấy là cái tâm thường còn và không biến đổi của tôi
thì làm sao trong một lúc khác lại có những tư tưởng thân hữu cũng đến
với người ấy lại phát sanh nơi tôi? Còn nếu tư tưởng thân hữu này
cũng là cái tâm thường còn và không biến đổi của tôi thì ra tôi có đến
hai cái tâm thường còn và không biến đổi, và hai cái tâm đối nghịch
nhau. Nếu tự đặt ra những câu hỏi dài dài theo chiều hướng này, ta
sẽ đi đến kết luận là không có một cái gì tương tự như cái tâm bất di
bất dịch mà chỉ có một danh từ, một phương tiện để diễn đạt sự liên tục
nối tiếp của những tư tưởng. Cái xe, con sông, danh sắc, tất cả
đều là những phối hợp, những sự cấu thành. Tự nó, ngoài sự phối
hợp, không có xe, không có sông, hay danh sắc gì hết. Không có gì
tự nó có đặc tánh vững bền, ổn định, không có gì thích ứng với thực tại,
không có gì thường tồn, không biến đổi, không có phần tinh thần nào như
một thực thể vĩnh cữu trường tồn, gọi là linh hồn.
Như vậy, nếu thể xác hay Sắc chỉ là một danh
từ để diễn đạt sự phối hợp của những yếu tố luôn luôn biến đổi và cũng
thế ấy, Tâm hay Danh chỉ là một danh từ để diễn đạt dòng trôi chảy của
những tư tưởng liên tục nối tiếp thì sự phối hợp Tâm - vật lý - danh sắc
- gọi là con người, không thể là một đơn vị nguyên vẹn thường còn không
biến đổi; chỉ là một danh từ, một phương tiện qui ước. Vậy khi
chúng ta nói cái xe di chuyển hay một người đi, điều này chỉ đúng theo
hình dung, hay chỉ đúng một cách qui ước; bởi vì chúng ta đồng ý với
nhau dùng những ngôn từ ấy để diễn đạt những điều như vậy, và bởi vì
xuyên qua giác quan, chúng ta thấy có cái xe đang di chuyển và một người
đang đi. Trong thực tế và theo ý nghĩa cùng tột, chỉ có sự di
chuyển; chỉ có sự đi; do đó, sách Thanh Tịnh Đạo ghi nhận:
"Không có người hành động, chỉ có hành động;
Ngoài sự chứng nghiệm, không có người chứng
nghiệm.
Chỉ có những thành phần cấu tạo luôn luôn
trôi chảy,
Đó là quan kiến thực tiễn và chơn chánh."
Bây giờ có sự liên hệ nào giữa sự phân tích
thân và tâm tỉ mỉ công phu như vậy với cái Chết? Mối liên hệ như
sau:
Khi sự phân tích tỉ mỉ và công phu ấy khám
phá rằng không có một con người mà chỉ có một tiến trình; không có người
hành động mà chỉ có hành động; chúng ta đi đến kết luận rằng không có
người chết mà chỉ có tiến trình của sự chết. Di chuyển là một tiến
trình. Đi là một tiến trình. Chết cũng là một tiến trình.
Không có một nhân vật hay một nguyên lực ẩn núp phía sau tiến trình di
chuyển hay tiến trình đi; cùng thế ấy, không có một nhân vật hay một
nguyên lực ẩn núp phía sau tiến trình chết. Nếu chúng ta có thể
giữ quan kiến của mình càng ngày càng đúng hơn, theo đường lối của vi
diệu pháp, chúng ta sẽ càng ngày càng giảm bớt luyến ái vào sự vật và
càng ngày chúng ta càng giảm bớt tự mình đồng hóa với hành động mình.
Và như vậy, dần dần chúng ta vươn mình lên đến mức độ lãnh hội được quan
kiến - rất khó thấu đạt - rằng kiếp sống này chỉ là một tiến trình.
Đó là sự nhận thức tối đại tối trọng, là sự chứng ngộ vô cùng cao thượng
mà con người mê muội có thể đạt đến. Ro' thật là sáng suốt. Ro'
thật là giác ngộ. Quả thật là một khám phá kỳ diệu có tánh cách
thần khải, và khi nhận thức như vậy, bao nhiêu lo âu, bao nhiêu sợ sệt
liên quan đến sự chết tan biến mất. Đó là điều rất thuận lý. Khi
ánh sáng phát sanh thì đêm tối tan biến; cùng thế ấy, ánh sáng của tri
kiến đánh tan đêm tối của vô minh, của lo âu và sợ sệt. Với sự
chứng ngộ chân lý, với tri kiến, bao nhiêu lo âu và bao nhiêu sợ sệt
được thấy là trống rỗng vô căn cứ. Nói thì rất dễ. Thấu
triệt được mới là khó. Tại sao khó thấu đạt đượcđiều này? Là
bởi vì chúng ta có thói quen mãi đi theo đường xưa lối cũ. Chúng
ta suy tưởng theo những lằn xếp quen thuộc. Trong cuộc hành trình theo
dòng tư tưởng, chúng ta nhắm mắt đưa chân theo những đường mòn quen
thuộc, cùng với những dấu hiệu sai lạc bên đường, và chúng ta e ngại,
chúng ta không đủ nghị lực để băng rừng phá buị, vạch ra con đường mới.
Chính chúng ta từ chối không chịu nhận lãnh những lợi ích của một quan
kiến chân chánh (Sammà ditthi - chánh kiến), tập tục cố hữu, tự đồng hóa
mình với hành động của mình, là môi trường để làm sanh sôi nẩy nở niềm
tin sai lầm; ngờ rằng có một "tự ngã", một cái "ta" nằm dưới hay phía
sau những hành động và những tư tưởng của ta. Đó là điểm chánh yếu
quan trọng da^'n dắt ta lầm đường lạc nẻo. Đó là điều làm cho ta
không thể nhận định được rằng cảm giác về một cái "Ta" nằm bên trong ta
không phải gì khác hơn là một luồng tâm thức luôn luôn thay đổi và không
bao giờ tồn tại y hệt trong hai khỏanh khắc kế tiếp.
Như Giáo sư W. James nói: "Chính những tư
tưởng, tự nó là người tư tưởng". Trong sự mê muội, chúng ta ôm ấp
niềm tin rằng chính luồng tâm thức ấy là dấu hiệu chứng tỏ sự hiện hữu
của một cái linh hồn vừa tế nhị vừa huyền ảo. Đó chính là phản ứng
của cái tâm trước đối tượng. Trong khi đi, chúng ta không nhận định được
rằng chỉ có một tiến trình đi, ngoài ra không có gì khác; không có một
người xem như một thực thể đơn thuần, nguyên vẹn không biến đổi.
Chúng ta ôm ấp ảo tưởng rằng có cái gì bên trong chúng ta để điều khiển
hành động đi. Khi suy tư chúng ta ôm ấp ảo tưởng rằng có cái gì
suy tư bên trong chúng ta. Chúng ta không nhận định được rằng đó
chỉ là một tiến trình của sự suy tưởng, không có cái gì khác.
Không có pháp môn nào ngoài pháp môn suy niệm sâu xa (tham thiền) theo
những lời chỉ da^'n của Kinh Tứ Niệm Xứ (Satipatthàna Sutta) mà có thể
da^'n dắt chúng ta thoát ra khỏi những quan kiến sai lầm (miccha ditthi
- tà kiến).
Ngày nào nhờ gia công tham thiền như vậy,
chúng ta dứt bỏ được quan kiến sai lầm mà Đức Phật đã nhiều lần lập đi
và nhắc lại, quan kiến mà làm méo mó sự xét đoán và làm mù mờ mọi nhận
định về sự vật của chúng ta; chừng ấy, chúng ta mới có thể phát huy tri
kiến minh ma^'n và chỉ có trí huệ ấy mới rọi sáng và cho ta thấy ro'
thực tướng của sự vật. Chỉ đến chừng ấy ánh sáng Chân Lý mới bật
sáng để cho ta thấy rằng không có ai đang chết mà chỉ có một tiến trình
của sự chết, cũng như không có ai đang sống mà chỉ có tiến trình của sự
sống. Gia công thực hành suy niệm theo đường lối này có nghĩa là
dần dần dứt bỏ một thói quen không tốt đã ăn sâu vào đời sống chúng ta
là tự đồng nhất với tiến trình hành động, bằng thân, khẩu hay bằng ý, và
do đó, dần dần thay vào bằng thói suy niệm về lý Vô Ngã (natta).
N' étain mama, cái này không phải của tôi. Suy niệm thường xuyên
như vậy sẽ đưa đến sự cởi mở dần dần, nới rộng mối dây thắt chặt chúng
sanh vào cái "ta", cái "tự ngã". Khi mà chúng ta đã chấm dứt,
không còn ôm ấp ảo kiến về cái "ta", khi mà chúng ta đã hòan toàn vượt
ra khỏi mọi luyến ái đeo níu theo những ảo tưởng tương tợ, chừng ấy
chúng ta có thể vui vẻ và không lo sợ, đối diện với hiện tượng Chết một
cách mạnh dạn và bình tĩnh.
Chúng ta vừa thấy rằng những đường lối suy
luận về định luật Nghiệp Báo và định luật Cấu Thành có thể cho ta một
quan niệm chân chánh về sự chết và có thể giúp ta đối diện với hiện
tượng chết với một thái độ thích nghi như thế nào. Còn một định
luật nữa mà nếu được hiểu biết thấu đáo, cũng có thể giúp ta như vậy.
Đó là định luật Vô Thường (nicca). Đây là yếu tố quan trọng nằm
phía sau Đế thứ nhất của Tứ Diệu Đế, chân lý về sự đau khổ. Chính
vì có biến đổi, vì không có ổn định, không có cái gì thường còn trong sự
vật và trong bất luận vật gì trong thế gian nên có đau khổ, hỗn loạn,
không điều hoà trong co'i tạm này. Nguyên tắc biến đổi này được
trình bày minh bạch trong câu "anicca vata sankhàn" tất cả các vật cấu
tạo đều không bền vững. Trong thế gian này không có cái gì ổn định
hay bất động. Dầu ta có muốn hay không, thời gian va^'n biến đổi
tất cả sự vật. Trên thế gian này không có cái gì có thể chặn đứng
thời gian và không có cái gì có thể tồn tại mãi mãi. Không có sự
bền vững, sự ổn định, sự thường còn, bất luận ở đâu trên thế gian này.
Luật Vô Thường chi phối toàn thể thế gian này. Vậy, dầu thuộc về tinh
thần, dầu là vật chất, tất cả đều tạm bợ, nhất thời và luôn luôn biến
đổi. Sự biến đổi có thể nhanh chóng hay chậm chạp; sự biến đổi có
thể dễ hay khó nhận thấy; dễ hay khó tri giác; nhưng chắc chắn có biến
đổi. Chúng ta đang sống trong một thế gian luôn luôn biến đổi và
trong lúc ấy, chính chúng ta cũng không ngừng biến đổi.
Một cấu tạo vật (sankhàra cũng được gọi là
hữu lậu) là sự phối hợp của nhiều yếu tố, và những yếu tố ấy luôn luôn
biến đổi. Chúng ta đã được biết như vậy xuyên qua phần trước; vậy
vật cấu tạo không phải chỉ là sự phối hợp của nhiều yếu tố. Vật
cấu tạo là sự phối hợp luôn luôn biến đổi của những yếu tố luôn luôn
biến đổi, bởi vì chính sự phối hợp tự nó cũng đổi thay. Bởi có sự
biến đổi nên có tăng có trưởng, có hư có hoại. Tăng trưởng đưa đến
hư hoại cũng vì có biến đổi. Tại sao những cánh hoa tươi đẹp tưng
bừng nở tung ra để rồi tàn rụi ? Đó là do định luật Vô Thường.
Chính định luật này đã làm cho sức khỏe mạnh của thời niên thiếu dần dần
nhường chỗ cho sự ươn yếu của tuổi già. Cũng do ảnh hưởng của định
luật này, những công trình kiến trúc kiên cố và cao vòi vọi chọc trời
hôm nay sẽ phải trở nên cũ ky' và một ngày xa xôi nào đó sẽ phải sụp đổ.
Chính sắc thái này của định luật Vô Thường, tiến trình của sự tan rã,
làm cho sắc phải lạt phai, kim phải rỉ sét, gỗ phải mục nát. Vì
suy niệm như vậy mà Thi hào Gray viết ra những vần thơ khi đứng nhìn một
phần mộ trong vòng thành một ngôi nhà ở vùng quê:
" Sự rực rỡ của vinh quang, sự vẻ vang của
quyền thế
Tất cả các điều tốt đẹp ấy, tất cả những gì
mà tài sản tạo nên
Đều như nhau, đi đến giờ phút không thể tránh
Con đường vinh quang chỉ đưa đến nấm mồ."
Đôi khi tác động của định luật Vô Thường
không lộ ra ngoài cho ta thấy; chí đến những vật xem hình như rất kiên
cố và vững bền, như núi đá cha(`ng hạn. Khoa học đã chứng minh
điều này. Dầu những hòn núi đá khổng lồ đi nữa, cũng phải tiêu mòn
và tan rã với thời gian - một ngàn, hai ngàn, nhiều ngàn năm về sau.
Nơi mà hiện nay là ao hồ rộng lớn có thể trước kia, trong một qúa khứ xa
xôi, là một vùng đồi núi. Sự vật phát sanh tự nhiên phải hoại diệt
(u+~ppajjitra nirujjhanti): đã phát sanh chúng phải hoại diệt. Đức
Phật dạy như vậy. Nhiều chu kỳ trước đây, trái đất với mặt trăng
là một. Ngày nay quả điạ cầu va^'n còn hơi ấm và có sự sống nhưng
mặt trăng đã lạnh và hết sự sống. Và chính qủa địa cầu này cũng
vậy. Khoa học tiên đoán rằng một ngày nào đó địa cầu cũng sẽ mất
dần nhiệt độ và khô cằn dần; và trong nhiều chu kỳ sắp tới sẽ không còn
sinh vật trên quả địa cầu nữa. Trái đất sẽ thành một hành tinh
chết, một mặt trăng khác. Đây là một trong nhiều trường hợp mà tác
động của định luật Vô Thường không lộ ra hiển nhiên bên ngoài. Đức
Phật cũng có dạy rằng đời sống của quả địa cầu sẽ chấm dứt một ngày kia.
Định luật Vô Thường làm cho sự vật hoại và
diệt. Cùng một thế ấy, định luật này cũng có thể làm cho sự vật
trưởng thành, tăng trưởng và tiến hóa. Cái hột trở thành cây con,
cây con trở thành cây to, nụ trở thành hoa. Tuy nhiên, một lần nữa
luôn luôn có sự biến đổi trong tiến trình trở thành. Không có gì
ngừng biến đổi. Không có gì không luôn luôn trở thành một cái gì
khác, và trưởng thành phải đưa đến hư hoại. Cây phải rụi, hoa phải
tàn. Đó là một chu kỳ bất tận; một vòng lẩn quẩn không bao giờ
chấm dứt. Sanh rồi diệt, hợp rồi tan, mọc rồi lặn, và sự việc như
thế đã gợi cảm cho nhà thơ Shelley:
"Thế gian này đến thế gian khác, tiếp
tục xoay vần
từ lúc thành hình đến khi tan rã.
Không khác nào những giọt nước trên dòng
sông,
lóng lánh nổ tung và tan biến ."
Không có quyền lực độc đoán nào tạo nên
những sự biến đổi ấy. Khuynh hướng đổi thay dính liền, cố hữu
trong sự vật. Định luật Vô Thường không những chỉ nói rằng sự vật
phải biến đổi mà còn xác nhận rằng tánh cách đổi thay chính là bản chất
của sự vật. Ta có thể nghĩ đến bất luận vật nào, vật đó cũng là
một phương cách biến đổi và một diều kiện biến đổi. Vô Thường hay
biến đổi, là một giả thuyết đã được chấp nhận một giả định đem lại kết
quả tốt đẹp của nhà khoa học. Một trong những nhiệm vụ kỳ diệu
nhất, cũng là một niềm hãnh diện mạnh mẽ nhất của nhà khoa học là đánh
tan ý niệm về sự ổn định, vững bền, bất di dịch và không đổi thay trong
thế gian hữu cơ. Chúng ta đã có nghe đề cập đến hạt nguyên tử, -
giả định là một thực thể đơn thuần, không thể phân chia - mà ngày nay đã
được chứng minh là sự phối hợp của nhiều năng lực. Trong khi nhà
khoa học áp dụng định luật Vô Thường vào lãnh vực vật thể và chia chẽ
các đơn vị ra làm nhiều thành phần thì Đức Phật đã áp dụng cũng định
luật ấy vào trọn vẹn guồng máy phức tạp "Danh Sắc", Tâm - vật chất, và
chia chẽ cái được xem là đơn vị chúng sanh ra làm 5 nhóm thành phần gọi
là Ngũ u+~ẩn (panca khandha). Đức Phật đã đi xa hơn nữa và giải
thích tại sao ngũ uẩn không ổn định, vững bền, mà chỉ tồn tại nhứt thời;
tại sao ngũ uẩn tan rã, và tại sao những uẩn mới phát sinh liền theo đó
và nối tiếp cái đã qua. Mỗi sự vật đều tác động qua 3 giai đoạn
sanh, trụ, dị, diệt. Tư tưởng cũng phải trãi qua 3 giai đoạn kể
trên.
Khi Đức Phật đề cập đến 4 thành phần chính
yếu cấu tạo thế gian (Tứ Đại) và dạy rằng 4 thành phần này cũng bị định
luật Vô Thường chi phối, Ngài xác nhận rằng thể xác của con người cũng
do tứ đại cấu thành chắc chắn phải chiụ ảnh hưởng của định luật Vô
Thường.
Như vậy tấm thân nhỏ bé này là gì? Đức
Phật hỏi " Có chăng một cái gì trong ấy mà ta có thể nói "đây là tôi hay
của tôi " không? Không, quả thật không có gì hết.
Càng sớm hiểu biết tác động của định luật Vô
Thường, ta càng có thể thọ hưởng những lợi ích của sự biến đổi ấy, và
càng có thể uốn nắn thuận chiều nếp sống của ta; những hành động bằng
thân, khẩu, và ý của ta, và gặt hái nhiều kết quả tốt đẹp. Người
nào hiểu biết sự tác động tế nhị của định luật Vô Thường này cũng hiểu
biết phần tâm linh, "Danh" có thể đổi thay như thế nào do những hành
động cố ý. Dầu có đi sâu vào ác nghiệp như thế nào, con người bất
thiện cũng hiểu rằng cái ác, cái bất thiện (akusala) không phải là một
trở ngại bất di bất dịch không thể vượt qua, bởi vì một cái tâm bất
thiện cũng có thể đổi thay. Do định luật Vô Thường, tốt có thể trở
thành xấu, mà xấu cũng có thể trở thành tốt. Người ấy biết rằng, bằng
cách thường xuyên suy niệm về điều thiện; tâm thiện sẽ phải dần dần phát
sanh. Suy niệm thường xuyên về điều thiện sẽ làm phát sanh khuynh
hướng thiện trong tâm, và một khi những khuynh hướng thiện phát sanh,
tức nhiên những khuynh hướng bất thiện phải chấm dứt. Khi tư tưởng
và khuynh hướng của người ấy biến đổi từ xấu ra tốt, và tâm của người ấy
đã thấm nhuần những khuynh hướng tốt, lời nói và hành động của người ấy
đương nhiên cũng trở nên tốt hơn. Với giới đức càng ngày càng
trong sạch, tâm càng dễ an trụ vào định; tâm định càng mạnh, càng dễ
thành tựu trở nên cao siêu. Như vậy cái bất thiện bên trong người
kia đã dần dần trở thành thiện. Người xấu trở nên tốt. Bằng
những hành động cố ý, chúng ta có thể nương theo định luật Vô Thường, để
thành đạt những lợi ích cao thượng nhất. Con người trước kia xấu,
bây giờ trở thành tốt, theo ý nghĩa cao đẹp nhất của danh từ. Một
người tốt luôn luôn an vui. Người tốt không bao giờ sợ chết, vì
không lo sợ những gì có thể xảy ra sau kiếp sống này. Một người
như thế được mô tả trong Kinh Pháp Cú:
"Người làm điều thiện thỏa thích trong thế
giới này,
Thỏa thích trong thế gian kế.
Trong cả hai thế gian, người hành thiện sống
thỏa thích."
Mãnh lực hùng mạnh đã đem lại sự đổi thay
trong kiếp sống này, sẽ bảo đảm kiếp sống càng may mắn hơn sau khi thể
xác hiện tại họai diệt. Đó là kết quả mà người hành thiện có thể
vững tâm trông chờ trong giờ phút lâm chung. Lo âu và sợ sệt một
cái chết khủng khiếp ắt không đến với người tạo nghiệp thiện. Hơn
nữa, khi ta theo do'i tỉ mỉ tác động của định luật Vô Thường trong phần
thể xác và tâm linh của chính ta và của người khác, chúng ta sẽ bắt đầu
quen thuộc mật thiết với sự biến đổi đến để cái chết không còn là một
cái gì vô ky` luật, bất thường, hay không tự nhiên. Chừng ấy, đối
với chúng ta, cái chết chỉ là một trường hợp đổi thay nữa thêm vào vô số
những tiến trình biến đổi đã xảy ra dài dài xuyên qua suốt kiếp sống của
chúng ta. Cái chết sẽ đến như một điều đã được trông chờ; một điều
phải xảy ra, thích ứng thuận chiều với những gì đã xảy ra trước kia.
Với người đã chân chánh suy niệm như thế về sự chết, cái chết không còn
là một mối lo âu hay sợ sệt nữa. Vui vẻ và không lo sợ, người ấy
sẽ đối diện với hiện tượng chết một cách bình tĩnh và mạnh dạn.
Chúng ta có thể khảo sát cái chết dưới
một khía cạnh khác nữa. Đó là khía cạnh của định luật Phát Sanh Do
Điều Kiện, rất gần với Định Luật Vô Thường. Những vật cấu tạo
không những do nhiều yếu tố phối hợp mà cũng do nhiều yếu tố tạo điều
kiện để phát sanh và hiện hữu. Và khi những yếu tố tạo điều kiện
ấy chấm dứt, vật được cấu tạo, tức vật được được điều kiện hóa để hiện
hữu đương nhiên cũng chấm dứt. Đó là định luật Phát Sanh Do Điều
Kiện, và định luật này được diễn tả bằng nhiều danh từ tổng quát:
"Khi cái này hiện hữu, cái kia hiện hữu,
Khi cái này phát sanh, cái kia phát sanh
Khi cái này không hiện hữu, cái kia không
hiện hữu
Khi cái này chấm dứt, cái kia chấm dứt."
Nguyên tắc này rất phổ thông, dầu áp dụng
vào bất luận trường hợp nào, tác động của tiến trình Sống và Chết cũng
nằm trong phạm vi định luật ấy. Sợi dây xích của những yếu
tố tạo điều kiện cho đời sống bao gồm 12 vòng khoen (Nidànas) có tên
chung là Paticca Samupàda - Tùy thuộc Phát Sanh hay Thập Nhị Nhân Duyên.
Một sự hiểu biết thấu đáo về 12 vòng khoen này rất quan trọng.
Trong Kinh Maha Nidàna Sutta của bộ Trường Hàm (Dighà Nikàya), Đức
Phật dạy Đức nanda như sau:
"Vì không hiểu biết thấu đáo giáo lý này,
chúng sanh sống trong cảnh rối loạn như tơ vò."
Công thức Tùy Thuộc Phát Sanh được trình bày
như sau:
"Do Vô Minh tạo điều kiện, Hành phát sanh
Do Hành tạo điều kiện, Thức phát sanh
( Danh, Sắc, . . . ai, Thủ, Hữu, . . . Lão,
Tử phát sanh )
Đây là một tiến trình mãi mãi diễn tiến vô
cùng tận. Do đó có những lời như sau:
" Nhiều lần lập đi lập lại, người thiểu trí
đi tái sanh
Nhiều lần lập đi lập lại, sanh đến rồi tử dến
Nhiều lần lập đi lập lại, người khác đưa
chúng ta xuống mồ."
Định luật này nói thì dễ mà rất khó hiểu.
Đây là giáo lý cao siêu thâm diệu nhất mà Đức Phật đã truyền dạy.
Chỉ có bằng cách thường xuyên gia công suy tư, chúng ta mới thấu đạt
được ý nghĩa sâu xa của pháp này. — đây không giải thích đầy đủ 12
vòng khoen, tuy nhiên để đánh tan một vài quan niệm lầm lạc liên quan
đến sự chết, chúng ta phải quan sát tận tường vòng khoen đầu tiên là Vô
Minh, thứ nhì là Hành, và thứ ba là Thức; bởi vì 2 vòng khoen đầu tiên
đưa đến chết và tái sanh .
Mười hai vòng khoen này, chúng ta phải hiểu
ro' như vậy, không tiêu biểu suông một sự liên tục nối tiếp của nhân và
quả, không phải là một lằn ngang trên đó liên tục nối tiếp những hành
động và phản ứng của hành động. Gọi là chuỗi dài nhân và quả là
sai, bởi vì đây không phải là một chuỗi dài bao gồm nhân và quả nối tiếp
nhau theo thứ tự thời gian một cách chính xác. Nói cách khác, Thập
Nhị Nhân Duyên không phải là chuỗi dài những yếu tố liên tục nối tiếp
yếu tố trước là Nhân sanh yếu tố sau là Quả. Có một vài yếu tố,
không phải là tất cả, đồng phát sanh cùng một lúc và mối tương quan giữa
yếu tố này với yếu tố kia là điều kiện (duyên) thay vì là nguyên nhân.
i~ếu tố này tạo điều kiện cho yếu tố kia phát sanh, chớ không phải là
yếu tố này là nguyên nhân sanh ra yếu tố kia. Có tất cả 24 phương
cách để tạo điều kiện trong mối tương quan giữa yếu tố này với yếu tố
khác. Mỗi yếu tố được tạo duyên để phát sanh và trở lại tạo duyên
cho một yếu tố khác phát sanh. Nhiều yếu tố này vừa tác động cùng
một lúc, vừa tác động một cách độc lập.
Sau đây là một vài nhận xét về vòng khoen đầu
tiên, Vô Minh (vijja). Nói rằng Vô Minh là vòng khoen đầu tiên
không phải xác nhận Vô Minh là nguyên nhân đầu tiên của kiếp sinh tồn.
Đức Phật quả quyết rằng nguyên nhân đầu tiên, nguồn gốc cùng tột của vạn
vật không thể nghĩ đến: "Này chư Tỳ Khưu, giòng sinh tồn quả thật
là vô thỉ; không thể tìm ra một khởi điểm."
Bertrand Russel viết: "Không có lý do nào để
giả định thế gian này có một khởi điểm. y niệm chủ trương rằng sự
vật phải có một khởi điểm thật sự phát sanh do trí tưởng tượng nghèo nàn
của chúng ta."
Vậy nói về con người, Vô Minh không phải là
nguồn gốc sơ khởi của sự vật mà là yếu tố do đó phát sanh đau khổ trong
tiến trình sinh tử. Tất cả 12 yếu tố đều là những yếu tố liên tục
tiếp diễn. Chỉ khi nào có sự suy tư sâu xa, chúng ta mới thật sự
lãnh hội chân lý này; tức thật sự hiểu biết rằng không thể nhận thức
được khởi điểm của tiến trình vô tận này.
Vòng khoen đầu tiên Vô Minh là gì? Vô
Minh là không hiểu biết những thực tại căn bản và chánh yếu của kiếp
sanh tồn tức là thực tại về sự đau khổ hay bất điều hoà; thực tại về sự
chấm dứt đau khổ hay bất điều hoà; và thực tại về con đường da^'n đến
chấm dứt đau khổ hay bất điều hoà. Nói một cách khác, Vô Minh là
không hiểu biết pháp mà chính Đức Phật gọi là Bốn Chân Lý Cao Siêu Thâm
Diệu: Tứ Diệu Đế. Vô Minh lúc nào cũng là một cái duyên tai hại.
Khi bị những duyên hay điều kiện như vậy chi phối thì chúng ta hoàn toàn
lệ thuộc vào tất cả mọi người và tất cả mọi việc.
"Chính Vô Minh da^'n đến cuộc hành trình ảm
đạm thê lương, rày đây mai đó - quanh quẩn sinh tử, tử sinh vô cùng tận.
Nhưng với người hiểu biết, không còn một kiếp sống tương lai."
Vòng khoen thứ nhì là Hành. Hành có
nghĩa là những hành động cố ý, có ý muốn làm, có tác ý. Danh từ
Pàli là Sankhàra. Công thức Thập Nhị Nhân Duyên trình bày như sau:
" Tuỳ thuộc nơi Vô Minh, Hành phát sanh." Điều này có nghĩa là sự kiện
không hiểu biết những thực tại căn bản và chánh yếu của kiếp sanh tồn
trở thành yếu tố tạo điều kiện để có những hành động có tác ý của con
người. Đúng theo giáo lý của Đức Phật, chỉ có sự hiểu biết và
chứng ngộ Tứ Diệu Đế mới có thể giúp con người thấy được thực tướng của
sự vật. Trong tình trạng Vô Minh, không hiểu biết Tứ Diệu Đế,
không thấy được thực tướng của sự vật, tức không thấy được sự vật đúng
theo thực tại của sự vật, con người có những hành động khác nhau.
Những hành động có tác ý (Hành) ấy không phải chỉ là kết quả đơn giản và
nhất thời của Vô Minh, một lần rồi hết. Vô Minh tiếp tục mãi mãi
tạo điều kiện cho Hành phát sanh, ngày nào kiếp sinh tồn còn tiếp diễn.
Những hành động có tác ý, hay những năng lực tinh thần này thật đa diện.
Trong Thập Nhị Nhân Duyên, danh từ Hành đồng nghĩa với Nghiệp hay tác ý
tạo nghiệp. Hai vòng khoen đầu tiên, Vô Minh và Hành thuộc về kiếp
sống quá khứ. Tám vòng khoen kế đó từ Thức đến Hữu thuộc về hiện
tại; còn Sanh và Lão Tử thuộc về kiếp sống tương lai.
Vòng khoen thứ ba là Thức (Vinnàna).
Công thức Thập Nhị Nhân Duyên trình bày:" Tùy thuộc nơi Hành, Thức phát
sanh." Thức ở đây có nghĩa là Thức tái sanh hay Thức nối liền.
Như vậy đúng theo tinh thần của công thức này, đời sống tâm linh của một
người trong hiện tại do nơi những hành động tốt hay xấu, tức nghiệp
thiện hay bất thiện của người ấy trong quá khứ tạo điều kiện để phát
sanh. Nói cách khác, luồng tâm của một người trong kiếp hiện tại
tùy thuộc nơi nghiệp của người ấy đã tạo trong qúa khứ. Công thức
này vô cùng quan trọng bởi vì có liên quan đến sự nối liền hai kiếp
sống, quá khứ và hiện tại, và do đó liên quan đến sự tái sanh. Vì lẽ ấy,
vòng khoen này được gọi là Patisandhi Vinnàna, Thức nối liền hay Thức
tái sanh. Ta có thể ngạc nhiên vì sao những hành động trong qúa
khứ lại tạo điều kiện để tái sinh trong hiện tại. Khoa học dựa
trên những dữ kiện trong kiếp sống hiện tại để giải thích hiện tượng
Sanh. Nhà sinh lý học nói rằng do sự phối hợp của cha và mẹ nên có
sinh sản. Theo Phật Giáo, nếu chỉ có 2 yếu tố ấy ắt không đủ để
tạo điều kiện cho sự sanh vì hai yếu tố này thuần túy vật chất.
Trong một hệ thống tâm vật lý, một sự phối hợp danh sắc gọi là con người
nếu phát sanh từ hai yếu tố hoàn toàn vật chất mà không có yếu tố tinh
thần nào thì quả là không hợp lý. Đức Phật dạy rằng có một yếu tố
thứ 3, thêm vào hai yếu tố thuần túy vật chất của cha và mẹ, và cũng cần
thiết như 2 yếu tố trên. i~ếu tố thứ 3 ấy là Patisandhi Vinnàna,
Thức Tái Sanh. Trong một cây đèn, nếu chỉ có dầu và tim không, ắt
không thể có ánh sáng. Ta có thể dùng một loại tim đèn thượng
hạng, hay ta có thể ngâm cái tim vào cả một thùng dầu, nhưng nếu chỉ có
tim đèn và dầu, ắt không bao giờ có ánh sáng. . . cho đến lúc có một tia
lửa từ bên ngoài đưa vào. Chỉ đến chừng ấy dầu và tim đèn mới bắt
đầu tạo nên ngọn lửa và do đó có ánh sáng. Chúng ta đã ghi nhận
rằng hành động trong quá khứ là những năng lực thật sự, những năng lực
tinh thần nghiệp quá khứ phóng thích những năng lực, và các năng lực này
đủ mạnh để tạo điều kiện cho một chúng sanh tái sanh vào cảnh giới thích
ứng với bản chất của những hành động quá khứ đã được thực hiện. Những
năng lực này tạo nên cái được gọi là Patisandhi Vinnàna, Thức Tái Sanh;
yếu tố thứ 3 của Thập Nhị Nhân Duyên. i~ếu tố có nhiều tiềm lực
này phối hợp với 2 yếu tố vật chất để tạo điều kiện cho thai bào phát
sanh và nảy nở một cách tự nhiên trong lòng bà mẹ. Cũng như giấc
ngủ không làm trở ngại nào cho sự liên tục sinh hoạt, hoạt động của thể
xác, do nguyên tắc liên tục sinh tồn bên trong; cùng thế ấy, cái chết
không gây trở ngại nào cho sự liên tục sinh tồn của một chúng sanh, vì
Chết chỉ là tiếp tục sống trong một kiếp sống mới, cùng trong một cảnh
giới hay một cảnh giới thích ứng khác, do nơi ý chí muốn sống còn lại,
với nguyên vẹn năng lực, vào lúc thể xác chấm dứt hoạt động và bắt đầu
tan rã. Và như vậy, dòng sinh tồn, tiến trình sống va^'n liên tục
tiếp diễn. Trong khi ấy năng lực của Nghiệp Lực quá khứ uốn nắn
hình thức thích ứng trong một cảnh giới sinh tồn thích ứng. Gieo
hột trên đất ắt có cây mọc lên. Tuy nhiên chỉ hột và đất không,
mặc dầu có sự tiếp xúc hột và đất, sẽ không tạo nên cây, phải có những
yếu tố khác phát xuất từ bên ngoài mà ta không trông thấy được, như ánh
sáng, không khí, ẩm độ, nhiệt độ v.v. phải có sự phối hợp của đầy đủ tất
cả những yếu tố ấy tạo điều kiện cho cái cây mọc lên. Nói về sự
tái sanh của một người hay một chúng sanh, yếu tố vô hình từ bên ngoài
ấy là nghiệp lực cuối cùng lúc một người lâm chung, hay để diễn đạt một
cách khác, là năng lực tái tạo của ý chí muốn sống.
Có cần phải nghi ngờ gì về tiềm năng của
nghiệp quá khứ để tạo nên kiếp sinh tồn hiện tại không? Có còn
hoài nghi tại sao những hành động trong một kiếp sống lại có thể tạo
điều kiện cho tâm thức phát sanh trong một kiếp khác không? Nếu
có, ta hãy bình tâm suy tư về bản chất đa diện và không ngừng nghỉ của
hành động, hãy nghĩ tới trạng thái đặc biệt của đời sống, nghĩ tới đặc
chất của một cá nhân trong một khoảnh khắc của kiếp sinh tồn. Khi
đã nắm vững, đầy đủ và trọn vẹn, thực tại của bản chất đa diện và không
ngừng nghỉ của những hoạt động của con người, ta hãy tự nêu lên câu hỏi:
i hay Cái gì đưa đến thúc đẩy các hoạt động ấy? Ta sẽ thấy rằng
hành động của con người do trăm ngàn ý muốn và bám viú, tham dục và
luyến ái, mà nếu phăng lên mãi đến mức cùng tột, đó là y Muốn Sống.
Ý Chí Muốn Sống ấy, dầu ta gọi nó bằng danh
từ nào, cũng là yếu tố thúc đẩy tất cả hành động. Chúng ta ăn, làm
việc, tranh đấu, thâu nhận, chúng ta tiến bộ, thù hận, thương yêu, âm
mưu, thảo kế họach, chúng ta thất vọng v. v. tất cả những điều ấy chỉ là
để cho chúng ta có thểsống. Chí đến nghe ý muốn tự quyên sinh, mặc
dầu thoáng nghe hình như mâu thua^'n, cũng phát sanh do y Chí Muốn Sống;
sống không bị vấn vương trong rối loạn và thất vọng. Chúng ta hãy
xét hậu quả chồng chất của hàng trăm hàng ngàn hành động của chúng ta,
trong mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi phút, mỗi giây, và nhiều năm như thế, thực
hiện dưới sự thúc đẩy của lòng ham muốn. Tất cả những hành động bằng
thân, khẩu, ý, ấy là Nghiệp; tất cả là những năng lực được phóng thích;
tất cả là những năng lực có khả năng tạo tác. Quả thật khó
tưởng tượng rằng khi mà kiếp sống hiện tại chấm dứt, bao nhiêu năng lực
hiện hữu ấy cũng sẽ chấm dứt cùng một lúc. Vào bất luận lúc nào,
luôn luôn sẽ còn lại một số năng lực đáng kể của nghiệp tích tụ.
Những năng lực hay sức mạnh ấy chứa đựng những tiềm năng thu hút cái
điều kiện đưa đến tái sanh trong một kiếp sống mới. Những năng lực
hay sức mạnh ấy đủ mạnh để tạo điều kiện sống trở lại, khi mà cái thể
xác cùng sinh hoạt chung với nó không còn hoạt động nữa. Vậy đó là
nghiệp lực cuối cùng chấm dứt một kiếp sống của người lâm chung; hay nói
cách khác, đó là năng lực tái tạo của y Chí Muốn Sống. Tóm lại, y
Chí Muốn Sống tạo điều kiện để có thể sống trở lại. Bây giờ ta sẽ
thấy tại sao nghiệp lực chấm dứt kiếp sống của người lâm chung trở thành
yếu tố thứ 3 thuộc về tâm linh, phối hợp với 2 yếu tố vật chất là tinh
trùng và minh châu của cha và mẹ để tạo điều kiện cho hiện tượng sanh
trong tương lai.
Chính Thức Tái Sanh hay Thức Nối Liền này là
nòng cốt cho một sự phối hợp danh sắc, tâm vật chất mới. Năng lực
ấy là hậu quả phát sanh do những hành động có tác ý trong quá khứ.
Khoa học xác nhận rằng năng lực không thể tan biến mất tiêu, mà có thể
trở thành một hình thức năng lực khác. Tại sao những năng lực hùng
mạnh của nghiệp quá khứ, do ai Dục thúc đẩy và y Chí Muốn Sống bồi dưỡng
còn tiếp tục ảnh hưởng mạnh mẽ trong một kiếp sống mới, mặc dầu ở trong
một cảnh giới khác hay bằng một phương cách khác?
Chúng ta có thể tự hỏi, cái gì đi từ kiếp
sống này qua một kiếp khác? Có phải nghiệp lực hay năng lực của
hành động, hay là hậu quả của những năng lực ấy đi? Hay chính cái
tâm đi? Câu trả lời là một chữ "Không" quả quyết.
Không có cái gì chuyển đi từ nơi này sang nơi khác. Nhưng năng lực
của những hành động trong quá khứ thật là hùng mạnh và có thể tự biểu
hiện, và biểu hiện ảnh hưởng của nó từ một nơi xa xôi. Khoảng cách
không bao giờ là một trở ngại cho Nghiệp Lực. Trong Kinh Nàha Tanha
Sankhàya Suttanta của bộ Trung Hàm (Majjhi nea Nikàya), Đức Phật
mạnh mẽ quở rầy Tỳ khưu Sati vì vị này nói rằng "theo giáo lý Đức Phật,
chính cái tâm chuyển đi từ kiếp nầy sang kiếp khác".
Không cần có sự tiếp xúc giữa tâm và vật
chất để tâm có thể ảnh hưởng đến vật chất. Trong bài diễn văn nói
về khoa học tâm linh, Sir William Crooke nói: "Kinh nghiệm đã chứng minh
rằng bằng cách vận dụng ý chí mạnh mẽ, tâm có thể tác động như một đòn
ba^'y tinh thần để ảnh hưởng đến sự vật."
Khi vật mà năng lực ấy tác động ở một nơi xa
xôi, trong cảnh giới khác cha(`ng hạn, chúng ta chỉ dùng một hình dung
ngôn từ để nói rằng cái nghiệp chuyển đi hay năng lực tinh thần ấy
chuyển sang. Đã nhiều lần và bằng nhiều hình ảnh khác nhau, Đức
Phật dạy rằng không có cái gì đi hay chuyển từ kiếp sống này sang kiếp
sống khác. Đó chỉ là tiến trình của một điều kiện hay duyên, ảnh
hưởng đến một điều kiện khác. Năng lực hậu quả của nghiệp do những
hành động quá khứ tạo nên có một sức mạnh hùng hậu đến mức độ có thể tạo
điều kiện cho một thai bào phát sanh trong một thế gian khác, cùng với
một tâm thức.
Một điểm quan trọng khác cần phải ghi nhớ.
Thức Tái Sanh chỉ phát sanh khi đứa bé chưa sanh. Ta có thể nói
rằng khi đứa bé còn nằm trong lòng mẹ, tâm thức chỉ hiện hữu một cách
tiêu cực (trong trạng thái Bhananga); bởi vì lúc ấy, đứa bé chỉ là một
phần trong cơ thể người mẹ, và không có sự sống riêng biệt, độc lập,
cũng chưa tiếp xúc với thế gian bên ngoài. Tuy nhiên, khi đứa bé
lọt lòng mẹ, có một kiếp sinh tồn riêng biệt, chừng ấy ta có thể nói
rằng bản chất Bhananga của trạng thái thai bào lần đầu tiên nhường chỗ
cho một tiến trình tâm thức đầy đủ gọi là Vithi Citta (lộ trình tâm).
Khoảng cách, xa hay gần, không phải là một
trở ngại làm cho nhân không thể trở thành quả. Nhân gieo ở một nơi
có thể trổ quả ở một nơi xa xôi khác. Phần trên đã có thể nhắc đến
trường hợp Đức Phật quở rầy Tỳ Khưu Sati vì vị này cho rằng theo lời dạy
của Đức Phật có cái thức chuyển từ kiếp này sang kiếp khác. Thức
Nối Liền chứa đựng toàn thể tiềm năng tích tụ từ những quá khứ. Do
đó, trong khi thừa hưởng những đặc tính của cha mẹ mới, thai bào cũng
thừa hưởng những cảm giác và kinh nghiệm qúa khứ của người lâm chung.
Nếu không vậy, làm sao ta có thể giải thích được một người mà không có
những đặc tính giống như của cha mẹ? Nếu không vậy, làm sao ta có
thể giải thích hiện tượng 2 đứa trẻ sanh đôi, cùng cha mẹ, cùng trưởng
thành trong những điều kiện như nhau mà tâm tánh, mặt mày cũng như trí
não v.v. lại khác nhau?
Đến đây, chúng ta đã khảo sát cái chết dưới
nhiều khía cạnh khác nhau. Bất luận dưới khía cạnh nào mà ta nhìn
cái chết, ta cũng thấy rằng chết là một phần cố hữu, dính liền với tiến
trình sống. Cái chết cũng tựa hồ như sự vỡ bễ của một cái bóng đèn
điện. Khi bóng đèn bể thì ánh sánh tắt, nhưng luồng điện vô hình
va^'n còn đó và nếu ta gắn vào một cái bóng mới, ắt ánh sáng sẽ xuất
hiện trở lại. Cùng thế ấy, có sự liên tục trong luồng trôi chảy
của đời sống. Sự tan vỡ của thể xác, không có nghĩa là giòng
nghiệp đã chấm dứt. Nghiệp lực sẽ phát hiện trở lại trong một cơ
thể mới. Hình ảnh cái bóng đèn điện và luồng điện giúp cho ta có
một ý niệm về sự tái sanh chớ không hoàn toàn giống như đời sống.
Trong khi một đằng, bóng đèn mới không thể tự nhiên tự đặt vào luồng
điện, đằng khác, nếp sống của một người, bản chất tâm linh của người ấy,
tánh chất hành động của người ấy v.v. đủ mạnh để tạo điều kiện cho một
thức tái sanh, cùng một bản chất phát hiện tức khắc, dựa theo nguyên
tắc, cái gì giống nhau thu hút la^'n nhau. Như vậy, người chết
được thu hút đến một môi trường sinh sống, tốt hay xấu, mà chính người
ấy tạo nên cho mình bằng tư tưởng, lời nói, và hành động, bởi vì kiếp
sống tương lai tùy thuộc nơi bản chất của những yếu tố ấy. Trong
mỗi khoảnh khắc, chúng ta đang xây dựng cho tương lai chúng ta.
Vậy chúng ta phải thận trọng trong từng khoảnh khắc.
Nếu chúng ta có thể hình dung được khoảng
cách bao la của quá khứ, và nếu ta nghĩ đến tương lai vô cùng tận, chúng
ta sẽ thấy rằng cái hiện tại mà đến nay chúng ta cho là quan trọng,
không còn tầm quan trọng ấy nữa. Nếu chúng ta hình dung chuỗi dài
vô tận những kiếp sống quá khứ và nếu ta tưởng tượng chuỗi dài mù mịt
những kiếp sống tương lai, bao nhiêu lần sanh và tử trong quá khứ vô
tận, và bao nhiêu lần sanh và tử còn phải trãi qua trong tương lai; ắt
chúng ta phải không còn sợ nữa; chúng ta không thể còn sợ một cái chết
đơn độc trong chuỗi dài vô tận những cái chết và những cái sanh.
Những phát hiện và những tan biến cấu thành tiến trình sống vô tận trong
vòng luân hồi.
Lại còn một định luật nữa mà nếu người nào
hiểu biết nó cũng thấu đạt được dễ dàng cái chết. Đó là định luật
của sự Trở Thành (Hữu), một yếu tố của pháp Phát Sanh Tùy Thuộc, một
vòng khoen của Thập Nhị Nhân Duyên. Theo Phật Giáo, định luật của sự Trở
Thành, cũng như định luật của sự biến đổi (Vô Thường), luôn luôn tác
động và chi phối sự vật trên thế gian. Trong khi định luật Vô Thường nói
rằng tất cả đều phải biến đổi, không có cái gì tồn tại vững bền, định
luật Trở Thành dạy rằng mọi vật đều luôn luôn đổi mới trong một tiến
trình liên tục diễn tiến, luôn luôn trở thành một cái gì mới.
Cha(`ng những tất cả đều biến đổi mà bản chất của sự biến đổi ấy là một
tiến trình của sự trở thành một cái gì khác; dầu tiến trình ấy dài hay
ngắn. Vắn tắt, ta có thể nói: " Không có cái gì tồn tại, tất cả
đều luôn luôn trở thành." Sự vật không bao giờ ngưng trở thành.
Cây non luôn luôn trôi chảy theo một tiến trình để trở thành cây già và
cằn cỗi. Không có điểm thời gian nào trong đó có vật gì không đang
trở thành một cái gì khác. Trong một bài thuyết trình, bà Rhys
Davids nói: "Trong mọi trường hợp, vừa khi có một khởi điểm là cũng bắt
đầu, ngay tại lúc ấy, một sự chấm dứt. "
Nếu đứng trên bờ nhìn ra biển cả, ta thấy
những lượn sóng tiếp nối nhau dậy lên rồi tàn xuống. Một lượn sóng
nổi nhô lên rồi rơi trở xuống và tan biến trong một lượn sóng kế đó, mỗi
lượn trở thành một lượn khác. Ta có thể nhận thức rằng toàn thể thế gian
cũng chỉ giống như thế ấy - trở thành và trở thành. Nếu quan sát
một cái nụ cho đến khi nó trở thành hoa, ta sẽ lấy làm ngạc nhiên mà
thấy rằng trong từng khoảnh khắc, điều kiện của hoa lúc nào cũng như cũ,
không có gì khác . . . Cho đến khi trước mắt ta, nụ trở thành hoa.
Mặc dù cái nụ luôn luôn đang trở thành, đang tiến dần đến trạng thái
hoa, mắt thường của ta không thể phân biệt. Tiến trình dần dần
diễn tiến, mỗi giai đoạn phát sanh rồi tan biến trong giai đoạn kế một
cách đều đặn mà mắt ta không thể trông thấy, đó là một sự trở thành.
Trước tiến trình ấy, nếu chúng ta thử nhắm mắt lại - thí dụ như ta nhìn
cái nụ ngày hôm nay và ngày mai trở lại nhìn - chừng ấy ta mới có thể
thấy sự biến đổi. Chừng ấy ta dùng những danh từ khác nhau như
"cái nụ" và "cái hoa" để chỉ hai giai đoạn riêng biệt, thay vì dùng danh
từ "tiến trình" hay danh từ "trở thành".
Nếu ta nhìn một trẻ sơ sanh, và nhìn như vậy
trong suốt 10 năm, ta sẽ không thấy gì đổi thay. Một em bé sanh ra
lúc 10 giờ, đến 11 giờ rồi 12 giờ, cũng không có gì thay đổi.
Trong mỗi lúc ta không thấy gì khác biệt giữa em bé vào lúc này với em
bé trong lúc trước. Một điều kiện âm thầm tan biến trong điều kiện
kế đó mà giác quan ta không thể nhận thấy. Đó là một sự trở thành,
một tiến trình trở thành, luôn luôn diễn tiến. Ta hãy thử nhắm mắt
trước tiến trình này và chỉ thấy em bé mỗi tháng một lần thôi. Chỉ
đến chừng ấy ta mới thấy sự thay đổi. Chỉ đến chừng ấy ta mới phải
dùng đến những danh từ như "trẻ sơ sinh", thay vì những danh từ như "sự
trở thành" hay "tiến trình ".
Nếu nghĩ rằng ta có thể tỉ mỉ quan sát tiến
trình của thời gian, hãy thử xem có thể nào ta phân biệt ro' ràng thời
quá khứ, thời hiện tại, thời vị lai giống như trong văn phạm không?
Theo quan điểm triết học của Phật Giáo, thời gian là một tiến
trình liên tục diễn tiến, mỗi khoảnh khắc thời gian tan biến trong
khoảnh khắc kế đó và cấu thành một sự liên tục không gián đoạn.
Không thể có một lằn ranh phân chia, gạch ngang một cách chính xác để
phân đôi một bên là quá khứ, một bên là hiện tại và tương lai. Với
hiện tại cũng vậy, không thể phân chia chính xác. Trong khoảnh
khắc mà ta nói: "đây là hiện tại "thì cái hiện tại ấy đã trôi qua và tan
biến trong quá khứ, trước khi ta dứt lời. Hiện tại luôn luôn trôi vào
quá khứ, trở thành quá khứ và tương lai luôn luôn trở thành hiện tại.
Mọi vật đều đang trở thành. Đó là tiến trình của tất cả mọi sự
vật, một sự trôi chảy không gián đoạn và vô cùng tận. Chính vì chúng ta
không thấy được sự liên tục ấy nên chúng ta mới dùng những danh từ khác
nhau để chỉ những giai đoạn khác nhau của tiến trình và sự trở thành.
Khoa sinh lý học dạy rằng, cơ thể con người
luôn luôn trãi qua một tiến trình biến đổi và tất cả những tế bào cấu
thành con người sẽ hoàn toàn đổi mới trong vòng 7 năm. Theo Phật
giáo, lúc nào cũng có sự biến đổi trong cơ thể. Không có hai
khoảnh khắc kế tiếp nào mà cơ thể con người không đổi mới. Phân
tách đến mức cùng tột, đó là luồng trôi chảy của những nguyên tử hay
những loại đơn vị vật chất khác nhau luôn luôn phát sanh và hoại diệt.
Như vậy, cơ thể chúng ta luôn luôn đang chết và đang sống trở lại, chính
cùng trong một kiếp sống này. Cái chết tạm thời xảy ra trong mỗi
khoảnh khắc trong kiếp sống của chúng ta.
Sách Thanh Tịnh Đạo dạy rằng: "Trong ý nghĩ
cùng tột, kiếp sống của chúng sanh vô cùng ngắn ngủi. Chúng sanh
chỉ sống trong thời gian của một chập tư tưởng; và sách này tiếp theo:
"Tựa hồ như bánh xe lăn trên mặt đất, trong mỗi điểm thời gian, vòng
bánh xe chỉ chấm dứt ở một điểm. Cùng thế ấy, kiếp sống của chúng
sinh chỉ tồn tại trong khoảnh khắc của một chập tư tưởng, hay như ta
thường gọi, một sát na tâm. Khi chập tư tưởng ấy chấm dứt, chúng
ta nói rằng chúng sanh ấy chấm dứt."
Như vậy ta thấy rằng trong khoảnh khắc của
kiếp sống, chúng ta đang chết và đang tái sanh. Sự vật đã vậy, tại
sao ta lại sợ một cái chết riêng biệt nào? Tại sao ta lại sợ một
khoảnh khắc đánh dấu sự chấm dứt một kiếp sống? Trong khi vô số
cái chết liên tục xảy đến ta; trong khi ta chết trong mỗi khoảnh khắc,
tại sao ta lại sợ riêng một cái chết đặc biệt nào? Vì mê muội, không
phân biệt được bản chất của cái chết tạm thời trong mỗi khoảnh khắc nên
chúng ta lo sợ một cái chết đặc biệt xảy đến vào phút cuối cùng của kiếp
sống này, ở đây, nhất là vì ta không thấy được cái gì sẽ xảy đến sau đó,
và cũng vì chúng ta không biết được rằng giây phút cuối cùng của kiếp
sống này chỉ là một trong vô số những khoảnh khắc chết và sống trở lại
tiếp theo đó.
Không phải tiến trình của đời sống chỉ tiếp
diễn trong khoảng thời gian của kiếp sống này mà thôi. Tiến trình ấy
tiếp tục diễn tiến mà không có sự gián đoạn, từ kiếp sống này sang kiếp
kế tiếp và luôn trong kiếp sau nữa, bởi vì luồng tâm tiếp tục trôi chảy.
Chập tâm cuối cùng của một kiếp sống - gọi là "cutti citta" hay "tử tâm"
- tạo điều kiện cho chập tâm đầu tiên của kiếp sống kế đó - gọi là
Patisandhi Vinnãna. Tiến trình từ khoảng chập tâm chết (Cuti
citta) phát sanh rồi tan biến vào chập tâm kế tiếp là Thức Nối Liền
(Patisandhi Vinnàna) diễn tiến một cách đều đặn, không bị gián đoạn.
Sự khác biệt duy nhất giữa Thức Nối Liền và các loại tâm khác là thay vì
biểu hiện ở cùng một nơi, như các loại tâm kia, thức này biểu hiện ở một
nơi khác. Khoảng cách không phải là trở ngại cho nhân trở thành
quả. Đời sống là tiến trình luyến ái và thay đổi này đưa đến một
trở thành mới. Luyến ái luôn luôn tiềm ẩn bên trong con người.
Luyến ái đưa đến trở thành. Cái gì là nguyên nhân sanh ra luyến
ái? Nơi nào có khát khao, nơi ấy có luyến ái. Chính khát vọng, ham
muốn, ái dục, ý chí muốn sống, được gọi là Tanhà là nguyên nhân đưa đến
trở thành. Cái nghiệp lực do Tanhà hay ai Dục tạo nên cũng giống
như ngọn lửa. Ngọn lửa ấy luôn luôn bừng cháy và luôn luôn tìm
nhiên liệu để cháy. Ngọn lửa ấy luôn luôn chạy theo những điều
kiện mới để duy trì sự hiện hữu của mình. Đến khi thể xác này tan
rã, năng lực, ái dục mà chưa được tiêu thụ ấy, nghiệp lực tích tụ còn
lại ấy, tìm bám vào một nhiên liệu khác và tìm một nơi khác để duy trì
sự hiện hữu của mình. Đó là tiến trình trôi chảy "bám viú", "trở
thành", vô cùng tận mà ta gọi là đời sống. Bây giờ ta hãy quan sát
cái sự vô lý của người lâm chung khi cái chết chấm dứt kiếp sống hiện
tại để một kiếp sống mới bắt đầu, tức khắc sau đó. Sức khỏe của
người sắp chết thực là mỏng manh, không đủ để tạo cho mình một tư tưởng
đúng theo ý muốn. Người ấy không thể chọn lựa, không thể tự tạo
cho mình loại tư tưởng mà mình muốn. Vì lẽ ấy, một vài ấn tượng
mạnh mẽ mà trong kiếp sống hiện tại hay trong một kiếp quá khứ những
diễn biến cảm kích đã gây nên, chen lấn để phát hiện trong tâm người sắp
chết, không có cách gì cưỡng lại. Chập tư tưởng này có tên là
Maranà Sannjanana, phát sanh liền trước chập cuối cùng - cutti citta -
và có thể xếp vào một trong ba loại. Trước tiên, đó có thể là một
ý nghĩ về hành động nào trong đời sống mà người sắp chết mạnh mẽ nhớ
đến. Kế đó là một hành động đã cảm kích mạnh mẽ trong qúa khứ mà
bây giờ người lâm chung nhớ lại xuyên qua một biểu tượng; như người kia
lấy trộm tiền trong một hộc tủ, đến lúc lâm chung, có thể người ấy thấy
hộc tủ. Thứ ba là một hành động cảm kích mạnh mẽ trong qúa khứ có
thể được nhớ lại bằng một dấu hiệu hay một chỉ da^'n nào khác, chỉ thấy
cảnh giới mà người sắp chết sẽ tái sinh vào. Thí dụ như người sát
nhân thấy lửa địa ngục, người hiền lương đạo đức nghe tiếng nhạc thiều
ca trổi tán thán cảnh đẹp thiên giới .v.v. Trường hợp này gọi là Gati
Nimita, dấu hiệu của cảnh giới sắp đến. Ba loại "đối tượng của ý
", hay pháp ấy mà người chết không thể chọn lựa cho mình được gọi là dấu
hiệu của sự chết. Mỗi loại trường hợp, rất mạnh và phát hiện rành mạch
trong tâm của người sắp chết. Liền sau đó phát sanh chập tư tưởng cuối
cùng; "tử tâm hay sát na tâm" chấm dứt một kiếp sống. Loại
tư tưởng cuối cùng của đời người này thật vô cùng quan trọng vì chính nó
tạo nên bản chất của kiếp sống tương lai, cũng giống như tư tưởng nào
của ta mạnh nhất trước khi đi ngủ nghỉ sẽ phát hiện trở lại khi ta vừa
tỉnh giấc. Không có năng lực ngoại lai nào tạo nên điều ấy cho ta
một cách độc đoán. Chính ta tự tạo cho ta, một cách tự nhiên, vô ý
thức. Hành động tốt hay xấu trog đời tạo điều kiện cho chập tư tưởng
cuối cùng phát sanh là hành động vô cùng quan trọng. Nghiệp tạo
nên do hành động ấy gọi là Garuka Kamma, "Trọng Nghiệp". Trong
phần lớn các trường hợp, chính hành động nào ta thường làm sẽ trở lại
lúc ta lâm chung. Những tư tưởng thường lập đi lập lại trong đời
sẽ trở nên mạnh mẽ lúc ta lâm chung. Nghiệp ấy gọi "Thường Nghiệp"
Trong các xứ Phật giáo, người ta thường tạo
cơ hội cho người sắp chết dâng vải may y đến chư Tăng hoặc người ta tụ
hội lại tụng kinh bên giường người bệnh. Tinh thần của những hành
động ấy là giúp cho người lâm chung tự tạo cho mình chập tư tưởng cuối
cùng, theo cận nghiệp (asanna kamma); nhưng nếu năng lực của thói quen
quá nặng thì dầu chính vị sư giới đức trong sạch nhất, tụng những thời
kinh linh nghiệm nhất cũng không thể ngăn cản ý nghĩ mạnh mẽ ấy bỗng
nhiên phát hiện trở lại trong tâm người lâm chung.
Trường hợp ngược lại cũng có thể xảy ra.
Nếu vài hành động và tư tưởng cuối cùng của người sắp chết thật là xấu,
mặc dù trong lúc bình thường khỏe mạnh, người ấy hiền lương đạo đức, thì
chính nghiệp xấu tạo nên vào phút cuối cùng này đủ mạnh để ngăn cản
Thường nghiệp phát sanh. Như trường hợp Hoàng Hậu Malika của Vua
Pasenadi xứ Kosala. Trãi qua suốt kiếp sống, bà đã tạo rất nhiều
nghiệp tốt, nhưng bất hạnh thay vào giờ phút lâm chung, tư tưởng liên
quan đến một hành động bất thiện bỗng nhiên phát hiện trong tâm bà; vì
lẽ ấy, bà phải tái sanh vào cảnh khốn cùng, nhưng chỉ trong 7 ngày mà
thôi và hậu quả của những nghiệp tốt mà bà đã tạo trong kiếp sống không
mất mà chỉ tạm thời bị ngưng lại bắt đầu trổ qủa lành giúp bà được giải
thoát.
Còn một loại nghiệp thứ tư có thể làm nguyên
nhân cho chập tư tưởng cuối cùng phát sanh. Loại nghiệp này trổ
sanh khi không có ba loại nghiệp trước. Trong trường hợp này, một
trong số những nghiệp tích trữ có thể chen lấn và phát hiện vào đúng
lúc. Đây là Kattata Kamma "Nghiệp Tích Trữ"; khi tư tưởng cuối
cùng phát sanh, một loạt những chập tư tưởng cũng theo dính liền.
Tiến trình tâm cuối cùng này được gọi là Maranasanna Janana. Tiến
trình tâm này cũng diễn tiến giống như các tiến trình khác trong đời
sống, nhưng thay vì có 7 chập janana như thông thường, ở đây chỉ có 5.
Trong giai đoạn này, người sắp chết hiểu biết hoàn toàn dấu hiệu lâm
chung. Kế đó, đến giai đoạn tâm ghi nhận (tadalambana- đăng ký),
trong lúc này dấu hiệu lâm chung được nhận diện. Tâm này được khởi
phát trong 2 chập và diệt. Sau đó là Tử Tâm (cuti citta).
Cái chết bắt đầu khi tâm này chấm dứt. Đó là cái gì xảy ra trong
kiếp sống hiện tại.
Bây giờ ta hãy xem cái gì xảy ra trong kiếp
sống kế tiếp đó. Lúc bấy giờ những điều kiện sơ khởi đã được chuẩn
bị và sa('n sàng đón nhận một chúng sanh mới. Có mầm mống của một
người cha và một người mẹ. Như đã giải thích phần trên, bây giờ
phải có một yếu tố thứ ba, yếu tố tâm linh, để hợp đủ tam nguyên, ba
điều kiện cần thiết để một thai bào có sự sống phát khởi. i~ếu tố
thứ ba ấy là Thức-Nối-Liền (Patisandhi Vinnàna) phát sanh trong kiếp
sống kế đó, vào một nơi thích nghi ở tử cung bà mẹ. Đời sống phát
sanh trong lòng mẹ khi cả ba điều kiện này tiếp giáp nhau. Không
có một khoảng thời gian trống, không có sự ngưng trệ của giòng tâm bất
tận. Tức khắc sau khi Tử Tâm của người lâm chung chấm dứt, Thức
Tái Sanh liền khởi phát trong một kiếp sinh tồn khác. Không có gì
di chuyển từ kiếp sống này sang kiếp sống kế đó; chí đến chập tư tưởng
cuối cùng cũng không di chuyển, mà chỉ tạo điều kiện cho một trạng thái
tiêu cực gọi là Bhananga. Vào lúc sanh - đánh dấu một kiếp sống
riêng biệt- do sự tiếp xúc với thế gian bên ngoài bhananga mở đường cho
tâm thức (lộ trình tâm). Từ lúc sanh trở đi, lại có sự hoạt động
trở lại do lòng ham muốn thúc đẩy, dưới hình thức này hay khác.
Như vậy, luồng sống diễn tiến do lòng ham muốn thúc đẩy và do lòng ham
muốn tạo nguyên nhân.
Bây giờ, có sự liên hệ nào giữa sự hiểu biết
định luật pháp Phát Sanh Do Điều Kiện và thái độ của ta trước cái chết?
Chúng ta thông suốt thấu đáo rằng chính y Chí Muốn Sống tác hành từ kiếp
này sang kiếp khác; chúng ta có thể lãnh hội ro' ràng hơn rằng kiếp này
và kiếp kế đó chỉ nằm trong một luồng trôi chảy liên tục của đời sống;
và kiếp sống sau đó cũng dường thế ấy. Người đã nhận thức rằng đời
sống chỉ là một diễn tiến liên tục, không hơn không kém, thì không còn
lý do nào để âu sầu, lúc chết cũng như khi còn sống. Sanh và Tử là
những giai đoạn của một tiến trình duy nhất - tiến trình của sự cố bám,
tiến trình hậu quả của y Chí Muốn Sống. Cái Chết chỉ là một đổi
thay của sự vật mà ta bám vào. Người đã thông hiểu định luật Phát
Sanh Do Điều Kiện sẽ nhận thức rằng chính Sanh đưa đến Tử, và chính Tử
đưa đến Sanh trở lại, trong vòng luân hồi dài đăng đa(`ng. Người
hiểu biết như thế ấy không còn bị viễn ảnh của cái chết làm xáo trộn.
Sự lãnh hội minh ma^'n về định luật Phát Sanh Do Điều Kiện sẽ soi tỏ tầm
quan trọng của một cuộc sống tốt đẹp hơn nữa. Đó là cái chết dưới
mắt của người đã thông tỏ định luật. Nó hoàn toàn tùy thuộc nơi
khía cạnh nào mà ta nhìn đời sống. Thí dụ như nhà kia chỉ có một
cái cổng, đó là cổng ra hay cổng vào. Đối với người đứng ngoài
ngo' đó là cổng vào. Người trong nhà trái lại, xem đó là cổng ra,
nhưng đối với cả hai, đó chỉ là một cái cổng được nhìn từ hai vị trí
khác nhau như Dakke viết: "Chết chỉ là một cái nhìn trở lại vào đời sống
và Sanh chỉ là cái nhìn tiến tới sự chết."
Trong thực tế, Sanh và Tử chỉ là những giai
đoạn khác nhau của một tiến trình cố bám không gián đoạn. Chết là
sự ra đi, đối với những ai mà người chết bỏ lại phía sau, mà chết cũng
là sự bước vào đối với thân nhân của những gia đình mới mà người chết
tái sanh vào. Tùy theo phương cách mà ta nhìn, nó là chết hay là
sanh. Quán sát nó như một tiến trình chết ắt chúng ta không thể ở
trong vị trí để nhìn nó như một tiến trình sanh; và nếu chúng ta nhìn nó
như một tiến trình sanh, ắt chúng ta không thể quán sát nó như một tiến
trình chết. Như vậy, chúng ta không thể phối hợp hai diễn
biến Sanh và Tử trong tâm như dính liền trong một tiến trình. Vì lẽ
chúng ta không thể nhận thấy ro' ràng sự mật thiết dính liền giữa hai
diễn biến; sự phối hợp Sanh với Tử và Tử với Sanh, cho nên ta bị dắt
da^'n đến ảo ảnh, hay ít ra, đến tham vọng có thể được cái này (Sanh) mà
không có cái kia (Tử). Chúng ta muốn sanh mà không muốn tử.
Đó là điều không thể có được. Bám vào đời sống tức là bám vào cái
chết. Điều nổi bật trong đời sống là cố bám, đeo níu, và hậu quả hợp lý
của sự cố bám là cái chết theo định luật Phát Sanh Do Điều Kiện.
Nếu ta muốn tránh chết, ta phải tránh sống, ta phải áp dụng định luật
Phát Sanh Do Điều Kiện theo chiều ngược, và điều này chỉ có thể thực
hiện được nếu ta từ bỏ ý muốn cố bám, ý muốn đeo niú. Đừng nên
luyến ái đời sống. Nếu chúng ta lầm lạc luyến ái những sự vật của
đời sống, ta có thể hưởng được hạnh phúc trong thời gian ngắn; nhưng
rồi, những sự vật mà ta luyến ái và bám víu vào sẽ hư hoại và biến tan -
và chắc chắn nó phải hư hoại và biến tan - đúng theo định luật Vô Thường
rất hùng mạnh, tác thành phối hợp với định luật rất hùng mạnh khác là
định luật Phát Sanh Do Điều Kiện - và đến chừng ấy, chính những gì đem
lại hạnh phúc sẽ trở thành nguyên nhân tạo sầu muộn. Trong niềm
thất vọng sâu xa và trong sự chán chường ghê tởm, ta sẽ nhận thấy rằng
những nguồn lạc thú trần gian chỉ là nguồn sầu muộn. Ta sẽ đồng ý
với một nhà thơ vô danh: "Những ngọt bùi của thế gian chỉ là những cay
đắng trá hình." Thú vui luyến ái càng lớn lao, nỗi sầu muộn khi
phải dứt bỏ càng to tát. Đó có phải là đau khổ chăng? Điều
này có làm cho ta đau khổ và chán chường không? -- Ngày hôm nay phấn
khởi chạy theo một bóng ma, qua hôm sau từ bỏ cuộc rượt bắt với lòng ghê
tởm lạ thường. Hôm trước hứng chí bao nhiêu, qua hôm sau thất vọng
bấy nhiêu. Bao lâu nữa, chúng ta còn cho phép lục căn và lòng tự
ái của chúng ta đùa giỡn và nhồi chúng ta lên xuống như một quả bóng,
bằng thế này hay thế khác? Nếu ta đi xuyên qua cuộc sống mà không
luyến ái, không bám víu, có phải là hứng thú hơn bao nhiêu, hãnh diện
hơn bao nhiêu, chu toàn hơn bao nhiêu và sáng suốt hơn bao nhiêu không?
Nếu có điều bất hạnh đến với ta, nó sẽ đến. Nếu đau ốm đến với ta,
nó sẽ đến. Chúng ta không thể thay đổi kiếp diễn biến của sinh
tồn; nhưng chắc chắn chúng ta có thể thay đổi thái độ của mình đối với
chúng. — đây định luật Vô Thường và định luật Phát Sanh Do Điều
Kiện hổ trợ chúng ta. Sợ hãi và sầu muộn sẽ trở thành hy vọng và
thỏa thích. Đối với người có một đời sống an lành, nhìn đời với
tâm bình thản, cái chết không còn là một sợ hãi, một kinh hoàng.
Hoan hy` và không lo sợ, người ấy có thể đối diện với hiện tượng chết
một cách mạnh dạn và bình tĩnh.
Bây giờ ta hãy xét qua trường hợp của hai
nhân vật đã bị sầu muộn tràn ngập vì cái chết của người thân.
Trước tiên là trường hợp của Pantacarà; chồng
bà chết vì rắn cắn. Trên đường về quê, bà quá đuối sức để có thể
đem 2 con - một mới sanh và một lên một tuổi - băng qua sông. Bà
để bé lớn lại bờ này, cố gắng lội nước bồng trẻ sơ sanh qua bên kia.
Lên bờ, bà đặt trẻ xuống đất rồi trở lại đem anh nó qua. Lúc bà ra
giữa dòng, một con ó từ không trung sà đáp xuống xớt bé mới sinh mang đi
mà nó ngỡ là miếng thịt. Thấy vậy, bà hớt hãi quơ tay la um xùm để
đuổi con chim. Bên kia, trẻ lên một tưởng mẹ kêu vội vã chạy đến
phía bà, liền bị dòng nước cuốn phăng đi và chìm mất. Còn lại trơ
trọi một mình, Pantacarà vừa khóc vừa than, vừa tiếp tục về quê nhà như
đã định cùng đi với chồng và hai con mà nay cái chết đã cướp mất người
trước kẻ sau. Tình cờ có người làng từ xa đi lại, bà hỏi thăm thì
lại hay vừa rồi cơn bão đã làm sập nhà cửa, cha mẹ và anh bà đều chết vì
tai nạn đó. Người đồng hương đưa tay chỉ làn khói xa tận chân trời
kia, và cho biết đấy là hỏa táng 3 nạn nhân xấu số ấy. Bà thất
vọng, tinh thần suy sụp đến độ không còn biết gì nữa. Bà chạy như
điên, áo quần tơi tả và rơi mất mà bà cha(`ng hay. Cái chết đã lan
dần tâm não, chua xót, buốt đau. Được khuyên nên đi tìm Đức Phật,
bà vội vã đến và đãnh lễ Ngài. Khi nghe bà trình bày thảm cảnh của
mình, Đức Phật bảo: " Này Pantacarà, chớ nên phiền muộn. Đây không
phải là lần đầu tiên mà con khóc cái chết của một người chồng, đây không
phải là lần đầu tiên con khóc cái chết của con con, của cha, của mẹ, của
anh . Cũng như hôm nay, xuyên qua những kiếp sinh tồn của vòng
luân hồi, đã có vô số lần con khóc cái chết của những người chồng, những
người con, vô số lần con khóc cái chết của những bậc cha mẹ và anh.
Nước mắt con đã rơi còn nhiều hơn là nước trong bốn biển." Khi Đức
Phật nói những lời an ủi đầy trí tuệ như vậy, Pantacarà dần dần suy giảm
cơn đau, cuối cùng, khi Ngài giảng xong, bà đã đắc quả Tu Đà Hoàn.
Cái gì đã làm tan nỗi sầu của Pantacarà?
Đó là sự nhận thức sâu sắc tánh cách phổ thông của cái chết. Bà ta
đã nhận thức rằng, bà đã sống qua vô số những kiếp sống, bà đã xa lìa
mất mát những người thân kẻ yêu vô số lần và chết chỉ là cái gì phải trở
đi trở lại luôn luôn, cái gì đã lập đi lập lại với bà bao nhiêu lần
trong quá khứ.
Trường hợp thứ hai là bà Kisàgotami.
Bà Kisàgotami đã lãnh hội được điều này nhờ nghĩ đến cái chết xảy ra cho
vô số người xung quanh. Khi đứa con yêu qúi nhất của bà chết đi,
không để cho ai hỏa táng, bà ôm con vào lòng đi tìm cách cứu sống.
Bà nghe lời hướng da^'n đi đến Đức Phật, Ngài bảo bà đi xin một ít hạt
cải trắng ở nhà nào không có người chết. Hạt cải thì có mà không
có nhà nào mà không có người chết. Bà đi cùng khắp, tiếng "chết"
được lập đi lập lại khắp nơi, bấy giờ bà mới nhận ra tánh cách phổ cập
của nó, bà bèn trở về bạch Phật: "Bạch Đức Thế Tôn, trước kia con
ngỡ rằng chỉ có mình con đau khổ vì mất người thân, nay con hiểu rằng ai
cũng có lần đau khổ như con, và số người chết còn cao hơn số người đang
sống nhiều. " Sau khi nghe Đức Phật giảng dạy, bà chứng sơ quả.
Ta hãy so sánh 2 trường hợp trên với trường
hợp của ông Bàng Long u+~ẩn. a^~ng làm nghề nông nhưng đã quán
triệt cái chết đến mức tòan hảo. a^~ng luôn luôn suy niệm: " Cái
chết có thể đến với ta bất luận lúc nào". a^~ng lại hướng da^'n cả gia
đình có thói quen suy niệm như vậy. Ngày kia, người con trai đang
cày ruộng với ông bị rắn cắn chết. a^~ng a(`m thi hài đứa con đến
để dưới gốc cây, đắp lại, rồi tiếp tục công việc. Khi gặp người
quen đi qua, ông nhắn về nhà bảo trưa ấy chỉ đem một phần cơm và nhang
đèn hoa quả. Trong nhà ngầm hiểu, đem ra các thứ cần dùng rồi cùng
nhau lo hỏa táng người thân. Trời Đế Thích thấy vậy, bèn hóa dạng
người bộ hành đến hỏi, có phải là mọi người đang thui nướng một con gì
phải không? Được trả lời không phải, gia đình đang hỏa táng đứa
con. Đế Thích hỏi:
_ Chắc đây là đứa con ngỗ nghịch?
_ Không phải đâu. Đây là đứa con rất
yêu qúi của chúng tôi.
_ Tại sao không thấy ai khóc cả?
Người cha đáp:
_ Con người rời bỏ cái vỏ mong manh này khi
đời sống trôi qua; cũng như con rắn thường làm, nó lột da cũ bỏ đi.
Không có lời ta thán nào làm động lòng đống tro tàn của người qúa cố.
Vậy tại sao tôi phải âu sầu phiền muộn? Con tôi nó đã hoàn tất
đoạn đường mà nó phải trãi qua.
Bà mẹ nói:
_ Không ai mời mọc, nó đến cũng không ai đuổi
xô, nó vội ra đi. Đến như thế nào, nó đi như thế ấy. — đây
cái gì làm cho ta phải buồn thảm. Không có lời ta thán nào làm
động lòng đống tro tàn của người qúa cố. Vậy tại sao tôi phải
phiền muộn? Con tôi nó đã hoàn tất đoạn đường mà nó phải trãi qua.
o~m gái cũng nói:
_ Dầu tôi có nhịn ăn và khóc than cả ngày,
điều đó có đem lại cho tôi lợi ích nào không? Than ôi, nó chỉ làm
cho thân bằng quyến thuộc tôi càng thêm bất hạnh. Không có lời ta
thán nào làm động lòng đến người qúa cố. Vậy tại sao tôi phải ưu
sầu phiền muộn? nh tôi đã hòan tất đoạn đường mà anh tôi phải trãi
qua.
Người vợ đáp:
_ Cũng giống như trẻ con, khóc và đòi chụp
lấy cho được mặt trăng trên trời, cũng thế ấy, con người than khóc cái
chết của người thân kẻ yêu. Không có lời ta thán nào làm động lòng
đống tro tàn của người qúa cố. Vậy tại sao tôi phải ưu sầu phiền
muộn? Chồng tôi đã hoàn tất đoạn đường mà anh ấy phải trãi qua.
Người giúp việc đáp:
_ Một cái lọ đã bể, ai có thể ráp lại như cũ?
Than khóc chỉ hoài công. Không có lời ta thán nào làm động lòng
đống tro tàn của người qúa cố. Vậy tại sao tôi phải ưu sầu phiền
muộn? Chủ tôi đã hoàn tất đoạn đường mà ông ấy phải trãi qua.
Câu chuyện gia đình Bàng Long u+~ẩn thực sự
khó người nào sánh kịp; tuy nhiên đó là một trợ duyên giúp chúng ta phải
cố công suy tầm và triệt để quán chiếu tánh cách Vô Thường của vạn vật
và nhân sinh qua cái Chết để không bị nó chi phối qúa mãnh liệt khiến
phải chiụ đau khổ luân hồi để từ đó chúng ta sẽ thong dong bước vào lộ
trình Sanh Tử.
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục